MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta bước vào thời kỳ hội nhập với những cơ hội và
thách thức trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để khắc phục
nguy cơ tụt hậu trong điều kiện hội nhập với thế giới, cần quan tâm
đến giáo dục, coi đó là "quốc sách" hàng đầu.
Hứng thú có vai trò quan trọng trong quá trình DHLS ở
trường phổ thông. Hứng thú học tập giúp HS nhanh chóng tiếp thu bài,
nhớ bài lâu, hiểu được tầm quan trọng của lịch sử đối với sự phát triển
của nhân loại. Hứng thú học tập còn giúp HS học tập say mê, tự giác
nắm vững kiến thức lịch sử và biết vận dụng những kiến thức đó vào
thực tiễn cuộc sống.
Hứng thú học tập được hình thành trong quá trình dạy học. Ở
trường phổ thông hiện nay, hầu hết HS chưa có hoặc ít có rất hứng
thú với bộ môn lịch sử. Để tạo hứng thú học tập lịch sử cho HS cần
tiến hành trên tất cả các mặt nội dung và PPDH. Trong đó đổi mới
PPDH là yêu cầu sống còn nhằm nhanh chóng thực hiện mục tiêu dạy
học đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề
"Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường
THPT (Thực nghiệm qua phần Lịch sử thế giới lớp 10 - chương
trình chuẩn)" làm đề tài Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lý luận và
PPDH môn Lịch sử.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Quá trình tạo hứng thú học tập cho HS
trong dạy học Lịch sử (thực nghiệm phần LSTG lớp 10 – THPT).
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án không có tham vọng nghiên cứu tất cả các lĩnh vực
của hứng thú, mà trên cơ sở nghiên cứu hứng thú học tập, hứng thú
học tập lịch sử và vai trò, ý nghĩa của nó trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông, chúng tôi tập trung đề xuất một số biện pháp sư
phạm về nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp tiến hành bài
học nghiên cứu kiến thức mới ở trên lớp để tạo hứng thú học tập cho
HS (thực nghiệm phần LSTG lớp 10 – THPT).
- Chúng tôi tiến hành điều tra thực tế và thực nghiệm sư
phạm tại một số tỉnh như Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc
Giang, Sơn La, Quảng Ninh…
1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc tạo hứng thú trong học
tập lịch sử, xác định những biểu hiện và yếu tố tác động đến hứng thú
trong học tập lịch sử của học sinh, từ đó đề xuất những biện pháp sư
phạm về nội dung, hình thức tổ chức day học và các PPDH nhằm tạo
hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Để thực hiện mục đích trên, luận án cần giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu lý luận về Tâm lý học, Giáo dục học, Giáo dục
lịch sử về vấn đề hứng thú và tạo hứng thú học tập cho HS.
- Tìm hiểu thực tiễn DHLS về vấn đề gây hứng thú học tập
cho HS thông qua phiếu khảo sát, trao đổi, dự giờ
- Tìm hiểu nội dung chương trình, sách giáo khoa lịch sử ở
trường THPT, trong đó tập trung vào phần LSTG lớp 10 (chương
trình chuẩn).
- Đề xuất phương hướng đổi mới thiết kế nội dung bài học,
các hình thức tổ chức dạy học lịch sử và những biện pháp sư phạm
phù hợp nhằm tạo hứng thú học tập cho HS khi tiến hành bài học lịch
sử nội khóa ở trên lớp.
- Thực nghiệm sư phạm từng phần, toàn phần để kiểm chứng
các biện pháp sư phạm, từ đó rút ra kết luận về tính khả thi của các
biện pháp sư phạm đã đề ra.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
- Cơ sở lý luận của đề tài là dựa trên lý luận của chủ nghĩa
Mác Lênin về nhận thức, giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng về giáo dục và giáo dục lịch sử.
- Lý luận về tâm lý, giáo dục học, PPDH bộ môn
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu về Tâm lý
giáo dục, Giáo dục lịch sử, tài liệu lịch sử liên quan, nghiên cứu
chương trình, nội dung SGK lịch sử ở trường THPT nói chung,
LSTG lớp 10 nói riêng.
- Nghiên cứu thực tiễn: Đề tài khảo sát thực tế DHLS ở trường
phổ thông hiện nay thông qua phiếu điều tra, dự giờ làm cơ sở cho việc
đề xuất các biện pháp sư phạm phù hợp. Đối tượng khảo sát là GV, cán
bộ quản lý chuyên môn và HS lớp 10 ở trường THPT.
2
- Thực nghiệm sư phạm: Soạn giáo án và tiến hành thực nghiệm
sư phạm từng phần, toàn phần ở một số trường THPT thuộc Thái
Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang, Hà Giang, Sơn La, Điện Biên,
Quảng Ninh.
- Sử dụng toán học thống kê, tập hợp, xử lý số liệu đã thu được
để phân tích, rút ra nhận xét, kết luận.
5. Giả thuyết khoa học
Thực hiện tốt các biện pháp sư phạm nhằm tạo hứng thú học
tập lịch sử cho học sinh theo những yêu cầu mà luận án đưa ra sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông, đáp
ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp giáo dục hiện nay.
6. Đóng góp của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần:
- Khẳng định rõ vai trò, ý nghĩa của việc tạo hứng thú học tập
cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
- Đánh giá đúng thực trạng việc dạy học lịch sử và thực trạng
vấn đề gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh ở trường THPT.
- Xác định những biểu hiện và các yếu tố tác động tới việc
tạo hứng thú học tập lịch sử cho học sinh.
- Đề xuất những biện pháp sư phạm tạo hứng thú học tập cho
học sinh về thiết kế nội dung bài học, thực hiện các hình thức tổ chức
day học đặc biệt khi tiến hành bài học nghiên cứu kiến thức mới ở
trêm lớp nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường THPT.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài được hoàn thành giúp bản thân tác giả nâng cao trình
độ lí luận DH môn Lịch sử, đặc biệt là các biện pháp tạo hứng thú
học tập lịch sử cho HS
Đề tài góp phần làm phong phú thêm lí luận của PPDH Lịch sử,
về vấn đề tạo hứng thú học tập cho học sinh nhằm nâng cao hiệu quả
dạy học bộ môn.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ được chúng tôi vận dụng vào
DH môn Lịch sử ở trường phổ thông. Đây là tài liệu tham khảo cho
giảng viên, sinh viên các trường cao đẳng sư phạm, đại học sư
phạm… khi dạy học môn PPDH LS và giáo viên lịch sử phổ thông
trong việc vận dụng các biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh
vào dạy học lịch sử để nâng cao chất lượng bộ môn.
3
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Vấn đề tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy
học lịch sử ở trường trung học phổ thông – Lý luận và thực tiễn
Chương 3: Đổi mới thiết kế nội dung bài học và các hình
thức tổ chức day học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
Chương 4: Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học
sinh trong dạy bài lịch sử nghiên cứu kiến thức mới ở trên lớp. Thực
nghiệm sư phạm
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Hứng thú học tập là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu
khoa học giáo dục trong và ngoài nước quan tâm.
Vấn đề hứng thú nói chung được các nhà tâm lý học nghiên
cứu từ những năm đầu thế kỷ XX, tuy nhiên các nhà ngiên cứu lại coi
hứng thú là sự phát triển tự nhiên của con người, chưa chú ý đến sự
tác động của giáo dục và hoạt động có ý thức của con người trong
quá trình hình thành và phát triển hứng thú. Từ những năm 50 của
TK XX, các nhà tâm lý học đã đưa ra khái niệm, phân loại hứng thú,
một số đã đề cập đến con đường hình thành hứng thú nói chung.
Trên cơ sở những tài liệu về hứng thú nói chung, các nhà giáo
dục học đã nêu lên những biểu hiện, các mức độ của hứng thú học
tập, từ đó chỉ ra mối quan hệ giữa hứng thú với tích tích cực, tự giác
của HS; vai trò của PPDH trong việc kích thích hứng thú của HS đối
với khoa học; vai trò của hứng thú đối với kết quả học tập của HS.
