Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Bài thuyết minh: Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.45 KB, 24 trang )

Thưa quý khách, vậy là chúng ta đã có mặt tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam,
điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến hành trình ngày hôm nay, xin mời quý
khách xuống xe, gửi đồ dùng các nhân tại phòng bảo vệ, để chúng ta có thể nhanh
chóng tham quan và tìm hiều về bảo tàng này.
Kính thưa quý khách Việt Nam là một nước nằm ở khu vực Đông Nam Á, có
lịch sử hình thành và phát triển hàng nghìn năm, nằm giữa 2 trung tâm văn minh
lớn của nhân loại là Trung Quốc và Ấn Độ, Việt Nam đã tiếp thu được những tinh
hoa văn hóa và phát triển một nền mỹ thuật hết sức phong phú, độc đáo.
Khi đến Hà Nội, bạn không thể không ghé thăm Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam,
một trong những công trình kiến trúc đẹp, nằm giữa thủ đô Hà Nội là nơi lưu giữ
và giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu có giá trị, những bằng chứng sinh
động về sự phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam từ thời tiền sử đến nay.
Cột đá chùa Dạm
Kính thưa quý khách ! Hiện nay chúng ta đang đứng
trong khu vực sân của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, phía
trước mặt quý khách là “ chân cột đá chùa Dạm” ở Gia
Lâm - Hà Nội . Chân cột đá này có niên đại từ thế kỷ 11.
Quý khách có thể nhìn thấy rất rõ ở đầu chân cột là một
trụ tròn, trên trục có một cái bậc, trên có một lỗ khóa
nông. Trên đầu trụ có 2 con rồng buộc đuôi vào nhau, chầu
lá đề, thân cột khá dài có chạm hình trụ tròn; đế hình tròn có trạm hình sóng và
sóng nước. Có thể coi đó như một biểu tượng của Linga và Yoni. Chân cột này gắn
với câu chuyện trang quyền sáng tạo ra thế giới giữa Brama và Visinu. Quý khách
có thể quan sát kỹ chân cột này để tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình và điêu khắc thế
kỷ 11-12.
Phía bên kia quý khách có thể nhìn thấy hình ảnh “Giếng ngọc” được kè đá.
Đây là đối tượng tham qua bổ sung trên đường chúng ta vào than quan bảo tang.
Giếng ngọc được trang trí hình hoa sen, kiểu kiến trúc trang trí thời Lý!
Và bây giờ xin mời quý khách cùng hướng dẫn viên vào thăm bảo tàng.
Tại tiền sảnh của nhà A.
Kính thưa quý khách! Bảo tàng hiện nay xưa kia trực thuộc dòng thánh Gia tô


và mang tên một nữ anh hùng người Pháp. Sau đó công trình này được sử dụng là
nơi học tập và là nơi sinh hoạt của các nữ sinh người Pháp. Họ là con gái của
những viên quan người Pháp sang làm việc tại Đông Dương.
Toàn bộ công trình này được xây dựng từ năm 1935 đến năm 1937 do một kiến
trúc sư người Pháp thiết kế theo kiến trúc Pháp hiện đại. Nhưng đến năm 1945 khi
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản thủ đô thì khu nhà này được sử
dụng với nhiều mục đích khác nhau như: Viện nghiên cứu Mỹ thuật Đông Dương,
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nơi triển lãm tranh ảnh các họa sỹ nổi
tiếng, nơi trưng bày các bộ sưu tập tranh gốm quý. Mãi một thời kỳ dài cho đến
năm 1962 thì có một sự kiện quan trọng là:
Năm 1962, họa sỹ Nguyễn Đỗ Cung lúc bấy giờ là viện trưởng Viện mỹ thuật
– mỹ nghệ cùng một số họa sỹ là đồng nghiệp của ông đã cho cải tạo ngôi nhà cũ
cho phù hợp với Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Quý khách có thể nhìn thấy cột
cũng như hoa văn trang trí trên vòm sảnh mang đặc trưng của kiến trúc mỹ thuật
thời Lý.
Bảo tàng mở cửa phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân vào ngày 24 tháng 6
năm 1966, khi đó bảo tàng có tên “ Bảo tàng Mỹ thuật”, sáu năm sau tức là năm
1972 bảo tàng mới mang tên như hiện nay “ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam”.
Bây giờ xin mời quý khách cùng tham quan phòng trưng bày đầu tiên của bảo
tàng.
Mỹ thuật thời Tiền sử - Sơ sử
+ Phòng 1: Mỹ thuật thời Tiền sử - Sơ sử
Thưa quý khách phòng đầu tiên này trưng bày “Mỹ thuật thời Tiền sử - Sơ sử”.
Chúng ta biết rằng Việt Nam là đất nước có nền văn hóa lâu đời. Những hình
khắc mặt người và thú ở hang Đồng Nội tỉnh Hòa Bình, cách đây khoảng 10000
năm là dấu ấn đầu tiên của nền nghệ thuật tạo hình cổ đại Việt Nam. Cách đây
4000 năm Nghệ thuật tạo hình cổ đại Việt Nam đã phát triển liên tục, trải qua thời
đại đồ đá và đặc biệt là sơ kỳ thời đại kim khí, suốt thời đại đồng thau và đầu thời
đại đồ sắt. Ở miền Bắc Việt Nam từ Quảng Bình trở ra, văn hóa Đông Sơn ra đời
và phát triển rực rỡ dựa trên nền tảng của một quá trình hội tụ lâu dài từ những nền

văn hóa “ tiền Đông Sơn” trước đó với hai phổ hệ chính là
- Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun – Đông Sơn (khu vực sông Hồng)
- Cồn Chân Tiên- Đông Sơn (ngã ba sông Mã, sông Chu).
Từ thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên đến đầu Công nguyên, ở miền
Trung và Nam Bộ Việt Nam cũng hình thành hai trung tâm văn minh lớn là Văn
hóa Sa Huỳnh chạy dọc suốt miền Trung từ Quảng Nam trở vào đến TP. Hồ Chí
Minh, Văn hóa Đồng Nai và Óc-eo ở Nam Bộ. Những trung tâm này tác động qua
lại lẫn nhau và giao lưu với các nền văn minh khác ở Hoa Nam (như văn hóa Điền)
và Đông Nam Á. Nghệ thuật tạo hình cổ đại Việt Nam là nền nghệ thuật của cư
dân nông nghiệp lúa nước, phát triển liên tục qua hàng chục thế kỷ, tạo nên bản sắc
độc đáo và đa dạng.
Phòng trưng bày này chủ yếu giới thiệu những di vật tiêu biểu về nghệ thuật cổ
đại tại các tỉnh phía Bắc. Hy vọng rằng trong tương lai những di tích về nghệ thuật
cổ đại thuộc các tỉnh miền Trung và miền Nam sẽ được bổ sung để trưng bày và
giới thiệu một cách đầy đủ hơn về nghệ thuật cổ đại Việt Nam.
Quý khách có thể nhìn thấy hiện vật là hình khắc trên vách đá hang Đồng Nội,
tỉnh Hòa Bình (cách ngày nay khoảng 10000 năm) mà bảo tàng đã sưu tập được.
Khi mà con người ở thời tiền sử sống thành bầy đàn và ở trong các hang động. Họ
chưa có chữ viết và đã dùng những ký hiệu vạch lên vách đá để ghi lại sự kiện
hoặc cũng có thể để trang trí.
Bây giờ xin mời quý khách hướng sang phía bên trái, quý khách có thể nhìn
thấy rất rõ trong phần trang trí trong phòng này trưng bày rất nhiều hiện vật trống
đồng. Nói đến văn hóa Đông Sơn thì không thể không nhắc tới trống đồng, bởi “
trống đồng là cuốn sách bằng đồng” ghi lại đầy đủ nhất nền văn hóa Đông Sơn.
Đây là trống đồng loại Heger I, hoa văn trang trí trên trống đồng là hoa văn biểu
trưng của nền nông nghiệp lúa nước.
- Nền trống đồng:
+ Chim lạc: Tổ tiên của người Việt có xuất xứ từ phương bắc khi mùa đông
đến chim lạc bay xuống phương nam ấm áp để tránh rét và nó được coi là Totem
giáo của người Việt thủa ban đầu.

