Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Đánh giá hệ thống cây trồng chính trên đất nương rẫy của huyện mèo vạc và đề xuất một số giải pháp cải tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.12 KB, 87 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PRA : Phương pháp đánh giá nhanh có sự tham gia
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
TBKT : Tiến bộ kỹ thuật
KNCS : Khuyến nông cơ sở
KNVCS : Khuyến nông viên cơ sở
HTX : Hợp tác xã
TĂGS : Thức ăn gia súc
HTNN : Hệ thống nông nghiệp
HTCT : Hệ thống canh tác
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Mèo Vạc là một huyện vùng cao biên giới nằm ở phía Bắc của tỉnh Hà
Giang, là huyện có điều kiện thời tiết khí hậu rất khắc nghiệt, đời sống nhân
dân còn hết sức khó khăn. Những năm qua được sự quan tâm đầu tư của Nhà
nước và sự nỗ lực cố gắng của các cấp chính quyền và nhân dân, sản xuất
nông nghiệp của huyện đã có những bước phát triển mạnh mẽ, nhất là về
trồng trọt. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất đã có những chuyển biến tích cực; diện tích, năng suất và sản lượng các
cây trồng chính ngày càng tăng mạnh, góp phần tích cực vào việc phát triển
kinh tế, xoá đói giảm nghèo của huyện.
Thực tế sản xuất nông nghiệp ở huyện Mèo Vạc cho thấy hầu hết đất
đai canh tác là đất nương rẫy. Do đó, vấn đề phát huy khai thác, sử dụng hợp
lý hệ thống cây trồng trên đất nương rẫy là một trong những yếu tố quan trọng
hàng đầu trong phát triển sản xuất ngành trồng trọt của huyện. Do vậy, việc
làm thế nào để phát triển hệ thống canh tác trên đất nương rẫy trong điều kiện


vô cùng khắc nghiệt của huyện Mèo Vạc luôn là trăn trở, là yêu cầu bức xúc
của chính quyền và nhân dân địa phương và nhận được sự quan tâm của các
cấp, các ngành từ Trung ương và của các nhà khoa học. Chính vì vậy, chúng
tôi đặt vấn đề và tiến hành nghiên cứu Đề tài: "Đánh giá hệ thống cây trồng
chính trên đất nương rẫy của huyện Mèo Vạc và đề xuất một số giải pháp
cải tiến" tại huyện Mèo Vạc – tỉnh Hà Giang là nhằm góp phần giải quyết
những vấn đề cấp bách kể trên.
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá được hiện trạng cơ cấu cây trồng trên đất nương rẫy của
huyện Mèo Vạc, từ đó tìm ra các điểm mạnh, yếu ảnh hưởng đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu cây trồng và làm rõ nguyên nhân.
1
- Tìm hiểu được những hạn chế, nguyên nhân và đề xuất các giải
pháp cải tiến.
3. Yêu cầu
- Phân tích đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa bàn
nghiên cứu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
- Đánh giá được thực trạng ngành trồng trọt của khu vực nghiên
cứu để tìm ra được các khó khăn trở ngại và tiềm năng sản xuất nông
nghiệp của địa phương.
- Đánh giá được các hệ thống cây trồng hiện tại trên đất nương rẫy
của địa phương.
- Đề xuất một số hệ thống cây trồng chính, phù hợp với địa phương.
- Khuyến cáo chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho khu vực nghiên cứu trên
cơ sở kết quả của đề tài.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng điều kiện tự nhiên và tình hình
sử dụng đất đai để góp phần hoàn thiện hệ thống cây trồng chính tại
huyện Mèo Vạc.

- Làm cơ sở chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng
hóa và phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện đặc thù của huyện.
- Làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài sẽ cung cấp những thông tin và dữ liệu về hiện trạng sử dụng
đất đai và hệ thống cây trồng hiện có trên địa bàn.
- Làm cơ sở xây dựng hệ thống cây trồng mới hợp lý hơn với yêu cầu
sản xuất hàng hóa và đạt được hiệu quả kinh tế cao.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học nghiên cứu hệ thống cây trồng
1.1.1. Lý thuyết hệ thống nông nghiệp
Lý thuyết hệ thống đã và đang được áp dụng ngày càng rộng rãi trong
nhiều ngành khoa học. Có thể nói các ý tưởng ứng dụng lý thuyết hệ thống đã
có từ xa xưa trong lịch sử triết học châu Âu.
Hệ thống là một tổng thể có trật tự các yếu tố khác nhau, có quan hệ và
tác động qua lại. Nói cách khác đó là một tập hợp các đối tượng hoặc các
thuộc tính được liên kết bằng nhiều mối tương tác.
Mục đích của việc nghiên cứu hệ thống là nhằm điều khiển sự hoạt
động của nó, thực chất của việc điều khiển các hệ sinh thái nông nghiệp (hay
hệ thống nông nghiệp) là các biện pháp kinh tế, kỹ thuật nhằm phát triển nông
nghiệp, nông thôn bền vững.
Ngày nay, quan điểm về hệ thống nông nghiệp được nhìn từ nhiều góc
độ khác nhau nhưng đều hướng tới khai thác có hiệu quả các điều kiện tự
nhiên, môi trường xung quanh đồng thời đảm bảo tính bền vững và lâu dài
trong việc khai thác.
Hệ thống nông nghiệp là một phương thức khai thác môi trường được
hình thành và phát triển trong lịch sử, trong một hệ thống sản xuất thích ứng
với các điều kiện sinh thái khí hậu của một không gian nhất định, đáp ứng các