Như vậy, để HS có hứng thú trong học tập, phương pháp dạy học của
GV đóng vai trò to lớn. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra biện pháp cụ
thể để phát triển hứng thú học tập nói chung cho HS.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Các nhà tâm lý học Việt Nam đã nêu lên khái niệm về hứng thú,
chỉ ra những biểu hiện của hứng thú học tập và nêu vai trò của hứng
thú trong học tập. Trong giáo dục học, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra vai
trò của hứng thú nhận thức trong việc bồi dưỡng động cơ học tập tích
4
cực cho HS; mối quan hệ giữa hứng thú học tập của HS với việc lựa
chọn nội dung dạy học và sử dụng PPDH của GV.
Trong DHLS, các nhà giáo dục học lịch sử đã đề cập đến vấn đề
hứng thú học tập và cần phải tạo hứng thú học tập cho HS. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ giáo trình và các tài liệu tham khảo về lý luận phương
pháp, các tác giả không thể đi sâu vào các vấn đề lý luận về hứng thú nói
chung, hứng thú học tập nói riêng như trong tâm lý học. Vấn đề này
cũng nhận được sự quan tâm của các học viên cao học, trong luận văn
của mình, các học viên đã nghiên cứu về lý luận hứng thú, hứng thú học
tập và đề xuất biện pháp sư phạm nhằm tạo hứng thú học tập cho HS.
Từ việc nghiên cứu tài liệu trên, chúng tôi tập trung giải quyết
một số vấn đề sau:
- Tiếp thu kết quả nghiên cứu của các tác giả trong lĩnh vực
TLH, giáo dục học, giáo dục lịch sử, từng bước nâng cao cơ sở lý luận
của việc tạo hứng thú học tập cho HS trong DHLS. Từ các khái niệm
hứng thú, hứng thú học tập, luận án xác định rõ các khái niệm hứng
thú, hứng thú học tập, hứng thú học tập lịch sử và tạo hứng thú học tập
lịch sử cho HS; biểu hiện, các mức độ của hứng thú học tập LS. Trên
cơ sở đó, khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc tạo hứng thú học tập cho
HS để nâng cao chất lượng DHLS.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, chúng tôi tiến hành điều tra và
đánh giá thực trạng hứng thú học tập LS của HS ở trường phổ thông.
- Rà soát chương trình LS ở trường THPT (cụ thể là chương
trình LSTG lớp 10 – phần thực nghiệm của luận án) làm cơ sở cho
việc đề xuất các biện pháp sư phạm tạo hứng thú học tập cho HS.
- Tiến hành TNSP từng phần và TNSP toàn phần để kiểm
chứng tính khả thi của các biện pháp sư phạm đã đề xuất.
Chương 2
VẤN ĐỀ TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRONG
DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG -
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề tạo hứng thú học tập lịch sử cho học
sinh
2.1.1. Quan niệm về hứng thú, hứng thú học tập, hứng thú học tập
lịch sử
2.1.1.1. Khái niệm hứng thú, hứng thú học tập và hứng thú học tập lịch sử
5
“Hứng thú” là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong khoa học
cũng như trong đời sống xã hội loài người.
Dựa vào những nghiên cứu của các nhà TLH chúng tôi cho
rằng: Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với đối
tượng nào đó khi hiểu được ý nghĩa, tác dụng của đối tượng đó đối
với cuộc sống và nó mang đến sự khoái cảm cho bản thân.
Hứng thú học tập là thái độ lựa chọn của cá nhân đối với một
đối tượng của hoạt động học tập, là động lực quan trọng thúc đẩy
người học đạt kết quả cao, tạo cho cá nhân động lực để làm việc. Do
đó, để HS thu được kết quả học tập tốt, trong quá trình dạy học, giáo
viên cần có biện pháp tạo hứng thú học tập cho HS.
Từ những nghiên cứu của các nhà giáo dục lịch sử, chúng tôi
sử dụng định nghĩa: “Hứng thú học tập lịch sử là một thái độ say mê
tự giác tích cực đặc biệt của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ thể”
Tạo hứng thú học tập LS cho HS là làm cho HS có thái độ say mê,
tích cực với nội dung LS cụ thể và duy trì niềm say mê, tích cực ấy.
2.1.1.2. Cấu trúc, phân loại và những biểu hiện của hứng thú,
hứng thú học tập
* Cấu trúc của hứng thú
Các nhà tâm lý học cho rằng cấu trúc của hứng thú gồm 3 yếu
tố: có cảm xúc đúng đắn đối với hoạt động; có khía cạnh nhận thức
cảm xúc; có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động.Ba
thành tố trong cấu trúc hứng thú có quan hệ chặt chẽ với nhau.
* Phân loại hứng thú, hứng thú học tập
Hứng thú của con người rất phong phú và đa dạng. Chúng tôi
tập trung nghiên cứu hứng thú học tập của học sinh, do đó theo chúng
tôi có thể phân loại hứng thú theo hứng thú bên ngoài (hứng thú trực
tiếp) và hứng thú bên trong (hứng thú gián tiếp).
* Biểu hiện của hứng thú, hứng thú học tập
Theo các nhà tâm lý học nước ngoài và trong nước, hứng thú
được biểu hiện:
- Xu hướng lựa chọn của quá trình tâm lý của con người nhằm
vào các đối tượng cụ thể của thế giới xung quanh
- Xu thế, nguyện vọng, nhu cầu của cá nhân khi mong muốn hiểu
được một lĩnh vực cụ thể, một hành động xác định mang lại sự thoải mái
cho cá nhân.
6
- Nguồn kích thích mạnh mẽ tới tính tích cực cá nhân, do ảnh
hưởng của nguồn kích thích này mà tất cả các quá trình tâm lý diễn ra
khẩn trương, còn hoạt động thì trở nên say mê và đem lại hiệu quả.
- Thái độ lựa chọn đặc biệt (khi đó con người không thờ ơ, bàng
quan mà tràn đầy những ý định tích cực, một cảm xúc trong sáng, ý chí
tập trung) đối với các đối tượng, các hiện tượng xung quanh.
* Biểu hiện của hứng thú, hứng thú học tập
Theo các nhà tâm lý học nước ngoài và trong nước, hứng thú
được biểu hiện:
- Xu hướng lựa chọn của quá trình tâm lý của con người nhằm
vào các đối tượng cụ thể của thế giới xung quanh
- Xu thế, nguyện vọng, nhu cầu của cá nhân khi mong muốn hiểu
được một lĩnh vực cụ thể, một hành động xác định mang lại sự thoải mái
cho cá nhân.
- Nguồn kích thích mạnh mẽ tới tính tích cực cá nhân, do ảnh
hưởng của nguồn kích thích này mà tất cả các quá trình tâm lý diễn ra
khẩn trương, còn hoạt động thì trở nên say mê và đem lại hiệu quả.
- Thái độ lựa chọn đặc biệt đối với các đối tượng, các hiện
tượng xung quanh.
Căn cứ vào các biểu hiện của hứng thú, hứng thú học tập có
những biểu hiện:
+ Về mặt trí tuệ: Trước hết là xu hướng say mê với việc học tập
bộ môn, có óc tò mò khoa học, ham hiểu biết, luôn tìm tòi suy nghĩ và
sẵn sáng đặt câu hỏi với thầy cô, bạn bè nhằm hiểu sâu vấn đề.
+ Về ý chí: Khi đặt ra vấn đề cần giải quyết, HS luôn kiên
nhẫn suy nghĩ, tìm hiểu vấn đề đến cùng, không ngại khó, ngại khổ
trong quá trình giải quyết vấn đề.
+ Về tình cảm: Thích thú, phấn khởi trong quá trình học tập, chủ
động giành nhiều thời gian cho việc học, dễ xúc cảm về nhận thức, có
thể tỏ ra sung sướng, hạnh phúc khi hoàn thành nhiệm vụ học.
+ Về kết quả: Thường xuyên đạt kết quả cao trong học tập, nếu
kết quả chưa cao thường có xu hướng quyết tâm để đạt kết quả cao hơn.
