Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.66 KB, 15 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
VIỆN QUẢN TRỊ KINH DOANH
----------

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Sinh viên:
Mã sinh viên:
Số tín chỉ:
Mã học phần:
Giảng viên giảng dạy:

Lê Kim Chi
20050005
02
HIS1001 10
TS Nguyễn Thị Giang

Đề 4:  Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong trong quá
trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hà Nội, tháng 12 năm 2021


2

MỤC LỤC

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN ÁI QUỐC & HÀNH


TRÌNH SÁNG LẬP RA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM......................................3
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH VẬN
ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM..........................................4
1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc ta - Mở đường giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước
đầu thế kỉ XX..........................................................................................................4
2.  Nguyễn Ái Quốc giữ vai trò quyết định trong quá trình chuẩn bị điều kiện cho
sự ra đời của Đảng..................................................................................................7
3. Nguyễn Ái Quốc – người trực tiếp sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam...........10
CHƯƠNG III: NHỮNG THẮNG LỢI TIÊU BIỂU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT
NAM TỪ KHI ĐẢNG CỘNG SẢN RA ĐỜI CHO ĐẾN NAY.............................12
1. Những thắng lợi của Cách mạng Việt Nam (1930 đến nay).............................12
2. Liên hệ bản thân vê việc bảo vệ Đảng và bảo vệ chế độ xã hội mà Đảng và
nhân dân ta đang xây dựng...................................................................................14


3

Đề 4:  Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong trong quá trình vận động thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
LỜI MỞ ĐẦU
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
của Nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định
đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô
sản, giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết toàn thể dân tộc đưa Việt Nam từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do được cả thế giới cơng
nhận.
Đó chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ
lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra con đường và phương hướng phát triển

mới cho đất nước Việt Nam suốt 90 năm qua. Cách mạng Việt Nam thành công vang dội
không thể không nhắc đến công lao của lãnh tụ dân tộc – Hồ Chí Minh, Người đã sáng lập
ra Đảng Cộng sản Việt Nam đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Vì vậy mời có nhận định “Tên tuổi của Nguyễn Ái  Quốc - Hồ Chí Minh gắn liền
với  sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam”.

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN ÁI QUỐC & HÀNH
TRÌNH SÁNG LẬP RA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Hồ Chí Minh, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19-05-1890 ở làng
Kim Liên, xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người sinh ra trong một gia
đình nhà Nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc
ngoại xâm. Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, con đường giải phóng dân tộc Việt Nam
rơi vào tình trạng khủng hoảng khơng tìm thấy đường ra, ngày 5/6/1911, người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành giàu lòng yêu nước, thương dân, ơm ấp một hồi bão lớn
lao: tìm hiểu nền văn minh của thế giới, ra sức học hỏi để về giúp nước giúp dân, đã rời
bến càng Nhà Rồng (Sài Gịn) ra đi tìm đường cứu nước. Đây cũng chính là bước ngoặt
đầu tiên trong cuộc đời của Nguyễn Tất Thành.


4

Từ năm 1911- 1917: Người đi qua nhiều nước ở châu Phi, châu Mĩ, châu Âu. Đặc
biệt, Người dừng chân khảo sát lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mĩ, Anh, Pháp.
Qua đó Người rút ra kết luận: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu
những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề. Đến năm 1917, Nguyễn Ái Quốc
trở lại Pháp. Tại đây, Người tích cực hoạt động tố cáo thực dân Pháp và tuyên truyền cho
cách mạng Việt Nam, tham gia vào phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận ảnh hưởng
Cách mạng Tháng Mười Nga.
Giữa tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đây là cái cần thiết

cho chúng ta. Đây là con đường giải phóng cho chúng ta”. Sau khoảng 10 năm tìm đường
cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin và xác định được con
đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vơ sản, mở đường giải quyết tình trạng
khủng hoảng về đường lối cứu nước đầu thế kỷ XX.
Lý luận của Lênin và lập trường đúng đắn của quốc tế cộng sản về cách mạng giải
phóng các dân tộc thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển
của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc tiếp tục học tập để bổ sung
hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác -Lênin về Việt
Nam nhằm chuẩn bị điều kiện về tư tưởng, chính trị, tổ chức để đưa đến sự thành lập của
Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. Từ đây cách mạng Việt Nam được đặt dưới sự
lãnh đạo của một tổ chức thống nhất và từng bước đi đến thắng lợi cuối cùng.

CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH
VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc ta - Mở đường giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu
nước đầu thế kỉ XX.