điều kiện và nhu cầu phát triển của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
Cũng theo Phạm Chí Thành. Xu thế phát triển hệ thống nông nghiệp hiện đại
thừa nhận các khái niệm hệ thống nông nghiệp hay hệ thống sinh thái nông
nghiệp (Agrecosystems) thực chất là đồng nghĩa với hệ thống nông trại. Đó là
các mối quan hệ hữu cơ phức tạp giữa quá trình sinh học, môi trường sinh thái
bên ngoài, bên trong và quá trình xã hội.
3
* Hệ thống nông nghiệp (HTNN)
Hệ thống nông nghiệp là biểu hiện không gian của sự phối hợp các
ngành sản xuất và kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thỏa mãn các nhu cầu
của con người. Nó biểu hiện sự tác động qua lại giữa các hệ thống sinh học –
sinh thái và môi trường tự nhiên, là đại điện của một hệ thống xã hội – văn
hóa các hoạt động sản xuất, xuất phát từ các thành quả kỹ thuật.
Trong hệ thống nông nghiệp có hệ thống sinh học (Cây trồng, vật nuôi)
hoạt động theo các quy luật sinh học (Trao đổi năng lượng, vật chất) và các hệ
thống hoạt động theo các quy luật kinh tế - xã hội. Như vậy hệ thống nông
nghiệp khác với hệ sinh thái nông nghiệp ở chỗ ngoài các yếu tố ngoại cảnh
và sinh học còn các yếu tố kinh tế - xã hội.
1.1.2. Ứng dụng phân tích hệ thống trong nghiên cứu hệ thống nông nghiệp
Hệ thống sinh thái nông nghiệp là một hệ thống phức tạp bao gồm các
thành phần sinh học, các điều kiện lý hóa học cần thiết có vai trò tác động rất
quan trọng đối với con người.
Hệ thống sinh thái nông nghiệp có rất nhiều đặc tính quan trọng được ứng
dụng trong phân tích nghiên cứu hệ thống nông nghiệp và phát triển nông thôn,
trong đó có 4 tính chất cơ bản.
- Tính sản xuất (Productivity): là giá trị thực của sản phẩm thu được
trên đơn vị đầu tư (đất đai, lao động, năng lượng và tiền vốn) được đo bằng
giá trị thu nhập thực tế hoặc năng suất trên một ha.
- Tính ổn định (Stability): Là mức độ ổn định của năng suất trong
điều kiện có các giao động nhỏ của môi trường (khí hậu, thời tiết, tình

hình kinh tế…) đo được bằng hệ số của biến thiên năng suất. Nếu mức độ
biến thiên nhỏ tức là tính ổn định cao và ngược lại mức độ biến thiên cao
thì tính ổn định nhỏ.
4
- Tính bền vững (Sustainability): Là khả năng duy trì năng suất của hệ
thống khi chịu ảnh hưởng hay những đảo lộn như thiên tai, bệnh dịch… Tính
chống chịu được xem xét như khả năng duy trì năng suất, tính chống chịu
kém thường dẫn tới sự bất ổn định về năng suất.
- Tính công bằng (Equitability): Dùng để đánh giá sự phân phối sản
phẩm của hệ thống càng công bằng thì sản phẩm của nó được phân phối càng
công bằng.
Người ta thường sử dụng các phương pháp kinh tế để đánh giá như
phương pháp phân phối thống kê hay phương pháp hệ số Gini.
Muốn phân tích hệ thống sinh thái nông nghiệp phải dựa trên cơ sở
các nguyên tắc của hệ sinh thái nông nghiệp và hệ sinh thái nhân văn, phân
tích tài nguyên.
Thời gian qua nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển khác,
ngành trồng trọt mới chỉ phát triển nhanh ở các vùng thuận lợi nhờ tập trung
vào việc cải tiến giống cho năng suất cao, thủy lợi, phân bón hóa học, thuốc
bảo vệ thực vật… còn những vùng có điều kiện sinh thái khó khăn và các
vùng đất hạn, úng, đất chặt… các tiến bộ kỹ thuật chưa tỏ ra thích ứng. Vì vậy
muốn đẩy nhanh phát triển nông nghiệp thì cần phải phát triển và huy động
chủ yếu các nguồn lực bên trong hệ thống đó là: Phát triển đất đai theo chiều
sâu (Thâm canh tăng vụ) sử dụng nguồn lợi lao động, vốn của dân và những
tiến bộ thích ứng với các điều kiện sinh thái khó khăn, tốn ít vốn, sử dụng
nhiều lao động, tiết kiệm năng lượng và sử dụng “Hiệu ứng hệ thống”, và
“Tính trồng” của hệ thống. Đó là cơ sở của chiến lược phát triển nông nghiệp.
Việc phát triển trồng trọt chủ yếu dựa vào “Hiệu ứng hệ thống” bằng
cách bố trí hệ thống cây trồng thích ứng với các điều kiện đất đai, chế độ, khí
hậu, chế độ nước đồng thời đa dạng hóa sản xuất trồng trọt, áp dụng hệ thống

tiến bộ kỹ thuật tổng hợp nhằm sử dụng hợp lý các nguồn lợi tự nhiên và lao
5
động sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là hướng đi thích hợp. Cần đa dạng hóa
cây trồng để nâng cao tính hiệu quả của hệ thống.
Hệ thống cây trồng là một hợp phần quan trọng nhất của hệ thống nông
nghiệp, là việc thực hiện mô hình canh tác cây trồng và sự liên quan giữa cây
trồng với môi trường bên ngoài, thích nghi với điều kiện tự nhiên, lao động và
cách quản lý để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Một trong những biện pháp kỹ thuật nhằm tận dụng các nguồn lợi tự
nhiên và kinh tế - xã hội là bố trí cây trồng hợp lý trong một vùng hay một hệ
sản xuất. Đầu tiên cần đề cập đến loại cây, diện tích, loại giống, loại đất, số vụ
trong năm, giống cây trồng các vụ để cuối cùng có một sản lượng và năng
suất cao nhất trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định sẵn có.
Xác định hệ thống cây trồng cho một vùng, một khu vực sản xuất nhằm
đảm bảo hiệu quả kinh tế, ngoài việc giải quyết tốt mối liên hệ giữa hệ thống
cây trồng với điều kiện tự nhiên khí hậu, đất đai, quần thể sinh vật, tập quán
canh tác, còn phải tính đến sự phù hợp với phương hướng sản xuất của các
vùng hay của khu vực. Phương hướng sản xuất quyết định cơ cấu cây trồng,
ngược lại cơ cấu cây trồng lại là cơ sở hợp lý nhất để xác định phương hướng
sản xuất của vùng hay khu vực đó. Vì thế, nghiên cứu bố trí hệ thống cây
trồng có cơ sở khoa học sẽ có ý nghĩa quan trọng giúp cho các nhà quản lý có
cơ sở để xác định phương hướng sản xuất một cách đúng đắn.
1.1.3. Khái niệm về cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng
1.1.3.1. Một số lý luận về cơ cấu cây trồng
Cơ cấu cây trồng là một trong những nội dung của một hệ thống biện
pháp kỹ thuật gọi là chế độ canh tác. Ngoài cơ cấu cây trồng, chế độ canh tác
còn bao gồm tất cả các chế độ luân canh, làm đất, bón phân, chăm sóc, phòng
6
trừ sâu bênh và cỏ dại… Cơ cấu cây trồng là yếu tố cơ bản nhất của chế độ
canh tác, vì chính nó quyết định nội dung của biện pháp kỹ thuật khác.