+ Hình thuyền: Đây là hình ảnh quen thuộc của nền văn minh lúa nước
Ngoài ra chúng ta cũng có thể nhìn thấy các hình ảnh hoa văn như đường tròn
tiếp tuyến, đường tròn chấm dải. Đây là những hoa văn có từ thời xa xưa nhưng
cho đến nay chúng ta vẫn bắt gặp các hình ảnh này trên cạp váy của người Mường.
Đó là sự nối tiếp di truyền của văn hóa bản địa.
Đến đây chúng ta cũng thấy một trống đồng nữa cũng thuộc loại trống H1: Ở
giữa là biểu tượng mặt trời, xen kẽ là hoa văn lông công.
Ngoài ra chúng ta thấy một trống đồng nữa là trống đồng Hữu Chung, trống
đồng này ra đời muộn hơn trống đồng Ngọc Lũ nên bố cục khác và cách trang trí
cũng khác. Các hoa văn trang trí đơn giản, cách điệu, biến thể mà chúng ta rất dễ
nhận thấy ở đây.
Ngoài các hiện vật trống đồng còn có các đồ đồng, kim khí, minh khí, các vật
trang trí, các hiện vật này xưa kia có chức năng âm nhạc, trang trí thỏa mãn nghệ
thuật thị giác, thính giác.
Mỹ thuật từ thế ký XI đến thế kỷ XIX
+ Phòng 2, 3, 4: Thế kỷ XI đến thế kỷ XIV (Lý – Trần)
Kính thưa quý khách! Việt Nam được khẳng định có một nền nghệ thuật bản
địa phát triển liên tục từ đồ đá sang đồ đồng, đồ sắt và đỉnh cao là nghệ thuật Đông
Sơn, đây là một nền nghệ thuật mở có sự giao lưu với các nền văn hóa khác cùng
thời.
Mở đầu thời kỳ Phong kiến tự chủ trong suốt thế kỷ XI, XII với tinh thần độc
lập dân tộc mạnh mẽ về phương diện mỹ thuật cũng đã hình thành phong cách đặc
biệt (thời kỳ 1010 – 1225). Mỹ thuật dân gian và mỹ thuật cung đình cũng rất phát
triển, trong sử cũ ghi lại nhiều chùa chiền, xây dựng quy mô đồ sộ, hoành tráng
nhưng đáng tiếc do chiến tranh và thiên tai đã hủy hoại, đến nay chỉ còn lại những
hiện vật, tác phẩm bằng chất liệu đá và đất nung.
Phong cách nghệ thuật thế kỷ XI – XII thiên về sự mềm mại uyển chuyển,
đường nét tinh tế, họa tiết trang trí thường trải ra khắp bố cục. Đề tài phổ biến là
hoa lá, sen, cúc, rồng, phượng, mây sóng nước, nhạc công, vũ nữ… Con rồng thời
Lý là nghệ thuật độc đáo đẹp mà không giống ở thời kỳ nào, nơi nào khác. Rồng

luôn được thể hiện trong dáng dấp hiền hòa, mềm mại đầu rồng nhỏ không có
sừng, đỉnh trán có hình chữ S,một biểu tượng cầu mong mưa thuận gió hòa của cư
dân nông nghiệp.
Vào thời Lý nghệ thuật cung đình phát triển cùng với nó là kiến trúc cung đình
và điêu khắc cung đình phát triển đặc biệt là Phật giáo được coi trọng và phát triển
cực thịnh. Vì vậy các hiện vật trưng bày thời kỳ này đều mang kiến trúc điêu khắc
Phật giáo.
Kính thưa quý khách! Bên tay trái chúng ta là hình ảnh con chim phượng trên
lan can chùa Bà Tấm (Gia Lâm – Hà Nội). Chim phượng đứng một chân trên hoa
sen, một chân co thể hiện sự xuất hiện của Phật giáo với đời thường. Phượng có
bờm, lông đuôi mềm mại giống như rồng thời Lý nhưng vẫn cho ta thấy sự phóng
túng với hoa văn trang trí: hoa cúc mãn khai, hoa sen. Hoa cúc biểu trưng cho mặt
trời mang yếu tố dương. Điều này cho thấy sự kết hợp âm dương mang yếu tố phồn
sinh trên các họa tiết trang trí cho bức chạm.
Tảng kê chân cột vũ nữ múa trong vòng lửa ở đây có sự kết hợp của nghệ thuật
Chăm và nghệ thuật chạm khắc Đại Việt. Phải chăng đây là sự giao thoa tiếp biến
văn hóa ngay từ thời phong kiến độc lập tự chủ.
Với các hiện vật được trưng bày cho ta thấy rằng đặc điểm mỹ thuật thời Lý là:
Nhỏ, tỉ mỷ, trang trí chau chuốt, bao phủ toàn bộ bề mặt hiện vật, đôi khi còn khiên
cưỡng vì quá chau chuốt, các họa tiết trang trí ổn định, dàn đều không có sự phá
cách cho chúng ta thấy kinh tế thời Lý phát triển thịnh vượng, chính trị ổn định.
Thưa quý khách! cùng lúc với nghệ thuật thời Lý ở phía bắc, nghệ thuật Chăm
ở phía nam cũng phát triển sinh động và rất đặc sắc. Đây là nền nghệ thuật giàu
chất hiện thực và đậm nét tôn giáo của cư dân Chăm, một bộ phận quan trọng trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Xin mời quý khách sang tham quan phòng tiếp theo,
ở đây chúng ta sẽ bắt gặp nghệ thuật điêu khắc Chăm với thần Uma và vũ điệu
Apsara ca ngợi vẻ đẹp của các vũ nữ múa trong vòng lửa thần mặt trời. Chúng ta
có thể nhận thấy sự xuất hiện của thần Siva qua 2 hình tượng: Người đàn ông trẻ
có cặp mắt thứ 3 trên trán (hủy diệt thế giới), hình tượng Linga (tái tạo, bảo tồn thế
giới). Hình tượng Bò thần Nandi và chim thần Gadura luôn đi cùng thần Siva.