Vào cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng phong kiến và tư sản liên tiếp nổ ra nhưng đều thất bại. Con đường giải
phóng dân tộc Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng, thiếu một đường lối đấu tranh
đúng đắn để có thể đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, các phong trào yêu nước chống
thực dân Pháp đã diễn ra liên tục, rộng khắp. Đến năm 1884, dù triều đình phong kiến nhà
Nguyễn đã đầu hàng, nhưng một bộ phận phong kiến yêu nước đã cùng với nhân dân vẫn


5

tiếp tục đấu tranh vũ trang chống Pháp. Đó là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi

và Tôn Thất Thuyết khởi xương (1885 – 1886). Hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương cứu
nước, các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà
Tĩnh), … diễn ra sơi nổi, rộng khắp ba kì và thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại
xâm của các tầng lớp nhân dân nhưng cuối cùng đều đi đến thất bại.
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở vùng miền núi và trung du phía Bắc,
phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo của vị thủ lĩnh nơng dân
Hồng Hoa Thám, nghĩa quân đã xây dựng lực lượng chiến đấu, lập căn cứ và đấu tranh
kiên cường chống thực dân Pháp. Nhưng cũng khơng thể thành cơng.
=> Nhìn chung, phong trào u nước cuối thế kỉ XIX là những phong trào đấu tranh
vũ trang, chịu sự chi phối của hệ tư tưởng phong kiến. Thất bại của phong trào này
cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà
lịch sử đặt ra, chứng tỏ con đường cứu nước dưới ngọn cờ phong kiến là không thành
công, độc lập dân tộc không thể gắn với chế độ phong kiến.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng, tác
động của trào lưu dân chủ tư sản, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, xu
hướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong trào tiểu tư sản trí thức của tổ
chức Việt Nam Quốc dân đảng (12-1927 đến 2-1930) đã tiếp tục diễn ra rộng khắp các
tỉnh Bắc Kỳ, nhưng tất cả đều không thành công. Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu
tổ chức, lãnh đạo: Với chủ trương tập hợp lực lượng với phương pháp bạo động chống
Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở Nhật Bản, phong trào theo xu hướng này tổ chức
đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập. Đến năm 1908, Chính phủ
Nhật Bản câu kết với thực dân Pháp trục xuất lưu học sinh Việt Nam và những người
đứng đầu. Sau khi phong trào Đông Du thất bại, với sự ảnh hưởng của Cách mạng Tân
Hợi (1911) Trung Quốc, năm 1912 Phan Bội Châu lập tổ chức Việt Nam Quang phục hội
với tôn chỉ là vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khơi phục Việt Nam, thành lập nước
cộng hịa dân quốc Việt Nam. Cuối năm 1913, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam
tại Trung Quốc cho tới đầu năm 1917 và sau này bị quản chế tại Huế cho đến khi ông mất
(1940). Ảnh hưởng xu hướng bạo động của tổ chức Việt Nam Quang phục hội đối với
phong trào yêu nước Việt Nam đến đây chấm dứt.
Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan Châu Trinh và những người cùng

chí hướng muốn giành độc lập cho dân tộc nhưng không đi theo con đường bạo động như
Phan Bội Châu, mà chủ trương cải cách đất nước. Phan Châu Trinh cho rằng, “bất bạo


6

động, bạo động tắc tử”; phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, phải bãi bỏ chế độ
quân chủ, thực hiện dân quyền, khai thơng dân trí, mở mang thực nghiệp. Để thực hiện
được chủ trương ấy, Phan Châu Trinh đã đề nghị Nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải
cách. Đó chính là sự hạn chế trong xu hướng cải cách để cứu nước, Cụ không rõ bản chất
của đế quốc thực dân” . Do vậy, khi phong trào Duy Tân lan rộng khắp cả Trung Kỳ và
Nam Kỳ, đỉnh cao là vụ chống thuế ở Trung Kỳ (1908), thực dân Pháp đã đàn áp dã man,
cùng với sự kiện tháng 12-1907 thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa Trường Đơng Kinh
Nghĩa Thục phản ánh sự kết thúc xu hướng cải cách trong phong trào cứu nước của Việt
Nam.
=> Thất bại của phong trào này đã khẳng định sự bất lực của hệ tư tưởng dân
chủ tư sản trước nhiệm vụ giải phóng dân tộc do lịch sử đặt ra. Sự nghiệp giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối, đặt ra
yêu cầu bức thiết phải tìm ra con đường mới. Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành đã rời
bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.
Trong khoảng 10 năm (1911 – 1920) ra đi tìm con đường cứu nước, Nguyễn Ái
Quốc đã đi đến nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, ở cả các nước tư bản và thuộc
địa, nhất là ba nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ. Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng
lớn đó đã giúp người thanh niên yêu nước nhận thức rõ hơn, khái quát hơn những vấn đề
mang tính chất bước ngoặt quan trọng, đó là nhận ra diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những
người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”.
Đến tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo), số ra

