Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bài thuyết minh: Nhà tù Hỏa Lò Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.92 KB, 11 trang )

Thưa quý khách chúng ta đang đứng ở số 1 phố Hỏa Lò quận Hoàn Kiếm, Hà
Nội. Phía trên cảnh cổng là dòng chữ Maison Centrale nghĩa là “Ngôi nhà Trung
ương” nhưng thực chất đây là nhà tù kiên cố bậc nhất Đông Dương. Ban đầu nó có
tên là Prison Centrale ( nghĩa là nhà tù trung ương), nhưng sau để tránh sự tò mò
và kích động trong dân chúng, thực dân Pháp đã đổi thành Maison Centrale.
Sau hiệp ước đầu hàng hoàn toàn của triều đình nhà Nguyễn 1893, thực dân
Pháp đã thực sự biến nước ta thành thuộc địa, nhân dân ta thành nô lệ. Đầu năm
1895, cùng với sự phát triển của các phong trào cách mạng ở khắp Hà Nội, việc
đàn áp bắt bớ liên tục làm cho số tù nhân tăng một cách chóng mặt, không có đủ
nơi giam giữ, có lúc Pháp đã dùng cả chùa Trấn Quốc giam giữ tù nhân bị bệnh
phải cách ly. Vì thế cuối thế kỷ XIX, chính quyền thực dân Pháp quyết định xây
gấp một nhà tù trung ương ở thành phố Hà Nội . Đến ngày 27/2/1896, kỹ sư trưởng
cầu đường, giám đốc nha công trình và toàn quyền Đông Dương bấy giờ là
PonDume đã duyệt bản thiết kế xây dựng nhà tù do kiến trúc sư Villdie thiết kế.
Tổng diện tích đất để xây dựng nhà tù và những đường lân cận dẫn tới nhà tù là
12908m
2
, trong đó diện tích xây dựng nhà tù là 10.870m
2
. Nhưng đến năm 1993,
dự thảo đề án xây dựng tòa tháp trung tâm Hà Nội được UBND thành phố, kiến
trúc sư trưởng thành phố và thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã lấy mất ¾ diện tích
đất của nhà tù nên bây giờ chỉ còn 2434m
2
.
Khu di tích Hỏa Lò bao gồm các đơn nguyên kiến trúc sau: tường bao quanh,
cổng chính, 2 chòi canh, nhà chỉ huy, nhà giám thị, nhà giám ngục, trại giam nữ tù
nhân, trại D, E, cây bang, 2 cửa cống ngầm, cachot, khu xà lim án chem, sân hành
quyết.
Nơi mà chúng ta đang đứng là nhà chỉ huy của các đời giám ngục, nơi mà mọi
mệnh lệnh đàn áp, bắt bớ tra tấn được ban ra và thi hành. Tại đây có treo sơ đồ mặt


bằng khu di tích hỏa lò còn lại, bản tóm tắt di tích lịch sử Hỏa Lò, các tranh ảnh,
đồ mỹ nghệ lưu niệm. Tầng 2 phía trên là phòng làm việc của cán bộ, nhân viên
khu di tích.
Thưa quý khách điểm dừng chân tiếp theo của chúng ta là phòng trưng bày
các hiện vật với nội dung địa hình nhà tù Hỏa Lò trước khi xây dựng. Đó là hơn 20
hiện vật lọ sành, sứ, bát sứ, chén sứ do công nhân xây dựng đào được dưới lòng đất
năm 1995. Nhà tù nằm trên đất của làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương, huyện Thọ
Xương cũ của Hà Nội. Làng Phụ Khánh vốn là một làng nghề thủ công chuyên sản
xuất đồ gốm dân dụng, dân làng ngày đêm đốt lò nung gốm vì thế còn mang tên là
thôn Hỏa Lò. Khi thực dân Pháp xây dựng nhà tù trên mảnh đất này đã lấy tên là
Maison Centrale, đồng thời cũng có tên là nhà tù Hỏa Lò.
Khi xây dựng thực dân Pháp đã di dời 48 hộ dân dỡ bỏ chùa Lưu Ly, Bích
Hoa. Có bản dập bia nói tới chùa Chân Tiên, đền Quan Đế, đình Phụ Khánh, nói
tới việc năm Đinh Dậu, tức năm Thành Thái thứ 9 (1897) Pháp đã xâm phạm đến
chùa điện.
Trại D:
Đây là nơi trưng bày tội ác của thực dân Pháp đối với tù nhân trong nhà tù
Hỏa Lò. Phòng này trước kia được gọi là trại giam D, nối liền với trại E. Trước
mặt quý khách là là mô hình 2 bản thiết kế nhà tù năm 1896 của kiến trúc sư
Villdie và mô hình nhà tù Hỏa Lò, một công trình kiên cố, vững chắc, đầy ngông
cuồng của thực dân Pháp. Ban đầu, theo bản thiết kế, nhà tù Hỏa Lò gồm các hạng
mục sau:
- 4 nhà dùng cho việc canh của giám ngục
- 2 nhà làm bệnh xá
- 2 nhà để giam bị can
- 1 nhà làm phân xưởng
- 5 nhà để giam tù nhân
Tuy nhiên do nhu cầu sử dụng cấp bách và kinh phí có hạn nên công trình
buộc phải đưa vào sử dụng khi nó chưa hoàn thành. Bởi vậy hàng ngày phải tiến
hành sửa chữa cải tạo, bổ sung ( đặc biệt năm 1912, 1917 và 1943). Khi nó hoàn