Thời kỳ nhà Trần vẫn tiếp thu nghệ thuật thời Lý nhưng đã mở mang hơn. Đặc
biệt khác nhà Lý trong trang trí gốm nó bay bổng, phóng khoáng, hiện thực và đời
hơn.
Rồng thời Trần mập hơn và thực hơn.
+ Điêu khắc:
Con Hổ đặt ở lăng Trần Thủ Độ: nét điêu khắc cho ta cảm thấy lưng Hổ mềm
mại như sống lưng người thiếu nữ, bên cạnh đó tạo nên sống lưng vuông rắn chắc
như gửi gắm sức mạnh vào bên trong các hoạ sĩ dân gian muốn nói lên rằng dân
tộc Việt Nam tuy nhỏ, hiền nhưng sức mạnh tiềm ẩn, khi đã vùng dậy thành hào
khí “Đông A”.
+ Phòng 4:
Kính thưa quý khách, trước mắt chúng ta là tượng A Di Đà. Đây là phiên bản
được đúc lại từ pho tượng nguyên bản chùa phật tích (Bắc Ninh). Tượng phật
mang vẻ đẹp lý tưởng của người phụ nữ đương thời: mũi dọc dừa, cổ cao ba ngấn.
Bệ tượng được trang trí tỉ mỉ dàn đều mang phong cách thời Lý.
Trên tường có các bức chạm khắc với hình ảnh thiên thần, nhạc công với thủ
pháp nghệ thuật thời kỳ Đông sơn mang tính biểu trưng ước lệ.
+ Phòng 5:
(Thế kỷ XV sau khi đánh bại quân xâm lược phương Bắc giành thắng lợi). Một
triều đại mới được hình thành triều đại Lê Sơ. Với chủ trương tập trung tài Lực
củng cố lại tài lực, củng cố lại đất nước sau chiến tranh. Triều đình có nhiều chính
sách tiến bộ về kinh tế, chính trị, văn hoá. Thời kỳ này phật giáo cũng được chấn
chỉnh, hạn chế việc dựng chùa, đúc chuông mới, người tu hành phải qua sát hạch
phẩm hạnh, trình độ, Triều đình còn cấm Quý tộc, quan lại xây cất các công trình
to lớn, đồ sộ. Ngay cả các lăng tẩm của Hoàng đế. Hoàng hậu Lê Sơ ở Lam Sơn –
Thanh Hoá cũng rất khiêm tốn để tiết kiệm ngân khố. Các quy định đó có ý nghĩa
tích cực về phương diện xã hội nhưng các mặt khác nó lại làm mất đi môi trường
của Mỹ thuật vốn dĩ quen thuộc. Mặt khác từ giữa thể kỷ 15 – Vương triều Lê – Sơ
coi trọng Nho giáo – Trung Hoa nên Mỹ thuật Việt Nam hồi này có bị ức chế và
ảnh hưởng rõ rệt. Đây được coi là giai đoạn tạm lắng của mỹ thuật cổ dân tộc.

Thế kỷ 16 (nhà Mạc 1527-1595) thấy thế nhà Lê-Sơ mỹ thuật cũng bước sang
giai đoạn phát triển mới trang trí ở các đình bắt đầu với sự bùng nổ của các
Khuynh hướng dân gian nó tồn tại song song và đan xen hài hoà với khuynh hướng
chính thống. Đây chính là điều khác lạ so với các thời trước đó và tạo nên một diện
mạo mới mẻ, phong phú cho nền mỹ thuật cổ Việt Nam. Mỹ thuật thời Mạc mang
tính trang hoàng và tính hoành tráng rất cao. Ở bất cứ bộ phận nào trong công trình
kiến trúc cũng có thể trang trí được thì hầu như các nho sĩ dân gian đều tận dụng để
đưa vào những bức chạm có ý nghĩa và vui mắt làm tăng thêm vẻ lộng lẫy của di
tích.
Các tượng thờ bằng gỗ, đá được tạo tác thời này cũng nhiều nhưng nhiều nhất
vẫn là tượng quan âm bồ tát với kích cơ tương đối lớn (tương quan âm ở các chùa
Hội Hạ, Tam Sơn, Mễ Sở, Thượng Trưng, Đa Tốn…).
Mỹ thuật thế kỷ 16 được đánh giá như đoạn mở đầu của thời phục hưng cho
thế kỷ tiếp theo.
Ở thời kỳ này, văn hoá Việt Nam bị áp đặt, ức chế, bởi văn hoá Trung Hoa, họ
có nhiều chùa lớn, nho giáo được coi trọng đặc biệt đến thời vua Lê Thánh Tông,
nho giáo phát triển cực thịnh và tiến quyền phật giáo. Nho giáo chiếm dần vị trí
quan trọng vì vậy họ có những bức tượng to hoành tráng. Quý khách có thể nhìn
thấy: Hình vẽ 2 pho tượng pháp giống người phương Bắc (mặt bạnh to, trán nhô
cao). Đặc biệt là hình ảnh rồng. Rồng có râu, sừng, bờm, vây mỏ 5 móng mang ý
nghĩa vương quyền: Rồng gắn với vua (5 móng), quan lại (4 móng), thường dân (3
móng). Rồng được trang trí giữa hình vuông biểu trưng cho thiên tử nằm ở giữa
trời đất.
Quý khách có thể nhìn thấy pho tượng phật ở chùa Hạ Hội (Vĩnh Phúc) vào
thời kỳ nhà Mạc, xuất hiện chất liệu gỗ sơn son thiếp vàng. Đây là pho tượng gốc
được mang về từ chùa Hội Hạ để tu sửa và bảo dưỡng lại nhưng vẫn đảm bảo tỉ lệ
cân đối.
Xin mời quý khách đến thăm pho tượng thứ 2 pho tượng phật bà nghìn tay
nghìn mắt. Pho tượng mang ảnh hưởng nhiều của yếu tố Trung Hoa yếu tố mẫu tạo
ra sự tiếp biến Văn hoá.

