Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Kĩ năng nói trước công chúng (public speaking) trong hoạt động hướng dẫn du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.64 KB, 61 trang )

Mở đầu
A. Đặt vấn đề
A.1: Lí do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ 21 khi mà nền kinh tế tri thức và nhu cầu hội nhập,
hợp tác không ngừng đã trở thành yêu cầu tất yếu để phát triển của bất
cứ quốc gia, nền kinh tế nào thì đi cùng với nó là những yêu cầu ngày
càng cao về chất lượng của nguồn lao động. Người lao động trong thời
đại hội nhập hiện nay không chỉ được yêu cầu giỏi về mặt chuyên môn,
thành thạo ngoại ngữ, vi tính mà còn cần có cả những kĩ năng giao tiếp,
ứng xử, kĩ năng làm việc theo nhóm, sự nhạy bén, năng động, khả năng
thích nghi tốt, sự tự tin và khả năng nói trước công chúng. Hiện nay đó
cũng là một yêu cầu quan trọng được đặt ra khi những nhà tuyển dụng
tuyển chọn nhân viên, đặc biệt là ở những bộ phận thường xuyên phải
giao dịch tiếp xúc với các đối tác và khách hàng. Bắt nguồn từ thực tế
đó, nhu cầu tìm hiểu, học tập, về kĩ năng này không chỉ là nhu cầu
của riêng một cá nhân mà là nhu cầu đối với một lượng lớn đội ngũ lao
động trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trước những thách
thức của nền kinh tế hội nhập. Mang trong mình đặc trưng tiêu biểu của
một ngành dịch vụ, Du lịch chính là ngành mà đội ngũ lao động là
những người được đòi hỏi cao hơn bất cứ một ngành nghề nào khác, đó
không chỉ là những yêu cầu cao về mặt chuyên môn nghiệp vụ, một
phông kiến thức tổng hợp mà hơn hết người làm trong ngành Du lịch
nhất thiết phải có những kĩ năng về giao tiếp, ứng xử nhanh nhạy thông
minh, duyên dáng, và đặc biệt phải có khả năng ăn nói mà cụ thể hơn
đó là khả năng nói trước công chúng. Khả năng ấy không phải bất kì ai
1
sinh ra cũng đã sẵn có mà phần nhiều đó là do sự rèn rũa mà nên, cũng
chính vì lẽ đó nhu cầu tìm hiểu học tập về kĩ năng này là rất cần thiết
đối với bất kì cá nhân nào muốn đạt được thành công và tìm được một
vị trí nhất định trong xã hội.
Bên cạnh đó xuất phát từ nhu cầu thực tế của bản thân, là một sinh


viên đang học tập tại khoa Du Lịch học trường Đại học KHXH&NV, kĩ
năng thuyết trình (public speaking) cũng là môt kĩ năng bắt buộc trong
việc học tập rất nhiều môn học như “ Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch”,
“Ngiệp vụ ngoại giao”, “Tâm lí du lịch”, “Marketting du lịch”…Thực tế
nghề nghiệp sau này đối với một huớng dẫn viên du lịch kĩ năng
thuyết minh là yêu cầu cao nhất được đặt ra đối với hướng dẫn viên khi
tác nghiệp. Tuy nhiên về trong chương trình đào tạo hiện nay của khoa
lại chưa có một giáo trình chính thức nào đề cập trọn vẹn về vấn đề này
Từ những vấn đề đó nên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “ Kĩ năng nói trước
công chúng (public speaking) trong hoạt động hướng dẫn du lịch”
A.2: Đối tượng nghiên cứu
- Kĩ năng nói trước công chúng và sự vận dụng các kĩ năng đó trong
hoạt động hướng dẫn du lịch.
A.3: Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lí thuyết chung cho kĩ năng của nói trước công chúng
(Public Speaking), từ đó nghiên cứu vận dụng cho hoạt động hướng dẫn
du lịch
B. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tài liệu
- Quan sát tham dự
2
Chương 1
Những hiểu biết chung về kĩ năng nói trước công chúng (Public speaking)
1.1: Nội hàm của khái niệm nói trước công chúng( Public speaking)
Public speaking hay nói trước công chúng là một khái niệm còn gây
nhiều tranh cãi, các tác giả khác nhau lại có nhưũng quan điểm riêng
của mình về nói trước công chúng.
Theo Joseph. A. Devito thì nói trước công chúng là một hình thức
giao tiếp mà trong đó người nói muốn truyền đạt những thông tin về
một chủ đề cụ thể tới một luợng đông đảo khán giả. Nó thường xảy ra

trong những trường hợp có sự tiếp xúc trực tiếp giữa người nói và người
nghe
(1)
Clella Iles. Jaffe lại cho rằng nói trước công chúng tức là khi một
người chuẩn bị và phát biểu ra những gì đã chuẩn bị trước một nhóm
người nghe và nhìn chung là sẽ không có sự cắt ngang dòng suy nghĩ
của người nói.
(2)
Diana Prentice Carlin và Jame Payne trong tác phẩm của mình Public
speaking today đã chia làm giao tiếp làm 5 mức độ:
(1)
Public speaking is a form of communication in which a speaker addresses
a relatively large adience with a relatively continous discourse. Usually it
takes place in a face to face situation. The element of public speaking,
Joseph. A. Devito. Tr30
(2)
Public speaking means that one person prepares and delivers a
presentation to a group who listen, generally without interrupting the
flow of ideas.
Public Speaking a cultural perspective. Clella. Iles. Jaffe. Street University,
2002, tr36
3
 Giao tiếp tự thân ( Intrapersonal Communication): là hình thức
giao tiếp xảy ra thường xuyên trong mỗi con người đó là khi ta nghĩ
xem phải làm như thế nào xử lí như thế nào trước một sự việc xảy
ra.
 Tương tác giao tiếp ( Interpersonal Communication): giao tiếp
xảy ra giữa người với người trong những nhóm có thể gồm 2 hoặc 3
cá nhân, nó mang tính chất thân mật.
 Giao tiếp trong những nhóm nhỏ ( Small group Communication): Số