Cơ cấu cây trồng mang tính lịch sử xã hội nhất định, trong hoàn cảnh
xã hội cụ thể sẽ có cơ cấu cây trồng tối ưu cụ thể tại thời điểm đó. Không có
một cơ cấu cây trồng tối ưu cho mọi thời gian, mọi không gian và thời kỳ phát
triển của lịch sử loài người. Cơ cấu cây trồng luôn luôn biến đổi theo hướng
ngày càng hoàn thiện và phát triển thông qua sự chuyển hóa lẫn nhau, từ cũ
chuyển sang mới nhờ được thay thế bằng các giống mới, cơ cấu mới, từ đơn
điệu đến đa dạng, từ hiệu quả thấp đến hiệu quả cao, do yêu cầu tăng trưởng
và phát triển của nhân loại cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng là cả một quá trình lâu dài gắn liền với
những tiến bộ về khoa học công nghệ. Không thể có một cơ cấu cây trồng sẵn
có hoặc xuất hiện ngay lập tức đổi chỗ cho cơ cấu cây trồng cũ mà cần phải
có quá trình thay đổi dần dần về lượng sau đó về chất nhanh hay chậm còn
tùy thuộc vào trình độ hiểu biết của các chủ thể quản lý, các điều kiện kinh tế
- xã hội. Đối tượng cây trồng là sinh vật sống, chúng chịu sự tác động rất lớn
của điều kiện sống như: đất đai, khí hậu…trình độ hiểu biết của người quản
lý, điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ… Chính vì vây chuyển dịch
cơ cấu cây trồng phải tiến hành từng bước và hoàn thiện dần cho phù hợp với
sự phát triển của nhân loại.
Cơ cấu cây trồng phù hợp phải khắc phục được các yếu tố hạn chế, đảm
bảo khả năng sản xuất của đất đai, có độ an toàn cao nhất, xác xuất gặp rủi ro
thấp nhất, phù hợp với tập quán của địa phương, đảm bảo an toàn cho hệ sinh
thái, được nhân dân lựa chọn và phát triển rộng rãi, đem lại lợi ích cao nhất
cho người sản xuất.
1.1.3.2. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Điều cần thiết là phải xác định được đối tượng sản xuất, phản ánh sự
phân công lao động trong ngành nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên,
7
kinh tế xã hội của mỗi nước, mỗi vùng nhằm cung cấp được nhiều nhất những
sản phẩm nông nghiệp cần thiết cho con người. Nông nghiệp đem lại cho con
người những sản phẩm thiết yếu mà trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật

và công nghệ ngày nay chưa có một ngành nào có khả năng thay thế được.
Nghiên cứu hệ thống trồng trọt là một trong những biện pháp kinh tế -
kỹ thuật nhằm mục đích sử dụng có hiệu quả đất đai và các nguồn tài nguyên,
nâng cao năng suất cây trồng, chất lượng sản phẩm trong sản xuất nông
nghiệp, vì vậy hệ thống cây trồng (hay cơ cấu cây trồng) là một bộ phận chủ
yếu của hệ thống trồng trọt, là trung tâm của hệ thống trồng trọt.
1.1.3.3. Cơ cấu cây trồng
Là thành phần của cơ cấu sản xuất nông nghiệp, là giải pháp quan trọng
hàng đầu để phân vùng sản xuất nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Nó quyết định sự tăng trưởng và sự phát triển của cơ sở sản xuất. Theo quan
điểm hệ thống thì cơ cấu cây trồng là hệ thống nhỏ trong hệ thống lớn, là hệ
thống nông nghiệp (cơ cấu sản xuất nông nghiệp). Cơ cấu sản xuất nông
nghiệp là hệ thống phức tạp của các yếu tố sản xuất lưu thông phân phối, là
các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện trong điều kiện
không gian và thời gian nhất định. Cơ cấu sản xuất là nền tảng cốt lõi của cơ
cấu xã hội. Cơ cấu cây trồng là thành phần cơ cấu sản xuất nông nghiệp, một
công việc không thể thiếu khi xây dựng nền nông nghiệp có tính chất hàng
hóa cao.
Theo học thuyết cấu trúc và học thuyết tổ chức hữu cơ thì cơ cấu có thể
hiểu như “một cơ thể được hình thành trong điều kiện môi trường (hiểu theo
nghĩa rộng) nhất định. Trong đó, các bộ phận hay các yếu tố của nó được lắp
ráp, phối hợp cấu tạo có tính chất quy luật và hệ thống theo một kích cỡ và tỷ
lệ thích ứng” (Trần Đình Đằng,1994). [13]
8
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý có vai trò quan trọng thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp phát triển, tăng giá trị tổng sản
phẩm, tăng giá trị hàng hóa, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của nhân
dân.
Trong chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, nghiên cứu chuyển
đổi cơ cấu cây trồng xác định được cơ cấu cây trồng cho sự đa dạng hóa trong

