Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

quy định của pháp luật việt nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.88 KB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khóa 34 (2008-2012)
Đề tài:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
CÔNG KHAI, MINH BẠCH TÀI SẢN, THU NHẬP
CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC


Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Ts. Phan Trung Hiền Huỳnh Phước Hậu
Bộ môn: Luật hành chính MSSV: 5085800
L
ớp: Luật Thương mại 2-K34
Cần Thơ, tháng 4 năm 2012
LỜI CẢM ƠN
Trong bốn năm học dưới mái trường này đã mang đến cho tôi biết bao
nhiêu là trải nghiệm quý giá. Bên cạnh những người Thầy, người Cô luôn tận tình
giảng dạy và giúp đỡ thì còn có những người bạn luôn quan tâm và chia sẻ cùng
tôi những kiến thức đã học được trên giảng đường Đại học để làm hành trang
bước vào đời.
Để có thể đạt được những thành công không thể chỉ là sự cố gắng của bản
thân mà còn là sự động viên, khích lệ của gia đình, là sự tận tâm nhiệt tình giảng
dạy của thầy cô và sự giúp đỡ của bạn bè chung lớp.
Luận văn là một sự tổng kết tất cả những kiến thức mà tôi đã tiếp thu được
trên giảng đường Đại học để có thể vận dụng những gì học được từ trên ghế nhà
trường ra ngoài cuộc sống như một công việc cụ thể. Luận văn là hồi chuông báo
hiệu sắp qua rồi thời sinh viên và những ký ức tươi đẹp đó sẽ theo tôi trên suốt
chặng đường sau này.
Nhân đây tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, thầy, cô những người


đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua. Để tôi có thể góp nhặt được những
kiến thức hữu ích làm hành trang trên con đường khởi nghiệp của mình sau này.
Xin gửi lời cảm ơn nồng nhiệt và trân trọng nhất đến Thầy-Ts. Phan Trung
Hiền. Người đã tận tình chỉ dạy tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể hoàn
thành luận văn này.
Trân trọng cảm ơn! Cần Thơ, tháng 4 năm 2012
Huỳnh Phước Hậu



NH
ẬN XÉT CỦA THÀNH VIÊN
H
ỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN
….………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………

………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
……………………………………………………………….
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài: 6
2. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài: 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 8
4. Phương pháp nghiên cứu: 8
5. Bố cục đề tài: 9
CHƯƠNG 1 11
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ TÀI SẢN, THU
NHẬP CẦN PHẢI CÔNG KHAI, MINH BẠCH 11
1.1. Khái niệm về cán bộ, công chức 11
1.1.1. Cán bộ 11
1.1.1.1 Khái niệm 11
1.1.1.2. Đặc điểm 12
1.1.2. Công chức 14
1.1.2.1. Khái niệm 14
1.1.2.2. Đặc điểm 15
1.1.3. Cán bộ, công chức là đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập
18
1.2. Khái lược các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức 19
1.3. Đối tượng tài sản, thu nhập cần phải công khai, minh bạch 22
1.3.1. Tài sản, thu nhập phải kê khai 22
1.3.2. Công khai các loại tài sản, thu nhập đã kê khai 23

1.4. Mục đích của việc công khai minh bạch tài sản thu nhập của cán bộ công
chức 24
1.4.1. Phòng chống tham nhũng 24
1.4.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thanh liêm, trong sạch 27
1.5. Ý nghĩa của việc công khai minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ công
chức 28
1.5.1. Ý nghĩa về mặt kinh tế 28
1.5.2. Ý nghĩa về mặt chính trị 30
1.5.3. Ý nghĩa về mặt xã hội 31
CHƯƠNG 2 33
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG KHAI,
MINH BẠCH TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC 33
2.1. Chủ thể tham gia vào việc công khai, minh bạch tài sản, thu nhập 33
2.1.1 Chủ thể có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập 33
2.1.2 Chủ thể có có thẩm quyền yêu cầu và tiến hành xác minh tài sản, thu
nhập 35
2.2. Kê khai và xác minh tài sản, thu nhập cần phải công khai minh bạch 38
2.2.1. Kê khai tài sản, thu nhập 38
2.2.2. Xác minh tài sản, thu nhập 39
2.3. Công tác thực hiện việc kê khai và xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ
công chức 41
2.3.1 Quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức phải kê khai tài sản thu
nhập 41
2.3.2 Quyền hạn và trách nhiệm của người xác minh tài sản, thu nhập của
cán bộ, công chức 42
2.3.3. Trình tự, thủ tục kê khai và xác minh tài sản thu nhập 43
2.3.4. Công khai bản kê khai tài sản thu nhập 43
2.4. Trách nhiệm pháp lý đối với cán bộ, công chức làm sai quy định về công
khai minh bạch tài sản, thu nhập 46
2.4.1. Trách nhiệm pháp lý của cán bộ, công chức không trung thực trong kê