Như chúng ta đã biết ở Việt Nam tượng phật “Thiên thủ thiên nhãn” có ở hầu
hết các chùa. Sở dĩ trong mỗi làng bàn tay của phật có một con mắt ở trong, điều
này gắn với tích công chúa Diệu Thiện con gái vua Trang Vương đến tu ở Động
Hương Tích.
Tượng Phật chia làm 3 phần: Thiên - Địa - Nhân.
+ Thiên: Đó là các vầng hào quang toả ra xung quanh tượng.
+ Nhân: Phần thân tượng.
+ Địa: Ở đây địa ngục tính từ đài sen trở xuống. Con người khi sống làm nhiều
điều ác thì xuống địa ngục phải bị chịu tội.
Bây giờ xin mời quý khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh phòng trưng bày
trước khi chúng ta sang thăm quan phần trưng bày mỹ thuật thời Lê Trung Hưng -
hay còn gọi là thời kỳ Hậu Lê.
Khi vừa bước vào phòng trưng bày này Quý khách có thể nhìn rất rõ các hoạ
tiết trang trí trên đỉnh và Nghệ thuật điêu khắc ở Đình đã đạt được đỉnh cao. Đình
chính là nơi bảo tồn Văn hoá - Nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, lúc này
Đình mang nhiều chức năng (cộng đồng, ẩm thực, Trung tâm, chính trị, văn
hoá…).
Chúng ta có thể thấy ở thời kỳ này hình ảnh người thường xuất hiện nhiều hơn
so với thời Lê Sơ - Mạc. Sở dĩ như vậy là do bị đè nén, ức chế của Nho giáo văn
hoá Trung Hoa đến thời kỳ này không chịu được sự đè nén nữa nó bắt đầu bung ra.
Đây chính là yếu tố văn hoá bản địa, truyền thống phản kháng lại văn hoá Trung
Hoa, lúc này cuộc sống đời thường được đưa vào làm nội dung chính cho nghệ
thuật trang trí như các hình ảnh: Đánh cờ, nhảy múa, tắm ao, võ tướng, người bình
dân.
Nghệ thuật thế kỷ 17 là nghệ thuật tả thực, tả hơi xiên, hơi nghiêng không đi
vào chi tiết mà ngôn ngữ là ước lệ, có tính biểu tượng cao. Quý khách có thể xem
hình ảnh chạm khắc trên “Cánh cửa chạm rồng” (chùa keo – Vũ Thư – Thái Bình)
biểu hiện sự tinh xảo của người nghệ nhân.
Và đây xin mời quý khách hãy đến thăm quan bức chạm khắc “Bốn nụ cười”
của các nghệ sĩ dân gian. Mới nhìn tưởng chừng bức chạm khắc này rất đơn giản.

Nhưng thực ra đó là cả một nghệ thuật. Trên bức chạm khắc đã miêu tả một anh
chàng đang cười hả hê sung sướng, một cô gái bị “Sàm sỡ” nhưng vẫn cười rất e
lệ. Hai người ngoài cuộc một anh chàng cười hả hê mãn nguyện như vừa nhìn thấy
cái gì ghê gớm lắm còn cô nàng kia thì xấu hổ quay đi nhưng vẫn liếc sang để xem
họ làm gì. Chỉ là một bức chạm nhỏ nhưng đã làm toát lên sự khoẻ khoắn, dí dỏm
thông qua hiện vật trưng bày.
+ Phòng 7-8:
Bây giờ xin mời Quý khách chúng ta sẽ đến thăm quan phòng trưng bày mỹ
thuật thời Tây Sơn – Nguyễn.
Xin mời quý khách đến với phòng trưng bày số 7-8.
Kính thưa quý khách, mỹ thuật thời Tây Sơn đặc biệt là tượng thờ (phật giáo)
được xem như đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật điều khắc cổ Việt Nam. Triều đại
Tây Sơn tuy mới tồn tại 14 năm (1788-1802) nhưng đã kịp định hình cho mình một
phong cách rất riêng. Trong đó nổi trội lên là tính hiện thực và tính nhân văn của
một số tác phẩm tiêu biểu được nhiều người biết đến như tượng Tuyết Sơn, Tượng
các vị sư phái thiền tông, tượng kim cương (chùa Tây Phương – Hà Tây). Có lẽ ở
đây lớp nghệ nhân tiền bối chỉ mượn đề tài tôn giáo làm cái cớ miêu tả nhưng mẫu
người thực trong xã hội đương thời, mỗi pho đều thể hiện rõ tâm tư, tình cảm, cá
tính, động thái riêng của chính mình.
Một loại hình nghệ thuật khác là hội hoạ về mầu trên giấy dó, tranh thờ, tranh
sinh hoạt thời kỳ này khá phổ biến, có bộ mang giá trị nghệ thuật cao như tranh ở
Vũ Di (Phú Thọ) ở Nam Đàn (Nghệ An).
Đến thời Nguyễn (1802-1945) mỹ thuật cung đình tập trung nhiều nhất ở cố đô
Huế. Với những kiến trúc cung điện, lăng tẩm bề thế còn dòng Mỹ thuật dân gian
như tượng trong các đền chùa, chạm khắc trong các đình làng vẫn phát triển mạnh
ở các địa phương.
Ở đây chúng ta chú ý đến những tượng Tuyết Sơn với các đường khúc gẫy
khối trên trán, các đường chạm đột ngột đã tạo nên tính độc đáo trong nghệ thuật
tạo khối đối lập nhau trong đời thực. Những pho tượng Tuyết Sơn cũng nói nên
một nguyên lý ép xác để khai mang trí tuệ và phật đều là những người bình thường

nhưng do cơ duyên với phật mà thành phật. Tiếp theo chúng ta sẽ sang thăm quan
tranh trên chất liệu giấy dó chủ yếu là tranh thờ dòng họ và tranh cung đình.
+ Phòng 9-10-11:
Đến đây chúng ta kết thúc phòng thăm quan nghệ thuật tiền sử – Sở, sử –
Phong kiến độc lập. Bây giờ xin mời quý khách lên tầng 2 để tiếp tục thăm quan
mỹ thuật nửa đầu thế kỷ XX – Nghệ thuật đương đại thế kỷ XX.
Kính thưa Quý khách bước vào thời kỳ cận hiện đại nửa đầu thế kỷ XX. Việt
Nam có những biến chuyển toàn diện và sâu sắc về chính trị, kinh tế lẫn Văn hoá
xã hội, cũng như các lĩnh vực khác. Văn hoá Việt Nam được cấu trúc lại để giao
lưu văn minh phương tây. Tuy nhiên, mạch xuyên suốt của mỹ thuật truyền thống
tới hiện đại chúng ta là cái bảo lưu bản sắc văn hoá dân tộc.
Đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhưng tranh sơn dầu của hoạ sĩ Lê Huy Miến và
sau đó là hoạ sĩ Thang Tuần Phềnh nhưng phải đến năm 1925 Trường cao đẳng
Mỹ thuật phương Tây ra đời đã truyền thụ hình thức mỹ thuật phương tây từ luật
xa gần đến giải phẫu tạo hình, từ cách bố cục đến chất liệu sơn dầu… hoàn toàn
khác với phương pháp ước lệ dân gian và thời gian mới lần lượt xuất hiện trong tư
thế chững chạc. Đó là bước ngoặt lớn trên bình diện mỹ thuật Việt Nam, là điểm
mốc quan trọng đánh dấu loại hình tác phẩm mới được sáng tác các cá nhân hoạ sĩ
hữu danh song hành tồn tại với loại hình tác phẩm mới được sáng tác bởi các cá
nhân hoạ sỹ hữu danh song hành tồn tại với loại hình mỹ thuật truyền thống do các
tập thể nghệ nhân khuyết danh sáng tạo.
Bằng tài năng và lao động miệt mài sáng tạo nhiều hoạ sĩ mới thuộc giai đoạn
này đã khám phá ra các khả năng kỳ diệu của Sơn mài, cũng như cách vẽ lụa hồ và
thể hiện tranh khắc gỗ hoàn toàn theo kiểu Việt Nam.
Từ những năm 1930 cho dù sáng tác theo khuynh hướng nào các nhà mỹ thuật
từ Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ
Cung bằng tài năng và nhân cách của người nghệ sĩ và các đồng nghiệp cùng thế
hệ đã tạo nên một nền hội hoạ mới qua nhiêu tác phẩm đậm đà mỹ cảm của người
Việt, vừa dân tộc, vừa hiện đại với những phong cách nghệ thuật riêng và độc đáo
của từng tác phẩm.