+ Về năng lực: Phát triển các năng lực nhận thức như: quan
sát, tư duy, tưởng tượng, so sánh, phán đoán, phân tích, khái quát
hóa, trừu tượng hóa…
Các biểu hiện này không riêng rẽ mà có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau nhưng thể hiện rõ nét nhất là ở giai đoạn cuối.
2.1.1.3. Các giai đoạn phát triển của hứng thú
7
Theo các nhà tâm lý giáo dục, hứng thú học tập được hình
thành và phát triển qua ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Rung động định kỳ.
Giai đoạn 2: Thái độ nhận thức xúc cảm tích cực đối với đối tượng.
Giai đoạn 3: Hứng thú trở thành xu hướng của cá nhân
Về các mức độ của hứng thú nhận thức được thể hiện như sau:
Thứ nhất, những dấu hiệu ban đầu của hứng thú học tập là sự tò
mò, tính ham hiểu biết, những xúc cảm với đối tượng, với những hoạt
động mà HS lựa chọn.
Thứ hai, là những rung động nhận thức có tính chất tình huống.
Thứ ba, là hứng thú nhận thức mang tính xúc cảm – nhận thức
Thứ tư, là hứng thú thực sự hình thành và trở nên bền vững.
Để hình thành và phát triển hứng thú học tập thực sự cho HS
không thể bỏ qua các mức độ phát triển của hứng thú, trên cơ sở đó
giáo viên đề xuất những biện pháp sư phạm phù hợp.
2.1.1.4. Biểu hiện, các mức độ phát triển của hứng thú học tập
lịch sử
Hứng thú học tập lịch sử của học sinh được biểu hiện:
+ Về kiến thức: Nhanh chóng tiếp thu kiến thức mới, tích cực
trong việc nhận thức vấn đề. Luôn tìm cách lý giải những sự kiện,
hiện tượng lịch sử khó.
+ Về tư tưởng tình cảm: Thể hiện lòng say mê, thích thú với bộ
môn, chủ động trong tiếp cận vấn đề mới, dành nhiều thời gian học tập
bộ môn, coi việc tìm tòi, học hỏi kiến thức lịch sử là niềm vui.
+ Về kỹ năng: Có kỹ năng quan sát, tổng hợp vấn đề, có thể
khai thác nội dung kênh hình thông qua sự hướng dẫn của giáo viên,
có khả năng phân tích một vấn đề…
+ Biểu hiện về mặt hành động: HS có những biểu hiện tích cực,
chủ động, sáng tạo không chỉ học tập trên lớp mà cả trong tự học ở nhà.
+ Biểu hiện về kết quả học tập: đạt loại khá, giỏi môn Sử
Trên cơ sở những biểu hiện của hứng thú học tập lịch sử, hứng
thú gồm có các mức độ:
- Mức độ 1: HS có hứng thú gián tiếp với môn lịch sử.
- Mức độ 2: HS có hứng thú trực tiếp với bộ môn, tức là có hứng
thú với nội dung tri thức lịch sử. Loại hứng thú này khá bền vững.
- Mức độ 3: là mức độ cao nhất của hứng thú, mức độ này
chính là hứng thú của tư duy
8
2.1.1.5. Những yếu tố tạo nên hứng thú học tập lịch sử của học
sinh
Thứ nhất, yếu tố về nội dung bài học
Thứ hai, yếu tố về phương pháp dạy học lịch sử
Thứ ba, yếu tố sức mạnh của lời nói và thái độ của người thầy
Thứ tư, yếu tố tổ chức các hoạt động học tập cho HS.
Thứ năm, yếu tố về phương tiện, thiết bị kỹ thuật hỗ trợ dạy học.
Thứ sáu, các yếu tố về hoàn cảnh, môi trường học tập.
2.1.2. Xuất phát điểm của việc tạo hứng thú học tập cho học
sinh
2.1.2.1. Mục tiêu môn lịch sử ở trường THPT
Mục tiêu môn lịch sử ở trường THPT là nhằm đào tạo HS đạt
được những yêu cầu sau:
+ Kiến thức: Bộ môn Lịch sử ở trường THPT không những giúp
nắm vững những kiến thức cơ bản, những bước phát triển, những
chuyển biến quan trọng của LS bao gồm cả LSTG và LS dân tộc từ
nguyên thủy đến ngày nay.
+ Kỹ năng: Hình thành và phát triển các kỹ năng làm việc với
SGK và một số tài liệu học tập, kỹ năng phân tích, so sánh, tổng hợp,
khái quát, đánh giá sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử; hình thành kỹ
năng làm việc với tài liệu, kỹ năng sử dụng bản đồ và các tài liệu trực
quan khác. Hình thành kỹ năng tự học cho HS.
+ Tư tưởng, tình cảm: Bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước
gắn liền với tự hào dân tộc, trân trọng những anh hùng, dân tộc,
những di tích lịch sử. Trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc.
Tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học LS góp phần thực
hiện những mục tiêu nêu trên, có hứng thú học tập HS sẽ học tập say
mê, tự giác, có như vậy các em mới đạt được những kết quả cao trong
học tập, từ đó nâng cao chất lượng dạy học.
2.1.2.2. Đặc trưng của bộ môn lịch sử ở trường THPT
Kiến thức LS mà HS cần nắm chính là những hiểu biết về xã
hội loài người đã được ghi chép lại. Chính vì vậy, bộ môn LS ở
trường phổ thông mang những đặc trưng riêng: Kiến thức LS mang
tính không lặp lại, tính toàn diện giúp HS ko chỉ “biết” mà còn
“hiểu” lịch sử , từ đó vận dụng vào cuộc sống.
2.1.2.3. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT
Học sinh THPT là lứa tuổi thanh niên mới lớn, chủ yếu ở độ
tuổi từ 15 đến 18. Đây là thời kỳ các em dần hoàn thiện về mặt thể
9
chất, tâm - sinh lý, đồng thời các em cũng đã ý thức được trách
nhiệm và nghĩa vụ học tập của bản thân. Vì vậy, các em đã có sự nỗ
lực trong học tập, đã độc lập trong suy nghĩ. Thái độ học tập của HS
THPT đã gắn liền với việc lựa chọn nghề nghiệp sau này, các em xác
định hứng thú ổn định với một môn học, một lĩnh vực tri thức nhất
định. Có hứng thú học tập với một môn học cụ thể sẽ giúp các em
học tập say mê, các em có khả năng hiểu sâu sắc môn học mình yêu
thích, nắm được ý nghĩa của những tri thức ấy với cuộc sống, nhờ đó
thành tích học tập cũng được nâng lên, vì vậy động cơ học tập của
HS trở nên rõ ràng hơn. Đây chính là cơ sở hình thành hứng thú bên
trong cho HS.
2.1.2.4. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT
Đổi mới PPDH nói chung, DHLS nói riêng đã và đang là vấn
đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Vấn đề này được nêu rõ trong
các tài liệu, các văn kiện của Đảng, Chính phủ trong những năm gần
đây. Đổi mới PPDH lịch sử gắn liền với đổi mới giáo dục nói chung,
việc đổi mới cần thực hiện ở cả nội dung giáo dục và PPDH.
2.1.3. Quá trình dạy học và các yếu tố của quá trình dạy học
lịch sử ở trường phổ thông
Quá trình DHLS ở trường phổ thông bao gồm nhiều yếu tố, đó là:
thầy, trò, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, kiểm tra
đánh giá, môi trường dạy học. Mỗi thành tố của quá trình dạy học có vai
trò riêng, có sự tác động lẫn nhau và có ảnh hưởng đến chất lượng dạy
học. Do đó, muốn tạo hứng thú học tập cho HS để từ đó nâng cao chất
lượng dạy học, GV cần chú ý đến các yếu tố và phối hợp chúng trong
một tổng thể thống nhất.