khai, tài sản, thu nhập 46
2.4.2. Trách nhiệm pháp lý của những người chỉ đạo việc kê khai và kiểm tra
giám sát việc minh bạch tài sản, thu nhập 48
2.5. Sự phối hợp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã và chính quyền
trong việc thực hiện công khai minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ công
chức 49
2.5.1. Vai trò của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội với việc thực
hiện công khai minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức 49
2.5.2. Sự phối hợp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội và các cơ
quan, ban ngành liên quan về việc công khai minh bạch tài sản thu nhập 50
CHƯƠNG 3 55
THỰC TIỄN VẤN ĐỀ QUẢN LÝ VỀ CÔNG KHAI, MINH BẠCH TÀI SẢN,
THU NHẬP CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT 55
3.1. Hiệu quả các quy định của pháp luật trong vấn đề công khai, minh bạch
tài sản, thu nhập 55
3.2. Những tồn tại và yếu kém trong công tác thực hiện công khai, minh bạch
tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức 58
3.2.1. Những tồn tại và yếu kém trong công tác thực hiện công khai, minh
bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức 58
3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại và yếu kém trong công tác thực hiện
công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức 62
3.3. Một số đề xuất để hoàn thiện các quy định của pháp luật về công khai,
minh bạch tài sản thu nhập của cán bộ, công chức 65
KẾT LUẬN 71
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 6 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Kể từ khi ban hành Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 sau nhiều lần sửa
đổi, bổ sung cho đến khi được nâng lên thành Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2005 thì vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức vẫn luôn là một
trong những biện pháp được chú trọng nhằm thực hiện kế hoạch và chiến lược phòng,
chống tham nhũng đang là một vấn đề nhức nhối không chỉ của nhà nước mà cả xã
hội đều quan tâm. Tham nhũng đi đôi với sự tụt hậu về kinh tế, mất ổn định về chính
trị là căn nguyên của rất nhiều những vấn đề gây ảnh hưởng và đe dọa đến sự phát
triển của đất nước và cả một thể chế chính trị. Thực tế ở nhiều nước trên thế giới có
tỷ lệ tham nhũng cao như Somalia, Triều Tiên, Myanmar, Afganixtan thì nền kinh tế
luôn xếp vào hạng kém phát triển nhất trên thế giới, song song đó là tình trạng bất ổn
chính trị kéo theo cả một xã hội luôn phải đối mặt với tình trạng nghèo đói, thiếu thốn
lương thực, thực phẩm, thuốc men…
Đứng trước những khó khăn và thánh thức của việc chống tham nhũng, Chính
phủ nước ta đã đề ra nhiều biện pháp phòng, chống tham nhũng cũng như cố gắng
xây dựng hoàn chỉnh những quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng sao
cho có hiệu quả thiết thực nhất. Việc thực hiện kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức được xem là một biện pháp thực thi hiệu quả nhất kế hoạch phòng, chống
tham nhũng hiện nay. Nhưng mãi cho đến thời gian gần đây khi mà các hành vi tham
nhũng ngày càng phức tạp và tinh vi thì những quy định trước đây có phần bị lỗi thời,
không phù hợp với tình hình thực tế nữa đòi hỏi phải có một sự đổi mới trong cách
suy nghĩ, tiếp cận vấn đề trên lập trường thực tiễn pháp lý để có những phương thức
và biện pháp hiệu quả hơn nhằm ngăn chặn nạn tham nhũng diễn biến khó lường như
hiện nay.
Đất nước chúng ta đang trên con đường hiện đại hóa và hòa nhập vào nền kinh
tế thế giới sẽ đứng trước những thách thức vô cùng khó khăn, đó là sự hòa nhập quá
nhanh vào nền kinh tế thế giới sẽ khiến cho không ít những cán bộ, công chức lãnh
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 7 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
đạo vì hám danh, ham lợi do nền kinh tế thị trường mang lại mà sẵn sàng gây tổn hại
đến lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc để nhường chỗ cho lợi ích cá nhân. Bên cạnh đó

những thế lực thù địch luôn rình rập và lợi dụng cơ hội để phá hoại nền chính trị xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta đang theo đuổi. Nếu như không có một cơ chế phòng,
chống tham nhũng hợp lý thì hậu quả thật khó lường.
Một đất nước muốn phát triển mạnh mẽ thì trước tiên phải có một xã hội ổn định
và một nền chính trị vững chắc. Để thực hiện được điều đó thì phải ổn định lòng dân.
Cho nên cần thiết phải xây dựng được niềm tin mãnh liệt trong nhân dân vào bộ máy
nhà nước, hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, những chủ thể quản lý nhà nước là những
cán bộ, công chức phải trong sạch về đường lối, tư tưởng cách mạng cũng như đạo
đức nghề nghiệp để góp phần tạo nên một hệ thống quyền lực nhà nước trong sạch,
vững mạnh.
Cho nên việc xây dựng biện pháp phòng, chống tham nhũng đi từ cơ sở, cụ thể
là công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức sẽ là nền tảng vững
chắc để góp phần ngăn chặn và phòng ngừa tệ nạn tham nhũng hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, với vai trò là công dân của nước Việt Nam, là
sinh viên ngành luật và thông qua những hiểu biết về vấn đề phòng, chống tham
nhũng đang được đẩy mạnh thực hiện trên bình diện cả nước. Xét thấy việc thực hiện
công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ công chức là một biện pháp thiết
thực và hiệu quả trong việc phòng ngừa tham nhũng nhưng lại chưa nhận được sự
quan tâm đúng mức của các cấp lãnh đạo. Vì thế, người viết mạnh dạn chọn đề tài
“Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán
bộ, công chức” làm công trình nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Dù chỉ là một công trình nghiên cứu của sinh viên và còn hạn chế về nhiều mặt
nhưng đó là cả tâm huyết mà người viết muốn gửi gắm vào đó với hi vọng việc thực
hiện công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức được quan tâm
hơn nữa để góp phần vào công tác phòng, chống tham nhũng. Đồng thời xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh góp phần làm trong sạch bộ máy
chính trị để giành được những hiệu quả tích cực trong việc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng hiện nay.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 8 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu

2. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài:
Mục đích nghiên cứu: Thông qua đề tài người viết muốn làm rõ những quy định
chung của pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
hiện hành và so sánh đối chiếu với các quy định cũ. Qua đó có cái nhìn toàn diện hơn
những cái đạt được và không đạt được cũng như những thuận lợi và khó khăn của
việc áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tế, rồi từ đó đề xuất những phương
hướng giải quyết các sai sót khi áp dụng trên thực tiễn.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu: Về mặt khoa học luật: Góp phần tích lũy thêm
những đề xuất bổ sung thêm các quy định pháp lý là phong phú thêm các giải pháp
điều chỉnh những vấn đề phát sinh còn tồn đọng khi thực hiện công khai tài sản, thu
nhập. Về mặt thực tiễn: Đề xuất được các giải pháp cụ thể để vận dụng vào thực tiễn
sao cho các quy định của luật được áp dụng một cách hiệu quả, tránh được hiện tượng
vận dụng một cách máy móc, hình thức. Bên cạnh đó cần bổ sung, sửa đổi những quy
định có phần chồng chéo gây khó khăn cho việc thực hiện công khai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài này người viết chủ yếu tập trung vào đối tượng là
trình tự thủ tục, phương thức tổ chức việc công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của
cán bộ, công chức và các biện pháp khắc phục những bất cập hạn chế của việc thực
hiện công khai, minh bạch.
Phạm vi nghiên cứu: Về mặt pháp luật dựa trên cơ sở là những quy định pháp
luật hiện hành về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập và các văn bản có liên quan
để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài. Về mặt thực tiễn người viết dựa trên kết quả
theo thống kê của một số địa phương trên cả nước, đồng thời dựa vào các thống kê
của các cơ quan Thanh tra các tỉnh, các ý kiến phản ánh trên thực tế để làm nền tảng
nghiên cứu đề tài này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài người viết sử dụng vài phương pháp phục vụ quá trình
nghiên cứu gồm những phương pháp nghiên cứu sau:
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 9 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu

Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp người viết sử dụng xuyên suốt
trong đề tài nhằm để phân tích các quy định pháp luật được vận dụng như thế nào
trong thực tiễn để tìm ra những sai sót, kẻ hở mà luật chưa dự liệu tới những vấn đề
phát sinh.
Phương pháp so sánh: Người viết sử dụng phương pháp này nhằm so sánh làm
rõ những quy định có liên quan với nhau về việc điều chỉnh cùng một vấn đề gắn với
mỗi giai đoạn thì giá trị của quy định đó sẽ như thế nào? Có phù hợp với tình hình
hiện tại hay không? lấy đó là cơ sở để sửa đổi, bổ sung cho hoàn chỉnh.
Ngoài ra người viết còn sử dụng phương pháp liệt kê, dẫn chứng, tổng hợp, diễn
giải và phương pháp hoàn thành tốt luận văn ngành luật.
5. Bố cục đề tài:
Đề tài được chia thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về cán bộ, công chức và tài sản, thu nhập cần
phải công khai minh bạch. Ở chương này người viết chủ yếu tập trung làm rõ chủ thể
của việc công khai minh bạch tài sản là cán bộ, công chức và khái quát chung về
những thuận lợi, khó khăn, ý nghĩa của việc thực hiện công khai, minh bạch tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức hiện nay như thế nào.
Chương 2: Những quy định của Pháp luật Việt Nam về công khai minh bạch tài
sản thu nhập của cán bộ công chức. Trong chương này người viết tập trung phân tích
những quy định của pháp luật về việc kê khai, xác minh và công khai tài sản thu nhập
của cán bộ công chức. Bên cạnh đó là hình thức chế tài và quyền nghĩa vụ của các
chủ thể liên quan.
Chương 3: Thực tiễn vấn đề quản lý về công khai minh bạch tài sản thu nhập
của cán bộ công chức và hướng hoàn thiện các quy định pháp luật. Trong chương
cuối này người viết chủ yếu tập trung phân tích những mặt đạt được và không đạt
được của việc thực hiện công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức. Đồng thời người viết cũng có những đề xuất nhằm hướng tới hoàn thiện hơn
nữa những quy định của pháp luật để phù hợp với tình hình thực tế đang diễn ra.
Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tiếp cận các tài liệu về công
khai minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, nhưng đây là một vấn đề còn

Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 10 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
quá ít các nghiên cứu đầy đủ và do hạn chế về khả năng và thời gian, chắc chắn đề tài
không thể không tránh khỏi những sơ suất. Người viết mong nhận được ý kiến đóng
góp của quý thầy, cô và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 11 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ TÀI SẢN,
THU NHẬP CẦN PHẢI CÔNG KHAI, MINH BẠCH
1.1. Khái niệm về cán bộ, công chức
1.1.1. Cán bộ
1.1.1.1 Khái niệm
Ở Việt Nam chúng ta trong một thời gian dài thì Nhà nước ta chưa thống nhất
được các khái niệm: “cán bộ”, “công chức”. Gắn với mỗi giai đoạn lịch sử nhất định
thì các khái niệm này cũng thay đổi dẫn đến việc sử dụng các khái niệm trên không
được thống nhất về mặt ngữ nghĩa.
Theo từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm
từ điển học, 2000, trang 207, trang 109, định nghĩa
1
“Cán bộ là người làm công tác có
chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức”.
Như vậy theo khái niệm thì cán bộ không chỉ là những người lãnh đạo làm việc
trong bộ máy nhà nước mà còn làm việc trong tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị
-xã hội.
Theo điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (có hiệu lực ngày 01/10/2010)
cán bộ được định nghĩa như sau
2
:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,

chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị, chính trị-xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây
gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt

1
Phạm Trung: Một số suy nghĩ về khái niệm "cán bộ, công chức" trong quá khứ và theo luật cán bộ, công chức
năm 2009,
[truy cập ngày 10/01/2012].
2
Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 12 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị-xã
hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Như vậy sự khác biệt lớn nhất để phân biệt cán bộ với công chức và các đối
tượng khác là những người được bầu cử theo nhiệm kỳ. Thông qua con đường bầu cử
mới hình thành nên tư cách là cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, chính trị- xã hội.
1.1.1.2. Đặc điểm
Cán bộ với công việc là điều hành và quản lý đất nước cho nên họ cũng mang
những đặc điểm rất đặc thù mà không phải đối tượng nào cũng có.
 Là công dân Việt Nam
Đây là một yếu tố bắt buộc để một cá nhân có thể trở thành một cán bộ của “cơ
quan hành chính nhà nước” hay “cán bộ nhà nước”, mà cả “cán bộ hoạt động chuyên
trách thường xuyên trong các tổ chức chính trị, chính trị xã hội”. Bởi vậy không chỉ