lượng tham gia lớn hơn có thể tập hợp lại thành một tổ, nhóm lớn.
 Nói trước công chúng ( Public speaking) có thể định nghĩa là khi
một người giao tiếp với những người khác nó bao gồm sự trình bày
một cách liên tục một bài phát biểu ở trong tình huống tiếp xúc trực
tiếp với khán giả.
(3)
 Nó khác với với việc giao tiếp trong những nhóm nhỏ bởi số lượng
khán giả là rất lớn, đồng thời nó cho phép một người có thể tương
tác với nhiều người khác, đồng thời nếu như trong nhóm nhỏ thông
điệp truyền đi được phản hồi ngay lập tức thì trong nói trước công
chúng mọi phản hồi từ phía khán giả đều là những yếu tố phi lời và
có thể bị trì hoãn cho tới khi họ được phát biểu.
 Giao tiếp đa truyền thông ( Mass communication): nó xảy ra khi một
người phát biểu mà lời của ngưòi đó được truyền đi trên các phương
(3)
Public speking can be defined as one person communicating with
many people. It involves a continous presentation by one individual in
a face- to - face situation with audience.
Public speking today. Diana Prentice Carlin / Jame Payne. Tr 26
4
tiện thông tin đại chúng như báo, đài, tivi. Cùng một lúc có thể có rất
nhiều người nghe hoặc đọc được nội dung được phát biểu. Tuy
nhiên chỉ khi có những khán giả trực tiếp chứng kiến, trực tiếp nghe
lời phát biểu tại chính nơi mà sự kiện đó diễn ra thì người phát biểu
mới được coi là đang nói trước công chúng ( Public speaking)
Khái niệm công chúng (public) ở đây cần được hiểu một cách rõ ràng
Công chúng được dùng để chỉ đông đảo mọi người xem hay chứng kiến
việc gì, trong quan hệ với người diễn thuyết, tác giả, diễn viên.
(4)


Từ những quan điểm được đưa ra ở trên ta có thể thấy được rằng nói
trước công chúng tức là sự truyền tải thông điệp về một vấn đề cụ thể
nào đó đến đông người xem, hay chứng kiến một việc gì trong mối quan
hệ với người nói.
Nói trước công chúng gồm ba mục đích chủ yếu là cung cấp thông tin
(information), thuyết phục (pursuade) và để giải trí (intertainment). Tuỳ
từng trường hợp mà nó có thể chưâ đựng mục đích khác nhau và đôi khi
là nhằm cả ba mục đích trên.
Theo Devito nói trước công chúng bao gồm các yếu tố cấu thành nên
như sau:
- Người nói : Được coi là yếu tố đầu tiên và xuất phát điểm, đóng
vai trò quan trọng của việc nói trước công chúng. Khái niệm này
có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau như diễn giả,
người trình bày, ngưòi hùng biện và được sử dụng tuỳ theo văn
cảnh.
(4)
Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như ý chủ biên, NXB VHTT,1999, tr
454
5
- Thông điệp: Là bất cứ những gì mà người nói muốn truyền đạt đến
cho người nghe, thông điệp vô cùng phong phú và đa dạng đó có
thể là bài giảng của một giảng viên đại học nhưng cũng có thể đơn
giản chỉ là một lời yêu cầu giúp một việc gì đó giữa những người
bạn với nhau. Mục đích của nói trước công chúng là truyền đạt lại
thông điệp của diễn giả đối với khán, thính giả của mình. Điều này
có thực hiện thành công hay không còn tuỳ thuộc vào những gì
được trình bày và cách mà người trình bày sẽ thể hiện.
- Người nghe: Chính là đối tượng tiếp nhận thông điệp từ người
nói, song song với quá trình tiếp nhận đó thì đồng thời cũng diễn
ra sự phản hồi từ phía người nghe. Quá trình tiếp nhận thông tin và

phản ứng với những thông tin nhận được là khác nhau đối với mỗi
cá nhân, trong khi nói trước công chúng, bao giờ số lượng người
nghe cũng rất lớn. Vì thế đối với một vấn đề được trình bày tất yếu
sẽ có những ý kiến nhận xét và đánh giá khác nhau. Đó là điều cần
được lưu ý trong khi thuyết trình, một buổi thuyết trình được đánh
giá là thành công hay không còn phụ thuộc vào việc người trình
bày có đủ sức thu hút, thuyết phục được người nghe hay không?
Và điều này tất nhiên như đã nói ở trên là tương đối khác nhau
trong nhận định của mỗi người.
- Sự xao nhãng: Bị chi phối bởi các yếu tố về mặt tâm lí, vật lí,
những yếu tố này ảnh hưởng lớn đến khả năng thu nhận thông tin
của người nghe. Một người đang có những khúc mắc về mặt tâm lí
chắc chắn sẽ có những ảnh hưởng nhất định khi tiếp nhận thông tin,
tương tự như vậy chỉ cần một tiếng động lớn, sự ồn ào xung
quanh cũng là những cản trở lớn đến buổi thuyết trình. Tuy nhiên
đây là những yếu tố tồn tại một cách tất yếu trong bất kì hoàn cảnh
nào khi ta nói trước công chúng. Điều quan trọng hơn là người nói
6
phải tìm mọi cách để giảm thiểu những tác động này và làm chủ
được tình hình.
- Phản hồi: Đó chính là phản ứng của người nghe trước vấn đề được
trình bày, sự thể hiện nay là khác nhau ở mỗi người và được thể
hiện bằng nhiều cách, khi đồng ý với ý kiến của diễn giả họ có thể
gật đầu, phản đối có thể la ó.Tuy nhiên có những phản hồi sẽ được
thể hiện ngay lập tức nhưng một số có thể bị trì hoãn, có khi nó
được giấu diếm đi nhưng có lúc được thể hiện ra một cách công
khai. Mặc dầu vậy phần lớn những phản hồi trong khi nói trước
công chúng đều được thể hiện bằng những yếu tố phi ngôn ngữ.
Do đó người nói phải nhạy cảm và có sự điều chỉnh cho phù hợp.
- Ngữ cảnh: Thời gian và không gian diễn ra buổi thuyết trình có tác