ngày 16 và 17-7-1920. Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã
giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập). Từ đây, Người đã khẳng định con
đường cứu nước mới – con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản.
=> Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người có vai trị mở đường giải quyết tình
trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước đầu thế kỉ XX. Đó là cơng lao vĩ đại đầu
tiên của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam.


7

2.  Nguyễn Ái Quốc giữ vai trò quyết định trong quá trình chuẩn bị điều kiện
cho sự ra đời của Đảng.

 Về tư tưởng:
Sau khi tiếp thu những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu nghiên cứu sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng tháng
Mười Nga và tiến hành hàng loạt các hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm chính trị, cụ thể:
 Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là :
Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế
giới.
 Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách
mạng vơ sản thế giới.Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước. thuộc địa và cách
mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau nhưng không phụ
thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành cơng trước cách mạng
chính quốc góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.

 Nguyễn Ái Quốc nhận rõ, trong nước nền nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực
lượng đông đảo nhất, bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần
phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm
động lực cách mạng.
 Cách mạng muốn dành được thắng lợi trước hết phải có Đảng cách mạng nắm vai
trị lãnh đạo. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa Mác – Lênin : “Trước hết phải có
Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngồi thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.Đảng có vững cách mệnh mới
thành cơng, củng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu
khơng có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin”.
 Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác
ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.
=> Có thể thấy Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lenin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam để xây dựng nên lý luận cách mạng


8

giải phóng dân tộc, diễn đạt nó thành tiếng nói của dân tộc Việt Nam để truyền bá cho
nhân dân Việt Nam.
Lý luận đó đã được trình bày trong nhiều tài liệu do Nguyễn Ái Quốc viết trong
suốt những năm 20 bao gồm các bài báo như: Báo Người cùng khổ, Báo Nhân đạo, Báo
Sự thật, Báo Thanh niên,… các bài tham luận của Người tại Liên Xô, nhất là những bài
tham luận tại đại hội V của Quốc tế Cộng sản. Đặc biệt, là hai tác phẩm lớn: Bản án chế
độ thực dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927) - là cuốn sách chính trị đầu tiên
của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí
hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với Đảng cách mạng tiên phong. Sau

đó tất cả đều được bí mật truyền bá về Việt Nam.
=> Lý luận đó của Người là ánh sáng soi đường cho thanh niên Việt Nam đầu thế
kỉ XX đang trên đường đi tìm chân lí, là ngọn cờ dẫn đường cho phong trào cách
mạng Việt Nam trước khi có Đảng, là sự chuẩn bị về tư tưởng cho sự ra đời của Đảng.
Đồng thời, cũng đặt nền móng để xây dựng nên Cương lĩnh chính trị của Đảng sau
này.
 Về chính trị:
Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người đã
phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt
Nam, thể hiện tập trung trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”. Nguyễn Ái Quốc đưa ra
những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc:
o Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả 2
cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của
cách mạng thế giới.
o Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là 1 bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành cơng trước cách mạng
chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.
o Trong nước nơng nghiệp lạc hậu, nơng dân là lực lượng đông đảo nhất, bị
đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi
cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công-nông làm động lực cách
mạng.
o Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng
nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải trang bị chủ nghĩa Mác-Lênin:


9

trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi.
o Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Cách mạng là việc