riêng cơ quan nhà nước mà ngay cả tổ chức chính trị, chính trị- xã hội, điều kiện tham
gia với tư cách chủ chốt- tư cách ổn định đều đòi hỏi phải là công dân Việt Nam.
Bên cạnh tính chất công việc của cán bộ là hoạt động chuyên trách thường
xuyên thì những vấn đề pháp lý gắn liền với tư cách cán bộ cũng đòi hỏi cán bộ phải
là công dân Việt Nam như vấn đề bảo hiểm, điều kiện học tập và làm việc lâu dài
cũng như sự hiểu biết về lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam. Mà những yêu cầu
này không thể áp dụng trên đối tượng là người nước ngoài vì họ làm việc theo hợp
đồng có thời hạn và họ cũng không am hiểu nhiều về văn hóa Việt Nam.
Do đặc thù của cán bộ là những con người mang trên mình một trọng trách quốc
gia, một đội ngũ quản lý, điều hành và duy trì sự hoạt động ổn định của cả một đất
nước. Cho nên đội ngũ cán bộ điều hành, lãnh đạo bộ máy nhà nước, hệ thống chính
trị là công dân nước mình vẫn tốt hơn.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 13 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
 Là những người được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh cụ
thể
Đây là đặc điểm đặc trưng của cán bộ so với các đối tượng khác như công chức,
viên chức. Hầu hết cán bộ được hình thành qua con đường bầu cử. Chỉ có cán bộ mới
được bầu, cán bộ thường giữ vị trí, vai trò chủ đạo trong cơ quan nhà nước. Tuy
nhiên không phải tất cả những người được bầu cử đều được gọi là cán bộ. Chẳng hạn,
đại biểu Hội đồng nhân dân được nhân dân đi bầu nhưng trong số những người trúng
cử đó không phải ai cũng được gọi là cán bộ mà chỉ những người được bầu giữ chức
vụ trong thường trực Hội đồng nhân dân mới được gọi là cán bộ. Ví dụ, trong Hội
đồng nhân dân cấp xã chỉ có chủ tịch Hội đồng nhân dân, phó chủ tịch Hội đồng nhân
dân là cán bộ
3
và những đại biểu dân cử còn lại không được gọi là cán bộ.
 Làm việc theo nhiệm kỳ
Những chức danh, chức vụ của cán bộ được hình thành qua con đường bầu cử,
thời gian làm việc theo nhiệm kỳ của cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc (nhiệm kỳ của

Quốc hội, Hội đồng nhân dân). Với đặc điểm này thì cán bộ nhiệm kỳ trước có thể
được bầu lại ở nhiệm kỳ sau và được bầu hoặc giữ chức vụ khác nhau. Một số vị trí
làm việc trong cơ quan nhà nước cán bộ không được đảm nhận quá hai nhiệm kỳ liên
tục như Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp
4
. Khi hết
nhiệm kỳ thì tùy vào yêu cầu công việc mà cán bộ được bổ nhiệm phục vụ ở các vị trí
khác trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị- xã hội.
 Trong biên chế nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước
Đây là một điểm khác biệt và là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt cán bộ với các
những người hành nghề tự do, những người làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân.
Đây cũng là hệ quả của việc hình thành cán bộ qua con đường bầu cử. Những người
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch viên chức nhà nước thì hưởng lương từ tổ chức
sự nghiệp theo quy định của pháp luật.

3
Xem điểm b, khoản 2 Điều 61 Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
4
Xem khoản 3 Điều 6 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 14 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
 Làm việc trong cơ quan nhà nước, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị,
chính trị- xã hội
Cán bộ là những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước từ trung
ương tới địa phương, các cơ quan của Đảng ,Đoàn thanh niên, Mặt trận tổ quốc, Công
đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân Việt Nam…
Đặc điểm này giúp nhận diện tư cách cán bộ với các thành phần xã hội khác.
Chủ thể các tổ chức này đặc trưng là cán bộ và công chức. Tuy nhiên công chức còn
làm việc trong đơn vị sự nghiệp nhưng cán bộ thì không.
 Không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội

Do mang tính đặc thù của công việc nên cán bộ có những hình thức và phương
pháp hoạt động riêng khác hẳn với hoạt động của nông dân hay công nhân
5
. Những
hoạt động của cán bộ mang tính chất định hướng phát triển và bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước đối với quá trình sản xuất của cải vật chất. Thể hiện một tầm
nhìn xa, rộng và bao quát đúng với cốt cách của một người lãnh đạo.
1.1.2. Công chức
1.1.2.1. Khái niệm
Theo từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung
tâm từ điển học, 2000, trang 207, trang 109, định nghĩa “công chức là những người
được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà
nước, hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp”.
Như vậy, theo từ điển thì khái niệm “công chức” chỉ là những người hoạt động
trong bộ máy nhà nước, còn khái niệm “cán bộ” thì rất rộng, bao gồm không chỉ
những người lãnh đạo và các nhà chuyên môn làm việc trong bộ máy nhà nước mà
còn làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Trong quản lý nhà nước thì công chức là người trực tiếp thực hiện chuyên môn
nghiệp vụ, tham gia quản lý nhà nước.

5
Tham khảo giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Ts. Phan Trung Hiền, Khoa Luật – Trường Đại học Cần
Thơ (trang 115)
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 15 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
Theo Điều 2 Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2010 thì căn
cứ để xác định công chức
6
như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức

vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo
đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm
việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP.
Theo khoản 2, 3 Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, công chức được
định nghĩa như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi
chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Như vậy công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương,
trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập.
1.1.2.2. Đặc điểm
Cùng với cán bộ thì công chức là chủ thể tham gia vào công tác quản lý nhà
nước, quản lý xã hội. Do đặc thù của công việc nên công chức cũng mang những đặc

6
Xem Điều 2 Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 1 năm 2010 quy định những người là công chức.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 16 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu

điểm rất khác biệt mà không phải đối tượng nào cũng có.
 Là công dân Việt Nam
Trên cơ sở quy định tại Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức thì đối tượng có thể
trở thành công chức chỉ có thể là công dân Việt Nam và phải cư trú tại Việt Nam.
Đây là điều kiện cần để xác định tư cách pháp lý để có thể trở thành công chức. Tuy
nhiên, để trở thành công chức thì công dân còn phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều
kiện tương ứng với yêu cầu của cơ quan, tổ chức có quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm.
Hoạt động công vụ là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, thực thi và thừa
hành pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhân dân, của xã hội và của quốc gia do đó công
chức phải có nghĩa vụ trung thành với thể chế chính trị, với Nhà nước. Với những đặc
điểm đó khi tham gia vào công vụ đòi hỏi sự tận tụy phục vụ và lòng trung thành
tuyệt đối với Đảng và nhà nước nên công chức phải là công dân Việt Nam và mang
trên mình một quốc tịch Việt Nam
7
. Theo thông lệ của các nước khác cũng vậy,
người đăng ký tuyển dụng vào cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị,
chính trị- xã hội chỉ được phép mang quốc tịch nước đó.
 Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước
Dấu hiệu nổi bật nhất của công chức là được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao
giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, được hưởng lương từ ngân
sách nhà nước. Điều này phản ánh được tính thường xuyên, liên tục nền công vụ của
nhà nước. Với quy định này thì người được tuyển dụng làm công chức phải qua được
kỳ thi tuyển dụng công chức của các cơ quan, tổ chức có nhu cầu tuyển dụng và đã
trúng tuyển được tiếp nhận vào làm việc tại cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp nhà
nước khi hết thời gian tập sự nếu thỏa mãn được các điều kiện trong thời gian tập sự
thì được cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm chính thức vào ngạch
công chức. Việc tuyển dụng này phải căn cứ vào nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu
biên chế
8
.

 Công việc có tính chuyên nghiệp và thường xuyên

7
Xem khoản 2, 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008
8
Xem điều 35 Luật Cán bộ, công chức năm 2008
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 17 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
Do yêu cầu công vụ nên công việc mang tính thường xuyên, liên tục và chuyên
nghiệp để đảm bảo yếu tố chất lượng và nhanh chóng trong việc thực thi các công tác
nghiệp vụ sao cho hiệu quả nhất và thể hiện được tinh thần của nền hành chính công
là hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và đất nước.
 Được giao những quyền hạn, công việc tương ứng với chức vụ
Quyền hạn là công cụ để công chức có thể thực thi những công việc và hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Gắn với đơn vị, tổ chức sẽ có sự phân công về chức vụ,
quyền hạn sao cho phù hợp với công việc quản lý, phân công lao động trong cơ quan
từ trung ương tới địa phương thật sự phù hợp. Cấp trên quản lý cấp dưới, cấp dưới
thực hiện và báo cáo lên cấp trên là một quy tắc để thể hiện quyền hạn trong công
việc được giao. Đối với nhiều công việc cụ thể thì công chức có thể tự do xét đoán và
lựa chọn phương án hành vi cụ thể, nhưng trong những trường hợp đó thì công chức
cũng bị ràng buộc bởi nghĩa vụ chung rằng phạm vi quyền hạn được phép sẽ tương
ứng với nghĩa vụ cần làm.
 Làm việc trong cơ quan nhà nước, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị,
chính trị- xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập
Ngoài những công chức làm việc trong cơ quan nhà nước, cơ quan của Đảng, tổ
chức chính trị, chính trị- xã hội còn có công chức làm việc trong đơn vị sự nghiệp
công lập. Trong đơn vị sự nghiệp công lập công chức là những người giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý (không có chức danh cán bộ).
 Quan hệ lao động của đội ngũ công chức luôn tồn tại hai yếu tố tự nguyện
của người lao động và yếu tố ý chí của nhà nước

9
Sự đồng ý của người lao động là yếu tố cần thiết, nó là điều kiện bước đầu để
quan hệ phục vụ nhà nước được hình thành. Nhưng ý chí nhà nước mới là yếu tố
quyết định cho sự hình thành quan hệ pháp luật giữa hai bên. Bởi vì quyền và nghĩa
vụ của cán bộ, công chức phát sinh từ khi có quyết định tuyển dụng, quyết định bổ
nhiệm hoặc quyết định công nhận kết quả bầu cử chứ không phải từ khi cá nhân

9
Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Ts. Phan Trung Hiền, Khoa Luật- trường Đại học Cần Thơ (trang 114)
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 18 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
người lao động thể hiện nguyện vọng của mình.
 Không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội
Công chức là những người thực hiện chuyên môn nghiệp vụ. Hoạt động của họ
trực tiếp tạo ra những sản phẩm tinh thần phục vụ cho xã hội. Hoạt động của công
chức chỉ mang tính định hướng phát triển và bảo đảm sự lãnh đạo của nhà nước đối
với các quá trình sản xuất, họ không trực tiếp tham gia vào qua trình sản xuất tạo ra
của cải vật chất.
Trước khi Luật Viên chức năm 2010 ra đời (có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm
2012) thì những đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập với bản chất
nghề nghiệp cũng như công việc thì họ không phải là cán bộ, công chức nhưng lại
được liệt kê vào nhóm cán bộ, công chức. Chính vì điều bất hợp lý này mà cần phải
cho ra đời Luật viên chức năm 2010 để phân biệt rõ những đối tượng làm việc trong
các đơn vị sự nghiệp thuộc nhóm đối tượng khác gọi là viên chức. Luật viên chức đã
định nghĩa viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm
việc tại đơn vị sự nghiệp, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập
theo quy định của pháp luật
10
. Đặc điểm nghề nghiệp của viên chức là không mang
tính quyền lực công mà chủ yếu là mang tính chuyên môn, nghiệp vụ. Viên chức làm

việc tại đơn vị sự nghiệp công lập có thời gian từ năm năm trở lên thì được xét
chuyển thành công chức mà không qua thi tuyển là một đặc điểm để phân biệt công
chức với viên chức
11
. Như vậy đặc điểm đặc trưng của đội ngũ viên chức là được
tuyển dụng thông qua hình thức xét tuyển, làm việc theo chế độ hợp đồng và hưởng
lương từ đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là đặc điểm để phân biệt đối tượng là công
chức và viên chức theo tính chất công việc của hai đối tượng này.
1.1.3. Cán bộ, công chức là đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập
Khác với các đối tượng là những người hành nghề kinh doanh tự do, những
người làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân. Cán bộ, công chức là những người có
nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập cá nhân. Vì họ là những người có quyền hạn,
chức vụ trong bộ máy hành chính nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị- xã hội, đơn vị

