Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.99 KB, 68 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
M ỤC L ỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1

Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. THỊ HIẾU 4
1.2. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH 7
1.2.1. Điện ảnh 7
1.2.1. Thị hiếu điện ảnh 9
1.3. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN 11
1.3.1. Sinh viên 11
1.3.2. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên 13
Chương 2
THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT
SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
2.1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC VÀ CƠ SỞ ĐIỆN ẢNH TẠI HÀ NỘI 14
2.1.1. Khái quát về đời sống vật chất, đời sống tinh thần
của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội 14
2.1.2. Khái quát về các cơ sở điện ảnh trên địa bàn Hà Nội 15
2.2. THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH
VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI 17
2.2.1. Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực thưởng thức
điện ảnh 17
2.2.1.1. Sinh viên yêu thích thưởng thức điện ảnh 17
2.2.1.2. Phương thức thưởng thức điện ảnh của sinh viên 20
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.2.1.3. Những yêu thích của sinh viên trong thưởng thức điện ảnh 21


2.2.2.Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực đánh giá điện ảnh 34
2.2.2.1. Sinh viên quan tâm đến việc đánh giá các tác phẩm điện ảnh 34
2.2.2.2. Một vài thị hiếu của sinh viên qua việc đánh giá các tác
phẩm điện ảnh 35
2.2.3. Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực sáng tạo điện ảnh 46
2.2.3.1. Sinh viên yêu thích tham gia vào sáng tạo điện ảnh 45
2.2.3.2.Hoạt động sáng tạo điện ảnh của sinh viên chưa nhiều 46
2.3. Nguyên nhân tác động đến thị hiếu điện ảnh của sinh viên
các trường đại học tại Hà Nội 47
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan 47
2.3.1.1. Tâm lý lứa tuổi 47
2.3.1.2. Hoàn cảnh kinh tế 48
2.3.1.3. Lối sống của sinh viên 48
2.3.1.4. Trình độ kiến thức 49
2.3.2. Nguyên nhân khách quan 49
2.3.2.1. Tác động của hội nhập 49
2.3.2.2. Hoạt động của ngành điện ảnh 50
2.3.2.3. Từ các cơ quan văn hoá 50
2.3.2.4. Từ phía nhà trường… 51
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO THỊ
HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI
HỌC TẠI HÀ NỘI
3.1. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN QUA DƯ LUẬN 52
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO
THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI 52
3.2.1. Đối với ngành điện ảnh 52

3.2.1.1. Đối với các cơ sở điện ảnh 52
3.2.1.1. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về điện ảnh 55
3.2.2. Đối với các cơ quan văn hoá 56
3.2.3. Đối với nhà trường 57
3.2.4. Đối với sinh viên 58
KẾT LUẬN 61
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điện ảnh là môn nghệ thuật tổng hợp có sức thu hút kì lạ đối với công
chúng. Và lực lượng khán giả đông đảo của điện ảnh là sinh viên. Họ có
những thị hiếu điện ảnh khác nhau, có người thích xem bộ phim này, nhưng
có người lại thích xem bộ phim khác. Thị hiếu điện ảnh của họ góp phần làm
phong phú, đa dạng thêm thị hiếu điện ảnh của công chúng. Bởi vậy, khi nắm
bắt được thị hiếu điện ảnh của sinh viên sẽ giúp cho các nhà điện ảnh hiểu rõ
hơn về một bộ phận đông đảo của khán giả để đáp ứng kịp thời.
Sinh viên là những ngườì đang chuẩn bị kiến thức và kinh nghiệm để
bước vào lao động nghề nghiệp. Họ có mong muốn làm giàu vốn sống, vốn
văn hoá, nghệ thuật và tự hoàn thiện mình. Họ đã tìm ra phương thức hữu
hiệu để thoả mãn là điện ảnh. Môn nghệ thuật thứ bảy này từ lâu đã trở thành
món ăn tinh thần không thể thiếu được của họ. Điện ảnh đem lại cho sinh viên
những giây phút thoải mái, lý thú, thoải mái sau những giờ học căng thẳng.
Điện ảnh còn giúp cho sinh viên nhận biết và hiểu cuộc sống muôn màu muôn
vẻ. Không những thế, điện ảnh đã khơi dậy những gì tốt đẹp trong tâm hồn
họ, hướng tới chân thiện mỹ, đến một cái đẹp hoàn thiện. Nghiên cứu thị hiếu
điện ảnh của sinh viên nhằm thoả mãn nhu cầu của họ.
Trong thời kì đổi mới, chăm lo đào tạo những trí thức tương lai cho xã
hội đã được Đảng và nhà nước quan tâm vì họ là những chủ nhân tương lai
của đất nước. Trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh

vấn đề giáo dục thẩm mỹ, giáo dục văn hoá, nghệ thuật: “Các ngành văn hoá
giáo dục Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các ngành có liên quan
cần phối hợp chặt chẽ đẩy mạnh vấn đề giáo dục thẩm mỹ, giáo dục văn hoá,
nghệ thuật trong các trường học”. Bên cạnh những thị hiếu lành mạnh, trong
sinh viên cũng tồn tại những thị hiếu không lành mạnh. Tìm hiểu thị hiếu điện
ảnh của sinh viên giúp cho các nhà quản lý văn hoá, nhà trường và các ngành
liên quan có giải pháp định hướng giáo dục nhằm nâng cao thị hiếu của họ.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thị hiếu điện ảnh của công chúng nói chung và của sinh viên nói riêng
luôn thay đổi nhất là dưới tác động của hội nhập. Nếu không nhận thức được
sự thay đổi nhanh chóng đó sẽ không đáp ứng được nhu cầu của họ.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh
viên một số trường đại học tại Hà Nội” làm khoá luận tốt nghiệp cử nhân
Quản lý văn hoá.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về thị hiếu điện ảnh thì đã có rất nhiều công trình, nhiều bài
báo như: luận án phó TS của Nguyễn Văn Thủ với đề tài “Nhu cầu điện ảnh
của công chúng Việt Nam hiện nay”, “Khán giả điện ảnh Việt Nam, nhu cầu
và thị hiếu” của Phòng nghiên cứu khán giả điện ảnh – Fafilm Việt Nam, “Về
nhu cầu và thị hiếu điện ảnh của công chúng” ở An Giang của Hoàng Trần
Doãn, “Nhu cầu và thị hiếu khán giả điện ảnh” - Đặng Minh Liên… Nhìn
chung các công trình này đều đi vào khảo sát trên diện rộng. Còn nghiên cứu
thị hiếu điện ảnh của sinh viên lại rất ít, chủ yếu chỉ dưới dạng các bài báo.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi vào tìm hiểu, phân tích, đánh giá thị hiếu điện ảnh của sinh
viên một số trường đại học tại Hà Nội để rút ra những biện pháp nhằm nâng
cao thị hiếu cho sinh viên.
Đối tượng nghiên cứu là nghiên cứu về thị hiếu điện ảnh của sinh viên.
Với dự hạn hẹp của thời gian nghiên cứu, người viết chỉ xin nghiên cứu