động rất lớn tới nội dung và sự thành công của diễn giả, vì thế
người nói cần phải hết sức lưu ý vấn đề này. Cần tránh những
khoảng thời gian nhạy cảm như sau bữa ăn trưa lúc mà mọi người
đều mệt mỏi và có nhu cầu được nghỉ ngơi đôi chút hoặc phải nói
trong không gian chật chội, nóng bức. Nó sẽ là những yếu tố cản
trở lớn, nếu không thể tránh được thì người nói cần rất nhiều sự nỗ
lực để làm chủ trong mọi tình huống.
- Kênh thông tin: Là phương tiện mà nhờ đó mà thông điệp sẽ được
truyền tải đến với khán giả. Trong khi nói trước công chúng người
nói có thể sử dụng nhiều kênh thông tin như : đài, báo, truyền
hình… mỗi cách lại có những ưu nhược điểm khác nhau. Nếu như
một vị chủ tịch nuớc chọn đài phát thanh để chúc tết toàn dân thì
thông điệp mà người dân nhận được chỉ là qua giọng nói nhưng nếu
vị đó chọn truyền hình thì người ta không chỉ chỉ nghe được giọng
nói mà còn thấy được cả hình ảnh một cách dễ dàng.
7
Nhìn một cách tổng thể nói trước công chúng là sự liên kết của các
yếu tố trên lại với nhau, mỗi yếu tố nằm trong một chỉnh thể thống
nhất, yếu tố này lại chịu sự tác động của những yếu tố khác. Người
nghe và diễn giả là hai yếu tố chủ đạo ảnh hưởng lẫn nhau và nói
trước công chúng cũng bao gồm sự tương tác lẫn nhau của hai yếu tố
đó.
1.2: Vai trò của kĩ năng nói trước công chúng ( Public Speaking)
Việc tìm hiểu vai trò của kĩ năng nói trước công chúng chính là đi tìm
câu trả lời cho câu hỏi tại sao ta lại cần phải nghiên cứu nó, nó thể hiện
tầm quan trọng như thế nào.
Ngay từ thời cổ đại con người đã coi việc nói trước công chúng chính
là một phương tiện quan trọng trong giao tiếp. Những người có khả
năng nói hay còn gọi là những nhà hùng biện là những người giành
được nhiều sự kính trọng và họ cũng coi đó là một phương để có thể

truyền tải được tư tưởng, học thuyết của mình một cách hiệu quả nhất.
Có thể kể đến đó là Aristotle, Decard, Khổng Tử, Trang Tử… và còn
rất nhiều những nhân vật nổi tiếng khác. Làm sao để cho mọi người có
thể tiếp cận với những tư tưởng, những học thuyết, phát minh mới trong
thời đại thiếu thốn, khó khăn về mặt thông tin như thế nếu như không
phải là nhờ những cuốn sách và nhờ những buổi diễn thuyết, dạy học.
Bằng cách này hay cách khác những con người đó đã tìm mọi cách để
tiếp cận, truyền tải thông điệp của bản thân. Và một câu hỏi được đặt ra
là nếu như Aristotle hay Khổng Tử là những diễn giả tồi thì liệu ngày
nay chúng ta còn có thể thừa hưởng được những tri thức, tư tưởng được
đúc kết qua hàng ngàn năm hay không? Chúng ta còn có thể học tập và
8
tìm hiểu được Đạo Khổng hay không khi mà phần lớn những tác phẩm
của ông đều được những học trò của ông tập hợp và ghi lại dựa trên
những gì mà họ tiếp thu được từ chính thầy giáo của mình.Thời Hi Lạp,
La Mã cổ đại khả năng hùng biện đóng một vai trò cực kì quan trọng
trong giáo dục và trong đời sống thị dân. Vì vậy nên mới xuất hiện
những mẩu chuyện về những ông trạng cãi, những nhà hùng biện tài
năng bằng trí thông minh của mình mà có thể làm thay đổi được tình
thế. Trong trường học thời Hi- La người học không chỉ được dạy những
kiến thức về toán học, thiên văn học, vật lí mà họ còn được dạy về
những kĩ năng hùng biện, thậm chí có cả những trường chỉ dạy cách để
làm sao có thể trở thành nhà hùng biện, trở thành những ông “trạng cãi”
được nhiều người biết đến. Tất nhiên không một ai có thể sinh ra với
những tài năng bẩm sinh có sẵn trong mình và cần thiết hơn hết đó là sự
khổ luyện. Tấm gương của Demosthenes (384- 322 trước công nguyên)
một diễn giả và chính khách nổi tiếng thời cổ Hi Lạp rất đáng để mọi
người noi theo. Ông đã ngậm sỏi trong miệng tập hát và nói trước biển
để chữa bệnh hụt hơi, nói lắp của mình. Treo hai thanh gươm sắc nhọn
trên vai để sửa tật nhún vai. Demosthenes không chỉ cho ta thấy được sự

kiên trì và nỗ lực của con người mà quan trọng hơn nó còn cho thấy
người ta đánh giá như thế nào về kĩ năng nói trước công chúng và nó
đóng vai trò như thế nào đối với thành công trong cuộc đời mỗi con
người. Những con ngưòi đạt đến đỉnh cao của danh vọng và quyền lực
đều được cho là những ngưòi có tài ăn nói sắc sảo và đầy sức thuyết
phục và đó là điều không thể phủ nhận cho dù ở trong bất kì thời đại
nào. Cho dù hiện nay người ta có thể dùng nhiều cách khác nhau để tiếp
cận thông tin nhưng để đạt được thành công thì nói trước công chúng
vẫn là yếu tố không ai có thể phủ nhận và từ bỏ.
9
Sức mạnh của nghệ thuật nói là điểm mấu chốt tạo nên dấu ấn của
mỗi người trong giao tiếp . Cũng theo Devito trong The element of
public speaking nói trước công chúng có một số vai trò như sau.
 Giúp tìm ra khả năng giao tiếp chung, thưòng xuyên nói trước nhiều
người sẽ giúp bạn phát triển phong cách giao tiếp hiệu qủa hơn.
Đồng thời nó còn tăng cường khă năng tự định nghĩa về một vấn đề,
khả năng tổ chức thông tin, sắp xếp thông tin một cách hiệu quả
nhất đối với đối tượng giao tiếp của mình. Thêm vào đó sự nhạy bén,
khả năng biến chuyển linh hoạt trước những phản hồi từ phía người
nghe vì thế cũng cũng được phát triển. Chính từ những yêu cầu phải
trả lời những thắc mắc từ phía ngưòi nghe cũng giúp tăng cường kĩ
năng nghe ngày càng hiệu quả hơn. Tư duy logic đặc biệt là khả
năng giao tiếp tự tin chính là những lợi ích lớn nhất khi bạn thực
hành kĩ năng nói trước rất nhiều người.
 Giúp tăng cường kĩ năng nghề nghiệp và kĩ năng học thuật. Cho dù
ở bất kì một vị trí nào, làm bất kì công việc gì thì sẽ có lúc chúng ta
buộc phải nói trước rất nhiều người, không ai có thể đảm bảo là điều
này sẽ không bao giờ xảy ra. Vì vậy nắm rõ những kĩ năng trong khi
nói trước công chúng sẽ giúp giải thích, tổ chức thông điệp một cách
rõ ràng, có sức thuyết phục đồng thời nó giúp rèn luyện kĩ năng