chung của cả dân chúng chứ khơng phải là việc của 1 người. Vì vậy cần
phải hợp tác, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp
đến cao.
=> Những quan điểm đó được truyền bá qua Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên về
trong nước làm cho quần chúng nhân dân và các phong trào yêu nước Việt Nam
chuyển biến mạnh mẽ, góp phần truyền bá tư tưởng vơ sản, rèn luyện cán bộ và xây
dựng phát triển tổ chức của công nhân.
 Về tổ chức:
Hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi trong phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái
Quốc sớm đã nhận thức được vai trò quan trọng của công tác tổ chức xây dựng Đảng.
Người đánh giá cao sức mạnh tổ chức của nhân dân thuộc địa sẽ thành lực lượng khổng lồ
chống chủ nghĩa đế q́c.. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xơ để tìm hiểu,
khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung
Quốc) - nơi có đơng người Việt Nam u nước hoạt động để xúc tiến các công việc tổ
chức thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực
trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đồn. Trên cơ sở Cộng sản đồn, tháng 6/1925
Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ở Quảng Châu (Trung
Quốc) - đây là tổ chức yêu nước có khuynh hướng cộng sản. Những hoạt động của Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên đã thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu
nước theo khuynh hướng vô sản không ngừng phát triển, thúc đẩy sự phân hóa trong nội
bộ đưa đến sự hình thành ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam (1929). Việc thành lập Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên là bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức
cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đào tạo và huấn luyện cán bộ cách mạng: Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp đào tạo một
đội ngũ cán bộ nòng cốt cho cách mạng Việt Nam. Từ năm 1925 đến tháng 4/1927,
Nguyễn Ái Quốc mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại nhà số 13 và 13B đường Văn
Minh, Quảng Châu (Trung Quốc) đào tạo được 75 người. Những thanh niên đã được
Nguyễn Ái Quốc đào tạo qua lớp huấn luyện ở Quảng Châu tiếp tục được cử đi học tập tại
Liên Xô, một số khác được vào học trường qn sự Hồng Phố, cịn phần lớn trở về nước



10

hoạt động, tuyên truyền lý luận giải phóng dân tộc trong nhân dân và xây dựng hệ thống
tổ chức cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

3. Nguyễn Ái Quốc – người trực tiếp sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản: Năm 1929,
ba tổ chức cộng sản ra đời đó là Đơng Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng,
Đông Dương Cộng sản liên đoàn nhưng hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của
nhau làm cho phong trào cách mạng trong cả nước có nguy cơ bị chia rẽ lớn. Tình hình đó
đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải thống nhất các tổ chức thành một Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), mặc dù chưa nhận được chỉ
thị của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Song
với sự nhạy bén về chính trị, sự chủ động cao, thực hiện trọng trách lịch sử đối với dân
tộc, với vai trò, trách nhiệm trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu
tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Công
(Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái
Quốc. Là người chủ trì, đóng vai trị quan trọng quyết định thành cơng của Hội nghị.
Bằng uy tín tuyệt đối Nguyễn Ái Quốc đã đưa hội nghị đến thành công, các đại biểu đã
nhất trí với ý kiến của Nguyễn Ái Quốc là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
Đảng duy nhất lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt của
Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt
của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành  Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, phác thảo và phương hướng chiến lược
cho cách mạng Việt Nam. là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh xác định làm tư sản dân quyền cách mạng là

cách mạng giải phóng dân tộc; thổ địa cách mạng là cách mạng ruộng đất, theo đúng định
hướng của chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó độc
lập dân tộc là mục tiêu trước mắt, chủ nghĩa xã hội là phương hướng tiến lên. Cách xác
định phương hướng chiến lược của cương lĩnh là đúng đắn phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam, kết hợp giữa ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Vì trong bối
cảnh các phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến và
tư sản đều thất bại, thì để giành độc lập dân tộc chỉ có thể đi theo khuynh hướng vơ sản.
Đồng thời đây cũng là điểm sáng tạo bởi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta


11

khác các nước phương Tây (đi lên từ một nước tư bản) mà nước ta đi lên từ một nước
thuộc địa
Nhiệm vụ cách mạng trước mắt: là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và
phản cách mạng làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do; Lập chính phủ công nông
binh; tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc; tịch thu ruộng
đất của đế quốc và phản cách mạng chia cho dân cày nghèo. Những nhiệm vụ trên bao
gồm nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, trong đó nhiệm vụ dân tộc được đưa lên hàng
đầu.Cách xác định nhiệm vụ của cương lĩnh là sáng tạo bởi nếu so với lí luận chủ nghĩa
Mac Lenin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, so với cuộc CMVS ở các nước phương tây là
giải quyết mâu thuẫn giữa vơ sản và tư sản thì cương lĩnh lại nhấn mạnh nhấn mạnh
nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc, giải quyết mâu thuẫn giữa nhân dân ta với
đế quốc và tay sai của chúng.
Lãnh đạo: Cương lĩnh xác định lãnh đạo Cách mạng Việt Nam là Đảng cộng sản
Việt Nam, đội quân tiên phong của giai cấp vô sản. Cách xác định lãnh đạo CMVN của
cương lĩnh là đúng đắn, bởi trong điều kiện các PT yêu nước nước do các trí thức phông
kiến, sĩ phu yêu nước hoặc giai cấp tư sản đứng ra lãnh đạo đều khơng thành cơng thì sự
lãnh đạo phù hợp nhất chỉ có thể thuộc về giai cấp cơng nhân thơng qua đội tiên phong
của nó là Đảng cộng sản – 1 Đảng theo Chủ nghĩa Mac Lenin có đường lối chiến lược