đề tài ở 4 trường đại học tại Hà Nội (2 trường thuộc khối xã hội và hai trường
thuộc khối tự nhiên) là: Đại học Văn hoá Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Bách khoa Hà Nội.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
4. Nhiệm vụ của khoá luận
- Tìm hiểu thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên các trường đại học
tại Hà Nội.
- Nêu nguyên nhân thị hiếu điện ảnh của sinh viên
- Đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của sinh
viên
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu
- Điều tra bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp xử lý số liệu
6. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài mở đầu, kết thúc, khoá luận gồm các chương:
Chương 1: Một số khái niệm cơ bản
Chương 2: Thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại
học tại Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh
của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. THỊ HIẾU
Theo ngôn ngữ La Tinh ở phương Tây và ngôn ngữ phương Đông thì

thị hiếu chính là Gustus đều chỉ sự ham muốn sự thích thú chung, do giác
quan mang lại chứ không chỉ là sự thích thú riêng do giác quan nào đó của
con người. Người ta thích ăn món ăn Trung Quốc, thích hút thuốc lá mùi vị
Thổ Nhĩ Kỳ, thích ngửi nước hoa Pháp…đều liên quan đến thị hiếu của con
người. Do vậy thị hiếu là một khái niệm chỉ sự thích thú của con người khi
tiếp xúc với đối tượng thông qua các giác quan.
Tuy nhiên chung quanh vấn đề thị hiếu có rất nhiều cách phát biểu khác
nhau. Nhưng nói chung đều xoay quanh hai ý kiến. Một là, trong khái niệm
thị hiếu có chỉ sự thích thú cá nhân hay không hay là sự thích thú của con
người nói chung. Hai là, khái niệm thị hiếu có bao chứa kiểu thích thú, kiểu
ưa thích không.
Tác giả Đỗ Huy cho rằng: “Thị hiếu là khả năng lựa chọn phổ biến của
con người, là sở thích trong mọi lĩnh vực của cá nhân và tập thể” [10, tr. 177].
Theo tác giả, thị hiếu là sự yêu thích của đa số công chúng chứ không phải
của một cá nhân cụ thể.
Còn ý kiến thứ hai, tác giả Trần Độ trong cuốn “Thoả mãn nhu cầu văn
hoá và nâng cao thị hiếu nghệ thuật” lại bày tỏ rằng: “Thị hiếu là kiểu ưa
thích nào đó, kiểu ưa thích này thường bộc lộ ngay lập tức, nó biểu thị toàn bộ
khả năng đánh giá, cảm xúc của chủ thể” [6, tr. 21]. Sở dĩ kiểu ưa thích này
bộc lộ ngay lập tức vì khả năng đánh giá, xúc động của ta bao giờ cũng thể
hiện trước một đối tượng thẩm mỹ và tạo ra một sự ưa thích ngay lập tức theo
một kiểu nào đó. Chẳng hạn như khi đứng trước một bức tượng (đối tượng
thẩm mỹ) thị hiếu (tức là kiểu ưa thích) của ta lập tức sẽ xuất hiện ngay. Ta sẽ
thấy ngay một trạng thái thích thú, khoái cảm hay thờ ơ thậm chí khó chịu…
Với định nghĩa này ông đã phủ nhận thị hiếu cá nhân bởi cách lựa chọn, cách
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ưa thích của mỗi cá nhân không thể xác lập thành một kiểu. Kiểu là do nhiều
sự vật có thuộc tính giống nhau tạo nên. Do đó nhiều cá nhân cùng thích một
tác phẩm nào đó mới có ý nghĩa kiểu ưa thích. Còn nếu mỗi cá nhân có thị

hiếu của riêng mình thì chúng ta có thể gọi là sở thích cá nhân mà thôi.
Khái niệm thị hiếu trong đời sống cũng như trong khoa học đều bao
hàm sự ưa thích của một cá nhân hay một nhóm cá nhân về một quyển sách
hay một bức tranh nào đó. Thị hiếu tuy gắn với tình cảm cá nhân nhưng biểu
thị các kiểu ưa thích khác nhau. Bởi vậy, người viết xin lấy một khái niệm rất
đơn giản nhưng lại khá bao quát của TS Hoàng Trần Doãn để chúng ta cùng
sử dụng trong cuốn khoá luận này: “Thị hiếu là biểu hiện sự yêu thích của cá
nhân và xã hội trong một khoảng thời gian nào đó đối với vật chất hay tinh
thần. Thị hiếu thay đổi theo sự thay đổi của cá nhân và xã hội trong khoảng
thời gian khác nhau” [5, tr. 26] .
Thị hiếu được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động để
thoả mãn nhu cầu của cá nhân cũng như của xã hội. Trong cuốn “Những vấn
đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học”, B.Ph.Lômô đã viết như sau:
“Nhưng các đối tượng của nhiều nhu cầu và phương pháp thoả mãn chúng
được xã hội tạo nên trong lịch sử phát triển của chúng ở mọi người, cá nhân,
cộng đồng đã hoàn thành và phát triển thị hiếu và sở thích nhất định” [14,
tr.320]. Như thế thị hiếu được hình thành trong một thời gian dài, tồn tại như
một phẩm chất văn hoá của chủ thể trong hoạt động thoả mãn nhu cầu. Trong
thành phần của thị hiếu có trình độ văn hoá, trình độ học vấn truyền thống
cùng nhiều yếu tố khác. Thị hiếu trở thành đối tượng nghiên cứu như một
khái niệm căn bản gắn liền với sự tiêu dùng cá nhân, xã hội và làm thoả nhu
cầu của chủ thể.
Thị hiếu được hình thành xuất phát từ sở thích. Sở thích là ý thích riêng
của mỗi cá nhân đối với đối tượng nào đó tương đối ổn định và lâu dài.
Những sở thích này cùng với mong muốn thoả mãn nhu cầu trở thành động cơ
thúc đẩy hoạt động thoả mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu được thoả mãn sẽ
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được củng cố và phát triển sở thích, tạo ra các sở thích mới ở chủ thể. Lúc này
sở thích là cơ chế để hình thành nhu cầu. Trong bất cứ hoạt động nào của con