10
Xem Điều 2 Luật Viên chức năm 2010.
11
Xem điểm a, khoản 1 Điều 58 Luật Viên chức năm 2010.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 19 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
sự nghiệp nên cán bộ, công chức là một hình mẫu để mọi người dân nhìn vào và noi
theo. Một cán bộ, công chức được gọi là thanh liêm, trong sạch hay không thì cần
một phương thức đánh giá cụ thể để mọi người dân cùng biết. Vì vậy việc công khai,
minh bạch tài sản là một hành động cụ thể nhằm thể hiện tính trong sạch trong nền
công vụ của đất nước. Theo tâm lý chung thì không ai mong muốn mọi người biết
mình có bao nhiêu tài sản bởi vì có thể gây ra những phiền hà cho bản thân và cho gia
đình như gây sự chú ý cho các đối tượng trộm cắp, gây sự hoài nghi, đố kỵ của người
khác. Nhưng với trách nhiệm của một cán bộ, công chức thì việc công khai, minh
bạch tài sản là phù hợp với tác phong nghề nghiệp mà đòi hỏi họ phải có nghĩa vụ
thực hiện. Phù hợp với yêu cầu công khai, minh bạch tài sản để chống tham nhũng.

Kê khai tài sản, thu nhập có ý nghĩa quan trọng nhằm minh bạch tài sản, thu
nhập của người có nghĩa vụ kê khai, phục vụ công tác quản lý cán bộ, công chức, góp
phần phòng ngừa và ngăn chặn hành vi tham nhũng. Do đó, xác định rõ đối tượng có
nghĩa vụ kê khai có ý nghĩa hết sức quan trọng, đây là cơ sở để các Bộ, ngành, địa
phương tổ chức tốt việc tập huấn, phổ biến, quán triệt, đồng thời nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về
phòng chống tham nhũng, minh bạch tài sản, thu nhập.
1.2. Khái lược các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức
Việc thực hiện kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là một vấn đề
được đề cập từ lâu nhưng chỉ là kê khai cho đúng trình tự, thu tục quy định của pháp
luật chứ không mang lại hiệu quả thiết thực do chưa có cơ chế công khai bản kê khai
tài sản, thu nhập.
Cụ thể việc kê khai tài sản, thu nhập được quy định lần đầu tiên trong Pháp lệnh
chống tham nhũng năm 1998 do Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa X ban hành. Tuy
nhiên quy định cũng rất sơ sài và chỉ có một Điều luật trong pháp lệnh quy định về
vấn đề này. Điều 14 trong Pháp lệnh quy định “Người có chức vụ, quyền hạn phải kê
khai nhà, đất và các loại tài sản khác có giá trị lớn của mình. Người kê khai phải kê
khai chính xác, trung thực và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 20 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
Chính phủ quy định cụ thể đối tượng phải kê khai, các loại tài sản phải kê khai, thời
điểm, trình tự và thủ tục kê khai”. Sau đó Pháp lệnh này được hướng dẫn bằng Nghị
định 64/1998/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh chống tham nhũng. Nghị định 64/1998/NĐ-CP dành riêng một chương để quy
định chi tiết vấn đề kê khai tài sản nhưng không hề đề cập đến việc kê khai thu nhập
của người có nghĩa vụ kê khai mà chỉ kê khai nhà ở, đất và các tài sản khác có giá trị
từ 50 triệu đồng trở lên. Bản kê khai được quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ cán bộ
và chỉ được nghiên cứu, khai thác trong trường hợp người kê khai có hành vi tham
nhũng. Như vậy trong Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và Nghị định

64/1998/NĐ-CP đã nêu lên việc cần làm là phải kê khai tài sản của cán bộ, công chức
để chống tham nhũng. Nhưng những quy định này vẫn chưa thể phát huy tính hiệu
quả của nó bởi vì còn quá nhiều sự bất hợp lý ở đây. Trong đó chỉ kê khai tài sản mà
không kê khai thu nhập là một vấn đề thiếu sót. Bất hợp lý hơn nữa là việc kê khai
nhưng không công khai mà lưu giữ theo hồ sơ quản lý cán bộ. Với cách làm này làm
sao biết được người kê khai có kê khai gian hay không khi không có cơ chế kiểm tra
xác minh tính trung thực trong kê khai tài sản. Bản kê khai chỉ được tiến hành kiểm
tra xác minh nếu phát hiện người đó có tham nhũng. Ở đây có một quy trình ngược
đó là không sử dụng việc kê khai tài sản để tìm ra người tham nhũng mà lại sử dụng
bản kê khai để kết luận tham nhũng. Với những quy định về kê khai tài sản như trong
Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và Nghị định 64/1998/NĐ-CP mang nhiều ý
nghĩa chống tham nhũng chứ không phải phòng ngừa tham nhũng. Trong khi đó việc
phòng ngừa tham nhũng luôn là phương pháp mang lại hiệu quả tích cực nhất trong
việc loại bỏ tham nhũng khỏi bộ máy hành chính công thì chưa được chú trọng nhiều.
Ngay cả tên gọi của Pháp lệnh là chống tham nhũng chứ không phải là phòng, chống
tham nhũng như hiện nay.
Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 sau hai năm ban hành thì được sửa đổi
bổ sung bằng Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh chống tham nhũng năm 2000. Tuy nhiên
Pháp lệnh sửa đổi cũng không đề cập gì tới những thiếu sót trong việc kê khai tài sản
của cán bộ, công chức.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 21 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
Ngày 29 tháng 11 năm 2005 Chính phủ đã ban hành Luật Phòng, chống tham
nhũng có hiệu lực ngày 01 tháng 6 năm 2006 thay thế các văn bản trước đó. Trong
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 vấn đề thực hiện kê khai tài sản, thu nhập
của cán bộ, công chức đã được chú trọng hơn và có những quy định chi tiết hơn về
vấn đề này. Sau đó Chính phủ ban hành Nghị định 37/2007/NĐ-CP về việc minh
bạch tài sản, thu nhập. Nghị định 37/2007/NĐ-CP ra đời là một bước tiến quan trọng
trong việc thực hiện công tác minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Qua
đó đánh giá được tầm quan trọng của việc minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ,