thiện về cơ bản thì nó có 2 khu chính: khu quản lý và khu nhà giam.
- Khu quản lý bao gồm: nhà chánh giám ngục, nhà phó giám ngục, nhà
giám thị, nhà lính, nhà xưởng, nhà kho, nhà bếp, trạm xá. Khu nhà chỉ huy
và giám ngục có ký hiệu là A,B,C.
- Khu trại giam có trại nữ, trại tử hình, xà lim số I, II, III, cùng các trại
I, J, O, H, M, N, G, F, E, D, K, L.
Ngoài ra trong phòng này còn trưng bày các then cửa, cùm tay, cùm chân,
xung quanh quý khách có thể nhìn thấy các bức ảnh chụp các trại J, P, O, M, D, K,
trại tử hình, lô cốt, xà lim, sở mật thám, tòa đại hình và các hiện vật khác.
Thưa quý khách chúng ta đang đứng tại phòng nối D – E, nơi đây trưng bày
các hiện vật là các loại cánh cửa của nhà tù Hỏa Lò gồm 5 cánh cửa; cửa vào khu
trại trong, cửa trại tử hình, cửa nhà phó giám ngục, cửa chính nhà tù, cửa sổ. Cửa
vào khu trại trong là cửa ngăn cách khu trại tử hình. Muốn vào khu này phải qua
bốn lần cửa, bốn lần khóa. Cửa chính của nhà tù như quý khách đang thấy ở đây
được dùng như một biểu tượng uy quyền của nhà tù thực dân. Cổng được làm bằng
gỗ lim rộng 1,14m, cao 2,05m, nặng 1,6 tấn. di chuyển được bằng bánh xe. Tất cả
các khóa, then, bản lề, đinh đều được chuyển từ Pháp sang, đuợc kiểm tra chất
lượng nghiêm ngặt. Ngay cả đến ngói lợp của nhà tù cũng là ngói được sản xuất
theo tiêu chuẩn của Pháp, kích thước lớn, cũng đang được trưng bày ở đây. Sauk hi
phá bỏ một phần và tu sửa phần còn lại thì nhà tù mới được lợp bằng ngói ta.
Trại E:
Thưa quý khách khu trại này được giữ lại và khôi phục gần nguyễn mẫu,
trưng bày 59 hiện vật như sạp nằm của tù nhân, bể nước, bệ hố xí, thùng phân di
động, cùm chân và tượng tù nhân. Phía dưới lớp ngói kia là 1 lớp trần bằng bê tông
chắc chắn, người tù khó có thể đục trần ra mà chui lên mái được. Xạp nằm của tù
nhân là 2 sạp ghép các tấm gỗ lim rộng 0,3m dài 2m, phía đầu thấp hơn phía chân.
Chân người tù bị cùm vào một cái cùm bằng gỗ, phía trên có một thanh sắt uốn
theo lỗ cùm. Lợi dụng điều này những người tù đã đốt những chiếc chăn rồi nhét
vào lỗ để được lỗ rộng ra, sau đó lấy cơm nguội trộn với muội than đắp lên để
chiếc cùm có hình dáng như cũ. Nhưng sau đó cai ngục phát hiện ra và đã làm