người hay xã hội cũng thuộc sự yêu thích khác nhau của cá nhân với đối
tượng. Sở thích nào được hình thành và tồn tại trong chủ thể một cách lâu dài,
chi phối việc hình thành hoạt động và thoả mãn nhu cầu thì được gọi là thị
hiếu.
Trong thị hiếu cần phân biệt thị hiếu thấp và thị hiếu cao, thị hiếu
không lành mạnh và thị hiếu lành mạnh.
Trước hết cần phân biệt thị hiếu thấp (hay thị hiếu kém phát triển) và
thị hiếu cao (thị hiếu phát triển). Thị hiếu thấp là loại thị hiếu thô kệch, do
chưa được nâng cao trình độ thẩm mỹ, chưa biết phân biệt cái nào là đẹp, cái
nào là không đẹp. Vì thế ở những người mà thị hiếu thấp thường thích những
cái không đẹp vì tưởng rằng nó đẹp. Những cái ấy đối với người có thị hiếu
hơn lại thấy nó lố bịch, cầu kỳ và buồn cười. Thị hiếu thấp là thị hiếu của
những người chưa được tiếp xúc với nhiều cái đẹp thực sự vì thế nó thô sơ,
kệch cợm.
Ngược lại thị hiếu cao (hay thị hiếu phát triển) là thị hiếu của những
người có học vấn, có trình độ kiến thức cao, thực sự tiếp xúc nhiều với cái
đẹp. Ở những người này, thị hiếu tinh tế hơn, sâu sắc hơn nhất là ở những
người được giáo dục thẩm mỹ.
Thị hiếu cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ kiến thức, trong đó kiến
thức về ngôn ngữ các loại hình nghệ thuật là yếu tố rất quan trọng. Bởi vì nếu
thưỏng thức nghệ thuật mà không hiểu ngôn ngữ nghệ thuật thì không thể
thưởng thức được.
Khi nói tới thị hiếu lành mạnh và thị hiếu không lành mạnh lại đề cập
tới một vấn đề khác.
Thị hiếu không lành mạnh có hai loại ở mức cao là thị hiếu độc hại, ở
mức thấp là thị hiếu xấu. Sở dĩ có sự phân biệt như vậy vì có tác phẩm xuất
phát từ thị hiếu độc hại, tức là xuất phát từ âm mưu chính trị độc hại, nó có
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thể mang sự độc hại đến cho khán giả. Thế nhưng cũng có tác phẩm xuất phát

từ thị hiếu xấu nhưng tác hại của nó khó nhận thấy hơn nó bị chen lẫn với
những yếu tố nghệ thuật thực sự…nó cũng thuộc về loại không lành mạnh.
Loại thị hiếu không lành mạnh (độc hại và xấu) này tác động xấu đến sự phát
triển tinh thần và nhân cách của con ngưòi.
Còn thị hiếu lành mạnh là loại thị hiếu tốt không chỉ đảm bảo cho nhân
cách phát triển toàn diện mà con giúp cho chủ thể hưởng thụ, đánh giá đúng
đắn, trọn vẹn các đối tượng thẩm mỹ mà còn tạo ra nhiều giá trị thẩm mỹ cao
đẹp.
1.2. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH
1.2.1. Điện ảnh
Theo luật Điện ảnh, năm 2006 quy định: “Điện ảnh là loại hình nghệ
thuật tổng hợp thể hiện bằng hình ảnh động, kết hợp với âm thanh, được ghi
trên vật liệu phim nhựa, băng từ, đĩa từ và các vật liệu ghi hình khác để phổ
biến đến công chúng thông qua các phương tiện kỹ thuật” [15, tr.8].
Điện ảnh ra đời trên cơ sở những phát minh khoa học kỹ thuật và trong
mỗi bước phát triển của nó như đều gắn liền với những tiến bộ, những
phương tiện mới của kỹ thuật hiện đại. Chẳng bao nhiêu lâu sau khi ra đời
điện ảnh đã có một sự vượt thoát kỳ diệu lên trên một kỹ nghệ thông thường,
ra khỏi sự ràng buộc của phương tiện kỹ thuật để tồn tại như một ngành nghệ
thuật. Điện ảnh đã tổng hợp được được tinh tuý của các bộ môn nghệ thuật
khác như văn học, sân khấu, hội hoạ, âm nhạc…đã gắn kết sức mạnh của các
loại hình nghệ thuật đó bằng sức mạnh của các phương tiện. Nhờ đó mà nó có
khả năng truyền cảm mạnh mẽ, cuốn hút sự ưa thích của nhiều người.
Điện ảnh sử dụng ngôn ngữ riêng của mình, đó là ngôn ngữ đặc biệt
tổng hợp được tạo ra bởi hình ảnh, động tác của máy quay, ánh sáng, phục
trang và bối cảnh, âm thanh, dựng phim, thời gian, không gian, lời thoại và
những phương pháp bổ sung dẫn truyện…Tính đặc biệt của nó không chỉ thể
hiện ở việc nó được tạo ra mà còn ở chỗ người ta cảm nhận nó. M.Martin viết
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

về ngôn ngữ đặc biệt này như sau: “Người ta cảm nhận nó không chỉ bằng tai
bằng mắt mà còn bằng cảm xúc và bằng trái tim” [18, tr.36]. Tính tổng hợp
của điện ảnh còn bao hàm sự tổng hợp những cái hay nhất, cảm xúc tốt nhất
của những người trong nhóm làm phim khi cùng nhau sáng tạo ra tác phẩm
nghệ thuật của mình.
Điện ảnh là loại hình nghệ thuật mang tính chân thực cao. Vì sự phong
phú của thể loại có trong điện ảnh như: phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt
hình mà tính chân thực của điện ảnh rất cao. Phim tài liệu là thể loại mang
tính báo chí và được thể hiện theo nguyên tắc chân thực nghĩa là nó được
sáng tác và biểu hiện trên cơ sở các sự kiện có thực đã và đang xảy ra. Phim
truyện lại được thể hiện và sáng tác theo nguyên tắc khúc triết nghĩa là sự
việc đã xảy ra (hoặc chưa xảy ra) được các tác giả sắp xếp thành chuỗi liên
quan qua đó câu chuyện kể về các số phận của các nhân vật. Và người xem
coi những biểu hiện trên phim là phản ánh đời sống thực, họ tin vào những gì
xảy ra trong phim, đôi khi còn vận dụng nó vào trong đời sống của mình.
Điện ảnh là loại hình có tính hấp dẫn. Điện ảnh cho phép người ta đọc
sách bằng hình ảnh, với sự hỗ trợ của âm thanh cuộc sống (tiếng động, âm
nhạc, ngôn ngữ của con người). Hiệu quả của việc đọc sách này tăng lên
nhiều lần vì những hiện tượng văn học đã trở nên cụ thể trước mắt người xem
với sự sống động, linh hoạt giúp cho họ cảm nhận chúng một cách rõ ràng.
Với cách diễn xuất của diễn viên, cách ghi hình sinh động, linh hoạt và cách
hỗ trợ tối đa âm thanh, ánh sáng mà người nghe có thể cảm nhận được đầy đủ
các vấn đề của xã hội, của con người được đề cập trong tác phẩm. Hơn thế
con người có thể tìm thấy mình, những người thân, những người xung quanh
mình trong đó.
Điện ảnh đã được hàng triệu người trên thế giới hào hứng chào đón.
Trong lịch sử phát triển của mình điện ảnh đã chứng tỏ tính ưu việt của một
bộ môn nghệ thuật tổng hợp có tác động mạnh mẽ đến tinh thần của quần
chúng người xem. Chưa có một bộ môn nghệ thuật nào lại có tính phổ cập
11