công chức đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Những thiếu sót về minh bạch
tài sản, thu nhập cơ bản được bổ sung. Tuy nhiên vấn đề công khai tài sản cũng
không được đề cập tới. Cụ thể là bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
sau khi kê khai sẽ được lưu giữ cùng hồ sơ cán bộ và không ai được tiếp xúc trừ
trường hợp có yêu cầu xác minh của cơ quan có thẩm quyền. Với cách làm này đã
đánh mất tác dụng của việc kê khai tài sản, thu nhập vì việc kê khai được thực hiện
cho có hình thức do không có cơ chế kiểm tra giám sát việc kê khai và công khai bản
kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
Nghị định 68/2011/NĐ-CP của chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều
của Nghị định 37/2007/NĐ-CP về minh bạch tài sản, thu nhập là một sự cải cách hợp
lý phù hợp với tình hình thực tiễn của xã hội hiện nay. Kể từ khi Việt Nam gia nhập
vào tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì kinh tế- xã hội có bước tiến triển vượt
bậc kéo theo đó là nạn tham nhũng cũng có điều kiện để phát triển theo. Đứng trước
tình hình trên cần thiết phải có những biện pháp hữu hiệu để phòng, chống tham
nhũng một cách hiệu quả và tích cực phù hợp với tình hình hiện tại. Cho nên Chính
phủ đã ban hành Nghị định 68/2008/NĐ-CP nhằm đẩy mạnh hơn nữa chính sách
minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Cụ thể là sẽ thực hiện công khai
bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức tại cơ quan nơi họ làm việc. Với
cách làm này thì sẽ có nhiều người cùng tham gia giám sát việc thực hiện công khai,
minh bạch sẽ góp phần ngăn ngừa được sự gian lận trong công tác kê khai tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức và những người có nghĩa vụ kê khai.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 22 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
Như vậy qua từng giai đoạn việc thực hiện công khai, minh bạch tài sản cũng
từng bước được thực hiện một cách nghiêm túc và phù hợp với tình hình thực tế. Tuy
nhiên để việc công khai minh bạch, tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thật sự
hiệu quả thì cần thiết phải giải quyết dứt điểm những vấn đề chưa hợp lý còn tồn
đọng trong quy định của pháp luật. Chỉ có như vậy mới có thể nâng cao được tính
hiệu quả trong công tác công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
hiện nay.

1.3. Đối tượng tài sản, thu nhập cần phải công khai, minh bạch
1.3.1. Tài sản, thu nhập phải kê khai
Kê khai tài sản thu nhập là việc người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập ghi
rõ các loại tài sản, thu nhập phải kê khai theo mẫu được ban hành kèm theo Nghị định
68/2011/NĐ-CP của chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
37/2007/NĐ-CP về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Theo quy
định thì các loại tài sản, thu nhập phải kê khai bao gồm:
Các loại nhà, công trình xây dựng sau: Nhà, công trình xây dựng khác đang thuê
hoặc đang sử dụng thuộc sở hữu của Nhà nước; nhà, công trình xây dựng được cấp
Giấy chứng nhận quyền sở hữu; nhà, công trình xây dựng khác thuộc sở hữu của bản
thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận
quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu đứng tên người khác. Các quyền
sử dụng đất như: quyền sử dụng đất của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành
niên đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng; quyền sử dụng đất của bản thân,
vợ hoặc chồng và con chưa thành niên nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đứng tên người khác. Tài sản, tài
khoản ở nước ngoài của bản thân, vợ hoặc chồng và con chưa thành niên. Thu nhập
từ mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân trở lên theo quy định của pháp luật. Các loại
kim khí quý, đá quý, tiền, sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, séc, các công cụ chuyển
nhượng khác, mô tô, ô tô, tàu, thuyền và các loại tài sản khác mà giá trị của mỗi loại
từ năm mươi triệu đồng trở lên
12
.

12
Xem Điều 8, Nghị định 37/2007/NĐ-CP về minh bạch tài sản, thu nhập.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 23 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
Trong các loại tài sản phải kê khai thì tài sản ở nước ngoài là một nội dung kê
khai quan trọng và khó kiểm soát nhất. Quy định này nhằm tránh việc các đối tượng

có thể tẩu tán tài sản ra nước ngoài với những hình thức khác nhau nhằm tránh bị phát
hiện và xử lý. Các hình thức tẩu tán thì đa dạng và rất khó kiểm soát. Nếu không có
một phương thức kiểm soát cụ thể thì rất khó phát hiện để xử lý. Ngoài ra cũng phải
đề cập đến giá trị tài sản ở nước ngoài lớn hay nhỏ và có cần thiết để kê khai hay
không. Đôi khi những tài sản có giá trị quá nhỏ lại kê khai thì sẽ gây khó khăn cho
công tác xác minh việc kê khai. Ngoài ra sự liên lạc và phối hợp giữa cơ quan kiểm
tra việc kê khai tài sản với cơ quan thuế sẽ đảm bảo cho việc kiểm tra, giám sát chặt
chẽ được nguồn thu nhập phải chịu thuế đảm bảo cho quá trình kê khai tài sản, thu
nhập được thuận lợi và dễ dàng hơn.
1.3.2. Công khai các loại tài sản, thu nhập đã kê khai
Nhiệm vụ quan trọng nhất của cơ quan kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản
thu nhập là công khai các loại tài sản thu nhập đã kê khai. Trong thời hạn năm ngày
kể từ ngày nhận được yêu cầu công khai bản kết luận về sự minh bạch trong kê khai
tài sản, thu nhập của cơ quan, tổ chức đã yêu cầu xác minh theo
13
. Người ra kết luận
phải ra kết luận công khai bản kết luận đó. Đối với việc xác minh tài sản, thu nhập
phục vụ cho việc miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật hoặc có hành vi tham nhũng thì
người ra kết luận về sự minh bạch trong kê khai tài sản, thu nhập phải ra quyết định
công khai bản kết luận đó ngay sau khi bản kết luận đó được ban hành.
Bản kết luận về sự minh bạch trong kê khai tài sản, thu nhập được công khai
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người có nghĩa vụ kê khai tài sản làm việc khi
người đó được bổ nhiệm, bầu, phê chuẩn; Tại hội nghị cử tri nơi công tác, nơi cư trú
đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; Tại cơ quan, tổ
chức, đơn vị nơi người được đề nghị để Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc Đại hội
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội bầu, phê chuẩn. Kết luận về sự minh
bạch trong kê khai tài sản của người bị khởi tố về hành vi tham nhũng phải được công
khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó làm việc
14
. Nghị định 68/2011/NĐ-