Phòng tranh này trưng bày trên 50 tác phẩm của gần 30 hoạ sĩ nổi tiếng đã thu
hút được sự chú ý của các nhà hoạ sĩ nghiên cứu, các hoạ sĩ và đông đảo những
người yêu mỹ thuật.
Trong phòng trưng bày này có nhiều các bức tranh của các hoạ sĩ tên tuổi như:
Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí. Thời kỳ 1925 đến trước 1945 hoạ sĩ chủ yếu vẽ
tranh phong cảnh, thiếu nữ: Chủ yếu thiên về các tranh phong cảnh và thiếu nữ hà
thành. Tranh của Tô Ngọc Vân không thiên về màu chói rực rỡ mà nhẹ, mỏng có
vẻ hơi trầm nhưng không tối mà hết sức hài hoà.
Các bức tranh nổi tiếng của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân.
Thiếu nữ hà thành, tranh phong cảnh - đồng quê.
Em Thuý – 1943 – của hoạ sĩ Trần Văn Cẩn.
Em bé, thuyền trên sông hương.
+ Đặc biệt trong phòng trưng bày có bức tranh sơn mài khổ lớn. Đó là tác
phẩm phong cảnh của hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí. Với chất liệu sơn mài được làm từ
lớp vóc, lớp gỗ dán.
Lớp vóc càng dày càng giữ lâu. Đặc biệt trong các vẽ sơn mài thì thời tiết càng
ấm càng chóng khô. Trong tổng thể các nét vẽ nét đen là nét đầu tiên sau đó phủ
mầu, có thể có 3 lớp mầu. Sau đó hoạ sĩ dùng đá mài đến mầu trắng là gắn vỏ
trứng. ÁNH vàng là vàng thật, sử dụng vàng để tạo mầu sâu, thật. Bởi vì công đoạn
làm tranh vô cùng phức tạp và khi sai thì sửa rất khó vì có nhiều lớp màu. Đặc biệt
với những người bị dị ứng sơn thì không thể làm được tranh. Quý khách có thể
nhìn trên toàn cục bức tranh “phong cảnh” có 4 mảng màu chính.
Màu đỏ: là màu của son
Màu đen: là màu từ than.
Màu vàng, vàng cánh gián: làm từ vàng.
Màu trắng: làm từ vỏ trứng.
Ngoài các bức tranh của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, còn có các bức
tranh của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng. Quý khách có thể thăm quan phòng
tranh và không nên chạm vào các bức tranh quý của chúng ta.
Tiếp theo chúng ta sẽ đến thăm phòng tranh tiếp theo trước mặt quý khách là

bức tranh Tử Quý – 1935 của hoạ sĩ Nguyễn Văn Báu. Đã cho ta thấy một bức
tranh sơn khác với nội dung dân dã. Tiếp theo hai bên là hai bức tranh sơn dầu khá
lớn của hoạ sĩ Nguyễn Khang. Đó là 2 bức:
Ông Nghè Vinh Quy.
Bắt cá đêm trăng.
Đặc biệt hướng dẫn viên xin giới thiệu với quý khách bức tranh nổi tiếng của
hoạ sĩ Trần Văn Cẩn đó là bức Em Thuý. Bức tranh được vẽ vào năm 1943. Ông
miêu tả một vẻ đẹp dung dị, gần gũi, nhân vật đời thường với các màu phớt hồng,
vàng canh đã tạo cho Em Thuý một sức hút, cảm nhận đặc biệt đối với người xem
và người yêu mỹ thuật.
Trong phòng trưng bày này chúng ta có thể kể đến một vài các bức tranh của
các nghệ sĩ khác nhau như:
+ Tranh sơn mài: - Nguyễn Gia Trí.
Cảnh chùa thầy – Hoàng Tích Trù
Hội đền Chèm – Nguyễn Văn Trù
+ Tranh sơn khắc: Tử Quý – Nguyễn Văn Báu
+ Tranh sơn dầu: Thiếu nữ - Tô Ngọc Vân.
Em Thuý – Trần Văn Cẩn.
Thuyền trên sông Hương.
+ Tranh lụa: Cô dâu – Lê Văn Đệ
Thiếu phụ và em bé – Lê Văn Đệ
+ Phần 12, 13, 14:
Tranh sơn mài và điêu khắc hiện đại, thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Bước vào phòng trưng bày này chúng ta sẽ bắt gặp bức điêu khắc “Ôm bom ba
càng” thể hiện ý chí quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Quý khách rất dễ nhận thấy vẫn là các tác giả Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn,
Nguyễn Sáng, nhưng đề tài của các hoạ sĩ đã thay đổi – chủ yếu là đề tài cách
mạng. Ở thời kỳ này không có những bức tranh lớn, hoành tráng, kỳ công bằng
chất liệu quý hiếm. Sở dĩ như vậy là do hoàn cảnh xã hội, điều kiện chiến tranh chủ
yếu là các chất liệu màu nước, chì, màu mực là chủ đạo. Ở đây có sự chuyển biến

từ cảnh - > sang tả cảnh sinh hoạt kháng chiến với các bức tranh miêu tả cuộc sống
của quân và dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm tiểu biểu
như:
+ Hồ Chủ Tịch – Nguyễn Đỗ Cung.
+ Bộ đội họp – Nguyễn Trọng Hợp
+ Bộ đội xây cầu – Trần Văn Cẩn.
+ Tình quân dân – Nguyễn Sáng.
Màu nước có:
+ Cầm đuốc đi học – Tô Ngọc Vân.
+ Giặc đốt làng hướng dẫn viên – Nguyễn Sáng.
+ Bác Hồ làm việc ở Bắc Bộ Phủ – Tô Ngọc Vân.
Ngoài ra còn có các bức điều khắc của Trần Vằn Hoè và Đào Văn Can được
trưng bày ngoài hành lang.
Tiếp đến chúng ta đến với phòng tranh sơn mài với nội dung gắn với cuộc
kháng chiến chống Pháp.
Tranh ở thời kỳ này đi vào tả thực, ca ngợi cuộc kháng chiến, ít tranh phong
cảnh hơn giai đoạn trước. Có một số bức tiêu biểu như:
- Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc – 1985 – Dương Viết Liên
- Tuổi trẻ Hà Nội đi đánh Mỹ – 1976 – Nguyễn Kim Điệp
- Tình quân dân – 1980 – Hoàng Trầm.
- Trái tim và nòng súng – Huỳnh Văn Gấm.
Cả 3 phòng đều có trưng bày tượng điêu khắc của các tác giả như:
- Vót chông – Phạm Mười – tạc năm 1966
- Nữ du kích – Nguyễn Văn Lý
- Đi học chữ Bác Hồ – Tạ Quang Bạo – 1974
- Hòn vọng Phu – Tạ Quang Bạo
- Tưởng Niệm – Nguyễn Phú Cường.
+ Phần 10, 21, 22: Tranh giấy và điêu khắc hiện đại.
Đây là phòng trưng bày các bức tranh trên chất liệu giấy truyện miêu tả sinh
hoạt sau năm đổi mới từ 1986 đến nay.