thuyết phục, đàm phán, trình bày vấn đề một cách chắc chắn, tự tin
và khoa học.
 Giúp tăng cường khả năng hội nhập, phù hợp với nền kinh tế tri thức
và nền kinh tế đang toàn cầu hoá một cách nhanh, mạnh như hiện
nay, những vận hội mới đồng thời cũng kèm theo nhiều thử thách
mới, nền kinh tế năng động hiện đại cũng đòi hỏi người lao động
phải có sự điều chỉnh, bổ sung kiến thức của bản thân cho phù hợp
10
với những yêu cầu mới của môi trường làm việc và nói trước công
chúng cũng nằm trong số những yêu cầu đó để có thể hội nhập với
thế giới một cách dễ dàng hơn.
1.3: Đặc trưng của nói trước công chúng (Public Speaking )
Muốn tìm hiểu rõ đặc trưng của kĩ năng nói trước công chúng thì
cách tốt nhất đó là so sánh nó với những cuộc nói chuyện thông thường
được sử dụng hàng ngày, giữa chúng có những điểm giống và khác nhau
nào để từ đó ta có thể tìm ra được cốt lõi của vấn đề.
1.3.1: Những điểm tương đồng
Trong The art of Public speaking, Stephen. Lucas dẫn chứng rằng
Những nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học đã chỉ ra một người ở
độ tuổi trưởng thành sử dụng đến 30% thời gian thức giấc của mình cho
những cuộc nói chuyện thường ngày. Ông cũng cho rằng nói trước công
chúng và nói chuyện thông thường có những điểm giống nhau như sau.
 Sắp xếp những suy nghĩ của mình một cách logic: cho dù chỉ hướng
dẫn một người phụ bếp làm một chiếc bánh thông thường, hay phải
hướng dẫn cho hàng trăm thực tập viên khác (tức là phải trình bày
trước một lượng lớn khán giả) quy trình làm một chiếc bánh khổng
lồ.Thì người bếp trưởng cũng phải sắp xếp những gì mình sẽ nói một
cách có hệ thống, chật chẽ theo trình tự nhất định để có thể đạt
được mục tiêu cuối cùng là giúp cho những người đầu bếp khác có
thể hiểu và làm ra được sản phẩm cuối cùng là chiếc bánh.

 Lựa chọn những thông tin sao cho phù hợp với đối tượng mình cần
giao tiếp. Đối với mỗi một đối tượng thông tin sẽ phải được cân
nhắc sao cho phù hợp nhất với mức độ tiếp thu của đối tượng đó,
nói cho một sinh viên đại học về biển sẽ khác việc nói cho một đứa
trẻ mẫu giáo, cũng như khi phải trình bày kết quả của công trình
11
nghiên cứu khoa học về biển cho đối tượng là những những nhà hải
dương học.
 Tạo ra sự hứng thú để gây ấn tượng và thu hút sự chú ý, muốn tạo ra
hiệu qủa tốt nhất trong giao tiếp thì sự nhàm chán là điều mà bất cứ
ai cũng không muốn xảy ra. Tạo nên nhiều điều thú vị chính là vũ
khí của một người giao tiếp thông minh và giữ cho cuộc nói chuyện,
phần trình bày của mình không trở thành tẻ nhạt.
 Thích nghi với những phản hồi từ người nghe: khi nói với bất kì ai
chúng ta có thể nhận thấy được cử chỉ, thái độ, sự phản ứng của
người đó một cách rõ ràng. Hàng ngày những việc đó đều xảy ra
không chỉ một lần, tuy nhiên người ta thường không hay để ý đến
điều này. Khi nói chuyện với một người đối diện nếu như người đó
tỏ thái độ hờ hững trước những gì mà ta đang nói, chắc chắn ta cũng
phải có sự điều chỉnh hoặc là không tiếp tục nói hoặc chuyển ngay
sang một chủ đề khác. Như vậy một cách ngẫu nhiên chúng ta đã sẵn
có một trong những kĩ năng của việc giao tiếp và đó chính là một
trong những kĩ năng quan trọng, cần thiết cho thành công trong khi
nói trước công chúng.
1.3.2 : Điểm khác biệt
Mặc dù có nhiều điểm tương tự nhau nhưng nói trước công chúng
(Public Speaking) vẫn có những đặc điểm mà người ta có thể dễ dàng
nhận thấy được nó hoàn toàn khác biệt với những cuộc nói chuyện hàng
ngày .
- Cấu trúc chặt chẽ: Đây là yêu cầu quan trọng trong khi phải nói với

số đông khán giả vì diễn giả thường chịu sức ép về thời gian. Phần
lớn các trường hợp, khán giả không được phép cắt ngang hay đưa
ra những lời bình luận trong khi diễn giả đang nói Người nói phải
12
khéo léo đưa được mục đích của mình vào nội dung sẽ trình bày.
Khi chuẩn bị cho bài diễn văn của mình diễn giả cũng cần phải tính
đến những câu hỏi sẽ nảy sinh trong đầu của người nghe và trả lời
chúng như thế nào. Do đó nó đòi hỏi kế hoạch và sự chuẩn bị chi
tiết hơn là hội thoại bình thường.
- Sử dụng ngôn ngữ chuẩn mực: Những tiếng lóng và từ địa phương,
những từ ngữ quá thân mật hay tối nghĩa, những câu văn sử dụng
sai ngữ pháp là điều không được cho phép đối với một bài viết
được chuẩn bị để nói trước nhiều người. Người nghe luôn luôn
phản ứng mạnh mẽ đối với những diễn giả không tự chau chuốt,
chăm chút cho ngôn từ của mình. Một bài phát biểu với ngôn từ tinh tế
thể hiện sự tôn trọng thính giả của người viết.
- Cách phát biểu: Trong giao tiếp hàng ngày phần lớn mọi người nói
ở một mức độ vừa phải đủ để cho người đang nói chuyện với mình
(số lượng nhỏ ) có thể nghe thấy được. Nhiều từ ngữ mang tính
thân mật,có thể là tiếng lóng cũng được sử dụng, những điệu bộ
ngẫu nhiên, kì cục người ta đều có thể chấp nhận được. Nhưng để
có thể đạt được thành công khi phải nói trước hàng trăm, ngàn
người diễn giả phải nói để tất cả mọi người đều có thể nghe rõ, họ
tránh những lối cư xử , những ngôn từ có thể gây phản cảm đối
với khán giả, vì đó cũng chính là cách mà họ tự huỷ hoại thành
công của bản thân.
1.4: Kĩ năng nói trước công chúng( public speaking skills)
Kĩ năng nói trước công chúng là sự tích hợp của rất nhiều những kĩ
năng khác nhau. Vì thế để có thể đạt được thành công và trở thành một
13