2.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc tạo hứng thú học tập cho học sinh
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
2.1.4.1. Vai trò của hứng thú học tập trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông
Với quan niệm về hứng thú nói chung, hứng thú học tập LS nói
riêng có thể thấy hứng thú có vai trò quan trọng trong quá trình hoạt
động của con người. Vì vậy, tạo hứng thú học tập cho HS có vai trò,
ý nghĩa rất lớn trong dạy học. Trong học tập, hứng thú giúp HS học
một cách say mê, khi thu được kết quả học tập cao sẽ trở thành động
lực để tiếp tục duy trì hứng thú.
2.1.4.2. Ý nghĩa của việc tạo hứng thú học tập cho HS
10
- Về mặt nhận thức: Để HS nắm được những kiến thức cơ bản
nhất của khoa học LS, GV phải cung cấp cho các em một hệ thống
các sự kiện cơ bản, giúp HS không chỉ “biết” mà phải “hiểu” sâu sắc
những sự kiện, hiện tượng LS, từ đó mới có thể vận dụng những kiến
thức đó vào thực tiễn cuộc sống.
- Về kỹ năng: tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học lịch sử
là một trong những cơ sở giúp GV phát triển năng lực nhận thức đặc biệt
là năng lực tư duy độc lập, tích cực của HS, đồng thời góp phần hoàn
thiện các kỹ năng, kỹ xảo, năng lực thực hành cho HS.
- Về giáo dục: Tạo hứng thú học tập cho HS trong DHLS góp
phần vào việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm cho HS, giúp các em
có cái nhìn đúng đắn về sự kiện, có sự cảm phục với các nhân vật LS và
các giá trị văn hóa của nhân loại mà con người đã đạt được.
2.2. Thực tiễn của việc tạo hứng thú học tập lịch sử ở trường THPT
hiện nay
2.2.1. Điều tra, khảo sát thực tiễn việc tạo hứng thú học tập ở
trường THPT
* Mục đích điều tra: Nhằm đánh giá tình hình DHLS nói
chung, hứng thú học tập của HS nói riêng, nguyên nhân dẫn đến thực
trạng ấy. Biện pháp tạo hứng thú học tập cho HS.
* Đối tượng và địa bàn điều tra: là GV dạy LS và HS phổ
thông. Chúng tôi tập trung điều tra ở một số tỉnh trung du và miền
núi thuộc khu vực Đông Bắc.
* Nội dung điều tra: Xây dựng phiếu điều tra để tìm hiểu mức độ
yêu thích lịch sử của HS, những hành động của học sinh trong quá trình
học tập và các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập của các em.
* Mức độ khảo sát:
- Về mặt xúc cảm: được đánh giá trên 3 tiêu chí: thích, bình
thường, không thích học lịch sử của HS.
- Về mặt nhận thức: Nhận thức đầy đủ được đánh giá qua các
nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp của việc thích hay không thích học
lịch sử.
- Về mặt hành động: thể hiện qua các hành động học tập tích
cực, chủ động ở trên lớp cũng như tự học ở nhà.
Căn cứ vào những tiêu chí trên, một học sinh có hứng thú học
tập lịch sử phải đạt cả 3 tiêu chí.
2.2.2. Đánh giá kết quả điều tra
11
* Đối với học sinh: Qua khảo sát tại các trường phổ thông
chúng tôi nhận thấy HS đã nhận thức được tầm quan trọng của lịch
sử đối với cuộc sống. Tuy nhiên, các em chưa thực sự thích lịch sử vì
còn cho rằng lịch sử dài, khó nhớ, các em mong muốn giờ học sôi nổi
hơn, được tham gia vào các hoạt động học tập, GV hướng dẫn các em
khai thác kênh hình….
* Đối với giáo viên: Qua điều tra chúng tôi nhận thấy GV đã
có nhiều cố gắng trong dạy học nhằm tạo hứng thú học tập cho HS cả
về PPDH và tinh thần, thái độ của bản thân trong quá trình DH. Tuy
nhiên, còn một số hoạt động ít được tổ chức như hoạt động ngoại
khóa và việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào dạy học.
* * *
Hứng thú có vai trò quan trọng trong dạy học nói chung, DHLS
nói riêng. Hứng thú không chỉ giúp HS học một cách say mê, khi thu
được kết quả học tập cao sẽ trở thành động lực để tiếp tục duy trì hứng
thú. Hứng thú đóng vai trò là nhân tố thúc đẩy hoạt động học tập nói
chung và học tập lịch sử nói riêng. Hình thành hứng thú cho HS là mục
đích cần đạt được của người GV để nâng cao chất lượng dạy học lịch
sử, hay cũng có thể nói rằng, HS có hứng thú học tập thì đã là thành
công lớn của người GV trong giáo dục.
Qua khảo sát tại các trường phổ thông có thể thấy HS đã nhận
thấy tầm quan trọng của lịch sử đối với cuộc sống. Tuy nhiên, các em
chưa thực sự thích lịch sử vì còn cho rằng lịch sử dài, khó nhớ, các
em mong muốn giờ học sôi nổi hơn, được tham gia vào các hoạt
động học tập, GV hướng dẫn các em khai thác kênh hình….
Chương 3
ĐỔI MỚI THIẾT KẾ NỘI DUNG BÀI HỌC
VÀ CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC
ĐỂ TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
3.1. Khái quát chương trình lịch sử ở trường trung học phổ thông
Chương trình lịch sử ở trường THPT bao gồm phần LSTG từ
nguyên thủy đến nay; phần LSVN từ nguồn gốc đến nay, nội dung
được chia theo từng khối lớp. Qua những nội dung LS ở trường
THPT giúp HS nắm được bức tranh chung về LSTG, từ đó rút ra quy
luật, bài học LS, từ đó soi vào LS dân tộc để thấy rằng LS dân tộc
phát triển hợp quy luật, tin tưởng vào sự phát triển của LS nói chung,
LS dân tộc nói riêng.
12
3.2. Những yêu cầu, điều kiện cần để tạo hứng thú học tập cho
học sinh
Hứng thú học tập là tổng hòa của nhiều yếu tố trong quá trình
dạy học. Để tạo được hứng thú học tập cho HS trong DHLS, cần có
những yêu cầu, điều kiện sau:
Trước hết, GV phải nắm chắc nội dung kiến thức lịch sử
Thứ hai, GV cần có PPDH tốt, cần kết hợp nhuần nhuyễn các
phương pháp trong dạy học.
Thứ ba, GV Lịch sử cần phải yêu nghề, yêu bộ môn mình đang
giảng dạy.
Thứ tư, GV phải là người hiểu đối tượng mình đang giảng dạy
Thứ năm, thái độ của người thầy và mối quan hệ thầy trò trong
giờ học.
Thứ sáu, để tạo hứng thú học tập cho HS thì điều kiện dạy học
cũng đóng vai trò quan trọng.
3.3. Đổi mới thiết kế nội dung và các hình thức tổ chức dạy học
nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
3.3.1. Xác định đúng mức độ kiến thức trong nội dung bài học
GV trong quá trình dạy học cần xác định đúng mức độ kiến
thức phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, với trình độ nhận thức của HS để
xây dựng nội dung bài học hay, hấp dẫn.
Trong DHLS, lựa chọn kiến thức như thế nào cũng cần đảm
bảo vừa sức HS. Bài học quá nặng về kiến thức, nặng về sự kiện sẽ
khiến HS khó tiếp thu, khó nhớ, không phát huy năng lực tư duy, độc
lập, sáng tạo, trí thông minh của HS, khiến HS không có hứng thú học
tập từ đó kết quả đạt được không cao. Hứng thú học tập của HS được
hình thành không chỉ thông qua những câu chuyện hay, những hình ảnh
đẹp mà còn được hình thành từ những kiến thức LS xúc tích, dễ nhớ. Đó
phải là những kiến thức quan trọng nhất mà HS cần nắm vững để đạt
được các mục tiêu trong học tập, phù hợp với trình độ nhận thức. Từ
việc lựa chọn được kiến thức cơ bản, GV sẽ lựa chọn được PPDH, tổ
chức các hoạt động học tập phù hợp để tạo hứng thú học tập cho HS. Do
đó, xác định được kiến thức cơ bản trong chương trình LS ở trường
THPT là yêu cầu cơ bản, quan trọng để đạt được hiệu quả cao trong DH.