khoa học đúng đắn; có tổ chức chặt chẽ, có kỉ luật nghiêm minh, có liên hệ mật thiết với
quần chúng, có đủ phẩm chất và năng lực để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đưa cách mạng
đến thành công.
Lực lượng tham gia: Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng bao gồm công
nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức. Đối với phú nơng, trung tiểu địa chủ và tư bản phải
lợi dụng hoặc trung lập. Cách xác định lực lượng cách mạng Việt Nam của cương lĩnh là
đúng đắn bởi phù hợp với thực tiễn Việt Nam và khả năng cách mạng, thái độ chính trị
của mỗi giai cấp trong XH vì trong điều kiện 1 nước thuộc địa khơng chỉ có quần chúng
lao khổ Công nhân, Nông dân mà cả những giai cấp và tầng lớp trên như tư sản dân tộc,
tiểu tư sản và trung, tiểu địa chủ đều phải chịu nỗi nhục mất nước, đều mâu thuẫn với Đế
quốc và tay sai về quyền lợi dân tộc do vậy họ đều có khả năng tham gia sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Chủ trương này là cơ sở để mở rộng khối đoàn kết toàn dân. Đây cũng là
điểm sáng tạo bởi nếu trong cuộc Cách mạng vô sản ở các nước tư bản, giai cấp tư sản và
địa chủ đều là kẻ thù của cách mạng thì trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa họ có thể trở thành lực lượng cách mạng.


12

Mối quan hệ với cách mạng thế giới: Đảng phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức
và  giai cấp vơ sản thế giới, nhất là giai cấp vơ sản Pháp. Tính đúng đắn thể hiện ở chỗ
cách mạng Việt Nam nằm trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, là một bộ phận của cách
mạng thế giới vì cùng đấu tranh vì hịa bình, tự do, dân chủ; có mối quan hệ mật thiết với
dân tộc bị áp bức vì cùng chống chủ nghĩa thực dân; có mối quan hệ mật thiết với giai cấp
vơ sản thế giới vì cùng chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân. Tính sáng tạo thể
hiện ở chỗ, cương lĩnh nhấn mạnh mối quan hệ đặc biệt giữa cách mạng Việt Nam với
giai cấp vơ sản Pháp , vì dân tộc Việt Nam và giai cấp vô sản Pháp đều chống lại kẻ thù
trực tiếp là thực dân. Đây là mối quan hệ bình đẳng chứ khơng phải quan hệ phụ thuộc.
=> Qua đó, cho thấy cương lĩnh chính trị do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương lĩnh
giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Độc

lập tự do là tư tưởng cốt lõi. Cương lĩnh có giá trị lý luận và thực tiễn lâu dài đối với
cách mạng Việt Nam.
Như vậy có thể thấy rằng ở thời điểm diễn ra bước ngoặt của lịch sử, sự xuất hiện
của Nguyễn Ái Quốc là sự xuất hiện của một lãnh tụ. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã trở
thành hình ảnh tượng trưng cho bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình lịch sử CMVN.

CHƯƠNG III: NHỮNG THẮNG LỢI TIÊU BIỂU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT
NAM TỪ KHI ĐẢNG CỘNG SẢN RA ĐỜI CHO ĐẾN NAY
1. Những thắng lợi của Cách mạng Việt Nam (1930 đến nay)

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam,
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi to
lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Trước hết, thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945: Sau khi ra đời, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã sát cánh cùng dân tộc, lãnh đạo thắng lợi cao trào cách mạng 1930-1931
và Xô Viết Nghệ tĩnh, Cao trào dân chủ 1936-1939 và cao trào giải phóng dân tộc 19391945, đỉnh cao là cách mạng tháng 8/1945. Thắng lợi cách mạng tháng 8/1945 đã đập tan
ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật đổ chế độ quân chủ hàng nghìn năm,
lập nên Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á. Từ đây dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh quang vinh.