diễn giả xuất sắc nó đòi hỏi ở mỗi cá nhân sự nỗ lực rèn luyện thậm chí là
khổ luyện qua một quá trình lâu dài cùng nhiều thử thách
1.4.1: Xây dựng sự tự tin
Sự tự tin là một trong những trong những yếu tố quan trọng đảm bảo
thành công cho dù chúng ta hoạt động trong bất kì lĩnh vực nào. Khi ta
phải nói dưới sức ép của đám đông thì tự tin là điều mà không phải ai
cũng sẵn có và dễ dàng làm được, đặc biệt với những người lần đầu tiên
đứng nói trước rất nhiều người. Để đạt được nó cần phải có sự kiên trì
và lòng tin. Việc mất tự tin, hồi hộp khi đứng trước đông người được
chỉ ra là một hiện tuợng tâm lí hết sức bình thường của con người. Và
ngay cả những nhà hùng biện đại tài thì cũng đã từng có những lúc họ
đứng nói trong tâm trạng hồi hộp, lo âu.Trong The art of public
speaking, Srephen. Lucas đã dẫn chứng một ví dụ khá thú vị rằng, một
nghiên cứu được thực hiện trên 2500 người tại Mĩ năm 1973 đã cho một
kết qủa bất ngờ khi 70% số người được hỏi cho việc phải nói trước
đám đông là nỗi sợ hãi lớn nhất trong đời. Vài người trong số đó thậm
chí còn cho nó đáng sợ hơn cái chết. Vì vậy để đạt được thành công
diễn giả cần phải gây dựng được sự tự tin ở bản thân. Và câu hỏi được
đặt ra là làm thế nào để chống lại sự mất bình tĩnh, kiểm soát được nó.
Điều đó có thể làm được một cách dễ dàng khi diễn giả thực hiện theo
một số điều sau.
- Tạo cho mình nhiều cơ hội để được nói trước đám đông: Rất hiếm
người có thể thành công ngay từ lần đầu tiên mà không hề lo sợ,
nhưng càng được cọ sát ở những hoàn cảnh khác nhau, có nhiều cơ
hội để thể hiện mình là một cách tốt nhất về mặt tinh thần giúp
người nói cảm thấy tự tin hơn. Những kinh nghiệm được rút ra từ
những lần thất bại trước sẽ là phương thuốc hữu hiệu nhất cho căn
14
bệnh mất tự tin ở mỗi người. Bắt đầu từ những lần trình bày trước
lớp hay trong nhóm làm việc là cách mà người ta có thể bước đầu

làm quen đồng thời gây dựng dần sự tự tin.
- Chuẩn bị thật kĩ càng: Cũng chính là chìa khoá để giúp tạo nên
sự tự tin của diễn giả, chuẩn bị kĩ ở đây có thể bao gồm về măt nội
dung của bài nói, có thể đó là sự tập dượt một cách kĩ càng. Đối với
người có kinh nghiệm hay chưa có kinh nghiệm thì sự chuẩn bị này
vẫn là rất cần thiết, thời gian chuẩn bị nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào
mỗi cá nhân. Có được sự chuẩn bị kĩ sẽ giúp người trình bày làm
chủ được tình thế và có thể ứng phó được với những tình huống
bất ngờ xảy đến và điều quan trọng hơn mà ai cũng có thể thấy
được, chuẩn bị là một trong những yếu tố để đi đến thành công khi
làm bất cứ một việc gì.
- Sử dụng sức mạnh của hình dung, mường tượng: Điều này cũng
giống kĩ năng nhập vai, hãy thử đặt mình vào trong hoàn cảnh sẽ có
thể xảy đến trong tương lai, bạn sẽ phải nói như thế nào, giới thiệu
ra sao. Những câu hỏi như thế nào sẽ được hỏi và khi đó hãy dự trù
trước câu trả lời. Việc được coi giống như một cuộc tập dượt
trước khi hoạt động chính thức diễn ra và càng được tập dượt kĩ
lưỡng bao nhiêu thì tâm trạng hồi hộp, lo lắng sẽ được giảm bớt
bấy nhiêu.
- Nên biết sợ hãi không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy: Tâm lí
chung của rất nhiều diễn giả đó là sợ rằng khán giả sẽ biết được
rằng mình đang lo lắng. Điều này vô hình chung đã tạo nên sức ép
lớn. Tuy nhiên một thực tế là không phải bất kì điều gì người nghe
cũng có thể thấy được hết, bao gồm cả nỗi sợ hãi của bản thân
người nói. Cố gắng thể hiện đến mức cao nhất có thể sự bình tĩnh
sẽ tạo cho khán giả thấy được sự tự tin mặc dù thực tế có thể là
15
không như vậy. Nếu người nói thể hiện cho khán giả biết rằng
mình sợ hãi thì đó được coi là điều rất tệ hại, người nghe sẽ chú ý
nhiều đến những hành động của diễn giả hơn là những gì họ nói.

Điều này vô tình tạo nên tâm lí coi thường, chán nản của người
nghe và điều này thì không ai mong muốn nó xảy ra.
- Suy nghĩ tích cực: Coi việc nói trước công chúng là cơ hội tốt để
thể hiện mình, tăng khả năng giao tiếp, hiểu biết lẫn nhau với
những người xung quanh. Và đó là một niềm vinh dự lớn thay vì
nghĩ rằng bạn ta phải miễn cưỡng làm điều này. Yếu tố tâm lí là
cực kì quan trọng, có thể tạo ra động lực lớn khích lệ con người. Sự
hứng khởi là cội nguồn để xoá tan những mặc cảm, đồng thời giúp
người nói thể hiên mình một cách tốt nhất
- Không cố gắng đạt tới sự hoàn hảo: Cho dù có được chuẩn bị kĩ
luỡng đến đâu chắc chắn sẽ có những chi tiết không như mong đợi,
những điều không nằm trong kế hoạch. Tuy nhiên điều này là rất
bình thường. Nếu điều này xảy ra thì đừng vội lo lắng, hãy xem
như chưa có chuyện gì xảy ra, trình bày tốt nhất có thể những gì
mình đã chuẩn bị vì người nghe sẽ không thể biết hết những gì mà
ta định nói. Đừng quá hi vọng đạt tới sự hoàn hảo, nó sẽ tạo nên
tâm lí sợ hãi khi lần sau ta lại gặp phải tình huống tương tự
- Không nên thức quá khuya, làm việc quá căng thẳng trước khi buổi
thuyết trình diễn ra chính thức. Nên tạo cơ hội cho đầu óc được
thư giãn và nghỉ ngơi để có thể chuẩn bị cho mình có được nền thể
lực tốt nhất .
- Trong khi thuyết trình: Cố gắng thư giãn trước khi nói, nếu hồi hộp
nên thở thật sâu để lấy lại bình tĩnh. Chú ý đặc biệt đến phần mở
đầu, có được phần mở đầu hoàn hảo sẽ tạo động lực rất lớn cho
những phần tiếp theo. Đây cũng thời điểm thường xuyên xảy ra sự
16
mất bình tĩnh, nó là thử thách lớn mà bất cứ ai cũng cần phải vượt
qua. Khi đã qua thời điểm người nói sẽ dần thích nghi lấy lại bình
tĩnh và cảm thấy dễ dàng hơn rất nhiều. Một điều đặc biệt quan
trọng là chú ý đó giao tiếp bằng mắt đối với người nghe. Diễn giả