3.3.2. Thiết kế nội dung bài học hay, hấp dẫn học sinh
3.3.2.1. Thiết kế nội dung bài học giống như câu chuyện lịch sử
Để có thể thiết kế nội dung bài học giống như một câu chuyện lịch
sử, GV cần:
13
- Nắm chắc nội dung kiến thức bài học, xác định được kiến
thức cơ bản, lựa chọn những tài liệu cần thiết để làm rõ kiến thức
trọng tâm, khai thác đồ dùng trực quan trong dạy học.
- Thu hút sự chú ý của HS ngay từ đầu bài học bằng lời dẫn dắt
vào bài gợi trí tò mò, kích thích động cơ học tập của HS
- Nội dung bài học phải có hệ thống.
- Giáo viên cần bổ sung từ TLTK những kiến thức hấp dẫn để
lôi cuốn HS vào bài học. Những kiến thức này GV có thể thu thập từ
thực tiễn, từ sách vở, TLTK, từ internet…
3.3.2.2. Thiết kết nội dung bài học mang yếu tố khám phá khoa học
Trong DHLS, GV phải hướng dẫn HS khám phá, tìm hiểu
những kiến thức cơ bản của bài học, những kiến thức này phải đủ để
tái hiện lại bức tranh quá khứ, các sự kiện ấy phải phản ánh được quy
luật của sự phát triển xã hội. Việc khám phá kiến thức phải đảm bảo
đi từ dễ đến khó, từ chưa biết đến biết, từ biết đến hiểu lịch sử, từ tạo
biểu tượng đến hình thành khái niệm cho HS.
Để hướng dẫn HS khám phá dần những nội dung khoa học của
bài, GV sử dụng hệ thống câu hỏi, có thể sử dụng 2 loại câu hỏi:
Loại thứ nhất là những câu hỏi nêu vấn đề (bài tập nhận thức)
Loại thứ hai là câu hỏi gợi mở được đặt ra trong quá trình tiến
hành bài học.
Để xây dựng được nội dung câu hỏi nhận thức cho đầu bài,
mục và câu hỏi gợi mở, GV cần nắm chắc nội dung kiến thức của bài,
vị trí của bài học trong chương, phần đó; đồng thời cần nắm được
khả năng nhận thức của HS để câu hỏi nêu ra không quá dễ cũng
không quá khó khiến HS không thể trả lời. Việc nêu câu hỏi của GV
cũng phải rõ ràng, mạch lạc, HS có thể phân biệt được đâu là câu hỏi
của GV, đâu là nội dung GV đang giảng.
3.3.2.3. Sử dụng kiến thức liên môn để xây dựng nội dung bài học
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của
dạy học nói chung, DHLS nói riêng. Đối với bộ môn lịch sử, việc nắm
chắc kiến thức lịch sử liên quan chặt chẽ tới một số môn học đặc biệt là
các môn thuộc khoa học xã hội như địa lý, văn học, giáo dục công dân
là cần thiết. Bên cạnh đó, GV lịch sử còn cần có những hiểu biết về
lĩnh vực nghệ thuật, khoa học tự nhiên như toán học, vậ lý, hóa học,
y học khi dạy học các nội dung thành tựu khoa học tự nhiên trong
lịch sử
14
3.3.3. Thực hiện các hình thức tổ chức dạy học theo tinh thần
đổi mới
3.3.3.1. Hình thức dạy học trên lớp
Hình thức dạy học trên lớp là hình thức cơ bản ở trường phổ
thông, đây là hình thức dạy học tập thể, học sinh được học một khối
lượng kiến thức học tập như nhau, được tham gia vào các hoạt động
học tập như nhau. Để phát huy tính tích cực học tập cho HS trong giờ
học trên hớp, GV có thể vận dụng cấu trúc bài học mềm dẻo – bài
học nêu vấn đề. Trong một bài lịch sử, vận dụng bài học nêu vấn đề
bao gồm các công việc:
Thứ nhất, cần đặt mục đích học tập cho HS khi tiến hành
nghiên cứu kiến thức mới, GV cần dẫn dắt HS vào những tình huống
có vấn đề và nêu các bài tập nhận thức từ đầu giờ học.
Thứ hai, tổ chức cho HS giải quyết vấn đề trong quá trình
nghiên cứu kiến thức mới.
Thứ ba, tổ chức kiểm tra hoạt động nhận thức của HS.
Thứ tư, ra bài tập về nhà.
3.3.3.2. Tăng cường tổ chức dạy học ở thực địa, nhà bảo tàng
* Đối với bài học tại thực địa: Tiến hành bài học tại thực địa
cần tuân thủ một số yêu cầu: cần chọn địa điểm phù hợp với mục tiêu
bài học; xây dựng kế hoạch chuẩn bị và các bước tiến hành bài học;
thông báo về địa điểm tổ chức dạy học và chuẩn bị tư tưởng cho HS
trước khi tiến hành bài học. Bài học tại thực địa có thể tổ chức theo
trình tự:
Thứ nhất, GV giới thiệu khái quát về khu di tích lịch sử nơi
diễn ra các sự kiện lịch sử quan trọng có liên quan đến bài học.
Thứ hai, trong quá trình nghiên cứu kiến thức mới, GV sử
dụng các tư liệu hiện vật tại khu di tích để làm rõ những nội dung
kiến thức trong SGK, coi đó là một trong nguồn kiến thức để khai
thác, không phải chỉ minh họa cho nội dung bài học.
Thứ ba, kết thúc bài học, GV nêu câu hỏi để kiểm tra nhận thức
của HS, câu hỏi này có thể là bài tập nhận thức nêu đầu giờ học hoặc
là câu hỏi mới, nội dung câu là những kiến thức quan trọng nhất của
bài học. Sau đó, GV giao bài tập về nhà cho HS.
* Đối với bài học tại bảo tàng: Để bài học tại bảo tàng đạt hiệu
quả, GV cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung bài học, cần tìm
hiểu cụ thể cách bố trí tư liệu tại bảo tàng, lựa chọn những tranh ảnh,
15
hiện vật cần thiết nhất cho bài học, tránh việc ôm đồm làm loãng nội
dung bài học, khiến HS mất tập trung.
Tiến trình tổ chức dạy học tại bảo tàng:
Thứ nhất, giới thiệu khái quát về bảo tàng và phòng trưng bày
hiện vật có liên quan trực tiếp đến nội dung của bài học.
Thứ hai, tiến hành bài học. Bảo tàng lưu giữ cả tranh ảnh và hiện
vật của các giai đoạn lịch sử, GV có thể kết hợp với hướng dẫn viên của
bảo tàng đưa ra một số hình ảnh LS cụ thể, nêu câu hỏi và hướng dẫn
HS khai thác nội dung bài học qua những hình ảnh này. Sau khi HS trả
lời, GV khái quát lại nội dung của bài học. Đồng thời, có thể sử dụng
những hình ảnh LS tại đây để miêu tả, lược thuật, giải thích sự kiện lịch
sử điển hình. GV có liên hệ sự kiện lịch sử với thực tế tại địa phương.
Thứ ba, GV tổng kết bài học, giao bài tập cho HS, nhận xét thái
độ, tinh thần học tập của HS trong giờ học. Có thể cho phép HS tham
quan thêm phòng trưng bày và yêu cầu HS sưu tầm một số nội dung
về sự kiện, nhân vật lịch sử điển hình có liên quan đến bài học.