them đế sắt ở dưới nữa. Chúng còn làm thêm cả đinh để chốt vào tường thì cơ hội
trốn thoát của tù nhân gần như bị khép lại.
Trước đây mỗi phòng giam chỉ có một thùng phân di động nên gây mùi hôi
thối khó chịu. Sau do đấu tranh của tù nhân nên mới được thay bằng hố xí công
cộng. Không chỉ có thế, người tù còn phải chịu chế độ giam cầm rất khắc nghiệt.
Gạo của tù nhân là gạo hẩm lẫn trấu, thóc, sạn. Thức ăn chính là cá khô để lâu
ngày, có cả dòi, thịt trâu bạc nhạc, rau muống già người tù gọi là rau “ giải rút”. Cả
cơm và thức ăn đều đựng vào máng gỗ, 6 – 10 người một máng.
Mỗi năm, 1 người chỉ có 2 bộ quần áo, 1 chiếc chiếu, 1 chiếc chăn, mỗi tuần
được tắm một lần mà hàng trăm người mới có một vòi nước, mỗi lần tắm giặt giám
thị chỉ mở cửa 15 phút.
Bên cạnh chế độ ăn uống và giam cầm hà khắc như thế mỗi người tù còn chịu
chế độ lao dịch nặng nề. Chúng bắt tù nhân làm việc 9 tiếng một ngày với đủ mọi
loại công việc: làm vệ sinh, giã gạo, lao động, bồi bếp, dọn dẹp, làm ở vườn ươm
cây, đắp đê sửa đường. Sau năm 1920, bọn cai tù còn biển thủ tiền thuê công nhân
vệ sinh, chúng bắt tù nhân di dọn bể chứa phân. Mỗi bể phải 20 người làm một
ngày mới xong. Người tù phải cởi trần, lội xuống múc phân. Người nào không làm
sạch sẽ bị đánh đập, bị cắt cơm. Có người tù bị chết ngay nơi lao dịch.
Rời nhà E chúng ta sẽ tới khu Cachot ( caso), đây là buồng giam tối tăm, chặt
hẹp để trừng phạt nhân. Buồng có sàn bằng xi măng, phía đầu hơi dốc hơn phía
chân khoảng 30cm, người tù bị cùm liên tục ở đó bất kể trời nóng hay lạnh. Đó là
một hình thức giam cầm rất dã man của thực dân Pháp. Người tù bị cùm lâu ở đó,
máu sẽ dốc lên đầu gây chóng mặt, tê phù, chân chậm, mắt mờ, ghẻ lở…Dã man
hơn khi chúng cho người tù ăn thì 3 ngày có 2 ngày ăn nhạt, đi vệ sinh tại chỗ…
Đến đây chắc hẳn quý khách sẽ thắc mắc là tại sao toàn bộ tường của các
phòng giam đều chia làm 2 màu rõ rệt, đen quét bằng hắc ín ở nửa dưới và vôi
trắng ở nửa trên. Đó là một thủ đoạn giam cầm dã man khiến cho người tù có cảm
giác ngột ngạt khó thở và lợi dụng sự bức xạ nhiệt của 2 màu đó làm cho mùa đông
thì rất lạnh, mùa hè lại cực nóng. Tất cả mọi thiết kế kỹ thuật đều hoàn hảo cho
một nơi mà người ta gọi là địa ngục trần gian.