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đến vậy, đồng thời lại đa năng đến như thế. Nó có khả năng hình thành quan
điểm và thị hiếu của người xem. Trong cuộc sống con người thường xây dựng
cho mình cách ứng xử theo một khuôn mẫu nhất định. Những khuôn mẫu này
được tìm thấy ở hình ảnh cụ thể của người cha, người mẹ, người thầy, người
anh hay thần tượng của mình…Và điện ảnh giới thiệu với họ những khuôn
mẫu điển hình như thể bằng hình tượng nghệ thuật, theo ngôn ngữ của điện
ảnh. Điện ảnh đã tác động đến trí tuệ, tâm hồn, mang đến cho người xem
những hiểu biết mới, những tình cảm mới góp phần điều chỉnh các quan hệ xã
hội, hành vi theo lý tưởng của thời đại. Điện ảnh xây dựng nên hình tượng,
hình mẫu mà người xem thường tìm thấy ở đó thần tượng, mầu người cho
mình bắt chước. Điện ảnh mang đến cho con người những khuôn mẫu ứng xử
dưới dạng những hình ảnh cụ thể như cuộc đời với những khả năng nhận
thức, phản ánh như thế. Điện ảnh là phương tiện của trí tuệ, làm giầu sự hiểu
biết của con người, một hình thức hoạt động, nâng cao dân trí, một hình thái
đặc thù nhận thức xã hội, không những thế điện ảnh còn thức tỉnh những nhu
cầu tiềm ẩn, sâu xa của con người. Do thế V.I Lenin đã nói rằng: “…đối với
chúng ta trong các loại hình nghệ thuật, điện ảnh la nghệ thuật quan trọng bậc
nhất vì tính rộng rãi của nó…” [11, tr.272].
1.2.2. Thị hiếu điện ảnh
“Thị hiếu điện ảnh là biểu hiện mức độ yêu thích điện ảnh của chủ thể.
Nó còn là khuynh hướng, kết quả lựa chọn nhu cầu điện ảnh và cũng là biểu
hiện năng lực thưởng thức điện ảnh của chủ thể” [5, tr.78].
Thông thường tính hấp dẫn của tác phẩm điện ảnh tỷ lệ thuận với tác
động gây khoái cảm của nó với chủ thể. Có hai mâu thuẫn như sau: thứ nhất
là tác phẩm hay nhưng chủ thể lại không thích, thứ hai là tác phẩm không hay
nhưng chủ thể lại thích. Có thể giải thích sự tồn tại của các trạng thái này bởi
sự tham gia của thị hiếu vào việc thưởng thức các tác phẩm của chủ thể. Thị
hiếu góp phần vào việc định hướng cho hoạt động của chủ thể, tạo cho chủ
thể những trạng thái, tình cảm yêu thích hay ngược lại.

12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong nghệ thuật cũng như trong điện ảnh, thị hiếu hiện diện như một
thành phần không thể thiếu để quyết định xu hướng hoạt động thoả mãn nhu
cầu điện ảnh của người sáng tác cũng như công chúng khán giả. Thị hiếu điện
ảnh đề cập như một thành phần tham gia vào nhu cầu điện ảnh.
Thị hiếu điện ảnh thúc đẩy quá trình tiếp xúc giữa chủ thể thẩm mỹ
(công chúng) và đối tượng thẩm mỹ (tác phẩm điện ảnh). Trong khi thưởng
thức, đánh giá một tác phẩm điện ảnh, khán giả nảy sinh sở thích hay không
thích một yếu tố nào đó trong phim. Và họ có nhu cầu tìm hiểu sâu sắc hơn về
tác phẩm đó hay tác phẩm khác. Thí dụ như khi xem bộ phim “Cánh đồng
hoang” một khán giả rất ấn tượng cảnh cuối phim khi người vợ trẻ ôm đứa
con và bắn rơi máy bay để trả thù cho chồng. Và vị khán giả đó nảy sinh
mong muốn tìm hiểu sâu hơn về nghệ thuật quay của phim.
Ở đây chúng ta cần phân biệt hai khái niệm nhu cầu điện ảnh và thị
hiếu điện ảnh. “Nếu nhu cầu điện ảnh là động cơ thúc đẩy con người hành
động để lĩnh hội, thưởng thức và sáng tạo ra các giá trị điện ảnh thì thị hiếu
điện ảnh lại là khả năng thẩm thấu, đánh giá của con người với các giá trị đó”
[5, tr.46]. Nhu cầu điện ảnh thôi thúc sự tìm kiếm, kích thích tính tích cực của
con người vượt qua trở ngại, khắc phục điều kiện và hoàn cảnh đến với tác
phẩm điện ảnh thì thị hiếu là cánh cửa đón con người vào với thế giới điện
ảnh. Nhu cầu điện ảnh là những thuộc tính tiềm ẩn bên trong vốn có của con
người, còn thị hiếu điện ảnh được dần dần hình thành trong quá trình hoạt
động thực tiễn của họ. Tuy có sự phân biệt nhưng nhu cầu điện ảnh và thị
hiếu điện ảnh lại có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu nhu cầu điện ảnh là cơ sở
để nảy sinh thị hiếu điện ảnh thì thị hiếu điện ảnh lại là một dạng động cơ của
nhu cầu điện ảnh.
Sở thích cá nhân là biểu hiện cụ thể của thị hiếu điện ảnh. Ở trình độ
nào đó nó đơn thuần là “thích” hay “không thích”. Trong quá trình thực tiễn,
thị hiếu thẩm mỹ nói chung trong đó có thị hiếu điện ảnh dần dần được nâng

