Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

sử dụng mô hình logistic tính xác suất nợ khó đòi và ứng dụng trong xếp hạng tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 94 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và
thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam 3
1.1 Tổng quan về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng 3
1.1.1 Khái niệm về rủi ro 3
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng 4
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng 5
1.1.2.2 Rủi ro lãi suất 5
1.1.2.3 Rủi ro tỷ giá 6
1.1.2.4 Rủi ro thanh toán 7
1.1.2.5 Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá 9
1.1.2.6 Rủi ro khác 11
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại 11
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng 11
1.2.2 Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng 14
1.2.2.1 Nợ có vấn đề 14
1.2.2.2 Nợ quá hạn 15
1.2.2.3 Nợ khó đòi 16
1.2.2.4 Lãi treo 17
1.2.2.5 Cơ cấu dư nợ tín dụng 18
1.2.2.6 Một số dấu hiệu khác 18
1.2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng 19
1.2.3.1 Những nguyên nhân bất khả kháng 19
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay 19
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.3.3 Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng 20
1.3 Thực trạng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
21


1.3.1 Các loại rủi ro tín dụng 21
1.3.2 Tình hình rủi ro tín dụng ở các NH thương mại Việt Nam 23
Chương 2: Lý luận về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 25
2.1 Tổng quan về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 25
2.1.1 Khái niệm về xếp hạng doanh nghiệp 25
2.1.2 Sự cần thiết của công tác đánh giá xếp hạng doanh nghiệp 28
2.1.3 Vai trò của xếp hạng doanh nghiệp 30
2.2 Thực trạng xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp ở Việt Nam 32
2.2.1 Kinh nghiệm của Thế giới 32
2.2.1.1 Các mô hình phát hiện
33
2.2.1.2 Mô hình thống kê 34
2.1.2 Thực trạng tại Việt Nam 40
Chương 3: Sử dụng mô hình Logistic tính xác suất nợ khó đòi
và ứng dụng trong xếp hạng doanh nghiệp 51
3.1 Mô hình Logistic và ứng dụng trong xếp hạng doanh nghiệp 51
3.1.1 Mô hình Logistic 51
3.1.2 Ứng dụng mô hình Logistic vào xếp hạng doanh nghiệp 52
3.2 Phương pháp tính xác suất nợ khó đòi cho các doanh nghiệp Việt
Nam 54
3.2.1 Các bước tiến hành xếp hạng tín dụng 54
3.2.1.1 Các chỉ tiêu tài chính 55
3.2.1.2 Các chỉ tiêu phi tài chính 58
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3.2.2 Mô hình xác suất có nợ khó đòi 58
3.2.1.1 Mô hình xác suất có nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp thuộc
ngành Nông, lâm, ngư nghiệp 59
3.2.1.2 Mô hình xác suất xảy ra nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp
thuộc ngành Xây dựng 66

3.2.1.3 Mô hình xảy ra xác suất có nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp
thuộc ngành Công nghiệp 71
3.2.1.4 Mô hình xảy ra xác suất có nợ khó đòi đối với các doanh nghiệp
thuộc ngành Thương mại, dịch vụ 75
3.2.3 Mô hình tự hồi quy – AR(2) 79
3.3 Ứng dụng mô hình vào một số doanh nghiệp Việt Nam 79
NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Đồ thị 1.1: Phân phối xác suất của lợi tức đầu tư 12
Đồ thị 1.2: Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu tư 13
Bảng 2.1: Bảng ký hiệu xếp hạng tín nhiệm sử dụng cho nợ dài hạn 26
Bảng 2.2: Cơ cấu chấm điểm của các công ty xếp hạng tín nhiệm 38
Bảng 2.3: Phần mềm chấm điểm FICO 39
Bảng 2.4: Bảng cơ cấu điểm của toàn dân Mỹ 39
Bảng 2.5: Tỷ lệ vỡ nợ của các ngành kinh tế Đức những năm 1980 40
Bảng 2.6: Bảng xếp loại tín dụng tại CIC 47
Bảng 2.7: Kết quả xếp hạng doanh nghiệp có báo cáo tài chính năm 2004
theo ngành kinh tế 48
Bảng 2.8: Xếp hạng doanh nghiệp có báo cáo tài chính năm 2004 theo loại
hình doanh nghiệp 49
Bảng 3.1: Các bước xếp hạng tín dụng 55
Bảng 3.2: Mô hình Logitstic đầy đủ biến số cho các doanh nghiệp thuộc
ngành nông, lâm, ngư nghiệp 60
Bảng 3.3: Mô hình Logistic chuẩn đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp 62
Bảng 3.4: Kết quả tính xác suất nợ khó đòi của các doanh nghiệp thuộc
ngành nông, lâm, ngư nghiệp qua các năm 65
Đồ thị 3.1: Tỷ lệ doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp có cùng xác suất nợ