hầu hết các hệ phụ của hệ thống nông nghiệp. Sự đa dạng hóa cây trồng và
tăng trưởng theo mục tiêu cụ thể sẽ tạo nền tảng cho sự công nghiệp hóa và
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế trong tương lai.
Nhiều nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây
trồng nhằm tìm ra các biện pháp kỹ thuật giúp nâng cao năng suất, chất lượng
nông sản bằng cách áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào hệ thống cây trồng hiện
có, hoặc đưa ra hệ thống cây trồng mới hướng vào các hợp phần tự nhiên,
sinh học kỹ thuật, lao động, quản lý thị trường để phát triển cơ cấu cây trồng
trong những điều kiện mới nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.1.4. Khái niệm về hệ thống cây trồng
Hệ thống cây trồng (Cropping systems): là thành phần các giống và các
loại cây trồng được bố trí trong không gian và thời gian của các loại cây trồng
trong mọi hệ sinh thái nông nghiệp, nhằm tận dụng hợp lý nhất các nguồn lợi
tự nhiên, kinh tế - xã hội.
1.1.5. Khái niệm phát triển bền vững
Xét một cách tổng thể, quá trình phát triển của xã hội loài người chưa
bao giờ ngừng lại, nhưng trong quá trình lịch sử cá biệt đã có những xã hội,
những nền văn minh bị suy tàn, thậm chí diệt vong do hoạt động phát triển đã
triển khai quá sức chịu tải của môi trường khiến cho tài nguyên thiên nhiên cạn
kiệt, chất lượng môi trường bị hủy hoại, không còn đáp ứng được yêu cầu.
9
Phát triển bền vững được xem là phương thức tổng hợp để phòng
chống các nguy cơ suy thoái môi trường và là niềm hi vọng của nhân loại trên
toàn thế giới. Ở nước ta Quyết định số 187/QĐ-CT, ngày 21/6/1991 về “ Kế
hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững” đã được Chủ tịch Hội
Đồng Bộ Trưởng ban hành. Gần đây Chỉ thị 36-CT/TW, ngày 25/6/1998 của
Bộ Chính Trị Ban chấp hành Trung Ương Đảng về công tác bảo vệ môi
trường trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đã nêu quan
điểm: “Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường
lối chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các

ngành nghề cơ sở để đảm bảo phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Theo Ngân hàng Thế giới, phát triển bền vững phải bao gồm 3 mặt:
kinh tế, môi trường và xã hội. Các chỉ số đánh giá về các mặt trên đang được
xây dựng và luôn được bổ sung cập nhật, từng bước được hoàn thiện hơn.
Bền vững là cơ hội để phát triển, đây là định nghĩa mới được Ngân
hàng Thế giới khai thác nhằm đánh giá bền vững và sự giàu có của một quốc
gia. Theo cách tiếp cận mới này thì dự trữ tư bản quốc gia (tài sản quốc gia)
chứ không phải là thu nhập được dùng như là tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả
kinh tế và môi trường. Khái niệm tài sản quốc gia hay dự trữ của quốc gia là
bao gồm tài sản do con người làm ra, tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên con
người và tài nguyên xã hội. Bốn dạng thức này được liên kết với nhau ở mức
độ cao, chúng bổ sung, đôi khi tăng cường cho nhau đóng góp vào các hoạt
động kinh tế. Như vậy, sự thay đổi dự trữ tư bản sẽ xác định sự thay đổi các
cơ hội kinh tế và không kinh tế cho con người hiện tại và các thế hệ trong
tương lai. Với ý nghĩa này “sự bền vững là cơ hội” được định nghĩa “sự bền
vững là để lại cho các thế hệ tương lai, nếu không được nhiều hơn thì cũng
bằng các cơ hội chúng ta đã có cho chính chúng ta ngày hôm nay”.
10
Nông nghiệp không giống các ngành công nghiệp dựa vào tài nguyên
khác, trong nông nghiệp các quyết định về sử dụng đất, nước của những nông
dân cá thể là rất quan trọng, những quyết định này được lặp đi lặp lại nhiều
lần trong cùng cảnh quan, nhưng các quyết định này được tập hợp lại có thể
có tầm quan trọng trong khu vực, thậm chí toàn cầu.
Mục tiêu của quản lý đất bền vững là “điều hòa các mục tiêu và tạo cơ
hội cho việc đạt được kết quả về môi trường, kinh tế và xã hội vì lợi ích của
không chỉ cho các thế hệ hiện nay mà còn cho các thế hệ tương lai” trong khi
vẫn duy trì và nâng cao chất lượng của tài nguyên đất, nước và không khí.
Vì vậy, muốn xây dựng nền nông nghiệp bền vững cần phải nhận thức
và tổ chức thực hiện có kết quả các phương thức sử dụng hợp lý, bảo vệ và

bồi dưỡng đất, xem đó là một bộ phận quan trọng trong chiến lược sử dụng
đất trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững.
1.2. Các yếu tố cơ bản tác động lên hệ thống cây trồng
Cây trồng là sinh vật sống, vì vậy chúng chịu tác động rất lớn vào điều
kiện: đất đai, khí hậu, nước, sâu bệnh, trình độ hiểu biết của con người quản
lý nó, điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật…Vì vậy, chuyển dịch cơ
cấu cây trồng là phải tiến hành từng bước một, từ làm thử rồi mới đến diện
rộng và phổ biến đại trà.
Để xác định được cơ cấu cây trồng hợp lý, đạt hiệu qủa tối ưu thì ta
phải căn cứ vào một số điều kiện cụ thể trong không gian nhất định và thời
gian nhất định.
1.2.1. Khí hậu
Khí hậu là thành phần quan trọng của hệ sinh thái, là yếu tố quan trọng
hàng đầu trong việc xác định cơ cấu cây trồng. Khí hậu cung cấp nguồn lợi tự
nhiên là năng lượng bức xạ và nước từ khí quyển, đó là hai nguồn không thể
thiếu được trong việc tạo thành năng suất cây trồng. Cơ cấu cây trồng trước
11
hết phải lợi dụng được tất cả các thuận lợi của khí hậu, như: nhiệt độ, ẩm độ,
ánh sáng… để bố trí như thế nào cho cây trồng phát triển tốt nhất, năng suất
sản lượng cao nhất. Tuy nhiên các yếu tố khí hậu cũng có lúc thuận lợi, có lúc
khó khăn cho sự phát triển của cây trồng như: nhiệt độ quá cao hay qúa thấp,
lượng mưa thay đổi gây ra úng hạn… vì vậy, khi xây dựng cơ cấu cây trồng
thì phải dựa vào các điều kiện thời tiết khí hậu để bố trí cây trồng cho hợp lý,
tránh được tất cả các mặt tiêu cực, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do điều
kiện khí hậu gây ra.
Các nhà nông học cho rằng: đối với cây hàng năm, điều quan trọng là
mỗi vùng, mỗi năm có thể làm được mấy vụ cây trồng, điều đó phụ thuộc vào
tổng số nhiệt lượng mỗi năm của vùng đó là bao nhiêu, mỗi vụ cây trồng cần
bao nhiêu nhiệt lượng, vì vậy, sẽ phân biệt được cây ưa nóng, cây ưa lạnh
cùng với việc nắm được tình hình nhiệt độ các tháng trong năm để phân biệt