Ra khỏi cachot chúng ta sẽ đi tới cây bàng ở sân sau trại E, nó chính là bằng
chứng lịch sử chứng kiến cuộc sống của những người tù yêu nước ( từ 1930 –
1954). Cây bàng là vị thuốc cứu sống người tù nhân, là nguyên vật liệu tạo ra các
dụng cụ học tập, đồ dùng sinh hoạt của tù nhân.
Còn đây là 2 cửa cống ngầm đặt tại sân trại D và E, vị trí cũ của chúng là ở
sân trại J và xà lim I. Nơi đây các tù chính trị, tử tù đã thoát ngục vào năm 1945 và
1951. Đây là 2 hiện vật gốc rất đặc biệt của khu di tích Hỏa Lò.
Từ năm 1932 đến năm 1954 có 4 cuộc vượt ngục:
Tháng 12/1932
Tháng 3/1950
Tháng 3/1945
Tháng 12/1951
Cuộc vượt ngục thành công đầu tiên ở Hỏa Lò là cuộc vượt ngục vào ngày 24
tháng 12 năm 1932. Các tù chính trị đã tìm mọi cách để đến được nhà thương Phủ
Doãn, rồi lợi dụng đêm noel mọi người đi lễ, vượt tường rào thoát ra ngoài. Đây là
cuộc vượt ngục thành công đầu tiên ở Hỏa Lò có các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn
Lương Bằng, Nguyễn Tạo… Sau đó người tù đã tìm mọi cơ hội khác để thoát ra
ngoài, như trà trộn vào tù thường, trà trộn vào người đến thăm…Vào ngày
11/3/1945, , tù hỏa lò lại tổ chức cuộc vượt ngục quy mô táo bạo hơn, bằng cách
chui qua đường cống ngầm mà thoát ra ngoài. Gần 100 người, trong số này có
đồng chí Đỗ Muời ( sau này trở thành Tổng Bí thư Đảng CSVN), Trần Đăng Ninh,
Trần Tử Bình (sau này đều tham gia Ban chấp hành Trung ương Đảng)… đã kịp
thời bổ sung cho lực lượng cách mạng đúng thời điểm lịch sử quan trọng nhất:
ngay khi trở về địa phương, các đồng chí đã tham gia lãnh đạo cách mạng Tháng
Tám giành chính quyền về tay nhân dân, góp phần lập nên Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh. Các cuộc vượt ngục liên
tiếp được tổ chức, có cả thành công và thất bại nhưng chúng đã tác động to lớn đến
tinh thần đấu tranh chống lại kẻ thù của người tù cộng sản, làm chấn động cả trong
nước và nước Pháp bấy giờ.
Đứng tại đây quý vị có thể nhìn thấy bức tường bao quanh nhà tù Hỏa Lò. Đó

là tường được xây bằng đá hộc cao 4m dày 0.5m, bên trên có cắm mảnh chai và
chằng dây thép gai. Về sau tường đá còn được xây cao thêm 1m. Bốn góc nhà tù có
4 tháp canh cao 8m có mái che, nay chỉ còn lại 2 tháp.
Đến trại giam nữ, quý khách sẽ thấy được toàn cảnh sự dã man trong chế độ
giam cầm của nhà tù Hỏa Lò với tù nhân trước đây. Các nữ tù nhân chính trị được
coi là nguy hiểm thì bị giam vào đây và chịu cảnh đầy đọa đúng như phòng giam tù
nam. Phòng bên cạnh là phòng giam nữ tù nhân có con nhỏ. Nhà tù luôn luôn trong
tình trạng quá tải, số phụ nữ có con nhỏ hoặc có bầu bị bắt ngày càng nhiều. Mặc
dù phải nuôi con nhưng khẩu phần ăn của các chị chỉ được tính một xuất, cộng với
môi trường ô nhiễm thì các cháu nhỏ không thể lớn lên khỏe mạnh như bình
thường được.
Thưa quý khách hiện nay chúng ta đang đứng ở trong gian trưng bày các hình
thức tra tấn của nhà tù Hỏa Lò đối với tù nhân. Hình phạt rùng rợn nhất là xử
chém. Chiếc máy chém hiện đang lưu giữ tại nhà tù Hỏa Lò đã được thực dân Pháp
dùng lưu động, tháng 1 – 1930 đã được tháo dời vận chuyển trên một chiếc tàu đặc
biệt chuyển lên Yên Bái để hành quyết 11 chiến sỹ Việt Nam Quốc dân đảng trong
đó có đồng chí Nguyễn Thái Học, người chỉ huy cuộc khởi nghĩa Yên Bái và các
cộng sự. Tháng 10 – 1931 thực dân Pháp đã xử chém anh Nguyễn Hoàng Tôn, một
đoàn viên thanh niên cộng sản kiên cường mới có 19 tuổi ngay trước cổng Hỏa Lò,
nhằm khủng bố tinh thần của nhân dân ta. Đây là hiện vật gốc rất quan trọng và
đặc biệt, nó thể hiện sự tàn bạo của thực dân Pháp. Mỗi khi bị hành hình người tù
phải nằm lên chiếc ghế này, sau đó dao chém được cho rơi tự do, đầu người rơi ra
vào chiếc chậu, còn xác thì đặt vào cái sọt.
Ngoài ra trong phòng này còn trưng bày một số dụng cụ tra tấn khác, đó là
chiếc thang với dây thừng để bó giò, tra điện vào người, dìm xuống nước thải, cho
vào thùng phuy. Với phụ nữ chúng không từ một thủ đoạn nào, phụ nữ có thai còn
bị đánh đến trụy thai. Xung quang căn phòng này có trưng bày ảnh của các chiến
sỹ cách mạng bị xử, các bản tự thuật về sự tra tấn của Pháp của các cựu tù nhân
Hỏa Lò, danh sách các đời giám ngục, và mặt bằng khu xà lim tử hình. Số lượng tù
nhân qua các năm luôn luôn vượt quá rất nhiều so với thiết kế.