khó đòi 65
Bảng 3.5: Mô hình tính xác suất nợ khó đòi của các doanh nghiệp xây dựng
với đầy đủ các biến số 66
Bảng 3.6: Mô hình Logistic chuẩn đối với ngành xây dựng 68
Bảng 3.7: Kết quả tính xác suất nợ khó đòi của các doanh nghiệp xây dựng
69
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đồ thị 3.2: Tỷ lệ doanh nghiệp xây dựng có cùng xác suất nợ khó đòi 70
Bảng 3.8: Mô hình tính xác suất nợ khó đòi đối với doanh nghiệp công
nghiệp với đầy đủ các biến số 71
Bảng 3.9: Mô hình chuẩn tính xác suất nợ khó đòi đối với doanh nghiệp
công nghiệp 73
Bảng 3.10: Kết quả tính xác suất nợ khó đòi các doanh nghiệp thuộc ngành
công nghiệp qua các năm 74
Đồ thị 3.3: Tỷ lệ doanh nghiệp có cùng xác suất nợ khó đòi của ngành công
nghiệp 74
Bảng 3.11: Mô hình với đầy đủ biến số đối với Ngành Thương mại, dịch vụ
75
Bảng 3.12: Mô hình chuẩn đối với ngành Thương mại, dịch vụ 76
Bảng 3.13: Kết quả tính xác suất nợ khó đòi của các doanh nghiệp thương
mại, dịch vụ 77
Đồ thị 3.4: Tỷ lệ doanh nghiệp có cùng xác suất nợ khó đòi của ngành
thương mại, dịch vụ 78

Đồ thị 3.5: So sánh tỷ lệ doanh nghiệp có cùng xác suất nợ khó đòi giữa các
ngành kinh tế năm 2003 78
Bảng 3.14: Mô tả xếp loại dựa vào xác suất nợ khó đòi 79
Bảng 3.15: Các chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp 80
Bảng 3.16: Bảng tính xác suất có nợ khó đòi 81

Bảng 3.17: Bảng thông tin phi tài chính của DN HA 82
Bảng 3.18: Bảng thông tin phi tài chính của DN MP 82
Bảng 3.19: Bảng thông tin phi tài chính của DN XNK 82
Bảng 3.20: Thông tin phi tài chính của SĐ 83
Bảng 3.21: Bảng xếp hạng một số doanh nghiệp 83
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CIC : Trung tâm Thông tin tín dụng.
NHTM : Ngân hàng thương mại.
NH : Ngân hàng.
TCTD : Tổ chức tín dụng.
TSLĐ : Tài sản lưu động.
ĐH : Đại học.
DN : Doanh nghiệp.
NKĐTC: Nợ không đủ tiêu chuẩn.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
rong điều kiện hội nhập kinh tế và Việt Nam đã là thành viên của
tổ chức thương mại Thế giới (WTO), vì vậy nền kinh tế Việt Nam
phải thực sự đối mặt với những thách thức hết sức to lớn. Nguyên nhân
của những thách thức đó là nền kinh tế Việt Nam còn yếu kém về nhiều
mặt: công nghệ còn lạc hậu, trình độ còn chưa phát triển…Đặc biệt đối
với ngành Ngân hàng, xu hướng tự do hoá và toàn cầu hoá kinh tế khiến
hoạt động kinh doanh của ngành Ngân hàng của Việt Nam càng trở nên
phức tạp, dẫn tới nhiều rủi ro hoạt động. Vì vậy quá trình cải cách tài
chính - ngân hàng là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

T
Đối với các hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng Việt
Nam, rủi ro hầu như có mặt trong từng nghiệp vụ ngân hàng và muốn
có lợi nhuận thì phải chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên tín dụng là hoạt động
chủ yếu hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất: từ 60-70% trong danh mục
tài sản có của Ngân hàng, đặc biệt nguồn tín dụng này đóng vai trò kênh
dẫn vốn chủ đạo cho các doanh nghiệp. Thế nhưng hoạt động tín dụng
lại đang gặp nhiều khó khăn và có xu hướng đóng băng. Sự đình trệ và
hoạt động kém hiệu quả của hoạt động tín dụng không chỉ ảnh hưởng
tới hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng mà còn gây trở ngại
không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế và sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá của đất nước.
Trong hoạt động tín dụng, đánh giá rủi ro tín dụng là khâu đầu tiên,
là điều kiện tiên quyết trước khi cho vay. Vì vậy Ngân hàng nhà nước
đã ban hành quyết định số 68/1999/QĐ – NHNN9 ngày 27/02/1999 của
Thống đốc ngân hàng Nhà nước thành lập Trung tâm Thông tin tín
dụng Ngân hàng Nhà nước (Credit information center – viết tắt CIC).
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CIC có chức năng thu thập và cung cấp, dịch vụ Thông tin tín dụng cho
Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng, tổ chức và cá nhân khác
nhằm góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, phục vụ công tác
quản lý của Ngân hàng Nhà nước, phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng
và phát triển kinh tế xã hội. Việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp có ý
nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, bởi vì thông
qua xếp hạng doanh nghiệp các Ngân hàng có thể xác định mức lãi suất
cho vay đối với từng doanh nghiệp, tạo điều kiện ổn định nền kinh tế.
Vì vậy em đã chọn đề tài “Sử dụng mô hình Logistic tính xác suất nợ
khó đòi và ứng dụng trong xếp hạng tín dụng ”. Đề tài của em gồm 3
phần:

Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực
trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam.
Chương 2: Lý luận về xếp hạng doanh nghiệp.
Chương 3: Sử dụng mô hình Logistic tính xác suất nợ khó đòi và
ứng dụng trong xếp hạng doanh nghiệp.
Trong thời gian học tập ở trường kết hợp với thời gian thực tập ở
Trung tâm Thông tin tín dụng – Ngân hàng nhà nước, được sự giúp đỡ
tận tình của các thầy cô và của trung tâm nói chung, Phòng Phân tích
nói riêng em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình
của thầy giáo PGS. TS. NGUYỄN QUANG DONG – khoa Toán Kinh
tế; cảm ơn cán bộ nhân viên trong CIC nói chung, cùng các anh chị
phòng Phân tích đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động
Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt
Nam
1.1 Tổng quan về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Vì vậy trong bất
kỳ lĩnh vực nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Đối với cuộc sống
đời thường rủi ro có thể là những điều hết sức đơn giản chẳng hạn như
bị mất cắp ; đối với các Ngân hàng thương mại luôn luôn phải đối mặt
với các loại rủi ro, đó có thể là rủi ro do khách hàng không trả nợ đúng
hạn, cũng có thể là rủi ro do Ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu
rút tiền của người gửi tiền……
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá

đặc biệt – hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đa phần trong đó là các
khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng
thương mại đang có thay đổi mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong
hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới
ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hoá. Các
nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng di chuyển hơn, nhạy
cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc
tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ
thống. Mặt khác tài sản của các ngân hàng chủ yếu là các động sản tài
chính (các khoản cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro
tín dụng rất cao. Công nghệ của Ngân hàng ngày càng phát triển cho
phép các Ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền đầu tư của mình tới
những vùng xa trụ sở. Điều này vừa làm giảm bớt rủi ro của Ngân hàng
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
do đa dạng hoá khách hàng nhưng đồng thời cũng làm tăng tính rủi ro
do những biến động lớn trên thị trường Thế giới, khu vực và do Ngân
hàng không kiểm soát tốt được các khoản vay…Điều này không chỉ xảy
ra ở thị trường Việt Nam mà còn diễn ra ở trên thị trường Thế giới.
Chẳng hạn cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ tại Châu Á năm 1997 đã
làm cho nhiều Ngân hàng, tổ chức tài chính của các nước trong khu vực
bị phá sản. Nhiều Ngân hàng nhỏ ở Thái Lan, Nhật Bản, Indonexia,
Philippin đã phải sáp nhập hoặc bị các Ngân hàng lớn mua lại, nhiều
công ty tài chính, môi giới chứng khoán đã bị phá sản. Ở Việt Nam, vào
những năm 1989-1990 cũng đã xảy ra tình trạng người dân đổ xô đi rút
tiền gửi tại các quỹ tín dụng, gây ra sự đổ vỡ của hàng loạt quỹ tín
dụng. Đây là lần đổ vỡ đầu tiên có tính dây chuyền của các TCTD Việt
Nam khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổ vỡ đã gây tổn thất
lớn cho các quỹ tín dụng và hệ thống Ngân hàng, người gửi tiền và nền

kinh tế nói chung, đặc biệt đã ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của
người gửi tiền, mà phải mất một thời gian dài chúng ta mới lấy lại được.
Cũng vào năm 1997, nhiều Ngân hàng thương mại Việt Nam do mở
rộng cho vay tràn lan đã rơi vào tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi.
Trong thời gian gần đây, không ít lần Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đã phải can thiệp để cứu vãn tình thế và khôi phục hoạt động cho một
số Ngân hàng thương mại cổ phần, vì những lý do khác nhau, có thể
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tóm lại tất cả các loại rủi
ro của ngân hàng đều có bản chất chung đó là khả nảng xảy ra tổn thất
cho ngân hàng.
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Dựa vào những tiêu thức khác nhau thì rủi ro của Ngân hàng
được chia thành những loại khác nhau. Nếu phân chia theo nguyên nhân
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
các nhân tố tác động thì rủi ro Ngân hàng bao gồm: rủi ro do người vay
không trả được nợ cho Ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do
tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy nổ,
giấy tờ giả…Tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản
như sau:
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng
phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản
vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng không dự
kiến khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay
đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý
toàn bộ Ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng
luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy,