phải hết sức chú ý đến điều này. Tập trung ánh mắt vào diễn giả mà
mình có cảm tình nhất tuyệt đối tránh việc hướng ánh mắt ra xung
quanh. Người nghe sẽ có cảm giác rằng mình không được tôn trọng
và người nói không phải hướng đến mình. Cần tránh quan điểm coi
như không có ai đang nghe mình nói để có thể giảm bớt sự lo lắng,
đó là thái độ hết sức sai lầm. Không ai có thể thành công trong
nghiệp nói nếu như không coi trọng khán giả của mình. Trong khi
nói hãy cố gắng giao đãi với mọi người, nghĩ đễn nội dung thuyết
trình hơn là nỗi sợ hãi khi trình bày.
1.4.2: Kĩ năng nghe
Để có thể trở thành một người thành công trong hoạt động nói thì việc
tìm hiểu và nắm được kĩ năng nghe là rất quan trọng vì đó là bước chủ
chốt trong quá trình tiếp nhận thông tin. Chỉ khi ta nghe tốt thì việc nắm
thông tin mới có thể có hiệu quả và thông tin lấy được mới thật sự có
ích. Nghe tốt cũng giúp ta hiểu vấn đề một cách trọn vẹn, đúng đắn.
Kinh nghiệm cũng chỉ ra rằng để có thể học tập tốt hay thành công trong
công việc thì hãy bắt đầu từ kĩ năng nghe.
1.4.2.1: Thế nào là nghe có nhận định?
- Nghe: là một quá trình hoạt động của việc nhận thông tin, phân tích
và lưu giữ lại những thông tin đó qua nhân tố trung gian là cơ quan
thính giác.
(1)
Quá trình đó bắt đầu từ việc nhận thông tin từ người nói,
phân tích nó và bổ sung nó cùng với những thông tin khác trong trí nhớ
(1)
Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như ý chủ biên, NXB VHTT, tr 1191
17
của chúng ta và được lưu giữ lại trong một khoảng thời gian nhất định,
cơ quan thính giác không chỉ đón nhận những từ , những câu, nó tiếp
nhận tất cả những tín hiệu âm thanh cũng như từ ngữ, những âm thanh

chủ ý và những âm thanh không chủ ý.
- Nhận định: là quá trình mà chúng ta đưa ra ý kiến, đánh giá, dự
đoán về vấn đề gì đó
(2)
. Những nhận định này có thể tích cực, có thể
tiêu cực, ca ngợi, ngưỡng mộ hay đơn giản chỉ là sự đổ lỗi.
Josheph. A. Devito đã phân ra làm 4 cách nghe:
 Nghe để thư giãn: mục đích tạo sự thoải mái (nghe nhạc, nghe
truyện cười )
 Nghe cảm thông: Nghe để ủng hộ, cảm thông như việc bác sĩ nghe
thông tin từ bệnh nhân để có thể chia sể đồng thời nắm được tình
hình sức khoẻ của người bệnh
 Nghe toàn diện: Nghe để hiểu nội dung
 Nghe có phê bình
Nghe có phê bình trong kĩ năng nói trước công chúng đề cập đến quá
trình nghe đối với một bài diễn văn nhằm đưa ra những phán xét, nhận
định, khi chúng ta được nghe bất cứ một bài diễn văn nào, chúng ta
cũng sẽ được hỏi để đưa ra những đánh giá riêng của bản thân về
những gì vừa diễn ra và việc đó thể hiện cho một người nghe có trách
nhiệm.
1.4.2.2: Những lỗi thường mắc trong khi nghe
Stephen E. Lucas đã tổng kết và chỉ ra những lỗi sau mà người nghe
thường vấp phải.
(2)
Tài liệu đã dẫn, tr 1241
18
 Không tập trung: lỗi này thường xảy ra bởi vì người nghe thường
bị cắt ngang bởi những dòng suy nghĩ khác, hoặc chịu tác động
ngoại cảnh trong khi nghe. Tuy nhiên đây là điều không thể tránh
khỏi cho dù người nói có xuất sắc đến đâu và trong khi nói trước

công chúng cần hiểu và nắm được điều này.
 Nghe quá chăm chú : Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn với ý trên
nhưng đây cũng được coi là điều sai lầm, bởi vì nếu để ý đến từng
lời, từng câu, từng chữ thì sẽ dẫn đến tình trạng loãng thông tin
ngay trong khi tưởng như là đã nghe được rất nhiều song lại
không nắm được điều gì là quan trọng nhất.
 Vội vàng kết luận: Dù chưa nắm bắt được hết thông tin nhưng
người nghe đã vội vàng kết luận về vấn đề đang được trình bày
và cho nó đó chính là bản chất, nó dẫn đến tình trạng nghe không
trọn vẹn, nửa chừng thậm chí dẫn đến hiểu sai vấn đề. Đây là vấn
đề liên quan đến tâm lí học và vẫn thường hay xảy ra trong cuộc
sống, đôi khi sau đó khó có thể thay đổi được quan điểm, thái độ
của một người về vấn đề mà trước đó người nghe đã gán cho nó
những suy luận cá nhân của bản thân.
• Chú ý quá nhiều đến ngoại hình, phong cách của diễn giả: và
cách trình bày: Nếu vội vàng phán xét diễn giả qua ngoại hình
của họ và chỉ chăm chú đến chi tiết đó người nghe sẽ nhanh
chóng bị phân tâm. Phần nội dung mà người nói định trình bày sẽ
mau chóng bị gạt sang một bên và trở nên không còn quan trọng
nữa. Điều này đòi hỏi diễn giả phải có những yêu cầu nhất định
về ngoại hình, trang phục khi xuất hiện trước đám đông, nó sẽ
được trình bày cụ thể hơn ở những phần sau.
1.4.2.3: Cách khắc phục
19
Để khắc phục được tình trạng trên theo Stephen người nghe được
khuyên làm theo một số điều sau:
- Coi trọng việc nghe: Kĩ năng nghe không thể có được trong một
khoảng thời gian ngắn và nó cũng không tự sinh ra được và phải
xuất phát từ chính bản thân người nghe coi trọng việc đó hay
không. Nghe một cách thật chủ động trong mọi tình huống, học