Cuối trại giam nữ là các xà lim giam tù chính trị đặc biệt đã bị kết án tử hình,
nơi đây từng giam giữ các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng
Ninh, Nguyễn Đức Cảnh Đây là buồng giam đồng chí Trường Chinh, theo tiểu
sử chính thức do Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành, Trường Chinh tên thật là
Đặng Xuân Khu sinh ngày 9 tháng 2 năm 1907, quê ở làng Hành Thiện, xã Xuân
Hồng, huyện Xuân Thủy (nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường), tỉnh
Nam Định.
Năm 1925–1926, khi còn là học sinh, ông đã tham gia phong trào đấu tranh
đòi ân xá cho Phan Bội Châu, lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu
Phan Chu Trinh và bị đuổi học.
Năm 1927, ông chuyển lên Hà Nội, tiếp tục học ở trường Cao đẳng Thương
mại và tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1929, tham
gia cuộc vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ.
Năm 1930, ông được chỉ định vào Ban tuyên truyền cổ động Trung ương của
Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm này, ông bị Pháp bắt và kết án 12 năm tù
và đày đi Sơn La, đến năm 1936 được trả tự do.
Giai đoạn 1936–1939, ông là Xứ Ủy viên Bắc Kỳ, đại biểu của Đảng Cộng
sản Đông Dương trong Ủy ban Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ. Năm 1940, làm chủ bút
báo Giải phóng, cơ quan của Xứ ủy Bắc Kỳ. Tại Hội nghị Trung ương 7 họp tại
làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 11 năm 1940, ông
được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được cử làm Quyền Tổng Bí thư
Đảng thay Nguyễn Văn Cừ.
Tháng 5 năm 1941, tại Hội nghị Trung ương 8 họp tại Cao Bằng, ông được
bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, kiêm Trưởng Ban tuyên huấn
Trung ương. Năm 1943, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt.
Trong giai đoạn chuẩn bị Cách mạng tháng Tám 1945, tại Hội nghị toàn quốc
của Đảng, ông được cử phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Cũng vào cuối
năm này, Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật nên tuyên bố tự
giải tán, chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương do ông làm
hội trưởng.

Năm 1951, tại Đại hội lần thứ 2 của Đảng, [đổi tên thành Đảng Lao động Việt
Nam], ông được bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương và giữ chức Tổng Bí thư
cho đến tháng 10 năm 1956.
Năm 1953, ông là Trưởng ban cải cách ruộng đất Trung ương. Tháng 9 năm
1956, trong Hội nghị Trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất, ông phải từ
chức Tổng Bí thư.
Năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ
nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Đến năm 1960, ông lại được bầu vào Ban
Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị. Cũng trong năm này, ông được
Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc
hội và đến năm 1976, giữ chức vụ này trong Quốc hội Việt Nam thống nhất cho
đến năm 1981.
Năm 1981, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ
tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 14 tháng 7 năm 1986, tại Hội nghị đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương,
ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam thay cho Lê Duẩn vừa
mất.
Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, ông rút khỏi các chức vụ
quan trọng của Đảng và Nhà nước và được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Sao vàng và nhiều Huân
chương khác. Ông qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1988 do tai nạn bất ngờ, thọ 81
tuổi.
Ra khỏi khu xà lim tù chính trị, quý khách sẽ tới sân hành quyết xưa, nay là
nơi xây dựng công trình tượng đài tưởng niệm chiến sỹ cách mạng, có diện tích
200m
2
. Chúng ta có thể nhìn thấy dòng chữ “ kiên trung bất khuất, vinh quang đời
đời” trước có màu vàng sau chuyển sang màu đỏ để tượng trưng cho màu máu của
các chiến sỹ cách mạng đã hi sinh. Hai bên là hai cây đại do chủ tịch nước Trần