khi tổn thất dưới mức tổn thất dự kiến, Ngân hàng coi đó là một thành
công trong quản lý.
1.1.2.2 Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ
phải trả lãi. Còn khi tài trợ, Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản
cho vay, tiền gửi và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm
gia tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, ngược lại cũng có thể gây tổn thất
cho Ngân hàng. Như vậy rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do
chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến.
Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau như rủi ro xác định
lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi
suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể gồm:
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Do sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế
độ lãi suất cố định.
- Do sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến.
Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt
trong điều kiện lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì vậy, việc thực hiện
các biện pháp để hạn chế rủi ro lãi suất cũng là một nội dung quan trọng
trong quản lý rủi ro của Ngân hàng thương mại.
Các giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
- Phải duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên
tài sản nợ và tài sản có.
- Sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những
khoản vay lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng,
hoặc thực hiện cơ chế lãi suất thả nổi.
- Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại
bảng, như sử dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất, nghiệp vụ kỳ

hạn về tiền gửi, nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện
hợp đồng tương lai do không cân xứng tài sản nợ và tài sản có;
thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa chọn lãi suất.
1.1.2.3 Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng
phải gánh chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính.
Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này
cùng với trạng thái hối đoái của Ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư
hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá ngoài dự
kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.
Những nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
- Lãi suất.
- Các chính sách của chính phủ.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Sự đầu cơ trên thị trường.
- Tính nhạy cảm của thị trường.
- Lạm phát.
- Sự ổn định về chính trị.
- Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ
giá rất lớn trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít
hơn.
Để hạn chế rủi ro tỷ giá người ta có thể có một số giải pháp sau:
- Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ
để quản lí rủi ro. Việc phòng ngừa rủi ro có thể dùng các nghiệp
vụ sẵn có trên thị trường. Việc phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ
hạn bằng một giao dịch Swap, dùng giao dịch quyền chọn để hạn
chế rủi ro.
- Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm
vì khiến Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Vì vậy

Ngân hàng nên thực hiện đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh
doanh tránh phụ thuộc quá nhiều vào Đôla Mỹ, phân tán rủi ro,
thích nghi được với những biến động bất thường về tỷ giá.
1.1.2.4 Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản
Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho
Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng
hay nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao
dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh
toán).
Rủi ro thanh khoản có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như:
- Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay nhưng chưa thu
hồi được vì chưa đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phải thanh toán các khoản nợ đến hạn (do sự biến động của tài
sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động).
- Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng không
thu được nợ làm cho Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện
các cam kết với khách hàng hay nói cách khác Ngân hàng không
có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các
cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán).
- Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở
Ngân hàng ngay lập tức. Hoặc có dòng tiền lớn rút ra đột ngột do
yếu tố mất ổn định vĩ mô, do thông tin bất lợi cho Ngân hàng.
Thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi
hỏi Ngân hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình
thường dẫn đến làm giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân
bằng thu chi làm cho NH bị lỗ trong kinh doanh. Nếu số lỗ này không
được bù đắp và ngày càng tăng lên do việc huy động vốn đảm bảo khả

năng thanh toán sẽ dẫn đến việc NH bị phá sản. Ngược lại khi Ngân
hàng thừa khả năng thanh toán (tức là duy trì số tiền không sinh lời
hoặc sinh lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh toán) cũng sẽ dẫn
đến thu nhập thấp, giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trường hợp mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến việc NH bị
phá sản vì mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt (kể cả
những khoản nợ chưa đến hạn) trong khi những khách nợ của NH
không thanh toán vì các khoản nợ chưa đến hạn mà NH không thể huy
động được tiền, kể cả với chi phí cao hơn mức bình thường.
Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải
chỉ xảy ra đối với chính Ngân hàng đó mà nó thường kéo theo sự rút
tiền ồ ạt của khách hàng tại các Ngân hàng khác. Trường hợp xảy ra đối
với NHTM cổ phần Á Châu cuối năm 2003 là một minh chứng cho việc
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đó. Khi khách hàng rút tiền tại NHTM cổ phần Á Châu, nhiều NH khác
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã phải xây dựng kế hoạch ứng
phó trong trường hợp sự rút tiền ồ ạt của khách hàng lan truyền. Vì vậy
các Ngân hàng phải tính toán nhu cầu khả năng thanh toán, đó là việc
tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi của Ngân hàng.
1.1.2.5 Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có
giá
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, việc các Ngân
hàng thương mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những
thay đổi tất yếu. Một trong những hoạt động đó là bảo quản và quản lý
chứng từ có giá, một công việc được xem là có nhiều rủi ro. Vậy rủi ro
trong quản lý và bảo quản chứng từ có giá là gì? Đó là khả năng xảy ra
những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu trong việc quản lý và kinh
doanh các loại chứng từ có giá. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải chịu
khi kinh doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao gồm:

- Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thương
mại nắm giữ luôn có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị
trường, hay từ chính bản thân Ngân hàng thương mại, hoặc từ Chính
phủ…Vì vậy các Ngân hàng thương mại sẽ bị giảm giá trị tài sản nếu
như dự đoán không đúng về tình hình thị trường, gây ra những thiệt hại
nhất định đối với Ngân hàng.
- Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán
được: mọi giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thương mại nắm giữ đều
tiềm ẩn rủi ro này (ngoại trừ trái phiếu Chính phủ). Các Ngân hàng
thương mại có thể chọn loại hình giấy tờ có giá để đầu tư cho phù hợp
với mục đích chính của mình, nhưng luôn phải đánh giá đúng mức rủi
ro của chứng khoán đó. Việc người phát hành không thể thanh toán
được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể đối với các Ngân hàng; nó
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gián tiếp gây ra những thiệt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế quốc
gia. Chính vì thế mà các quốc gia đều đặt ra những quy định chỉ cho
phép Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh số chứng khoán đã
được xếp hạng ở một mức nào đó. Hiện nay ở Việt Nam các ngân hàng
thương mại không được phép kinh doanh các loại hàng hoá là các
chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nếu kinh
doanh về chứng khoán thì các ngân hàng phải xin phép thành lập các
công ty chuyên kinh doanh về chứng khoán, và công ty này phải có
nguồn vốn riêng (có thể là nguồn vốn ban đầu do ngân hàng cung cấp)
nghĩa là trong quá trình hoạt động phải có sự rõ ràng giữa vốn của ngân
hàng và của công ty nhằm tránh những rủi ro có thể xảy ra đối với các
ngân hàng khi thị trường chứng khoán không ổn định từ đó có thể tạo
sự ổn định cho nền kinh tế.
- Rủi ro nhân sự: hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân
hàng thương mại rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân,

nhân viên Ngân hàng. Chính vì thế mà những rủi ro phát sinh bởi chính
các nhân viên của Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt là
trong hoạt động môi giới đầu tư cho khách hàng.
- Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp
ứng một nhu cầu thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có
giá có thể làm giảm khả năng thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi
ro do yêu cầu thanh khoản.
- Rủi ro khác: các rủi ro khác mà một Ngân hàng phải đối mặt
trong quản lý và kinh doanh giấy tờ có giá bao gồm những rủi ro như
cháy, mất mát, cướp…Và còn nhiều rủi ro tới từ các hoạt động khác của
Ngân hàng, chúng luôn có tác động qua lại lẫn nhau.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.2.6 Rủi ro khác
Ngoài các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại
rủi ro quan trọng khác như:
- Rủi ro chính trị: xảy ra khi có những thay đổi về pháp luật,
những quy định về luật pháp trong và ngoài nước có ảnh hưởng xấu tới
thu nhập của Ngân hàng.
- Rủi ro phạm tội: xảy ra khi những người chủ Ngân hàng, nhân
viên hay các khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành
động lừa đảo, biển thủ, trộm cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác
làm Ngân hàng thua lỗ.
- Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang
tính chất bất ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn….
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng
thương mại
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Như đã trình bày ở phần trên: rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra
những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả

đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và
lãi không đúng hạn.
Như vậy rủi ro tín dụng chịu tác động của hai yếu tố: chu kỳ kinh
doanh và các sự kiện liên quan đến doanh nghiệp vay. Rủi ro tín dụng
thường giảm trong thời kỳ bùng nổ kinh tế vì các khoản thu nhập cao
giữ cho tỷ lệ vỡ nợ chung thấp. Rủi ro tín dụng tăng lên trong thời kỳ
suy thoái kinh tế vì thu nhập của các công ty giảm sút khiến họ khó trả
các khoản nợ. Nhưng rủi ro tín dụng liên quan đến một doanh nghiệp cụ
thể không liên quan đến chu kỳ kinh doanh, chúng thường xuất hiện từ
các sự kiện liên quan đến một doanh nghiệp hay một ngành kinh tế.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho
khách hàng và Ngân hàng nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát
hành với sự cam kết là sẽ thanh toán cả gốc và lãi đúng hạn cho Ngân
hàng. Do đó tại thời điểm cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa
là Ngân hàng đã thừa nhận khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của
khách hàng mình với một xác suất cao, còn xác suất mất khả năng thanh
toán của khách hàng là thấp hơn nhiều. Trái phiếu coupon có thu nhập
cố định và giấy nhận nợ tín dụng đối với Ngân hàng là hai ví dụ điển
hình về giấy nhận nợ do công ty phát hành. Trong cả hai trường hợp,
Ngân hàng đều đầu tư vào các giấy nhận nợ nhằm nhận được trái tức từ
trái phiếu và lãi suất từ khoản tín dụng nếu người vay tiền không bị phá
sản. Trường hợp người vay tiền phá sản, Ngân hàng thường không thu
được lợi tức cũng như lãi suất và có thể bị mất toàn bộ hoặc một phần
vốn gốc là phụ thuộc vào khả năng Ngân hàng tiếp cận đối với tài sản
của con nợ trong khi giải quyết phá sản hoặc giải thể.
Sau đây là phân phối xác suất lợi tức đầu tư Ngân hàng vào trái
phiếu và các khoản cho vay tín dụng.
Đồ thị 1.1: Phân phối xác suất của lợi tức đầu tư



18
P=1
0
gốc gốc và lãi
tiền hoàn trả
Xác suất (p)
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chúng ta thấy rằng đỉnh của đồ thị biểu diễn xác suất hoàn trả
đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay là tương đối cao (tuy nhiên luôn nhỏ
hơn 1). Đặc điểm luân chuyển vốn của các công ty có thể là nguyên
nhân gây nên rủi ro tín dụng ở các mức độ khác nhau. Tỷ lệ không
thanh toán được một phần hay toàn bộ tiền lãi là khoảng cách từ điểm
“gốc” đến điểm “gốc và lãi”; và tỷ lệ không thanh toán được một phần
hay toàn bộ tiền gốc là từ điểm “0” đến điểm “gốc”. Đồ thị 1.1 cũng chỉ
ra rằng xác suất mà ngân hàng thu được cả gốc và lãi là cao hơn nhiều
so với trường hợp không thu được cả gốc và lãi, điều này nói lên rằng
bổn phận của Ngân hàng là phải đánh giá được mức độ rủi ro dự tính
của các khoản đầu tư và đặt yêu cầu cho phần thu nhập phụ trội so với
rủi ro tương xứng với mức độ rủi ro của các chứng khoán mà Ngân
hàng nắm giữ.
Đồ thị 1.2: Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu tư



Sự phân bổ lợi tức đối với rủi ro tín dụng đặt ra cho Ngân hàng là
phải giám sát và thu thập được những thông tin về công ty mà Ngân
hàng đã đầu tư. Nghĩa là chiến lược quản trị rủi ro tín dụng cùng với
việc quản trị công ty hiệu quả có ảnh hưởng đến đường cong phân bổ

19
P=1
0
h
o
à
n
t
rả

tố
i

đ
a
tiền hoàn trả
Xác suất (p)
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xác suất trong việc thu hồi tín dụng. Ngoài ra, sự phân bổ rủi ro tín
dụng trên Đồ thị 1.1 là trường hợp chỉ đầu tư vào một loại tài sản và đo
mức độ rủi ro của nó. Một trong những lợi thế của Ngân hàng so với
những nhà đầu tư riêng lẻ là khả năng đa dạng hoá danh mục đầu tư của
Ngân hàng là rất lớn, và thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư
thì rủi ro tín dụng giảm đáng kể. Trong phạm vi Đồ thị 1.1 nếu thông
qua đa dạng hoá đầu tư thì rủi ro tín dụng sẽ được làm dịu đi. Trong
trường hợp, một Ngân hàng thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục
đầu tư của mình, thì hình dáng đồ thị phân bổ xác suất thu hồi gốc và lãi
như được chỉ ra ở Đồ thị 1.2.
Ngân hàng thu được lượng tiền cực đại khi mà toàn bộ các khoản
tín dụng và trái phiếu được đầu tư thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi. Trong