13

Hai là, chiến thắng Điện Biên Phủ 1954: Sau cách mạng tháng 8/1945, thực dân
Pháp quay lại xâm lược nước ta, nền độc lập của dân tộc chưa thực sự được bảo vệ vững
chắc. Đảng đã lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến từng bước thắng lợi, từ chiến dịch Thu
Đông 1947, chiến dịch Biên giới 1950, đến chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và đỉnh cao

là chiến thắng Điện Biên Phủ 1954. Thắng lợi Điện biên Phủ (1954) giải phóng hồn tồn
miền Bắc, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi Điện Biên Phủ đã báo
hiệu sự sụp đổ chế độ thực dân kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn thế giới.
Ba là, đại thắng mùa xuân 1975: Sau chiến thắng Điện biên Phủ 1954, Mỹ thay thế
Pháp ở lập nên chế độ thuộc địa kiểu mới Đông Dương. Nước ta tạm thời chia cắt làm hai
miền với hai chiến lược cách mạng khác nhau. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, ở miền Bắc Đảng đề ra và lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền
Bắc làm hậu phương cho cơng cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Ở miền
Nam, Đảng đề ra đường lối kháng chiến và lãnh đạo lần lượt đánh thắng các chiến lược
chiến tranh của đế quốc Mỹ và kết thúc bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
1975 lịch sử. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước là thành quả vĩ đại
nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, kết
thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Đại thắng mừa xuân
1975 đã thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đánh dấu một
bước ngoặt quyết định mở đường cho dân tộc Việt Nam tiến hẳn vào kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, thắng lợi của công cuộc lối đổi mới đất nước: Sau năm 1975, đất nước có
nhiều thuận lợi song cũng gặp mn vàn khó khăn thách thức. Đảng đã lãnh đạo tìm tịi
khảo nghiệm con đường xây dựng CNXH. Tháng 12/1986 Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực, trọng
tâm là đổi mới về kinh tế. Nhìn tổng thể, trải qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình
trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Quan hệ đối ngoại ngày càng
mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao.


14


2. Liên hệ bản thân vê việc bảo vệ Đảng và bảo vệ chế độ xã hội mà Đảng và
nhân dân ta đang xây dựng

Để bảo vệ Đảng và bảo vệ chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng bản
thân em luôn luôn ý thức được rằng phải nghiêm chỉnh chấp hành mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng. Phải tuyệt đối trung thành với Đảng. Yêu Tổ quốc, yêu chế độ
xã hội chủ nghĩa. Đặt niềm tin tuyệt đối vào sự nghiệp đổi mới của Đảng. Không ngừng
học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc.
Đồng thời, cũng cần tỉnh táo trước mọi thơng tin sai lệch, xun tạc nhằm mục đích chống
phá Đảng ta.
Ngày nay, tiếp nối truyền thống của các thế hệ cha anh, thanh niên luôn tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng; trung thành, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; nêu
cao tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Thanh niên có khát vọng, ý chí vươn lên, đồn kết, chia sẻ, tương thân, tương ái, vì cộng
đồng và lợi ích quốc gia. Họ ln có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ, xung kích hồn
thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao. Tổ chức Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam với vai trị, trách nhiệm của mình đã có
nhiều nỗ lực trong thực hiện các chương trình phối, kết hợp với các lực lượng khác nhằm
tạo cơ sở và điều kiện để thanh niên phát huy vai trị xung kích, tình nguyện của mình
trong phát triển kinh tế; ổn định cuộc sống; tham gia xây dựng quê hương giàu đẹp, văn
minh; củng cố quốc phịng, an ninh góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.

KẾT LUẬN
Như vậy có thể thấy Nguyễn Ái Quốc có vai trị to lớn trong quá trình vận động thành lập
Đảng Cộng Sản Việt Nam từ việc Người đã không quản bao khó khăn, thử thách quyết
tâm ra đi tìm con đường cứu nước đúng đắn cho cả dân tộc khi vẫn cịn là chàng thanh
niên tuổi mới đơi mươi. Trong gần 20 năm kể từ ngày Người rời Bến cảng Nhà Rồng (Sài
Gịn), Nguyễn Ái Quốc đã khơng ngừng học tập, nghiên cứu để tìm ra con đường cứu

nước cho Cách mạng Việt Nam - con đường Cách mạng Vô sản. Sau đó Người tích cực
hoạt động, truyền bá về nước để chuẩn bị điều kiện về tư tưởng, chính trị, tổ chức tạo ra
thời cơ chín muồi dẫn đến sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh
giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư


15

tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của cùng với Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là
giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng
sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam;
giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo
cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho
đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự
đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành
cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản
quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm
qua.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2017, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tập 1.
3. Hồ Chí Minh, 2015, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2.
4. />

./hết/.



×