Đức Lương và các cựu tù chính trị trồng lưu niệm ngày 3/2/2000.
Rời khu lưu niệm, mời quý khách lên tầng 2 nơi đây là gian trưng bày với chủ
đề “Phong trào đấu tranh của các chiến sỹ cách mạng”. Trong đó có trưng bày các
hiện vật: ảnh các tù chính trị bị giam cầm nơi đây, các cùm bị đốt phần gỗ để rút
chân ra, các bản báo cáo của mật thám Pháp, các tài liệu học tập trong tù, lá cờ treo
trong đêm giao thừa 1952 và các sản phẩm sáng tạo trong học tập: quản bút bằng
cây bàng, nụ bút bằng nụ hoa ti gôn, tẩu thuốc. Đặc biệt còn trưng bày một đoạn
gốc bàng trước là địa điểm liên lạc của tù chính trị.
Đây chính là phòng trưng bày thể hiện tinh thần đấu tranh kiên cường, bất
khuất của người tù Hỏa Lò. Chứng minh sự thất bại của thủ đoạn dập tắt ý chí đấu
tranh đàn áp những người Việt Nam yêu nước của thực dân Pháp. Nhà tù còn là
trường đào tạo cán bộ cách mạng thật sự. Năm 1932, chi bộ cộng sản nhà tù còn có
bản in ấn, viết sách với sự tham gia của các đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Lê Duẩn,
Đào Duy kỳ, Trường Chinh…
Để cất giấu tài liệu người tù đã tạo ra các kho bí mật bằng cách đục tường, rút
gạch, sau đó trát lại bằng xi măng, quét hắc ín lại như cũ.
Tầng 2 còn trưng bày danh sách gần 900 tù chính trị và album ảnh của 900
người tù, kỉ niệm chương… để ghi nhớ công lao của những người tù cách mạng.
Gian trưng bày cuối cùng có 2 phòng, là nơi trưng bày một số hình ảnh hiện
vật phi công Mỹ. Từ ngày 5/8/1964 đến 27/12/1973, Mỹ tiến hành 2 cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, hàng ngàn máy bay Mỹ bị
bắn rơi.
Qua đây ta thấy cuộc sống của tù nhân Mỹ hoàn toàn đối lập với cuộc sống
của tù nhân Việt Nam, cho thấy sự tàn bạo của thực dân Pháp và chế độ khoan
dung, nhân đạo của chính phủ Việt Nam.
Ngày 10/10/1954, sau thắng lợi Điện Biên Phủ và hiệp định Giơnevơ, nhà tù
được giao cho ủy ban quân quản Hà Nội, trực thuộc công an thành phố Hà Nội.
Thời kỳ này nhà tù dùng để giam thường phạm nên đổi tên là trại giam phạm nhân
Hà Nội. Đến năm 1994, nhà tù không còn là nơi giam phạm nhân nữa mà trở thành
di tích lịch sử cách mạng.

Mặc dù Hỏa Lò hiện nay chỉ còn giữ lại một số phần, nhưng ý nghĩa lịch sử
hàm chứa trong nó cũng đủ cơ sở cho chúng ta hồi tưởng lại những năm tháng gian
khổ mà oai hùng của dân tộc Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp.
Khu di tích lịch sử nhà tù Hỏa Lò còn là trường học giáo dục về truyền thống
cách mạng cho thế hệ trẻ ngày nay, giúp các em nâng cao lòng tự hào dân tộc và
tinh thần trách nhiệm đối với Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước
giàu mạnh, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

×