các loại cây trồng theo yêu cầu nhiệt độ (những cây sinh trưởng ưa nóng và
cây sinh trưởng ưa lạnh) để bố trí cây trồng cho phù hợp.
Theo Đào Quang Tuấn (1997) bố trí cây trồng hợp lý cần nắm được
chế độ mưa trong năm ở từng khu vực để tận dụng lượng nước do mưa cung
cấp và tránh được những hạn chế do mưa ảnh hưởng đến cây trồng.
1.2.2. Đất đai và thủy lợi
Khi bố trí cơ cấu cây trồng, trong điều kiện đất đai và thủy lợi là một
căn cứ quan trọng sau điều kiện khí hậu, đất và nước là thành phần quan trọng
của hệ sinh thái. Đất là nơi cung cấp nước và dinh dưỡng chủ yếu cho cây
trồng phát triển. Cây trồng tốt hay xấu phụ thuộc nhiều vào độ màu mỡ của
đất, thành phần cơ giới của đất, khả năng cung cấp nước tưới như thế nào.
Mỗi loại cây trồng thích hợp với từng loại đât khác nhau và khả năng chịu
nước của các loại giống cây trồng cũng khác nhau. Vì vậy, bố trí cơ cấu cây
trồng hay chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải căn cứ vào đất đai và thủy lợi.
12
Như chúng ta đều biết độ phì nhiêu của đất có thể tăng lên hay giảm đi là do
quá trình đầu tư thâm canh cây trồng, là kết quả của việc sử dụng đất và quá
trình canh tác của con người. Vì thế độ màu mỡ của đất thay đổi thì cơ cấu
cây trồng cũng phải thay đổi cho phù hợp, tuy nhiên trong các loại cây trồng
có loại đòi hỏi phải trồng ở nơi đất tốt nhưng cũng có cây chịu được đất xấu,
ví dụ cây sắn có thể chịu được điều kiện đất đai khắc nghiệt. Muốn khắc phục
để hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất tăng lên thì ta có thể bón thêm
phân các loại một cách cân đối. Nắm được các đặc tính lý hóa của đất, con
người có thể tác động cải tạo đất dần dần để phù hợp với cây trồng hơn. Ví dụ
như trồng cây họ đậu cải tạo đất để phủ xanh đất trống đồi núi trọc ở các vùng
núi và vùng trung du hoặc thau chua rửa mặn ở các vùng ven biển… đều là
những tác động nhằm cải tạo đất rất tích cực của con người nói riêng và cho
môi trường sống nói chung. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất chủ
yếu quyết định đến năng suất cây trồng hơn là đến tính thích ứng, tuy vậy
trong các loại cây trồng cũng có cây trồng ưa đất tốt, có cây chịu đất xấu và

có thể thay đổi hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất bằng việc bón thêm
phân và canh tác hợp lý. Phần lớn các loại đất tốt được trồng các loại cây có
phản ứng mạnh với độ màu mỡ của đất và có giá trị kinh tế cao. Nói cách
khác sử dụng hợp lý đất và nước chính là cơ sở để hình thành khái niệm
“nông sinh thái” trong mối quan hệ giữa hệ thống nhỏ với hệ thống lớn này
“vừa là mục tiêu vừa là phương tiện” để phục vụ cho nền nông nghiệp theo
quan niệm sinh thái và phát triển bền vững không thể tách rời chiến lược sử
dụng hợp lý đất và nước.
1.2.3. Đặc tính sinh vật học của cây trồng
Là thành phần chủ yếu của hệ sinh thái nông nghiệp, là nguồn lợi tự
nhiến sống. Sản xuất nông nghiệp là sử dụng nguồn lợi tự nhiên ấy một cách
tốt nhất trong điều kiện khí hậu và đất đai thích hợp với chúng. Muốn vậy cần
13
phải nắm vững yêu cầu của các loại và các giống cây trồng phù hợp với tiểu
vùng khí hậu, đấtt đai và khả năng sử dụng các điều kiện đó của cây trồng.
Khác với các yếu tố khí hậu và đất đai, con người ít có khả năng thay
đổi, còn đối với cây trồng con người có thể lựa chọn, di thực đến nơi cần
thiết. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và những hiểu biết của sinh học
hiện đại con người có khả năng thay đổi bản chất của chúng theo hướng mà
mình mong muốn.
Theo Đào Thế Tuấn (1977), một trong những nguyên nhân làm cho cây
trồng chưa đạt hiệu quả năng suất sử dụng ánh sáng cao là do bố trí thời vụ,
chọn giống có thời gian sinh trưởng chưa hợp lý, chưa bố trí nhiều vụ trên
năm nên cường độ ánh sáng chiếu xuống mặt ruộng còn lãng phí, cần khắc
phục bằng việc bố trí cơ cấu cây trồng theo nguyên tắc sau:
- Cố gắng bố trí cây trồng quanh năm trong điều kiện cây có thể sinh
trưởng được để trên mặt ruộng rút ngắn được thời gian ánh sáng chiếu xuống
mặt đất không có lá xanh quang hợp.
- Chọn cây trồng thích hợp với chế độ nhiệt của từng vụ, lợi dụng triệt
để chế độ nhiệt.