lên và con người có những phản ứng nội tâm phong phú, sâu sắc, nhạy bén có
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khả năng phát hiện, đánh giá những giá trị sâu lắng, tinh tế của tác phẩm, có
khả năng tiếp thu những cái mới lạ…Lúc này không chỉ còn đơn thuần là
thích hay không thích mà nhờ có thị hiếu chủ thể có thể lý giải rõ ràng “tại
sao thích” hay “tại sao không thích”. Đối với mỗi người thì thói quen thị hiếu
được hình thành lâu dài thể hiện tính cách của cá nhân. Sức mạnh thói quen
nhất là thói quen thị hiếu được củng cố về mặt tình cảm trong tính cách cá
nhân là rất lớn.
Sở thích cá nhân nhưng diễn ra liên tục và lâu dài đến một mức độ nhất
định là biểu hiện ổn định của nhu cầu điện ảnh. Sự ưa thích đó là cơ sở cho sự
lựa chọn tích cực hoạt động điện ảnh của công chúng. Thị hiếu điện ảnh là
khuynh hướng và cũng là kết quả lựa chọn nhu cầu điện ảnh, không những thế
nó còn biểu hiện năng lực thưởng thức điện ảnh của cá nhân.
1.3. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN
1.3.1. Sinh viên
Trong từ điển Tiếng Việt có nêu: “Sinh viên là những người học ở
trường đại học” [22, tr. 750]. Tức là sinh viên là những người đang học tập và
nắm lấy chuyên môn ở trong các trường học đại học, cao đẳng. Kon I.X đặc
biệt nhấn mạnh: “Sinh viên là nhóm xã hội đặc biệt, nhóm người đang chuẩn
bị kiến thức và kinh nghiệm để bước vào lao động nghề nghiệp trong tương
lai” [23, tr.55].
Về phương diện xã hội, sinh viên là những người ngồi ghế nhà trường
phổ thông, có nghĩa là từ 18 đến 25 tuổi . Đây là giai đoạn phát triển ổn định
về hệ xuơng, cơ bắp và mạnh về trí óc, sức sáng tạo tạo ra vể đẹp hoàn mỹ ở
người sinh viên.
Sinh viên là bộ phận dân cư trẻ tuổi được xã hội quan tâm, đào tạo một
các hệ thống cơ bản để trở thành lực lượng lao động và quản lý xã hội tương
lai. Các tổ chức chính trị xã hội, gia đình đều đặt kỳ vọng vào sinh viên, làm

nâng cao vai trò, vị trí của sinh viên trong xã hội.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đối với sinh viên học tập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, các hoạt động
nhận thức, hoạt động trí tuệ đóng vai trò quan trọng. Sinh viên phải lĩnh hội
kiến thức mang tính chất chuyên ngành, sâu hơn phải thích ứng với những
phương pháp mới, khác hẳn so với các truờng phổ thông. Những kiến thức đó
sẽ là cơ sở cho nghề nghiệp của họ sau này. Ngoài ra sinh viên còn tích cực
tham gia các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao. Các câu lạc bộ
văn thơ, hội hoạ, khiêu vũ…luôn hấp dẫn lôi cuốn sự tham gia của sinh viên
để thoả mãn nhu cầu giao lưu phong phú và nhu cầu rèn luyện toàn diện của
sinh viên. Bởi vậy, ở sinh viên luôn có sự năng động, sáng tạo, linh hoạt với
hoàn cảnh và thích nghi rất nhanh với cái mới.
Tuổi sinh viên cũng là thời kì phát triển tích cực nhất của hoạt động
tình cảm như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Những
tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong các hoạt động của sinh viên. Để
thoả mãn tình cảm trí tuệ, sinh viên không chỉ học những gì có sẵn trong
chương trình bắt buộc mà họ còn mở rộng, đào sâu kiến thức của mình bằng
nhiều cách với nhiều nguồn cung cấp kiến thức thông tin như: tìm đọc ở thư
viện, học trên các phương tiện truyền thông, tham gia các hoạt động ngoại
khoá, các hoạt động nghiên cứu khoa học hay các hội thảo khoa học…Chính
tình cảm trí tuệ đã làm cho luợng trí thức sinh viên tích luỹ thường lớn.
Sinh còn là người yêu vẻ đẹp thể hiện ở hành vi, đạo đức, vẻ đẹp thẩm
mỹ ở các sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc con người tạo ra. Và tình cảm đạo
đức, tình cảm thẩm mỹ thể hiện ở một chiều sâu rõ rệt, yêu thích cái gì họ đều
thể hiện cố gắng lý giải và phân tích một cách có cơ sở. Đặc biệt đời sống tình
cảm của sinh viên khá phong phú bởi những đòi hỏi cấp thiết khi tâm sinh lý
của họ đã phát triển. Cũng chính vì thế mà nhu cầu tinh thần của họ càng lớn.
Họ muốn thưởng thức, đánh giá và tham gia vào các loại hình văn hoá văn
hoá nghệ thuật. Sinh viên chính là nguồn khán giả đông đảo của trong các buổi

biểu diễn ca nhạc, trình diễn thời trang hay những buổỉ chiếu phim. Sự thoả
mãn nhu cầu này của sinh viên góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết của họ về
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xã hội, những kiến thức của cuộc sống, những tình cảm mới lạ và đẹp đẽ,
những bài học bổ ích, hiểu biết về nghệ thuật đặc biệt là tình cảm thẩm mỹ.
1.3.2. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên
Thị hiếu điện ảnh của sinh viên là những yêu thích, là sự lựa chọn phổ
biến trong lĩnh vực điện ảnh của những người trẻ tuổi đang học tập và nghiên
cứu trong các trường đại học, cao đẳng. Sự yêu thích lựa chọn ấy giúp cho họ
thu thập kiến thức khoa học và những kinh nghiệm chuyên môn giúp cho họ
trở thành những chuyên gia trong tương lai và chuẩn bị bước vào lao động,
sản xuất.
Sinh viên là những người có nhu cầu rất cao về điện ảnh bởi thông qua
các tác phẩm điện ảnh họ tìm thấy trong đó những thông tin về cuộc sống,
tình cảm, về lao động, học tập. Nhu cầu cao thì cũng kèm theo đòi hỏi cao về
nội dung, chất lượng của điện ảnh. Bởi thế đến với điện ảnh họ luôn có niềm
đam mê được thưởng thức, đánh giá và sáng tạo điện ảnh. Trong quá trình ấy,
họ luôn luôn thể hiện quan điểm của mình yêu thích cái này, lựa chọn cái này,
bác bỏ cái khác vì cho là không hay không phù hợp. Họ có những đánh giá
khác quan nhiều khi là chủ quan đối với những khía cạnh, những lĩnh vực của
điện ảnh. Tuy nhiên khách quan hay chủ quan đều thể hiện thị hiếu điện ảnh
của sinh viên.
Thị hiếu điện ảnh của sinh viên đã thể hiện quan điểm của sinh viên về
cuộc sống, tình bạn, tình yêu hay cao hơn là “cách sống” của họ. Trong bối
cảnh mở cửa hội nhập này, thị hiếu điện ảnh của sinh viên lại càng được thể
hiện một cách phong phú hơn.
Chương 2
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT
SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
2.1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CƠ SỞ
ĐIỆN ẢNH TẠI HÀ NỘI
2.1.1. Khái quát về đời sống vật chất, đời sống tinh thần của sinh
viên các trường đại học tại Hà Nội
Về đời sống vật chất:
Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2006, trên địa bàn Hà Nội có
35 trường đại học với 1,4 triệu sinh viên (trong đó công lập khoảng 1,2 triệu).
Một bộ phận sinh viên sống ở nội trú, còn hầu hết sinh viên ở ngoại trú.
Đời sống vật chất của ngày càng tăng nên sinh viên bớt đi gánh nặng,
có điều kiện để học tập hơn. Họ có thể tiếp thu kiến thức trên nhiều hình thức,
nhiều phương tiện khác nhau. Sinh viên không còn phải học “chay” như trước
kia, mà họ có sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học như slide, máy chiếu, máy
tính… Giờ học thực hành của sinh viên các trường kĩ thuật như đai học Bách
khoa hiệu quả hơn nhờ được trang bị kĩ thuật hiện đại. Sinh viên khối xã hội
như đại học Văn hoá, đại học Khoa học xã hội và nhân văn được đi thực tế
nhiều hơn làm giàu kiến thức chuyên môn của mình. Hình ảnh của những sinh
viên bước lên giảng đường với chiếc laptop không còn là hiếm. Đặc biệt với
sự bùng nổ của mạng lưới truyền thông, cùng với sự năng động nhạy bén,
sinh viên có thể dễ dàng tiếp thu các kiến thức ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Chỉ cần kích chuột vào một trang web thì cả chân trời tri thức mở ra. Đất
nước bước vào hội nhập đồng nghĩa với việc nhiều cơ hội mở ra cho sinh
viên. Sinh viên có thể tìm ra nhiều công việc phù hợp với mình. Nó không chỉ
giúp cho họ có thêm nhiều kinh nghiệm thực tiễn, trở nên năng động hơn mà
còn mang lại một khoản thu nhập.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tuy nhiên với những nhu cầu vật chất ngày càng cao, gia đình lại