Một số bức tiêu biểu như:
- Một thoáng kỷ niệm – Nguyễn Văn Cường.
- Em nào cũng học – Nguyễn Sỹ Tốt
- Xem cảnh Bác Hồ – Nguyễn Trọng Hợp
Nội dung tranh của thời kỳ đổi mới này nổi lên các nội dung sau. Hoà cùng với
không khí xây dựng xã hội chủ nghĩa, các đề tài chiến tranh được tiếp nối với gam
màu tươi tắn, khoẻ với các nghệ sĩ tên tuổi cúng với sự chuyển hướng chất liệu
mới.
Điêu khắc
- Vân dại – Lê Thành Công – chất liệu đá
- Mẹ con – Nguyễn Hà - chất liệu đá
- Tuổi hai mươi – Vương Ngọc Báo – chất liệu gỗ
- Cắt dây thép gai – Anh Ngọc Báo – chất liệu gang
Bây giờ xin mới quý khách thăm quan phòng tranh một cách khái quát (phòng
22 – 23) sau đó chúng ta chuyển sang phòng 24.
+ Phòng 24: Mỗu dầu và điêu khắc hiện đại với chất liệu mầu dầu miêu tả
cuộc sống sinh hoạt sau đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong
phòng có nhiều bức tượng điêu khắc như:
- Chị Võ Thị Sáu – Diệp Minh Châu – năm 1956
- Chiến thắng Điện Biên – Nguyễn Hải – năm 1956
- Du kích Bắc Sơn – Hứa Tử Hoài – năm 1985
- Nắm đất miền Nam – Phạm Xuân Thi
Các tác phẩm tranh mầu dầu tiêu biểu nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội như:
- Hoa của biển - Đỗ Sơn
- Miền Trung – Lê Huy Tiếp
- Công nhân dày vải - Đỗ Thị Ninh
- Nước nguồn – Nguyễn Trọng Khiêm
Như vậy là đoàn ta vừa kết thúc lộ trình thăm quan các phòng trưng bày của
khu nhà A. Bây giờ chúng ta sẽ xuống cầu thang để tiếp tục lộ trình thăm quan khu
nhà B. Xin mời quý khách chúng ta cùng đi xuống !!!!!

+ Phòng 18 – 19 – 20: (Tranh lụa và điêu khắc hiện đại)
Quý khách có thể nhìn rõ phía trên tay phải hướng dẫn viên đa số là các bức
tranh trên chất liệu lụa của hoạ sĩ nổi tiếng Nguyễn Phan Chánh. Nổi bật nhất là
bức “Bữa cơm mùa thu – 1960”. Còn lại là các bức tranh của tác giả Nguyễn Văn
Tỵ, Đặng Quốc Hùng và các tác giả khác.
Ở giai đoạn này các tác giả thâm nhập thực tế nhiều, đi nhiều tới các vùng xa
xôi của tổ quốc chình vì thế mà có nhiều bức vẽ về các vùng dân tộc, các địa danh
đặc biệt là các thiếu nữ vùng cao. Một số tác phẩm tiêu biểu như;
- Ghé qua bản – Nguyễn Thu
- Hai cô gái Mường – Linh Chi
- Hợp tác xã đánh cá về – Vũ Giang Hương.
- Xuống núi – Phạm Thanh Liêm
- Thiếu nữ Dao Đỏ – Linh Chi
Điêu khắc có:
- Bà cháu - đá - Nguyễn Thị Hằng
- Lão Quân Hoằng Trường – Đồng – Lê Đình Quỳ
- Cây đời - Đất nung – Nguyễn Xuân Thành
- Mẹ con – Thạch cao – Ngô Duy Độ
Đến đây chúng ta có thể nói với nhau rằng với bản chất của chất liệu lụa mượt
mà, thanh nhã được tạo ra từ những sợi tơ óng ả, mềm mại dưới bàn tay người
nghệ sĩ với một tâm hồn đa cảm điều khiển mảng màu, nét bút tinh tế gợi cảm. Một
phương pháp điển hình được nhiều thế hệ nghệ sĩ quan tâm là sự ít dùng màu trên
tranh mà tạo sự phong phú bằng độ âm vang của sắc mầu cũng như cách diễn đạt
theo một mặt phẳng là chủ yếu khối chỉ là gợi tả với một mảng màu thật nhẹ
nhàng, ý nhị màu sắc không chuyển tiếp đột ngột, ứ tràn khỏi đường viền hội hoạ.
Đó là bản giao giữa cái thực của cuộc sống với cái thần trong tư duy mỹ cảm.
Khái quát về lịch sử mỹ thuật
Ngôn ngữ mỹ thuật đầu tiên đã xuất hiện, nảy sinh từ nhu cầu sinh tồn của loài
người, rất tự nhiên. Ngày nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều dấu vết của
người xưa ở các hang động, hình vẽ bò rừng ở hang La Xco (Pháp), những con vật

ở hang Antamỉa (Tây Ban Nha) cách đây gần 5000 năm, không chỉ có ý nghĩa lịch
sử mà còn có giá trị về nghệ thuật, bởi hình vẽ sinh động, diễn tả rất rõ đặc điểm
của các con vật. Người xưa chưa biết ý nghĩa, chưa được học về mỹ thuật, chưa có
ý thức rõ ràng, họ vẽ trong lúc rỗi rãi, vẽ để chơi, vẽ theo sự thôi thúc tự tại, từ
chính sự cần thiết của bản thân.
Con người đã biết sử dụng một cách thông minh ngôn ngữ mỹ thuật vào cuộc
sống của mình sao cho ăn, ở, mặc và mọi phương tiện cần dùng khác đều đẹp - đẹp
về hình khối, kiểu cách, màu sắc, đẹp về cách sắp xếp. Mỹ thuật có ngôn ngữ riêng
của mình, đó là đường nét, hình vẽ, hình mảng, hình khối, ánh sáng, bố cục, màu
sắc.
Chất liệu của mỹ thuật
Chất liệu để tạo nên tác phẩm của mỹ thuật rất đa dạng, phong phú, có chất liệu
rẻ tiền, dễ kiếm, ngược lại, có chất liệu quý hiếm đắt tiền và phải tìm kiếm, chế
biến công phu mới thành. Tuỳ theo từng loại hình, thể tài , nội dung phản ảnh của
tác phẩm hay sở trường mà nghệ sĩ chọn cho tác phẩm của mình chất liệu thích
hợp.
+ Chất liệu dùng cho hội hoạ có:
- Bút chì đen: Chì đen có loại cứng, loại mềm
- Than: Than để vẽ có 2 loại
+ Than sản xuất bằng gỗ công nghiệp
+ Than tự tạo từ gỗ dâm bụt, gỗ dâu, gỗ xoan
- Bút chì màu: Chì màu để vẽ trang trí, nét mịn nhưng màu không đậm
- Sáp màu: Màu sáp tươi, rực rỡ, có thể dùng để vẽ trang trí và vẽ tranh.
- Bút dạ: Dùng để vẽ trang trí, vẽ tranh và kẻ chữ rất thuận tiện.
- Phấn màu: Là dạng bột ép thành thỏi, ít keo nên xong thường phải phun chất
liệu kết dính.
- Màu nước: Hay con gọi là thuốc nước, màu nước là màu đá luyện với keo
đóng vào ngăn hay ống, khi vẽ phải hoà với nước sạch, màu nước thường vẽ mỏng,
các mảng màu tan trong nhau không có ranh giới rõ ràng. Màu nước thường vẽ trên
giấy, trên lụa tơ tằm, sợi nhỏ mịn, vẽ màu nước trên nền lụa gọi là tranh lụa.