thực tế, một số khoản tín dụng và trái phiếu không thể thu hồi đủ, thu
đúng được một phần hay toàn bộ số lãi và gốc. Vì vậy, mức độ thu hồi
trung bình của các danh mục đầu tư có thể nhỏ hơn so với trường hợp
thu được đầy đủ cả gốc và lãi. Kết quả của việc đa dạng hoá đầu tư là
việc hạn chế được xác suất xảy ra các hậu quả xấu trong danh mục đầu
tư. Một danh mục đầu tư được đa dạng hóa đã rút ngắn được phạm vi
rủi ro tín dụng. Trong thực tế, đa dạng hoá danh mục đầu tư chỉ có thể
giảm được rủi ro tín dụng đặc thù riêng của các ngành kinh tế, tuy nhiên
rủi ro có tính chất hệ thống, chung cho cả nền kinh tế có ảnh hưởng đến
tất cả các ngành kinh tế thì không thể loại trừ được.
1.2.2 Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Nợ có vấn đề
Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, các Ngân hàng thương mại đều
mong muốn rằng khoản cho vay đó sẽ được hoàn trả đầy đủ, đúng thời
hạn như đã thoả thuận. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của
mình, sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, Ngân hàng phải thường
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuyên giám sát khoản tín dụng đã cấp đó, để xem khách hàng có sử
dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận không? Và mức độ hiệu quả sử
dụng vốn vay của khách hàng như thế nào?
Do đó có thể nói rằng, hoạt động giám sát có vai trò hết sức quan
trọng: nó hướng vào những dấu hiệu báo trước các vấn đề kinh doanh
nảy sinh, cũng như những biện pháp khắc phục, giúp Ngân hàng nhận
biết và phát hiện được các khoản nợ xấu có vấn đề, để có hành động và
biện pháp cần thiết, kịp thời để ngăn ngừa hoặc xử lý.
Nợ có vấn đề là những khoản vay, trong đó thoả thuận hoàn trả
của khách hàng có khả năng đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó
chưa đến kỳ hạn trả nợ gốc và lãi.
Muốn tránh được thiệt hại và tổn thất, thì cán bộ tín dụng cần

sớm phát hiện ra những khoản nợ có vấn đề, để kịp thời ngăn ngừa hoặc
xử lý. Nếu không có thể sẽ không giải quyết được vấn đề trước khi tình
hình trở nên xấu hơn. Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản
vay sẽ gặp khó khăn. Một số trường hợp cho thấy khó khăn xuất hiện
ngay khi bắt đầu cho vay, một số khác có thể xuất hiện chậm hơn, và
một số đột ngột phát sinh mà không hề có dấu hiệu báo trước. Như vậy
có nghĩa là không có một mô hình nhất định nào về các biến cố thường
xuyên xảy ra để có thể kết luận rằng một khoản cho vay sẽ khó hoàn trả.
Tuy nhiên, ta có thể dựa vào một số nhóm dấu hiệu để cảnh báo rủi ro
tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
1.2.2.2 Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể
thu hồi được đúng hạn, do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Nợ
quá hạn sẽ làm tăng các khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, làm tăng chi
phí cho hoạt động kinh doanh nên có ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng. Nợ quá hạn cũng sẽ làm mất cân bằng các cân
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đối tài chính, ảnh hưởng xấu tới tính chủ động trong kế hoạch nguồn
vốn của Ngân hàng. Quy mô nợ quá hạn càng lớn thì tính rủi ro càng
cao. Tuy vậy, nó còn phụ thuộc vào cả quy mô cho vay của Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn / Tổng dư nợ) là một chỉ tiêu
mà hầu hết các Ngân hàng đều sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro trong
hoạt động tín dụng. Nếu tỷ lệ đó cao thì có thể nói rằng hoạt động tín
dụng của Ngân hàng là không hiệu quả, nguy cơ rủi ro tín dụng rất có
khả năng xảy ra, Ngân hàng cần phải xem xét lại quy trình cho vay của
mình nhằm làm giảm bớt nợ quá hạn. Ngược lại, nếu tỷ lệ đó thấp thì
rủi ro tín dụng nếu có xảy ra cũng không ảnh hưởng lớn tới hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng.
1.2.2.3 Nợ khó đòi