cách nghe từ những bước đầu tiên, và bất kì khi nào có thể.
- Ngăn cản sự xao nhãng: Điều này là không thể tránh khỏi trong
quá trình nghe vì người nghe còn chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều
những yếu tố ngoại cảnh khác như khung cảnh, tạp âm, tâm trạng
…Tuy nhiên ta có thể hạn chế bớt điều nay bằng cách
 Nghe tổng quát xem những ý kiến của người nói có chống lại
những gì mình đã hi vọng hay không
 Xem xét một cách tổng quát về nội dung mà diễn giả đã nói
- Tránh bị phân tâm bởi ngoại hình hay về phong cách trình bày
- Tạm ngưng sự phán xét lại: Khi những gì diễn giả trình bày không
giống với quan điểm của thính giả thì sự phán xét tất yếu sẽ xảy ra.
Tuy nhiên kĩ năng nghe tốt đòi hỏi người nghe phải tạm dừng việc
đó lại, cố gắng nghe bằng quan điểm rộng mở, xem xét những bằng
chứng rồi mới đưa ra quyết định của mình.
- Không nghe từng từ một: Cố gắng nắm bắt được những ý chính
phần cốt lõi của vấn đề, không cần và cũng không nên ghi nhớ tất
cả những gì mà người nói trình bày. Chọn lọc và nắm bắt ý chính
để ghi nhớ sẽ giúp não bộ hoạt động có hiệu quả hơn, ghi nhớ tốt
hơn.
- Phát triển kĩ năng ghi chú: Nhanh chóng ghi những ý kiến đuợc
cho là quan trọng sẽ giúp người nghe có thể dễ dàng hệ thống hoá
20
về măt nội dung và hình thức của vấn đề đã được trình bày, giúp
nhớ lâu hơn và nó cũng sẽ giúp ta hiểu vấn đề một cách trọn vẹn .
1.4.3 : Các bước chuẩn bị cho bài thuyết trình
1.4.3.1: Chọn đề tài và xác định mục tiêu.
Chọn lựa đề tài là bước đầu tiên để chuẩn bị cho bài thuyết trình, khi
đã chọn được một đề tài phù hợp có nghĩa là diễn giả đã giành được
một nửa thành công. Tuy nhiên làm thế nào để đạt được điều này thì
không hề đơn giản. Để làm được điều này thì diễn giả cần phải tìm hiểu

rõ về khán giả của mình, những người sẽ trực tiếp nghe mình nói.
Những thông tin cần thiết cần phải nắm được bao gồm:
 Những thông tin cá nhân; như độ tuổi, giới tính, nghề
nghiệp, trình độ học vấn, tôn giáo, tín ngưỡng, chủng tộc,
văn hoá
 Tìm hiểu mong muốn quan tâm của thính giả
 Xác định lòng tin, thái độ của khán giả đối với người nói và
chủ đề dự định
 Những yếu tố khác như: số lượng khán giả, thời điểm nói ,
hoàn cảnh nói, mức độ chủ động của khán giả, độ hài hước
Thông tin trên sẽ được thu thập bằng nhiều cách, có thể thông qua
những người tổ chức, qua phỏng vấn, bảng hỏi những thông tin này
nếu được thu thập càng nhiều, cụ thể, chi tiết bao nhiêu thì đề tài được
lựa chọn sẽ có ý nghĩa, phù hợp bấy nhiêu. Một đề tài được chọn là
những đề tài đạt được những tiêu chí sau:
- Đề tài mà thính giả muốn nghe: Mỗi một đối tượng đều có những
vấn đề quan tâm khác nhau, hiểu biết khác nhau và quá trình phân
tích thính giả sẽ giúp người nói biết được điều này. Người nghe
thường chỉ quan tâm đến những vấn đề có liên quan, có ý nghĩa, tác
21
động trực tiếp đến họ. Một người trẻ có thể sẽ cần biết nhiều hơn
về sự lựa chọn nghề nghiệp nhưng đối với một người đã ngoài bảy
mươi thì điều này lại trở nên vô nghĩa, cũng như đối với người
nông dân điều họ cần biết những kĩ thuật canh tác để tăng năng
suất chứ không phải là làm thế nào để sản xuất tên lửa. Đồng thời
đề tài đó cũng phải được lựa chọn tuỳ theo từng tình huống. Trong
buổi lễ mừng chiến thắng hàng năm người nghe chờ đợi một bài
phát biểu ca ngợi về những công ơn của những người đã khuất chứ
không phải là khơi gợi lại những kí ức thương đau, đả kích về bè
phái chính trị. Đề tài mà thính giả muốn nghe cũng chính là đề tài