3.3.3.3. Tăng cường hoạt động tham quan học tập tại nhà bảo
tàng, thực địa
Để tham quan học tập đạt được hiệu quả, buổi tham quan học
tập phải đảm bảo yêu cầu: xác định mục đích của buổi tham quan
cho phù hợp với nội dung học tập LS ở trên lớp, không biến buổi
tham quan thành buổi đi xem một số hiện vật được trưng bày, điều
đó làm mất đi ý nghĩa đồng thời làm loãng mục đích học tập, không
đem lại hiệu quả dạy học; phải chuẩn bị chu đáo về thời gian, địa
điểm, kế hoạch cụ thể, thái độ của HS, cách tiến hành buổi tham
quan. Trong buổi tham quan, GV cần giới thiệu về khu di tích lịch sử
hoặc bảo tàng, sau đó hướng dẫn HS quan sát hiện vật tại thực địa hoặc
các hiện vật được trưng bày tại bảo tàng. Bảo tàng có thể lưu giữ nhiều
hiện vật khác nhau, GV nên tìm hiểu và định hướng HS quan sát một
số hiện vật tiêu biểu. Bởi lẽ, những gì các em quan sát và ghi nhớ được
đã cụ thể hóa những kiến thức đã học, giúp các em được “trực quan
sinh động”, đồng thời, đây là nguồn tài liệu vô cùng sống động, giúp
các em bổ sung kiến thức cho những buổi học sau. Kết thúc buổi tham
quan, GV cần tổ chức cho HS trao đổi thảo luận hoặc làm bài tập
nhỏ (có thể làm theo nhóm).
* * *
Tóm lại, đổi mới thiết kế nội dung bài học và hình thức tổ
chức dạy học bài nội khóa ở trường THPT là cần thiết. Bởi lẽ: DHLS
16
ở trường THPT hiện nay chủ yếu là thực hiện hình thức dạy học ở
trên lớp, với sự giới hạn về không gian và thời gian của một tiết học,
hầu như rất ít tổ chức các hình thức tổ chức dạy học tại bảo tàng, thực
địa. Trong khi đó, đây lại là những hình thức dạy học mang lại hiệu
quả cao, gây hứng thú học tập cho HS. Bên cạnh đó, việc đổi mới
thiết kế nội dung bài học như thiết kế nội dung bài học giống như
một câu chuyện lịch sử, nội dung bài học mang yếu tố khám phá
khoa học, vận dụng cấu trúc bài học mềm dẻo – bài học nêu vấn đề
và vận dụng kiến thức liên môn vào dạy học sẽ đem lại hứng thú học
tập cho học sinh. Có hứng thú học tập các em sẽ lĩnh hội kiến thức tốt
hơn, khi đó kết quả học tập sẽ cao hơn.
Từ lý luận và thực tiễn DHLS ở trường THPT chúng tôi đề
xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Chương 4
MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP
CHO HỌC SINH KHI TIẾN HÀNH BÀI HỌC LỊCH SỬ
NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC MỚI Ở TRÊN LỚP.
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Trong quá trình dạy học, bài học LS nội khóa là một hình thức
tổ chức DH cơ bản, chủ yếu, bắt buộc đối với HS. Bài học LS
nội khoá có nhiều loại bài, song bài học nghiên cứu kiến thức
mới chiếm một khối lượng lớn. Nếu tạo được hứng thú học tập
cho HS khi tiến hành bài học nghiên cứu kiến thức mới ở trên
lớp sẽ góp phần tạo hứng thú cho HS với môn học và nâng cao
hiệu quả DHLS ở trường phổ thông.
4.1. Những yêu cầu của việc lựa chọn biện pháp tạo hứng thú học
tập lịch sử cho học sinh
- Thứ nhất, giáo viên cần nhận thức đúng về việc tạo hứng thú
học tập cho học sinh.
- Thứ hai, tạo hứng thú học tập cho học sinh phải góp phần đáp
ứng mục tiêu dạy học.
- Thứ ba, tạo hứng thú học tập phải góp phần giúp học sinh nắm
vững kiến thức cơ bản trong quá trình dạy học, tránh lỗi truyền thụ
một chiều.
- Thứ tư, gây hứng thú học tập phải gắn liền với kích thích hoạt
động nhận thức tích cực, độc lập của HS
17
- Thứ năm, vận dụng linh hoạt, đa dạng các biện pháp dạy học
nhằm gây hứng thú học tập cho HS.
4.2. Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh khi tiến
hành bài học nội khóa nghiên cứu kiến thức mới ở trên lớp phần
Lịch sử thế giới lớp 10 – chương trình chuẩn
4.2.1. Tạo động cơ học tập cho học sinh bằng xây dựng tình
huống có vấn đề và nêu bài tập nhận thức
Trong DHLS, động cơ học tập đóng vai trò quan trọng, động cơ
học tập sẽ kích thích HS tích cực hoạt động nhận thức, tìm hiểu kiến
thức LS. Do đó, GV có thể kích thích động cơ học tập của HS bằng cách
tạo ra mong muốn, nhu cầu nhận thức, nhu cầu muốn được tìm hiểu kiến
thức lịch sử thông qua tình huống có vấn đề và bài tập nhận thức.
Tình huống có vấn đề trong DHLS thường hình thành ở các
trường hợp: Khi GV đưa ra các ý kiến khác nhau để HS tự phân tích,
đánh giá, tìm ra ý kiến đúng; khi GV hướng dẫn HS tự nêu ra các
mâu thuẫn, xung đột về kiến thức để tìm ra con đường giải quyết; các
tình huống lựa chọn hay quyết định của HS để trả lời những câu hỏi
vì sao? tại sao?.
Bài tập nhận thức nhằm tăng cường hoạt động nhận thức tích
cực, độc lập, sáng tạo trong suy nghĩ và giải quyết vấn đề từ đó hiểu
sâu sắc hệ thống kiến thức lịch sử, rèn luyện kỹ năng tư duy trong học
tập. Hoàn thành bài tập nhận thức tức là học sinh đã chiếm lĩnh được
kiến thức, có được niềm vui khi hoàn thành một vấn đề khó, lúc này
hứng thú học tập cũng được nảy sinh.
4.2.2. Sử dụng đa dạng các phương pháp, các cách dạy học
4.2.2.1. Sử dụng ngôn ngữ trình bày để tạo hứng thú học tập cho
học sinh
Giáo viên sử dụng lời nói phong phú, sinh động, giàu hình ảnh
để thu hút sự chú ý của học sinh; tác động tới trí tuệ, tình cảm, góp
phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng cụ thể, từ đó mới có thể
khôi phục lại bức tranh sinh động của lịch sử.
Để có khả năng trình bày miệng tốt trong giờ học, GV cần
đảm bảo các yêu cầu sau: Trình bày phải vừa sức tiếp thu của HS, tức
là phải làm cho học sinh nắm được yêu cầu giáo dưỡng, nắm được
những kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài; Trình bày phải đảm bảo
tính khoa học và tính lôgic; Ngôn ngữ phải chính xác về mặt ngữ
pháp; Lời nói phải có hình ảnh sinh động, hấp dẫn, không nói những
lời bóng bẩy, hoa mĩ, sáo rỗng làm mất sự tập trung của HS; Phải kết
18
hợp chặt chẽ giữa lời nói và nguồn cung cấp kiến thức khác; Kết hợp
đa dạng các PPDH và kết hợp giữa lời giảng với ghi bảng của GV;
GV cần thường xuyên trau dồi mở rộng kiến thức không chỉ kiến
thức bộ môn mà còn cả những kiến thức trong thực thực tễ cuộc
sống, vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học; trong quá trình
thực hiện cần phát triển năng lực tư duy cho HS.
19
4.2.2.2. Sử dụng các mẩu chuyện lịch sử để cụ thể hóa sự kiện –
nhân vật lịch sử
Sử dụng các mẩu chuyện lịch sử phục vụ dạy học cần thuân thủ
một số yêu cầu: xây dựng các mẩu chuyện phải phù hợp, phản ánh
đúng đắn nội dung bài học; phải đảm bảo ý nghĩa giáo dục, giáo
dưỡng, phát triển cho HS; phải phù hợp với thời gian của bài học;
mẩu chuyện được sử dụng trong bài học phải đảm bảo tính vừa sức
trong lĩnh hội kiến thức của học sinh; sử dụng mẩu chuyện phải tuân
thủ các phương pháp đặc trưng của bộ môn (trong số đó sử dụng lời
nói sinh động là yếu tố quan trọng nhất).