Nợ khó đòi là nợ quá hạn không được thanh toán, mặc dù Ngân
hàng đã gia hạn nợ. Chính vì vậy có thể nói đây là chỉ tiêu rõ ràng nhất
để phản ánh mức độ tổn thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Hầu hết các Ngân hàng thương mại đều thực hiện lập quỹ dự phòng rủi
ro bằng 100% số nợ khó đòi. Dự phòng được sử dụng trong trường hợp
khách hàng bị phá sản, giải thể, chết hoặc mất tích. Dự phòng cũng
được sử dụng ngay khi các khoản nợ được xếp vào nhóm 5. Việc sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo nguyên tắc sử dụng dự phòng cụ thể
đối với từng khoản nợ trước, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, và
cuối cùng phát mại tài sản không đủ bù đắp thì mới sử dụng dự phòng
chung.
Tỷ lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) cho biết Ngân
hàng cho vay 100 đơn vị tiền tệ thì tỷ lệ tổn thất bao nhiêu đơn vị tiền
tệ. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) phản
ánh trực tiếp chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng nói chung. Nợ khó đòi cao làm cho Ngân hàng phải trích lập
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quỹ dự phòng rủi ro nhiều hơn, chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng sẽ tăng, qua đó đẩy lãi suất cho vay của Ngân hàng tăng lên, làm
giảm tính cạnh tranh của Ngân hàng.
1.2.2.4 Lãi treo
Lãi treo là số tiền lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân
hàng khi đến hạn thanh toán. Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để
nhận biết rủi ro tín dụng. Bởi vì việc thanh toán lãi thường không gắn
liền với việc trả gốc, và có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả vào
những thời điểm nhất định, tuỳ theo sự thoả thuận của Ngân hàng và
khách hàng. Khi khách hàng không thanh toán được tiền lãi của khoản
vay thì có thể coi đấy là một dấu hiệu thể hiện rằng doanh nghiệp đang
gặp khó khăn về tài chính.

Tỷ lệ (Lãi treo phát sinh / Tổng thu nhập) từ hoạt động tín dụng,
cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro của
Ngân hàng.
Tuy nhiên việc nhận biết rủi ro tín dụng nếu chỉ thông qua các
khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi và lãi treo thì dường như đã
khá là muộn đối với các Ngân hàng. Bởi vì chỉ khi tình hình của khách
hàng là khó khăn đặc biệt thì những dấu hiệu này mới bộc lộ. Đến lúc
đó thì tổn thất mà Ngân hàng có thể gặp phải sẽ là rất lớn. Vậy nên,
điều mà các Ngân hàng quan tâm là những dấu hiệu có thể tạo ra rủi ro
tín dụng; để từ đó có thể chủ động và kịp thời đưa ra biện pháp phù hợp,
nhằm hạn chế những khó khăn tổn thất cho cả Ngân hàng và khách
hàng. Do đó, ngoài các dấu hiệu ở trên, các cán bộ tín dụng còn nhận
biết rủi ro tín dụng thông qua một số dấu hiệu khác.
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.2.5 Cơ cấu dư nợ tín dụng
Giống như mọi hoạt động đầu tư khác: hoạt động tín dụng của
Ngân hàng cũng phải tuân thủ nguyên tắc “không bỏ tất cả trứng vào
một giỏ”. Bởi vì doanh thu của Ngân hàng chủ yếu từ lãi do hoạt động
tín dụng mang lại. Nếu tỷ trọng cho vay đối với một khách hàng trong
tổng dư nợ quá lớn thì khi khách hàng này gặp khó khăn trong việc trả
nợ cho Ngân hàng, và sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của Ngân
hàng. Cũng như vậy, nếu Ngân hàng chỉ tập trung cho các doanh nghiệp
hoạt động trong một lĩnh vực nào đó vay thì rủi ro sẽ là rất lớn nếu như
ngành đó hoạt động không hiệu quả.
1.2.2.6 Một số dấu hiệu khác
• Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút, thể
hiện ở giá trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp bị giảm.

- Thu nhập không thường xuyên và ổn định: cơ cấu doanh thu
thay đổi bất thường, doanh thu các hoạt động phụ chiếm tỷ trọng
lớn hơn…
- Hệ số quay vòng vốn lưu động thấp, có sự gia tăng bất thường
về hàng tồn kho và sự gia tăng các khoản nợ thương mại, đặc biệt
là các khoản nợ với thời gian dài.
• Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ
chức của khách hàng.
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản lý hoặc ban
điều hành
- Có sự mất đoàn kết, bè cánh, tranh giành quyền lực trong nội
bộ doanh nghiệp, có hiện tượng nhân tài rời bỏ doanh nghiệp.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục
đích, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp không hợp lý, bộ phận quản
lý ngày càng phình to, có các hoạt động sát nhập với các doanh
nghiệp yếu kém khác.
- Có những khoản chi phí bất hợp lý.
Ngoài ra còn có một số dấu hiệu khác như: nhóm các dấu hiệu
thuộc về mặt pháp luật, nhóm các dấu hiệu thuộc về kỹ thuật và thương
mại….
1.2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng,
có thể phân thành các loại nguyên nhân như sau:
1.2.3.1 Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm
mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh,
hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi của Chính phủ, chính sách

kinh tế, hàng rào thuế quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay
lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới
người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người
vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc
phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể
sẽ bị tổn thất song vẫn có thể trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và
lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối
với người vay là nặng nề thì khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh
tế, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng, chây
ì…. là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay sẵn sàng
mạo hiểm với kì vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích
25

×