13
Xem Điều 31, Nghị định 37/2007/NĐ-CP về minh bạch tài sản, thu nhập.
14
Xem Điều 50, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 24 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
CP đã sửa đổi, bổ sung một số thiếu sót của Nghị định 37/2007/NĐ-CP về việc quản
lý sử dụng và công khai bản kê khai tài sản thu nhập cụ thể là
15
:
Bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai phải công khai
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình thường xuyên làm việc. Căn cứ vào đặc điểm,
tình hình của cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền quản lý cán bộ, công
chức, viên chức quyết định công khai bằng hình thức công bố tại cuộc họp hoặc niêm
yết bản kê khai tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Thời điểm công khai
được thực hiện từ ngày 31 tháng 12 đến ngày 31 tháng 3 của năm sau, nhưng phải
đảm bảo thời gian công khai tối thiểu là 30 ngày. Bản kê khai tài sản, thu nhập của
người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải công khai tại hội
nghị cử tri nơi công tác, nơi cư trú của người đó. Thời điểm công khai được thực hiện
theo quy định của Hội đồng bầu cử, Ban thường trực, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người dự kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc
hội, Hội đồng nhân dân phải được công khai với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân tại kỳ họp. Thời điểm, hình thức công khai được thực hiện theo quy định
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân. Người có nghĩa
vụ kê khai tài sản, thu nhập là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội thì ngoài việc thực hiện công khai bản kê khai được quy định nêu trên còn phải
công khai bản kê khai do tổ chức đó quy định.
Việc quy định thời gian công khai bản kê khai tài sản, thu nhập cũng như thời
gian tối thiểu để đảm bảo việc công khai là 30 ngày phản ánh được nét mới và tích

cực hơn trong việc đẩy nhanh tiến độ công khai bản kê khai tài sản, thu nhập. Tránh
việc ì ạch trong công tác công khai, minh bạch tài sản, thu nhập. Thời gian công khai
tối thiểu là 30 ngày cũng vừa đủ để các cá nhân trong cơ quan tổ chức có thể nhìn
nhận và đánh giá tính trong sạch của người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập.
1.4. Mục đích của việc công khai minh bạch tài sản thu nhập của cán bộ công
chức
1.4.1. Phòng chống tham nhũng

15
Xem khoản 3, Điều 1, Nghị định 68/2011/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
37/2007/NĐ
-CP của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập.
Quy định của pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
GVHD: TS. Phan Trung Hiền - 25 - SVTH: Huỳnh Phước Hậu
 Tham nhũng là gì?
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI) thì: “tham
nhũng là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp
luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”
16
. Như vậy theo khái niệm này thì những người
được nhà nước tín nhiệm và giao cho họ một số quyền lực dùng để quản lý nhưng họ
lại lạm dụng những quyền hạn đó, sử dụng không đúng mục đích, làm trái các quy
định của pháp luật để phục vụ lợi ích cá nhân thì được gọi là tham nhũng.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng
nhiểu và lấy của dân”
17
. Theo khái niệm này thì tham nhũng bao gồm những hành vi
nhũng nhiễu và lấy của nhân dân. Hành vi lấy của nhân dân ở đây là những tài sản
của nhân dân, tài sản của tập thể, của nhà nước. Chủ thể của tham nhũng thì phải là
người có quyền hành và sử dụng quyền hành đó vào mục đích tham nhũng.

Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (được sửa đổi bổ sung năm
2007) thì “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”
18
.
Tuy có nhiều khái niệm khác nhau về vấn đề tham nhũng nhưng nhìn chung
tham nhũng có những đặc điểm dễ nhận thấy đó là một người có hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn nhằm mục đích vụ lợi gây tổn hại đến lợi ích của nhà nước, của
nhân dân.
 Minh bạch tài sản để phòng, chống tham nhũng
Tham nhũng là một tệ nạn xã hội cực kỳ nguy hiểm. Một số quốc gia trên thế
giới có tệ nạn tham nhũng cao trên thế giới theo thống kê của Tổ chức Minh bạch
Quốc tế năm 2011 thì đứng đầu danh sách là Somalia, xếp thứ hai là Triều Tiên, thứ
ba là Myanmar. Những quốc gia này có cũng điểm chung là kinh tế kém phát triển,
chủ yếu là nhờ nguồn viện trợ và nền chính trị rất bất ổn. Nguyên nhân sâu xa của
tình hình này là do vấn nạn tham nhũng hoành hành và chính phủ các nước này bất

16
Phan Xuân Sơn – Phạm Thế Lực: Nhận diện tham nhũng vá các giải pháp phòng chống tham nhũng ở Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2010, tr 27
17
Nxb. Văn hóa và Thông tin: Đại từ điển Tiếng Việt, năm 1998, tr 1523
18
Xem khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 có hiệu lực ngày 1 tháng 6 năm 2006.

×