- Lợi dụng triệt để chế độ nước tự nhiên trong điều kiện không tưới
bằng cách chọn cây chịu hạn ở những vụ thiếu nước hoặc chọn cây có phản
ứng mạnh với việc tưới nước để sử dụng tốt lượng nước tưới. Các giống cây
trồng có thời gian sinh trưởng khác nhau cho nên cũng có thời vụ gieo trồng
khác nhau. Do đó bố trí cơ cấu cây trồng cần nắm rõ lý lịch của các giống, nếu
là các giống cây trồng mới cần phải làm thử nghiệm ở những không gian và
thời gian khác nhau, để khi bố trí vào cơ cấu cây trồng tránh được những rủi ro.
- Chọn được các giống cây trồng thích hợp với điều kiện khí hậu đất
đai của vùng sẽ tạo được những khả năng mới cho việc tận dụng những điều
kiện ấy ở mức độ cao hơn, tạo được cơ cấu cây trồng hợp lý cho một vùng.
1.2.4. Sâu bệnh
14
Do điều kiện khí hậu khác nhau thì thành phần cây trồng khác nhau và
thành phần sâu bệnh cũng khác nhau. Nắm chắc được quy luật phát sinh và
mức độ phá hại do sâu bệnh gây ra trên đồng ruộng sẽ hạn chế được mức độ
thiệt hại gây ra với cây trồng, khi cơ cấu cây trông thay đổi thì thành phần sâu
hại cũng thay đổi theo và đồng thời cũng sẽ xuất hiện nhiều loại sâu bệnh
mới. Vì vậy phải có nghiên cứu để dự đoán được trước tình hình phát sinh sâu
bệnh hại để có biện pháp phòng trừ.
Với chế độ luân canh cây trồng và với tập quán canh tác một vụ trước
đây đã hạn chế được sự phát sinh phát triển của sâu bệnh nhiều hơn. Việc
trồng trọt quanh năm càng tăng nguy cơ sâu bệnh phá hoại. Bằng cách bố trí
thời vụ ta có thể tránh được thời kỳ cao điểm của sự phát triển sâu bệnh ảnh
hưởng đến cây trồng, Với biện pháp này, ở các tỉnh phía Bắc đã tránh được
sâu đục thân phá hại lúa vào vụ xuân, biện pháp luân canh cây trồng và trồng
xen nhiều loại cây trồng trên cùng một đồng ruộng cũng là biện pháp tốt giảm
tác hại của sâu bệnh.
Mục đích của chúng ta là điều khiển được hệ thống cây trồng, làm thế
nào để hệ sinh thái có năng suất cao nhất.
1.2.5. Điều kiện kinh tế - xã hội

Cơ cấu cây trồng bị chi phối bởi những điều kiện kinh tế - xã hội như:
+ Trình độ dân trí: Trong điều kiện dân trí còn hạn chế, những hiểu biết
về khoa học kỹ thuật còn hạn chế thì việc áp dụng các cơ cấu cây trồng đa dạng
với những giống mới đòi hỏi thâm canh cao, kỹ thuật nghiêm ngặt thì chắc
chắn sẽ kém hiệu quả và không đạt năng suất. Vì thế tùy theo mỗi vùng mà
người ta bố trí cơ cấu cây trồng, đưa các giống mới vào sản xuất cho hợp lý.
+ Cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng: Liên quan rất nhiều đến việc bố trí cơ
cấu cây trồng, giao thông phải thuận lợi cho việc vận chuyển, hệ thống thủy
lợi phải đảm bảo và phụ vụ tốt cho sản xuất.
15
+ Tập quán tiêu dùng của xã hội cũng chi phối việc lựa chọn cơ cấu
cây trồng.
- Các vấn đề kinh tế, thị trường và cơ cấu cây trồng:
Cơ cấu cây trồng mới phải đạt giá trị kinh tế cao hơn cơ cấu cây trồng
cũ. Để phát triển bền vững giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích có thể
tăng vụ, thay đổi giống cây trồng hoặc tăng đầu tư thâm canh… Vấn đề tăng
vụ chỉ có thể giải quyết một phần phạm vi nhất định và chịu sự chi phối lớn
của điều kiện khí hậu, thời tiết, đất đai… Tóm lại, về mặt kinh tế cơ cấu cây
trồng cần phải thỏa mãn điều kiện sau:
- Đảm bảo yêu cầu chuyên canh và tỷ lệ sản phẩm hàng hóa cao
- Đảm bảo việc hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn
nuôi, tận dụng các nguồi lợi tự nhiên.
- Đảm bảo thu hút lao động và vật tư kỹ thuật có hiệu quả kinh tế.
- Đảm bảo chất lượng và giá trị hàng hóa cao hơn cây trồng cũ.
- Khi đánh giá hiệu quả kinh tế cơ cấu cây trồng có thể dựa vào một số
chỉ tiêu như: năng suất tổng sản lượng, giá thành, thu nhập và mức lãi của sản
phẩm hàng hóa. Việc đánh giá này phức tạp do giá cả sản phẩm tùy thuộc vào
cung cầu của thị trường, có thể khái quát thị trường là tổng hợp những ngươi
mua và bán tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến sự trao đổi (Kinh tế học vĩ mô,
NXB thống kê, Hà nội, 1999).

Thị trường có vai trò quan trọng là động lực thúc đẩy cải tiến cơ cấu
cây trồng hợp lý. Theo cơ chế thị trường có 3 vấn đề cơ bản của kinh tế là
trồng cây gì và trồng như thế nào, thời vụ nào, trồng cho ai đều do thị trường
quyết định. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường có tác dụng định
hướng cho người sản xuất nên trồng cây gì và chi phí như thế nào để đáp ứng
được nhu cầu của xã hội và thu được kết quả cao. Thông qua thị trường người
sản xuất điều chỉnh quy mô sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thay đổi
giống cây trồng, mùa vụ cho phù hợp với thị trường.
16
Thị trường có tác dụng điều chỉnh cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo
hướng ngày càng đạt hiệu quả hơn. Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng
chính là điều kiện mở rộng thị trường ở khu vực nông thôn, cung cấp nông
sản hàng hóa cho toàn xã hội, thị trường tiêu thụ cho ngành sản phẩm công
nghiệp, cung cấp lao động cho các ngành kinh tế quốc doanh. Do vậy, giữa thị
trường và chuyển đổi cơ cấu cây trồng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị
trường là động lực thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, song nó có mặt hạn
chế nếu để cho phát triển một cách tự phát sẽ dẫn đến mất cân đối ở một giai
đoạn, một thời điểm nào đó. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách điều tiết
kinh tế vĩ mô để hạn chế mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực. Khi đánh giá
hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng, cũng cần phải chú ý đến các yếu tố
khác ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm như: vốn, vị trí địa lý, trình độ lao
động, giá thành các loại dịch vụ.
Khi nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải tìm ra các ưu điểm,
phát hiện ra các vấn đề trở ngại để có biện pháp phù hợp dự báo phương
hướng phát triển là cơ sở khoa học của đề tài.
1.2.6. Các vấn đề kinh tế của cơ cấu cây trồng
Theo Đào Thế Tuấn (1997), khi bố trí cơ cấu cây trồng cần phải đánh
giá cây trồng về mặt kinh tế, và sử dụng một số chỉ tiêu như: năng suất, giá
thành, thu nhập (giá trị bán sản phẩm trừ chi phí) và mức lãi (% của thu
nhập so với chi phí). Hiệu quả kinh tế của việc trồng trọt thay đổi tùy theo