Sử dụng mẩu chuyện lịch sử trong dạy học cần tiến hành theo
các bước:
Chuẩn bị ở nhà: từ mục tiêu bài học, nội dung của SGK, tìm
kiếm các tài liệu có liên quan đến bài học, GV lựa chọn những sự
kiện, nhân vật lịch sử điển hình để xây dựng câu chuyện ngắn gọn,
xúc tích qua đó làm rõ nội dung sự kiện hoặc nêu được những nét đặc
trưng của nhân vật.
Sử dụng ở trên lớp: GV cần sử dụng mẩu chuyện đúng thời
điểm, phù hợp với phần nội dung đang học. Trước hết cần nêu câu hỏi
về sự kiện, nhân vật cho HS tìm hiểu. Sau đó, GV có thể bổ sung hoặc
kể mẩu chuyện nhằm tạo biểu tượng một cách chân thực về sự kiện,
nhân vật ấy.
4.2.3. Tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan nhằm tạo hứng
thú học tập cho học sinh
ĐDTQ là một phương tiện quan trọng góp phần tạo biểu tượng
lịch sử cho HS, đồng thời giúp HS nhớ kiến thức, tăng cường khả
năng tư duy, óc quan sát, trí tưởng tượng cho HS.
Khi sử dụng ĐDTQ, cần đảm bảo các yêu cầu: cần lựa chọn đồ
dùng trực quan phù hợp với nội dung bài học, không sử dụng tràn lan
gây loãng bài học; khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan như một
nguồn kiến thức, tránh sử dụng đồ dùng trực quan chiếu lệ, hình thức;
đảm bảo tính hình ảnh và tính sư phạm; xác định phương pháp thích
hợp đối với việc sử dụng mỗi loại ĐDTQ; sử dụng ĐDTQ phải phát
huy tính tích cực, chủ động nhận thức của và cần rèn luyện cho HS
kỹ năng thực hành khi sử dụng ĐDTQ.
Trong DHLS có thể sử dụng nhiều loại đồ dùng trực quan như
tranh ảnh, lược đồ, sơ đồ, biểu đồ… Mỗi loại lại có cáh sử dụng riêng,
sử dụng tốt sẽ góp phần tạo hứng thú học tập cho HS.
20
4.2.4. Sử dụng các loại tài liệu tham khảo kết hợp với trao đổi
nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
Sử dụng các tài liệu học tập để khẳng định cũng như minh hoạ
cho kiến thức lịch sử chính là một biện pháp có thể tạo hứng thú học
tập cho học sinh trong dạy học lịch sử.
Khi sử dụng tài liệu tham khảo vào bài giảng, GV cần tuân
thủ một số yêu cầu: tài liệu được sử dụng phải có sự chọn lọc, phù
hợp với nội dung bài học tránh tham lam, ôm đồm, lan man dẫn đến
không đảm bảo thời gian của bài học; phải đảm bảo tính khoa học và
vừa sức học sinh; trong quá trình sử dụng phải phát huy tính tích cực
học tập của HS, không sử dụng hình thức vì vậy cần kết hợp với câu
hỏi gợi mở để hướng dẫn HS tự chiếm lĩnh kiến thức.
Một số biện pháp sử dụng tài liệu tham khảo nhằm gây hứng
thú học tập cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 10-THPT:
Thứ nhất, sử dụng tài liệu tham khảo nhằm cụ thể hóa kiến
thức lịch sử, tạo cho học sinh những biểu tượng cụ thể, sinh động, kết
hợp với gợi mở để học sinh học sinh rút ra nhận xét.
Thứ hai, dựa vào tài liệu để xây dựng các đoạn miêu tả, tường
thuật, về một sự kiện, một nhân vật lịch sử kết hợp với trao đổi, đàm
thoại rút ra nhận xét.
Thứ ba, hướng dẫn HS sử dụng tài liệu tham khảo để phân tích,
giải thích một sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Thứ tư, sử dụng tài liệu tham khảo để chứng minh một luận
điểm khoa học, hướng dẫn HS rút ra kết luận nhằm hiểu đúng một sự
kiện hay một quá trình lịch sử.
Thứ năm, sử dụng tài liệu tham khảo để định hướng HS trong ôn
tập, kiểm tra hoặc ra bài tập về nhà.
4.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo hứng thú học
tập cho học sinh
Công nghệ thông tin (CNTT) là phương tiện dạy học hiện đại
có nhiều ưu thế: có thể tích hợp các phương tiện dạy học truyền
thống như sơ đồ,bản đồ, lược đồ, tranh ảnh và các loại phương tiện
dạy học khác như băng ghi âm, ghi hình,
Ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử cần đảm bảo một số yêu
cầu: GV cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học để xây dựng
những bài giảng điện tử phù hợp, tránh việc biến bài học thành bài
trình chiếu; cần đảm bảo kiến thức cơ bản, tính khoa học, trực quan,
tính hệ thống; cần kết hợp sử dụng các tư liệu trực quan với miêu tả,
21
tường thuật ; không lạm dụng những hiệu ứng khi tiến hành bài
giảng, khiến HS mất tập trung; ứng dụng CNTT cần phù hợp với điều
kiện thực tế của nhà trường và trình độ nhận thức của HS.
4.2.4. Tổ chức hiệu quả các hoạt động nhận thức của học sinh
4.2.4.1. Tổ chức trao đổi đàm thoại
Trao đổi đàm thoại là công việc quan trọng góp phần tạo hứng
thú học tập cho HS, giúp các em chủ động tiếp thu kiến thức, thông
qua đó rèn luyện cho HS kỹ năng tư duy, kỹ năng trình bày, diễn đạt
một vấn đề trước tập thể; tạo sự tự tin và tinh thần tự học, tinh thần
hợp tác của HS với các bạn khác trong lớp. Trao đổi đàm thoại tạo
không khí lớp học sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
4.2.4.2. Tổ chức đa dạng các hoạt động học tập của học sinh
Trong dạy học lịch sử ở trường THPT có nhiều dạng tổ chức
hoạt động học tập cho học sinh. Có thể tổ chức cho toàn lớp, cá nhân
hay tổ chức theo nhóm. Để phát huy ưu điểm và khắc phục nhược
điểm của các dạng hoạt động này, GV cần kết hợp linh hoạt các dạng
hoạt động: tập thể với cá nhân, nhóm với cá nhân, nhóm với tập thể.
4.2.4.3. Sử dụng linh hoạt các cách kiểm tra đánh giá hoạt động
nhận thức của học sinh
Việc kiểm tra hoạt động nhận thức của HS giúp GV đánh giá
được mức độ lĩnh hội kiến thức mới, kết quả hoạt động nhận thức độc
lập và trình độ kiến thức lịch sử của các em. Đồng thời nó có tác dụng
củng cố kiến thức đã học của HS. Kiểm tra hoạt động nhận thức có thể
được tiến hành cuối mỗi mục, cuối mỗi bài.
Câu hỏi kiểm tra hoạt động nhận thức của HS rất đa dạng,
phong phú. GV có thể sử dụng bài tập nhận thức đã nêu ở đầu giờ
hoặc nêu câu hỏi mới mà nội dung bao trùm kiến thức cơ bản của
bài. Ngoài việc nêu ra những câu hỏi, bài tập nhận thức để HS củng
cố lại nội dung bài học, GV có thể tổ chức củng cố bài học với trò
chơi LS, điều này giúp HS không chỉ nắm được học bài mà còn khiến
các em được học mà chơi, qua đó dễ dàng nhớ được nội dung bài học
và có hứng thú học tâp.
Thực tế cho thấy trong dạy học không thể chỉ thực hiện một
phương pháp hay một biện pháp riêng lẻ nào, mà cần có sự kết hợp
nhuầ nhuyễn các biện pháp với nhau, đồng thời sử dụng bao nhiêu,
như thế nào cho đủ, cho tốt lại phụ thuộc rất lớn vào giáo viên. Giáo
viên cần nắm chắc kiến thức bộ môn, có phương pháp dạy học tốt, có
kiến thức liên môn rộng, làm chủ được giờ giảng của bản thân, có
22
tinh thần, thái độ yêu nghề, yêu trò… mới có thể tạo được hứng thú
học tập cho HS. Đồng thời, GV cũng cần có biện pháp khuyến khích
HS học tập để duy trì hứng thú một cách bền vững.