- Màu bột: Màu ở dạng bột, khi vẽ pha với keo, hồ, màu bột trong, có thể vẽ
lớp mỏng hay dầy. Ranh giới giữa các mảng khá rõ nét, màu bột có thể vẽ trên
giấy, trên tường, trên gỗ, trên vải…
- Sơn dầu: Màu bột nghiền với dầu lanh tạo nên chất dẻo quánh, kết dính tốt
như sơn trên gỗ, trên vải, trên tường vì vậy cò gọi là sơn dầu.
Sơn dầu được đóng vào ống vỏ nhôm có nút vặn kín để không bị khô, khi vẽ
thường pha màu với dầu lanh và vẽ lên nền đã hồ kỹ để màu không bị thấm hút vào
sợi vải, thớ vải. Mặc dầu có thể vẽ dầy, bôi trát, cạo , xoá, để chồng các lớp màu
lên nhau hoặc phủ màu nhạt lên màu đậm dễ dàng. Vì thế nhìn tranh sơn dầu ta có
thể thấy các nét bút, hay các mảng màu rõ nét, đôi khi như cồn lên, nhưng cũng có
thể vẽ mỏng, cái đó tuỳ thuộc vào ý đồ diễn tả của hoạ sĩ vào nội dung đề tài.
- Sơn mài
Sơn mài là chất liệu có từ lâu đời của Việt Nam. Nhưng xưa kia sơn mài chỉ
dùng trong trang trí mỹ nghệ như khay, trát, hộp và đồ thờ cúng. Từ những năm
1925 một số hoạ sĩ Việt Nam học tại trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương đã
đưa sơn mài vào sáng tác hội hoạ. Ngày nay, sơn mài đã phát triển thành một chất
liệu của nghệ thuật hội hoạ, mở ra cho các nghệ sĩ khả năng rộng lớn trong sáng
tạo của mình, đi đầu và thành công trong sử dụng sơn mài vào hội hoạ là Nguyễn
Gia Trí (1908- 1993), Tô Ngọc Vân (1906 – 1954), Trần Văn Cẩn (1010 – 1995),
Trần Đình Thọ, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Phan Kế
An….
Chất sơn dùng để vẽ tranh sơn mài được lấy từ cây sơn, có nhiều ở Phú Thọ,
đây là sơn sống phải chế biến công phu mới thành “sơn chín” để vẽ tranh. Màu sơn
mài truyền thống chỉ hạn chế trong một số màu: Màu cánh gián, màu sơn then
(đen), các màu đỏ của son, màu vàng của vàng thật (làm thành lá rất mỏng hoặc
bột), màu trắng của bạc thật hoặc màu trắng của vỏ trứng, vỏ trai ốc (được cẩn vào
tranh). Nhiều thế hệ hoạ sĩ đã tìm cách phát triển những màu mới để dùng, nhưng
cũng phải là những màu lấy từ khoáng sản chứ không thể là màu hoá học, vì màu
hoá học gây phản ứng làm màu đen lại. Tranh sơn mài được vẽ lên vóc – từ chuyên
môn trong kỹ thuật sơn mài, đó là tấm gỗ tốt, khô và nhẵn, không vênh nứt, được

người thợ làm vóc lành nghề chuẩn bị làm trong nhiều thời gian vì nó quyết định
đến chất lượng tranh sau này. Qua những công đoạn: Phủ sơn sống, bó (bọc vải),
phủ các lớp sơn then sau cùng, (ủ) rồi mới có được tầm vóc tốt để vẽ tranh sơn mài
chịu được khí hậu khắc nghiệt nóng ẩm của Việt Nam.
Quá trình vẽ tranh sơn mài là một quá trình công phu, phức tạp gồm nhiều
công việc rất khác nhau so với các chất liệu khác, Thí dụ: Muốn có màu trắng của
vỏ trứng thì phải “cán” vỏ trứng lên các mảng màu, khi vẽ chú ý không để mồ hôi,
dầu mỡ dây lên mặt vóc. Vì các chật đó sẽ làm các lớp sơn không bám chắc. Mỗi
lớp sơn được vẽ lên phải “ủ” cho khô rồi mới vẽ tiếp các lớp mới, thời gian ủ tranh
lệ thuộc rất nhiều vào thời tiết, khi không thuận trời hanh khô, thời gian ủ tranh bị
kéo dài như các lớp nét và mảng màu đã được nét đủ theo ý đồ tác giả, hoạ sĩ mới
mài tranh. Đây là một công đoạn quan trọng, mới là lúc hoạ sĩ “thực sự vẽ tranh”,
tức là mài để lấy được những lớp màu và nét nông sâu khác nhau, tạo được những
vẻ đẹp hài hoà, (vì thế mới được gọi là tranh sơn mài). Tranh sơn mài phải trải qua
những lớp sơn sửa chữa, đắp thêm, mài tiếp cho đến khi hoàn thành, giai đoạn cuối
cùng là đanh bóng mặt tranh. Có thể dùng bột than mịn, tóc rối, bông, kể cả dùng
lòng bàn tay để “mài” cho đến khi tranh được hoàn hảo.
+ Chất liệu dùng cho điêu khắc, kiến trúc: Dùng chất liệu đa dạng như đất,
thạch cao, gỗ, đá, xi măng, gang, đồng, thép không dỉ…
Giới thiệu chung nhà B
Gồm có ba tầng với ba nội dung trưng bày là: Trưng bày gốm, tranh dân gian,
nghệ thuật trang trí ứng dụng. Bây giờ xin mời quý khách chúng ta sẽ vào thăm
quan bộ sưu tập gốm sứ của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Giới thiệu các loại gốm Việt Nam
Tầng I.
(Phòng trưng bày nghệ thuật gốm Việt Nam một thiên niên kỷ, từ thế kỷ 11
đến thế kỷ 20, giới thiệu những đặc trưng rõ nét nhất về các giai đoạn của loại hình
gốm không men cũng như gốm có men).
1. Gốm men ngọc và gốm men rạn ngà vàng, là sản phẩm tiêu biểu của thời Lý
thế kỷ 11 – 12. Nhìn chung, gốm men ngọc có hình dáng thanh thoát, hoa văn