điều kiện tự nhiên và mức độ đầu tư kỹ thuật. Vì vạy, cần chú ý khi bố trí
cơ cấu cây trồng.
Việc vận dụng các nguồn lợi đất đai, thâm canh và tăng vụ đòi hỏi phải
có lao động. Có hai hướng giải quyết lao động để tăng vụ, như sau:
- Bố trí cây trồng hợp lý, rải vụ, dùng giống cây trồng có thời gian sinh
trưởng phù hợp, bố trí thời gian gieo cấy, thu hoạch hợp lý.
17
- Cải tiến công cụ lao động và cơ giới hóa trong các khâu sản xuất, như:
thu hoạch, làm đất, vận chuyển…
1.2.7. Các phương pháp nghiên cứu về hệ thống cây trồng
Hệ thống canh tác đã được các nhà khoa học trên thế giới và trong nước
rất quan tâm, được đề cập sớm ở nhiều nước như các phương pháp mô phỏng,
phương pháp phân tích kinh tế…
- Theo tài liệu của FAO, năm 1992 về phương pháp đánh giá đất và sau
đó được xem xét lý lẽ mà người nông dân sử dụng với quyết định của mình.
- Các nhà khoa học của IRRI (The International Rice Research
Institute), trong nghiên cứu hệ thống canh tác đã đưa ra các phương pháp
nghiên cứu tiếp cận nông dân.
- Ở Việt Nam, Võ Minh Kha (1990) [15] đã đưa ra phương pháp tổ
chức và xây dựng hệ thống canh tác tiến bộ. Khi nghiên cứu hệ thống nông
nghiệp đã đề cập các phương pháp cụ thể để điều tra mô tả hệ thống cây trồng
thông qua phương pháp của FAO.
- Theo tác giả Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Hữu Hồng, Đặng Văn Minh
(1999) thì đánh giá nhanh nông thôn RRA và đánh giá có sự tham gia của
nông dân PRA được các nhà nghiên cứu ứng dụng trong các lĩnh vực về phát
triển nông nghiệp, sinh thái môi trường, khuyến nông và phát triển cộng đồng.
Phương pháp RRA/PRA được coi là công cụ hữu hiệu của những người làm
công tác kế hoạch, những người trực tiếp chỉ đạo sản xuất kịp thời nắm bắt
tình hình cơ sở. Sử dụng công cụ này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong
hoạch định chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn và cộng đồng.

1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về hệ thống cây trồng
Nghiên cứu hệ thống cây trồng nói chung và cây trồng trên đất dốc nói
riêng từ trước đến nay đều được các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu
theo các phương pháp và hình thức khác nhau.
18
Theo V.R.Carangal (IRRI) thì hệ canh tác phụ thuộc vào môi trường tự
nhiên và môi trường kinh tế - xã hội. Hệ canh tác hữu hiệu có tính đặc thù cao
độ của môi trường, vì vậy phải nghiên cứu hệ canh tác trong nhiều môi trường
khác nhau.
Theo Kim Xin Hao (1985) ở Trung Quốc có lịch sử tăng vụ từ lâu đời,
từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên đã có việc trồng thêm một vụ đậu tương
sau khi thu hoạch lúa mùa trong một năm ở trung và hạ lưu sông Hoàng Hà.
Gắn liền với lịch sử loài người thì lịch sử hình thành cơ cấu cây trồng
cũng phát triển theo tiêu chuẩn và mức độ khác nhau. Từ cơ cấu cây trồng
đơn giản (du canh du cư, chọc lỗ bỏ hạt, phá rừng làm nương rẫy) đến thời kỳ
định canh định cư thì cơ cấu cây trồng được quan tâm và phát triển. Con
người phải bố trí luân canh cây trồng trong một thời gian nhất định để tạo ra
sản phẩm.
Tại Trung Á (Liên xô cũ) đã đặt ra việc thu hoạch thêm một vụ phụ
ngoài vụ chính là lúa mì mùa Đông để tận dụng nguồn lợi nhiệt và đất đai bỏ
trống. Một nghiên cứu mô hình cơ cấu cây trồng khác mà mô hình này đã áp
dụng cho nhiều vùng, như: vùng bông Tasken với mô hình chu kỳ 5:1 tức là 5
năm trồng bông có 1 năm trồng cây khác.
Vào những năm của thập kỷ 70, các nhà khoa học ở các nước Châu Á
đã đi nghiên cứu sâu toàn bộ cây trồng trên đất lúa theo hướng lấy lúa làm
nền, tăng cường phát triển cây trồng cạn, chế độ trồng xen, trồng gối ngày
càng được chú ý nghiên cứu. (Vũ Tuyên Hoàng, 1995, Nguyễn Ngọc Kính,
1995 [16], Trần Đình Long, 1997 [19]). Từ những nghiên cứu này thì Châu Á
đã hình thành mạng lưới hệ thống một tổ chức hợp tác nghiên cứu giữa viện
nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) và nhiều quốc gia trong vùng nhằm tập trung

nghiên cứu hệ thống cây trồng mới rất đa dạng và phong phú để giải quyết
những vấn đề sau:
19
- Tăng vụ, trồng cây ngắn ngày để thu hoạch trước mùa mưa lũ.
- Thử nghiệm tăng vụ màu cây trồng mới, luân canh, xen canh.
- Xác định hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh và khắc phục
các yếu tố hạn chế để phát triển các công thức đạt hiệu quả cao.
Ở Đài Loan tổng số tích ôn trong năm là: 8.000-9.000
0
C có 2-4 tháng
nhiệt độ dưới 20
0
C, đã có tập quán trồng 3 vụ/năm từ lâu, đó là: lúa Xuân –
lúa Mùa – cây vụ Đông.
Các cây vụ Đông như khoai lang, lúa mì, rau, hoặc ngô, đậu tương,
thuốc lá…Để đảm bảo thời vụ, người ta trồng gối ngô, đậu tương, khoai lang
giữa 2 hàng lúa chưa chín.
- Ở Châu Âu chế độ luân canh 3 mảnh đã tồn tại hàng chục thế kỷ, từ
thế kỷ 17, cuộc cách mạng thức ăn gia súc đã chuyển sang chế độ luân canh 4
mảnh, với các biện pháp kỹ thuật bón phân chuồng đã đưa năng suất lúa từ 6-
8 tạ/ha lên 14-18 tạ/ha. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, biên pháp hóa
học, sử dụng thuốc trừ sâu, chọn giống… trong nông nghiệp đã từng bước
phát triển.
- Tại Inđônêxia người ta đã dùng biện pháp kỹ thuật kết hợp trồng trọt
với chăn nuôi gia súc và có dùng các giống cây trồng cho năng suất cao, đa
dạng hóa cây trồng thích hợp trên các loại đất. Từ những năm 1975 – 1984 đã
có thay đổi cơ bản về mặt cơ cấu cây trồng. Trước khi nghiên cứu (trước năm
1975) có 64% diện tích bỏ hóa sau 1 vụ lúa, chỉ 32% diện tích là 2 vụ, đến
năm 1984 chỉ còn 27% diện tích là 1 vụ lúa, 69% diện tích làm 2 vụ, 3 vụ.
Từ những mối liên hệ giữa cây trồng với môi trường quản lý nông