phù hợp với sở thích của người nghe. Khi nói chuyện với những
người công nhân thì cái nên đề cập đến là nghề nghiệp của họ, sản
phẩm mà họ sản xuất. Bên cạnh đố người nói cũng nên nhớ rằng,
không bao giờ được áp dụng cùng một nội dung cho những đối
tượng khác nhau. Có thể trong cùng một thời điểm cụ thể nhưng
nếu khán giả là đối tượng hoàn toàn khác thì đồng nghĩa với việc
cần phải có sự sửa đổi. Nếu giữ nguyên một nội dung để trình bày
cho rất nhiều đối tượng và lặp lại theo chu kì thời gian như một
người thợ quen tay thì đó chính là một diễn giả tồi.
- Đề tài mới: Bên cạnh những vấn đề có liên quan thì người nghe
cũng thường giành sự chú ý đặc biệt của mình vào những gì được
cho là mới. Những vấn đề có tính thời sự nóng bỏng như một phát
minh, khám phá mới của các nhà khoa học. Hay đơn giản hơn là xu
hướng nảy sinh trong nhu cầu tiêu dùng của giới trẻ hiện nay, hoặc
là về một loại sản phẩm mới sắp được tung ra trên thị trường. Bản
năng tò mò, tâm lí muốn tìm kiếm sự mới lạ sẽ là một yếu tố kích
thích sự chú ý của người nghe. Tuy nhiên nó cũng đòi hỏi một sự
nhạy cảm nhất định của diễn giả để có thể nhận biết được điều gì là
22
mới, là nhạy cảm vì có thể vấn đề đó là mới đối với diễn giả nhưng
chưa chắc đã là mới đối với người nghe, mới ở thời điểm này
những không còn mới trong thời điểm khác. Vì thế cần phải có sự
cập nhật thông tin thường xuyên, sự nghiên cứu kĩ càng của người
nói trước vấn đề định trình bày.
- Đề tài mà diễn giả muốn biết : Đây là một thử thách vì người nói
chọn đề tài mà mình chưa hề biết đến để trình bày và tỉ lệ thành
công vì thế là một vấn đề đáng được lưu tâm. Mặc dầu vậy, đây là
một cơ hội tuyệt vời để người nói tiếp cận với những kiến thức và
kinh nghiệm mới. Tuy nhiên điều này cần được bổ trợ bởi những
yêu cầu đã được trình bày ở trên để có thể giúp tìm ra sự lựa chọn

hợp lí nhất. Muốn làm được điều này diễn giả cần lưu ý một số
điều sau trong khi tìm kiếm
.Cần có sự kiểm kê cá nhân : Hãy lập ra một bảng kiểm kê cá
nhân về những vấn đề như : kinh nghiệm, sở thích, thói quen, niềm
tin Ghi nhanh những vấn đề chợt nảy ra trong đầu, không cần
quan tâm đến việc đó có bị coi là ngớ ngẩn hay là miễn cưỡng. Từ
danh sách này ta có thể tìm thấy những vấn đề có thể là đề tài mà ta
định trình bày, đây là cách được rất nhiều người sử dụng. Sau khi
đã kiểm kê xong cần tập hợp, rút gọn vấn đề Từ những gì đã liệt
kê ra được cần phải tìm ra những vấn đề mà người trình bày cho là
nổi bật và tiêu biểu nhất .
Sử dụng việc tìm kiếm thông tin trên mạng Internet : là cách mà
ta cũng có thể áp dụng vì mạng Internet là một phương tiện để tra
cứu và tìm kiếm thông tin hữu dụng.
- Đề tài mà mình biết sâu: Điều này được đặt xuống vị trí cuối cùng
trong những tiêu chí khi lựa chọn đề tài. Vì có thể những vấn đề mà
23
người nói biết rõ chưa chắc đã phải là vấn đề có sức hấp dẫn đối
với người nghe. Song một đề tài nói về một lĩnh vực mà mình biết
rõ, hiểu sâu về nó cũng cũng làm cho việc trình bày có thể thuận lợi
hơn rất nhiêù. Một vấn đề được đặt ra ở đây là người nói phải biết
biến những gì là của riêng mình sao cho nó có mối liên hệ với thính
giả, phải chỉ ra những mối liên kết giữa vấn đề trình bày với người
nghe đó cũng chính là cách lôi cuốn người nghe tham gia vào buổi
thuyết trình.
Song song với quá trình tìm kiếm đề tài người nói cần phải định rõ
được mục tiêu chung và cụ thể khi mình nói là gì. Thông thường mục
tiêu chung đựơc giới hạn vào hai mục tiêu chính đó là thông tin và
thuyết phục.
 Thông tin: là mục đích khi người nói muốn đưa đến những thông tin

nhằm tăng cường kiến thức hiểu biết của người nghe như khi một
giáo viên giảng cho học sinh của mình về biển, về cấu tạo của cơ
thể trong giờ học vậy.
 Thuyết phục: khi cần thay đổi suy nghĩ, quan điểm, hành động,
niềm tin của khán giả, người nói cố gắng thuyết phục người nghe tin
và làm theo điều gì sau khi nghe họ nói như khi ta nói chuyện với
những người nghiện thuốc về việc bỏ thuốc. Người nói cần xác định
mục tiêu cần đạt được là gì, biết được mục tiêu chung là bước đầu
tiên và bước thứ hai là phải xác định được mục tiêu cụ thể .
- Mục tiêu cụ thể: chú trọng vào những khía cạnh của vấn đề làm rõ
mục tiêu chung. Nếu như mục tiêu chung là thông báo thì mục tiêu cụ
thể đó là thông báo về tác hại của sóng thần đối với con người và đối
với du lịch.
Lời khuyên cho việc xác định mục tiêu cụ thể như sau:
24
 Diễn đạt vấn đề cần đạt tới bằng những câu hoàn chỉnh không
phải là những câu đứt đoạn, rời rạc.
 Diễn đạt dưới dạng câu trần thuật mà không diễn đạt bằng câu
hỏi.
 Không sử dụng những từ ngữ bóng bẩy như việc thông báo rằng
luyện tập Yoga là rất tuyệt vời, thay vào đó hãy định ra rõ ràng
hơn bằng câu chỉ ra việc luyện tập Yoga sẽ giúp tăng cường sức
khoẻ, giảm stress.
 Chắc chắn rằng mục tiêu đó là không mơ hồ, không thể nói mục
tiêu là nói về chiến tranh một cách chung chung mà cần xác định
nói gì về chiến tranh, về hậu quả của chiến tranh hay là tinh thần
chiến đấu trong chiến tranh, hay là tình yêu, những sáng tác văn
học trong thời chiến.
Để làm được những điều này cần trả lời được những câu hỏi sau:
 Mục tiêu đó có phù hợp với nhiệm vụ cần làm hay không?

 Có thể đạt được mục tiêu đó trong thơì gian cho phép hay không?
 Mục tiêu đó có quá tầm thường đối với khán giả hay không, đề tài
được chọn không nên quá phức tạp nhưng cũng không nên quá
đơn giản như việc dạy cho một sinh viên đại học về cách giữ vở
sạch chữ đẹp như thế nào vậy.
 Nó có quá học thuật máy móc hay không?
Những câu hỏi này sẽ giúp người nói xác định đúng đắn được mục
tiêu cần đạt tới.
1.4.3.2: Thu thập thông tin
Sau khi chọn được đề tài thì bước tiếp theo đó là viêc thu thập thông
tin cho bài viết. Quá trình thu thập thông tin gồm 4 bước:
25

×