thường khắc chìm, trải kín, phủ men tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, sâu lắng vừa hư vừa
thực. Gồm men ngà vàng trang trí hoạ tiết in nổi có phần đơn giản hơn gốm men
ngọc.
Cùng tồn tại với hai loại gốm nói trên còn có đồ gốm men trắng, men đầu đen,
men lục. Sự phong phú này đã làm giàu thêm cho sắc thái gốm vào thời Lý. Chủ đề
trang trí gốm giai đoạn thế kỷ 11 -12 phần lớn là hoa sen, hoa cúc, hoa phù dung
và quà, cá, tảng mây, sóng nước… đã được cách điệu khéo léo, tinh tế.
2. Gốm hoa nâu: Ra đời từ cuối thế kỷ 12 vì phải sang đến thế kỷ 13,14 mới ổn
định phong cách và trở thành dòng gốm đặc biệt đặc sắc của đời Trần.
Xương đất gốm hoa nâu dày và nặng, dáng dấp mập, khoẻ, vững chãi, đồ án
trang trí thưa thoáng thể hiện bằng bút pháp hết sức phóng khoáng, hoa văn được
khắc lõm xuống xương gốm lồi tô màu lên nền men màu vàng nhạt. Đề tài trang trí
bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống bao gồm: Vân mây, hoa lá, chim, cá, hổ, voi…
gồm hoa nâu bộc lộ phẩm chất giản dị, mộc mạc đồng thời mang tính nghệ thuật
cao.
3. Gốm hoa lan
Gốm men trắng hoa lan manh nha xuất hiện khoảng cuối thế kỷ 14, thế kỷ 15
thời Lê Sơ, mới thực sự bùng nổ mạnh mẽ và nhanh chóng chiếm ưu thế trong 5
thế kỷ. Thời Lê Sơ, qua Mạc, Lê Trung Hưng, Tây Sơn và Nguyễn. Gốm hoa lan
đa dạng và phong phú về kích cỡ, chủng loại, hình dáng, đề tài trang trí.
Ngoài dòng gốm hoa lan thuần chủng đứng ở thế chủ yếu, ta còn thấy xuất hiện
nhiều loại gốm khác nhau. Gốm men xanh, men ngà vàng, men nhiều màu. Gốm
hoa ban kết hợp các mảng màu nổi để mốc hoặc vẽ tam thái, đặc biệt là loại đồ
sành, đất nung dân dã rất duyên dáng, hấp dẫn.
Gốm giai đoạn này có một số đặc điểm
- Việt Nam xuất khẩu gốm sang các nước Đông Nam Á. Châu Á và xa hơn nữa
là một số nước Châu Âu
- Ở thời Mạc, thế kỷ 16 việc ghi niên đại vào gốm đã phổ biến hơn nữa còn
cung cấp thêm nhiều thông tin như họ tên nghệ nhân, chế tác, quê quán, người đặt
hàng, nơi tiến cúng đồ vật… có thể coi đây là hiện tượng độc đáo mà ở nơi khác ta

chưa gặp lại tương tự
4. Gốm hiện đại
Đầu thế kỷ 20 một số gốm dân dụng ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam vẫn tiếp tục
sản xuất phục vụ đời sống của người tiêu dùng nhưng mẫu mã ít khích phục hồi
các nghề thủ công, trong đó có nghề gốm, các nghệ nhân có tay nghề, có kinh
nghiệm cùng với đội ngũ những nhà sáng tác gốm được đào tạo chính quy, họ vừa
tiếp thu vốn cổ truyền đồng thời kết hợp với tư duy của thời đại đã tạo ra hàng loạt
những tác phẩm có giá trị làm thay đổi bộ mặt sản phẩm, các sản phẩm gốm dân
dụng và gốm nghệ thuật hiện đại đồ gốm Việt Nam đang được trong và ngoài nước
ưa chuộng trong tương lai chắc chắn sẽ đạt được những thành tựu cao hơn nữa.
Tầng II: Tranh dân gian
Tầng III: Nghệ thuật trang trí ứng dụng
Kính thưa quý khách hiện tại chúng ta đang đứng trong phân trưng bày nghệ
thuật trang trí ứng dụng.
Cúng như nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật trang trí ứng dụng là một thành tố
thiết yếu góp phần không nhỏ tạo nên nền mỹ thuật dân tộc. Đất nước Việt Nam
với tự nhiên phong phú là kho báu về nhiều chất liệu nghệ thuật. Nhân dân các dân
tộc Việt Nam từ miền núi, vùng cao tới miền xuôi tới đồng bằng vốn có truyền
thống lao động sản xuất rất lâu đời. Từ thời đồ đá đồ đồng, đồ gốm hàng ngàn năm
trước đến nay sự sáng tạo nghệ thuật trang trí ứng dụng được xuyên suốt và phát
triển không ngừng trong mọi loại hình, mọi chất liệu, để phục vụ trực tiếp đời sống
con người cho phù hợp với mọi môi trường sinh sống, điều kiện sinh hoạt, điều
kiện lao động, cũng như đáp ứng những yêu cầu đa dạng của mỹ cảm, của tâm
linh, nhiều nghệ nhân có mặt ở mọi nơi, có nơi theo thời vụ họ làm ra nhiều đồ mỹ
thuật thủ công theo khả năng nguyên liệu của địa phương và đáp ứng yêu cầu của
xã hội.
Nền nghệ thuật trang trí ứng dụng của Việt Nam rất phong phú, đa sắc thái
mang màu sắc dân gian. Nó bao gồm nhiều loại hình, trang phục, nhà ở, đồ trang
sức, công cụ lao động, vật dụng sinh hoạt, đồ chơi trẻ em, mọi sản phẩm đều gắn
bó mật thiết với con người và cùng với giá trị sử dụng là giá trị thẩm mỹ của vật

phẩm, biểu hiện dáng chất liệu, hoa văn, màu sắc…chúng.
Chúng vừa có ích vừa đẹp, nhiều hoa văn, hiện vật có tính phản ánh hiện thực,
giáo dục thẩm mỹ một cách đặc thù. Do vậy, chúng trở nên hấp dẫn, người sử dụng
yêu thích chúng hơn. Một số vật phẩm xứng đáng là những di sản văn hoá đích
thực được gìn giữ từ đời này qua đời khác.
Sưu tập chuyên đề nghệ thuật trang trí ứng dụng truyền thống được giới thiệu ở
đây gồm hơn 300 hiện vật trong đó nổi bật là trang phục phụ nữ rất đẹp của phụ nữ
kinh và các dân tộc khác. Những sản phẩm mỹ thuật thủ công, các chất liệu như đồ
đồng, đồ sơn quang dầu, đồ gỗ sơn mài, đồ chạm khảm, đồ men pháp lam, đồ thêu
đan. Đó là những hiện vật không chỉ phản ánh sự tiện ích trong sử dụng và những
nét đẹp của hình thức, tư duy sáng tạo mà còn nói về bản sắc dân tộc, tính bản địa
vừa tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực văn hoá viễn Đông và văn hoá
Đông Nam Á.
Bộ hiện vật được trưng bày có tính thống nhất cao – một tính thống nhất đa
dạng giữa con người và văn hoá môi trường Việt Nam.
Kính thưa quý khách, lời thuyết minh về bảo tàng mỹ thuật xin tạm dừng tại đây,
quý khách sẽ có ít phút để cảm nhận riêng theo cách của mình

×