nghiệp. Bill Mollision (1994) đã đề ra phương án nghiên cứu hệ thống công
thức luân canh cây trồng với hệ thống canh tác đơn giản để thay thế canh tác
cũ, nhằm khắc phục tình trạng mất cân bằng sinh học dẫn đến dịch bệnh ngày
càng tăng. Mục đích là xây dựng lên một hệ thống ổn định về mặt sinh thái,
20
có tiềm lực về mặt kinh tế, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người mà
không bóc lột đất đai, gây ô nhiễm môi trường. Nông nghiệp bền vững sử
dụng những đặc điểm vốn có của cây trồng, vật nuôi kết hợp với đặc trưng
cảnh quan và cấu trúc, trên những diện tích sử dụng thấp nhất.
Một số nhà nghiên cứu kỹ thuật nông nghiệp đã cho rằng: quá trình
phát triển của hệ thống nông nghiệp nói chung và hệ thống cây trồng nói riêng
là sự phát triển đồng ruộng đi từ đất cao đến đất thấp, có nghĩa là cây trồng đã
phát triển trên đất cao trước sau đó mới đến đất thấp, là quá trình hình thành
của sinh thái đồng ruộng.
Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống hóa 4 tiêu chuẩn của hệ thống
canh tác là sự phối hợp cây trồng và gia súc, các phương pháp trồng trọt và
gia súc, cường độ lao động, vốn đầu tư, tổ chức sản xuất và sản phẩm làm ra,
tính chất hàng hóa của sản phẩm. Đến những năm 60 Nhật Bản đã trở thành
một cường quốc ở Châu Á, đặc biệt là công nghiệp, nên trong sản xuất nông
nghiệp diện tích trồng lúa giảm từ 3.152.000 ha (1940) còn 2.049.000 ha
(1991) và nay còn dưới 2 triệu ha. Cơ cấu cây trồng cũng thay đổi trước đây
sản xuất lúa là chính chiếm 50% GDP của thu nhập trong nông nghiệp nay chỉ
còn 33%.
21
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
- Hiện trạng sản xuất ngành nông nghiệp huyện Mèo Vạc – tỉnh Hà Giang.
- Hệ thống cây trồng chính trên đất nương rẫy tại 3 xã đại diện trên địa
bàn huyện Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang

- Nghiên cứu đánh giá một số hệ thống cây trồng chính, nhằm chuyển
dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa.
2.2. Địa điểm và thời gian thực hiện
- Địa điểm: Tại huyện Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang.
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 4 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013.
2.3. Nội dung
- Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Mèo Vạc.
- Tìm hiểu cơ cấu cây trồng trên đất nương rẫy của huyện.
- Đánh giá hệ thống canh tác cây trồng chính trên đất nương rẫy.
- Hạch toán kinh tế một số mô hình canh tác trên đất nương rẫy điển
hình tại huyện Mèo Vạc.
- Đề xuất hệ thống cây trồng phù hợp trên đất nương rẫy của huyện.
2.4. Phương pháp
2.4.1. Chọn địa điểm nghiên cứu
Đất nương rẫy trồng 2 vụ (gồm 1 vụ ngô và 1 vụ đậu tương) là đất phổ
biến trên địa bàn huyện Mèo Vạc chiếm 90% đất nông nghiệp. Chính vì lý do
đó chúng tôi tiến hành điều tra nghiên cứu tìm hiểu đất đai và hiện trạng hệ
thống cây trồng trên đất rẫy 2 vụ của huyện.
2.4.2. Phương pháp điều tra thu thập số liệu thứ cấp
* Phương pháp kế thừa: ứng dụng phương pháp kế thừa vào thu thập
thông tin thứ cấp ở các cấp, các ngành khác nhau (Chi cục thống kê, Phòng
NN&PTNT, Phòng Địa chính, Đài khí tượng thủy văn,… huyện Mèo Vạc).
22
Các thông tin thứ cấp được sử dụng để xác định các địa điểm chính về
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và sản xuất nông nghiệp của huyện Mèo Vạc.
* Phương pháp RRA và PRA để:
+ Điều tra phỏng vấn nông dân thu thập thông tin sơ cấp. Đây là các
thông tin cần thiết cho việc đánh giá một số chỉ tiêu cơ bản của hệ thống
cây trồng.
+ Dùng bộ câu hỏi để điều tra nông dân, bộ câu hỏi được xây dựng dựa

vào các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá hiện trạng và phân tích hệ thống cây
trồng. Sử dụng các câu hỏi mở trong bộ câu hỏi điều tra kết hợp kỹ năng
phỏng vấn bán cấu trúc trong PRA để phỏng vấn nông dân.
* Chọn mẫu điều tra: Chọn 3 xã đại diện cho 3 tiểu vùng sinh thái của
huyện, mỗi xã thị trấn chọn 30 hộ để điều tra.
2.4.3. Phương pháp đánh giá hệ thống cây trồng
- Đánh giá sức sản xuất và tính ổn định của hệ thống cây trồng theo
thời gian (Sự ổn định về năng suất theo thời gian).
- Đánh giá về hiệu quả kinh tế của các cây trồng chính, giá trị sản phẩm
cao dựa trên lợi nhuận thuần (Tổng thu – Chi phí).
- Đánh giá tính chấp nhận của xã hội: dựa trên các nhu cầu của nông hộ
về tập quán canh tác, phù hợp với điều kiện kinh tế.
23

×