4.3. Thực nghiệm sư phạm toàn phần
Kết quả thực nghiệm
Sau khi thực nghiệm, chúng tôi tiến hành kiểm tra 15 phút, kết
quả thu được:
Bảng 4.11. Bảng tổng hợp thống kê kết quả thực nghiệm toàn phần
(Bài 10)
Lớp/
Số
Điểm
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
ĐC 00 01 12 26 36 48 54 38 12 00 6,17
1,59
TN 00 00 00 13 22 34 58 66 25 08 7,10 1,45
Ở bảng 4.11. điểm trung bình của lớp thực nghiệm là 7,11
trong khi lớp đối chứng là 6,08. Điểm chênh lệch giữa lớp TN và lớp
ĐC là 1,03 điểm
Bảng 4.12. Bảng tổng hợp thống kê kết quả thực nghiệm toàn phần
(Bài 31)
Lớp/
Số
Điểm
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
ĐC 00 00 10 22 40 61 51 36 10 00 6,17
1,47
TN 00 00 00 09 19 43 57 64 31 07 7,17 1,39
Ở bảng 4.12, nhóm thực nghiệm
x
= 7,17, nhóm đối chứng
x
=
6,18. Mức độ chênh lệch giữ nhóm thực nghiệm và đối chứng là 0,99.
Từ những kết quả thực nghiệm, có thể thấy những biện pháp
chúng tôi để xuất là có thể thực hiện trong DHLS ở trường THPT.
Trên cơ sở những lý luận, khảo sát thực tiễn và kết quả thu
được từ thực nghiệm, có thể thấy trong quá trình DH, GV cần sử
dụng đa dạng các phương pháp DHLS để đạt được hiệu quả DH tốt.
Các biện pháp nêu trong luận án có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
biện pháp này hỗ trợ cho biện pháp kia và ngược lại, tất các các biện
pháp đều góp phần tạo hứng thú học tập cho HS, từ đó góp phần
23
nhằm nâng cao hiệu quả DH ở trường phổ thông. Khi có hứng thú
học tập, các em sẽ tập trung hơn trong học tập, tích cực tham gia vào
các hoạt động học tập, từ đó sẽ lĩnh hội kiến thức tốt hơn. Ngoài
những biện pháp nhằm kích thích hứng thú bên trong của HS, sự gần
gũi, thân thiện, động viên, khích lệ của GV trong quá trình DHcũng
góp phần gây hứng thú bên ngoài cho HS. Có khi học sinh thích thú
với một môn học nào đó xuất phát từ việc yêu quý chính thầy cô giáo
bộ môn của mình. Những tình cảm ấy nếu được bồi đắp qua những
bài học LS sẽ trở thành hứng thú thực sự của học sinh.
KẾT LUẬN
Hứng thú học tập là một vấn đề quan trọng cần thiết. Căn cứ vào
mục đích, nhiệm vụ của đề tài, luận án đã đạt được những kết quả
chủ yếu như sau:
1. Vấn đề tạo hứng thú học tập cho HS là một vấn đề quan
trọng cần phải được chú trọng trong DH. Hứng thú học tập nói chung,
học tập LS nói riêng đã và đang trở thành vấn đề cấp bách được nhiều
nhà giáo dục và nhiều GV quan tâm. Đây là một vấn đề quan trọng và
cần thiết trong quá trình DHLS ở trường phổ thông. Tuy nhiên, làm thế
nào để tạo hứng thú học tập cho HS lại là điều không đơn giản.
Tạo hứng thú học tập LS cho HS là nhằm khuyến khích các
em khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, phát triển năng lực nhận thức
của HS. Khi đã có hứng thú, HS sẽ thu được những thành công trên
con đường học tập, những kết quả đạt được trong quá trình này sẽ là
động lực để tiếp tục duy trì và phát triển hứng thú học tập của các
em. Hứng thú học tập giúp HS nhanh chóng tiếp thu bài, hiểu sâu sắc
kiến thức và nhớ lâu hơn. Từ đó, các em sẽ có ham muốn được tìm
tòi những kiến thức mới để làm giàu thêm vốn hiểu biết của bản thân
về môn LS nói riêng và các môn khoa học khác nói chung.
Công việc này đòi hỏi người GV phải đầu tư nhiều thời gian,
công sức. GV phải nắm vững nội dung của khoa học LS và hệ thống
chương trình môn học; cần đảm bảo được quy trình, vận dụng một
cách linh hoạt, có hiệu quả những nguyên tắc của việc tạo hứng thú
học tập cho HS; trên cơ sở đó tìm ra những hình thức, những biên
pháp nhằm tạo hứng thú học tập cho phù hợp với điều kiện cũng như
trình độ của HS.
2. Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận về hứng thú học tập đối
với HS, chúng tôi đã xác định được cơ sở lý luận làm căn cứ cho để
24
tiến hành đổi mới thiết kế nội dung bài học và các hình thức tổ chức
dạy học ở trường THPT; xây dựng và sử dụng một cách hợp lý, khoa
học những biện pháp nhằm tạo hứng thú học tập cho HS, từ đó nâng
cao chất lượng bộ môn. Trong luận án này chúng tôi đã đề ra 4 nhóm
biện pháp nhằm tạo hứng thú học tập cho HS.
Kết quả thực nghiệm sư phạm (từng phần và toàn phần), đã
khẳng định những biện pháp tác giả đề xuất có tính khả thi, có thể
tiến hành ở trường THPT. Nếu thực hiện tốt sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả DH, đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp giáo dục
hiện nay. Từ việc nghiên cứu lí luận và thực tiễn vấn đề tạo hứng thú
nói chung, luận án đã bổ sung thêm lí luận và biện pháp sư phạm để
tạo hứng thú học tập cho HS trong DHLS. Việc tạo hứng thú cho HS
trong DHLS có thể vận dụng ở các phần LS khác nhau, không chỉ
phần LS thế giới (như tác giả đã thực nghiệm) mà cả LS dân tộc. Như
vậy, giả thuyết khoa học mà đề tài đã đặt ra đã được chứng minh, tác
giả đã hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Từ kết quả nghiên cứu đạt được trên đây, chúng tôi đề xuất một số
kiến nghị sau:
Một là, chương trình SGK nên có sự đổi mới, bài viết của SGK nên
ngắn gọn, súc tích, sinh động, hạn chế những thông báo khô khan, tăng
thêm những phần tài liệu tham khảo để miêu tả, tường thuật cho sự kiện
lịch sử. Cần bổ sung thêm kênh hình cho SGK (nếu có thể thì nên in
màu cho rõ ràng, có tính thẩm mĩ), dưới mỗi kênh hình nên nêu những
thông tin ngắn gọn, chính xác. Tăng cường thời lượng cho môn lịch sử,
tránh xây dựng chương trình với thời lượng 1 đến 1,5 tiết/tuần, điều này
khiến nhiều giáo viên phải vất vả với những nội dung bài học quá dài.
Chương trình bộ môn cần có tính ổn định, tránh việc phải ra chương
trình giảm tải, cắt gọt bài học một cách cơ học để làm giảm sự nặng nề
của môn học. Cần có giờ học lịch sử theo chủ đề cho từng khối lớp.
Hai là, Cần xã hội hóa cao giáo dục lịch sử: Đưa lịch sử trở
thành một môn học chính, trở thành một môn thi tốt nghiệp bắt buộc
giống như các môn Văn, Toán. Tổ chức rộng rãi các cuộc thi tìm hiểu
lịch sử ở các cấp học từ tiểu học trở lên.
Ba là, tăng cường đồ dùng trực quan và các phương tiện kỹ
thuật cho các trường phổ thông. Đồ dùng dạy học ở nhiều trường phổ
thông còn rất hạn chế với một số ít bản đồ, điều này cũng hạn chế
phương pháp dạy học của GV.
25