không có khả năng đáp ứng nên nhiều sinh viên vì mải đi kiếm đã bỏ bê học
hành.
Về đời sống tinh thần
So với thời trước thì đời sống tinh thần sinh viên hiện nay được cải
thiện hơn nhiều. Các trường đại học tổ chức nhiều hơn các buổi diễn ca nhạc,
các buổi nói chuyện chuyên đề về những vấn đề mà sinh viên quan tâm…Các
bạn sinh viên có thể tham gia vào các hoạt động văn hoá, văn nghệ, làm
phong phú thêm tâm hồn của mình.
Đời sống tinh thần của sinh viên kí túc xá được quan tâm hơn. Các tổ
chức Đoàn và Hội sinh viên hoạt động tích cực hơn, có hiệu quả hơn. Tại kí
túc xá của trường đại học Kinh tế quốc dân đang thực hiện khá tốt mô hình
phát thanh kí túc xá tạo điều kiện cho sinh viên có thể cập nhật những thông
tin về nghệ thuật nói chung và điện ảnh nói riêng, được thưởng thức những
bài hát hay, những áng văn đẹp. Trường đại học Văn hoá Hà Nội với chuyên
ngành nghệ thuật thường xuyên tổ chức hội thi tiếng hát sinh viên, sinh viên
thanh lịch, các buổi gặp gỡ các nhà thơ, nhà văn. Phong trào văn hoá văn
nghệ của trường đại học Bách khoa Hà Nội, trường đại học Khoa học xã hội
và nhân văn cũng khá sôi nổi, lôi cuốn được nhiều sinh viên tham gia.
Đời sống tinh thần của sinh viên được nhà trường quan tâm hơn nhiều
nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của sinh viên. Bản thân
sinh viên tự tìm các hoạt động giải trí cho mình. Họ đến nhiều hơn với các
buổi diễn ca nhạc của các “sao”, các quán âm nhạc, sàn nhảy Bên cạnh
những sở thích tốt đẹp, cũng nảy sinh những thị hiếu không lành mạnh.
2.1.2. Khái quát về các cơ sở điện ảnh trên địa bàn Hà Nội
Hà Nội là thủ đô, nằm ở vị trí trung tâm của cả nước nên tập trung các
cơ sở điện ảnh phục vụ cho công chúng. Luật Điện ảnh năm 2006 quy định:
“Cơ sở điện ảnh là cơ sở do tổ chức, cá nhân thành lập, hoạt động trong lĩnh
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vực sản xuất phim, phát hành phim, phổ biến phim theo quy định của luật này

và các quy định khác của pháp luật có liên quan.” [15, tr.9]
Trên địa bàn Hà Nội có các hãng phim của nhà nước như: hãng phim
truyện Việt Nam, hãng phim truyện I. Các tổ chức, đoàn thể đã thành lập các
hãng phim của họ như: Hôđa phim (Hội điện ảnh Việt Nam), hãng phim Ngọc
Khánh (Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh), hãng phim Công an nhân dân
(Bộ công an)…Các hãng phim này được thành lập với chủ chương xã hội hoá
điện ảnh. Khác với các hãng phim nhà nước, các hãng phim này phải tự huy
động vốn và tự marketing để cho ra những sản phẩm đa dạng như phim tài
liệu, phim truyện, phim ca nhạc…
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, có khá nhiều rạp chiếu phim, trong đó
có thể chia ra thành bốn loại. Loại thứ nhất do Bộ Văn hoá thông tin quản lý,
hình thức hoạt động là doanh nghiệp công ích hoặc sự nghiệp có thu như
Trung tâm chiếu bóng quốc gia, Cinema Ngọc Khánh…Loại thứ hai thuộc sở
hữu của các đơn vị chức năng xuất nhập khẩu và phát hành phim như: Fafilm
Cinema (thuộc fafilm Việt Nam), mạng lưới của các công ty điện ảnh băng
hình thuộc thành phố (rạp tháng Tám, Công ty Điện ảnh băng hình Hà Nội).
Loại thứ ba chọn mô hình liên doanh liên kết như Đăng Dung là địa chỉ liên
doanh giữa Cine Net và công ty điện ảnh và băng hình nhà nước, Dân chủ là
liên doanh giữa Fafilm Việt Nam và công ty Mỹ Visonet. Trong những năm
vừa qua, các rạp đều đầu tư tu sửa hoặc xây dựng lại, đổi mới trang thiết bị để
thu hút khán giả đến với rạp. Thí dụ như rạp Dân chủ có 328 chỗ ngồi, hệ
thống đèn và âm thanh được thiết kế qua máy tính tạo nên độ tin cậy về chất
lượng; rạp Đăng Dung đã có tới 140 chỗ ngồi, 4 buổi chiếu/ngày, trung bình
4000 lượt người xem/tháng; rạp Bạch Mai có 300 chỗ ngồi…
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.2. THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN
MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
2.2.1. Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực thưởng thức điện ảnh
2.2.1.1. Sinh viên yêu thích thưởng thức điện ảnh

Khi được hỏi thì 98% sinh viên đều trả lời rằng họ rất yêu thích điện
ảnh. Và nếu được lựa chọn một môn nghệ thuật để thưởng thức sinh viên sẽ
chọn điện ảnh. Theo một cuộc điều tra nhỏ của Tiến sĩ Hoàng Trần Doãn thì
ông thấy rằng trong các loại hình văn hoá nghệ thuật thì sinh viên yêu thích
nhất điện ảnh. Số sinh viên lựa chọn điện ảnh chiếm 51,2%, chiếm tỷ lệ cao
nhất. Còn các loại hình khác thì thấp hơn, chẳng hạn như: hội hoạ chiếm
23,6%, nhiếp ảnh chiếm 26,7% Ngay cả ca múa nhạc, một loại hình rất gần
gũi với công chúng đặc biệt phù hợp với sinh viên cũng chỉ chiếm 46,1%.
Những con số trên chứng tỏ sức hấp dẫn của điện ảnh đối với sinh viên.
Người viết đã làm một cuộc phỏng vấn đối với một số sinh viên để
thêm phần khẳng định mức độ yêu thích điện ảnh của họ. Bạn Vũ Thị Thu,
sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã nói rằng: “Mình rất
thích điện ảnh vì mình có thể vừa giải trí vừa có thể hiểu biết về thế giới xung
quanh”.
Là sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân, luôn phải tính toán với
các con số nhưng bạn Vũ Kim Dung lại rất yêu thích văn hoá nghệ thuật đặc
biệt là điện ảnh. Bạn đã nói rằng: “Tôi thích xem phim vì mỗi khi xem phim
tôi được sống trong tưởng tượng, được trải nghiệm nhiều điều lý thú kể cả
những cái mà ngoài đời không có”.
Bạn Nguyễn Thị Liên, sinh viên trường đại học Văn hoá Hà Nội cho
biết: “Tớ rất thích xem phim đặc biệt là những bộ phim chuyển thể kịch bản
văn học vì nó giúp tớ hình dung những nhân vật trong các phẩm văn học một
cách cụ thể và sinh động hơn. Nhiều cuốn tiểu thuyết bọn tớ chưa có thời gian
đọc nhưng nhờ xem các bộ phim chuyển thể này chúng tớ yêu thích đọc
những tác phẩm đó hơn”.
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sở dĩ sinh viên yêu thích điện ảnh bởi những lợi ích mà điện ảnh đem
tới cho họ là rất lớn. Là nghệ thuật tổng hợp, mỗi tác phẩm điện ảnh chứa
nhiều nội dung và cùng một lúc có khả năng thoả mãn nhiều nhu cầu khác

nhau của sinh viên. Sinh viên đến với điện ảnh từ rất nhiều lý do khác nhau.
Người viết đã làm một cuộc trắc nghiệm về mục đích đến với điện ảnh của
sinh viên với 1000 phiếu phát ra và đã thu được kết quả như sau:
Bảng điều tra mục đích đến với điện ảnh của sinh viên (đơn vị:%)
TT Mục đích đến với điện ảnh
Mức độ quan trọng
Rất quan
trọng
Quan
trọng
Ko
quan
trọng
1 Giải trí 60,5 32,3 7,2
2 Nắm bắt những thông tin có ích cho
học tập
23,5 54,0 22,5
3 Làm giàu kiến thức và kinh nghiệm
sống
27,4 67,9 4,7
4 Trải nghiệm những tình huống mà
thực tế chưa trải qua
13,4 59,0 27,6
5 Làm tăng hiểu biết về nghệ thuật 5,1 65,6 29,3
6 Tìm thấy ý nghĩa tốt đẹp của cuộc
sống
31,7 41,3 27,0
7 Tìm cho mình thần tượng để mình
noi theo
4,6 25,9 69,5

8 Tìm những rung động nghệ thuật 2,8 34,0 63,2
9 Tái tạo nghệ thuật 5,0 21,0 74,0
Sinh viên đến với điện ảnh với mục đích giải trí là chính. Con số 59,5%
với mức độ quan trọng đã nói lên điều đó. Các sinh viên mà người viết phỏng
vấn đều để cập đến tính giải trí mà điện ảnh mang lại. Có sinh viên đã nói
rằng: “Tôi thích xem phim vì nó giúp tôi thoải mái đầu óc sau những giờ học
căng thẳng”. Tuổi sinh viên đang ở giai đoạn họ phải tiếp thu một khối lượng
kiến thức khoa học khá lớn để phục vụ cho nghề nghiệp sau này. Vì thế họ
phải trải qua những giờ học vất vả. Sinh viên tìm đến điện ảnh như là tìm
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những giây phút thư giãn. Giải trí đối với con người nói chung và sinh viên
trong xã hội hiện đại như ngày nay là rất cần thiết và trở thành nhu cầu không
thể thiếu trong cuộc sống. Họ đến với điện ảnh một cách tự nhiên thoải mái để
rồi sau đó thu được cái gì đó cho mình từ mỗi tác phẩm điện ảnh.
Làm giàu kiến thức và kinh nghiệm sống chiếm vị trí thứ hai trong mục
đích đến với điện ảnh của sinh viên. Ngoài giải trí ra, điện ảnh còn cung cấp
cho họ rất nhiều thông tin giúp họ tăng thêm lượng kiến thức trong cuộc sống.
Sinh viên là những người ham hiểu biết. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ
hầu như chỉ tiếp xúc với những kiến thức khoa học nên những kiến thức về
cuộc sống của họ vẫn chưa nhiều. Điện ảnh đã làm rất tốt điều này.
Không chỉ làm giàu kiến thức, điện ảnh còn cho sinh viên thấy ý nghĩa
tốt đẹp của cuộc sống. Sinh viên là lứa tuổi phát triển về đời sống tình cảm,
họ là những người gọi là “mới lớn”, là những người lãng mạn. Chính vì thế
họ tìm đến với điện ảnh như đến mục đích sống cao đẹp để từ đó họ có thể
sống tốt đẹp hơn.
Trong tác phẩm điện ảnh, những tình huống thực của cuộc sống được
nghệ thuật hoá, những chi tiết nghệ thuật lại được hiện thực hoá. Nhờ đó việc
tiếp xúc của người xem với các tác phẩm nghệ thuật giúp họ có thể trải
nghiệm được những tình huống thực trong cuộc đời mà nhiều khi họ chưa gặp

hay chưa trải qua. Ví dụ như xem bộ phim “Titanic” của điện ảnh Mỹ, người
xem có thể cảm nhận, trải nghiệm sự hoảng loạn của hành khách khi con tàu
gặp tai nạn trên biển thông qua diễn xuất của diễn viên mà không cần phải
chứng kiến hay trải qua tai nạn như vậy. Sự trải nghiệm này làm cho người ta
thêm kinh nghiêm sống, giúp họ có thể hình dung được sự việc xảy ra và có
thể chủ động giải quyết. Đây cũng là mục đích mà sinh viên muốn đạt được
khi tiếp xúc với điện ảnh và cũng chứng tỏ hiệu quả điện ảnh đem đến với họ.
Mục đích đến với điện ảnh của sinh viên hai khối tự nhiên và khoa học
xã hội khác nhau. Sinh viên khối xã hội đến với điện ảnh nhiều hơn với mục
đích tăng thêm hiểu biết về nghệ thuật, tìm những rung động nghệ thuật hay
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tái tạo nghệ thật. Phải chăng là do ngành khoa học xã hội là ngành nghiên cứu
các vấn đề của con người, các quan hệ gắn với tâm tư, tình cảm của con
người. Nhưng nói tóm lại, dù là sinh viên khối nào thì họ cũng là những
người yêu thích thưởng thức điện ảnh và có niềm đam mê với môn nghệ thuật
thứ bảy này.
2.2.1.2. Phương thức thưởng thức điện ảnh của sinh viên
Người viết đã lựa chọn một vài phương thức xem phim chủ yếu của
sinh viên để làm một cuộc điều tra
Bảng điều tra số lần xem phim 1 tuần
Số lần/tuần Xem trên TV Xem bằng đĩa Xem trên Internet
0 lần 0 0 0
1 lần 0 0 0
2 lần 12,8 10,7 9,2
3 lần 36,8 23,6 15,4
Hơn 3 lần 58,2 24,3 16,7
Sau các giờ học căng thẳng, sinh viên có nhiều cách giải trí khác nhau
như đọc sách báo, đọc truyện, chơi thể thao, chat, đi chơi với bạn bè…Nhưng
họ vẫn dành một khoảng thời gian thư giãn của mình cho điện ảnh. Hình thức

xem phim của học chủ yếu là xem trên ti vi. Đến với những khu trọ sinh viên,
người viết thấy rất rõ điều này. Các khu nhà trọ thường chỉ có vài cái ti vi, và
mỗi tối sinh viên tập trung rất đông ở một phòng để cùng xem một bộ phim
yêu thích. Đây là một trong những minh chứng thể hiện sự yêu thích điện ảnh
của họ.
Sinh viên thích xem phim, họ đã tìm đến với điện ảnh bằng nhiều hình
thức khác nhau như xem đĩa hoặc xem trên Internet. Những bộ phim nổi tiếng
của điện ảnh Việt Nam và thế giới sinh được họ thuê đĩa về xem. Và một cách
đơn giản để sinh viên xem phim hiệu quả và phổ biến nhất là “lướt web”. Họ
có thể lựa chọn vô vàn trang để xem khi vào các trang web như
www.phim24g.net, www.ephim.com, www.loadphim.com. Cả thế giới phim
online mở ra cho sinh viên thưởng thức phim cũ, phim mới kể cả những phim
rạp chưa chiếu, truyền hình chưa phát.
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Những sinh viên có điều kiện thì đến các rạp để xem phim. Họ yêu
thích đến rạp bởi vì rạp là nơi thưởng thức tốt nhất các tác phẩm điện ảnh.
Rạp có phục vụ tốt, phương tiện máy móc hiện đại. Hơn nữa đi xem rạp mỗi
người đều cảm nhận được không khí thưởng thức nghệ thuật và được giao lưu
cảm xúc nghệ thuật. Nhưng không phải sinh viên nào cũng có điều kiện đến
rạp. Chỉ có 18,4 % bạn lựa chọn đến xem phim 1 lần/tháng, 7% là 2 lần/
tháng, còn lại đều không lần nào.
Bảng điều tra số lần đến xem phim ở rạp 1 tháng (đơn vị %)
Số lần đến xem phim ở rạp 1 tháng
0 lần 1 lần 2 lần 3 lần Hơn 3 lần
74,6 18,4 7,0 0 0
2.2.1.3. Những yêu thích của sinh viên trong thưởng thức điện ảnh
 Sự lựa chọn thể loại điện ảnh của sinh viên
Trong điện ảnh có rất nhiều thể loại phim như phim tài liệu, thời sự,
phổ biến khoa học, phim truyện, phim hoạt hình. Những lựa chọn của sinh

viên đối với các thể loại này thể hiện sự yêu thích hay không yêu thích của
họ, người ta gọi là thị hiếu. Thái độ mong muốn lựa chọn thể loại điện ảnh
của sinh viên được thể hiện như sau:
Bảng điều tra các thể loại điện ảnh sinh viên yêu thích (đơn vị: %)
TT Thể loại điện ảnh
Mức độ yêu thích
Rất
thích
Thích
Bình
thường
Ko
thích
1 Tài liệu, phóng sự, khoa học 7,3 14,7 36,6 41,4
2 Phim truyện 43,7 36,1 15,4 4,8
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3 Phim hoạt hình 10,4 13,1 42,2 34,3
Qua bảng số liệu thấy rằng sinh viên thích xem phim truyện nhất, tiếp
đến là phim hoạt hình, cuối cùng là phim tài liệu, phóng sự khoa học.
Câu hỏi đặt ra ở đây là sinh viên chỉ thích xem phim truyện mà không
thích xem các thể loại khác nhất là phim phóng sự, tài liệu, khoa học.
Mỗi thể loại phim khác nhau có đặc điểm, chức năng khác nhau và các
tác giả sử dụng thể loại này vào mục đích khác nhau khi muốn chuyển tải
những vấn đề của xã hội, con người đến người xem. Các thể hiện của phim
truyện phù hợp với sinh viên hơn các thể loại khác.
Mang tính chính luận, ít tính giải trí, phim tài liệu, phóng sự khoa học
là thể loại báo chí mang nhiều thông tin và tính chân thật. Chức năng chủ yếu
của thể loại này là phổ biến kiến thức người xem nên không có kịch tính, lời
nói chủ yếu của người thuyết minh chứ không phải của diễn viên. Do vậy thể

loại này kém hấp dẫn, ít thu hút với người xem. Như đã nói ở trên sinh viên
đến với điện ảnh với mục đích giải trí là chính nên ít bạn chọn thể loại này
(chỉ có 7,3%).
Phim truyện là loại phim do diễn viên đóng, có hư cấu với chủ định của
tác giả được gọi là phim nghệ thuật. Với tính nghệ thuật cao ở nội dung và
cách thức thể hiện bằng ngôn ngữ điện ảnh mà mặc nhiên người ta coi phim
truyện là tiêu biểu cho nền điện ảnh quốc gia. Qua các tác phẩm phim truyện,
người xem thấy được các vấn đề của xã hội, con người. Phim truyện phản ánh
toàn vẹn và sinh động hiện thực cuộc sống theo hướng tiếp xúc gần gũi nhất.
Người xem có thể tìm thấy hình ảnh của mình, của người thân, bạn bè trong
phim. Mặt khác với độ dài thích hợp, khả năng mô tả, mổ xẻ những vấn đề
thực tiễn được thể hiện khúc triết hơn, đầy đủ hơn giúp cho người xem dễ
theo dõi, dễ đồng cảm hơn đối với nhân vật. Bên cạnh đó, cùng với sự phối
hợp một cách nhuần nhuyễn của các bộ môn nghệ thuật khác nhau như nghệ
thuật biểu diễn, âm nhạc, hội hoạ đem lại hiệu quả cảm xúc cho người xem.
Phim truyện với những lợi thế đó đã tác động mạnh mẽ vào tình cảm của nhận
25

×