i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Agribank
ATM
BIDV
BIDV Phú Thọ
CSXH
FTP
GDP
KH
NSNN
NH
NVHĐ
MB
MHB
NHTM
NHNN
NHTMCP
NHTW
NN
VIBBank
Vietinbank
VPBank
Nội dung
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam
Máy giao dịch tự động
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam,
Chi nhánh Phú Thọ
Chính sách xã hội
Giá điều chuyển vốn
Tổng sản phẩm quốc nội
Khách hàng
Ngân sách nhà nước
Ngân hàng
Nguồn vốn huy động
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
Ngân hàng TMCP phát triển nhà Đồng bằng Sông
Cửu Long
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng trung ương
Nhà nước
Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương
Việt Nam
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
iii
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn là điều kiện tiền đề cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Ở Việt
Nam hiện nay, vốn đang trở thành một vấn đề cấp thiết cho quá trình tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Hệ thống Ngân hàng thương mại là
nơi tích tụ, tập trung, khơi dậy các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế thông
qua việc cung cấp lượng vốn cho nền kinh tế.
Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Nước
ta đã đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7 - 8%/năm. Trong điều
kiện các kênh dẫn vốn khác của thị trường tài chính chưa thực sự phát triển thì
nguồn vốn từ tín dụng ngân hàng hiện đang giữ vai trò quan trọng.
Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và có vai trò quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng. Đặc biệt trước tình hình
khan hiếm vốn hiện nay huy động vốn đang trở thành hoạt động “nóng” được
các ngân hàng quan tâm nhiều nhất. Thông qua việc ứng dụng và phát triển công
nghệ Ngân hàng, tìm hiểu thị trường cũng như nhu cầu của khách hàng các Ngân
hàng đang tung ra nhiều sản phẩm mang tính "đột phá, chiến lược" từ đó thu hút
và đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao và tinh tế của khách hàng.
Nhận thức được vấn đề đó, Ngân hàng Thương mại (NHTM) cổ phần
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), là NHTM lâu đời nhất Việt Nam và là
một trong 5 NHTM nhà nước, đã coi nhiệm vụ huy động vốn là nhiệm vụ
trọng tâm, hàng đầu, xuyên suốt trong phương hướng kinh doanh hàng năm.
Trong đó, tập trung vào một số loại chính như huy động vốn dân cư, định chế
tài chính, tổ chức kinh tế nhằm tạo lập nền vốn vững chắc cho tăng trưởng tín
dụng và quy mơ hoạt động.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi
nhánh Phú Thọ (BIDV Phú Thọ) là một Chi nhánh của BIDV kinh doanh trên
2
địa bàn là một tỉnh trung du, miền núi với điều kiện kinh tế xã hội có nhiều khó
khăn. Do đó, việc phát triển nguồn vốn huy động cịn có những mặt hạn chế
nhất định. Tỷ trọng nguồn vốn huy động trên tổng nguồn vốn còn thấp, tốc độ
tăng trưởng nguồn vốn huy động, nhất là huy động vốn từ dân cư cịn dưới mức
trung bình trên địa bàn, chưa phát huy được lợi thế cạnh tranh, thị phần nguồn
vốn huy động hạn hẹp và có dấu hiệu tiếp tục suy giảm. Do vậy, để phát triển
nguồn vốn huy động theo định hướng của BIDV và nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh, Chi nhánh cần có những giải pháp đồng bộ và phù hợp.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, tơi lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả
huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam Chi nhánh Phú Thọ” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài triển khai với mục đích đánh giá thực trạng tình hình huy động
vốn để làm căn cứ đưa ra các giải pháp giúp thúc đẩy công tác huy động vốn
của ngân hàng tốt hơn trong thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về huy động vốn trong ngân hàng
thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình huy động vốn tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ.
- Đề xuất các giải pháp huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ.
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hiệu quả huy động vốn từ tiền gửi của tổ chức kinh tế, định
chế tài chính và dân cư tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ trong giai đoạn từ 2009 đến 2011.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Tổng hợp và hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về cơng tác huy
động vốn, vai trị của nó đối với hoạt động Ngân hàng, các nhân tố ảnh hưởng
đến việc huy động vốn trong các ngân hàng, tổng kết những bài học kinh
nghiệm trong công tác huy động vốn.
Dựa trên thực trạng công tác huy động vốn của Chi nhánh, luận văn đưa
ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại BIDV
Phú Thọ nhằm phát triển các hoạt động của Chi nhánh trong các năm tiếp theo.
* Đóng góp của luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả huy động vốn
của Ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả huy động vốn tại BIDV Phú
Thọ, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại BIDV Phú
Thọ, đồng thời đưa ra một số kiến nghị đối với Chính phủ và NHNN và BIDV.
5. Kết cấu của luận văn
Đề tài: “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Phú Thọ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả huy động vốn của NHTM .
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng huy động vốn tại BIDV Phú Thọ.
Chương 4: Giải pháp nâng cao huy động vốn tại BIDV Phú Thọ.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
NHTM đã có lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm gắn liền với
sự phát triển của kinh tế hàng hố. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác
động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá,
ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền
kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hồn thiện và trở thành
những định chế tài chính quan trọng nhất. NHTM đóng vai trị rất quan trọng
trong việc làm cầu nối giữa huy động vốn và cho vay vốn trong nền kinh tế.
Cho đến nay, có rất nhiều khái niệm về NHTM. Ở Mỹ: “Ngân hàng
thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và
hoạt động trong ngành cơng nghiệp dịch vụ tài chính”. Đạo luật ngân hàng của
Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp
hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của cơng chúng dưới
hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài ngun đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 của Nước Cộng hồ Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Từ những quan điểm và quy định trên có thể tổng quát: NHTM là một
tổ chức tín dụng kinh doanh và cung ứng thường xuyên đa dạng các dịch vụ
tài chính như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh tốn qua tài
khoản. Ngồi ra, ngân hàng cịn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm đáp ứng
nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
5
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
a) Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất
của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng,
NHTM đóng vai trị là cầu nối để dẫn vốn giữa người thừa vốn và người có
nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trị
là người đi vay, vừa đóng vai trị là người cho vay và hưởng lợi nhuận là
khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo
lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
b) Chức năng trung gian thanh tốn
Ở đây NHTM đóng vai trị là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân,
thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài
khoản tiền gửi của họ để thanh tốn tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo
lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh
toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh tốn,
thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể sử dụng một trong các
phương thức để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ
tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh tốn an tồn.
Chức năng này vơ hình chung đã thúc đẩy lưu thơng hàng hóa, đẩy nhanh tốc
độ thanh tốn, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
c) Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân
NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự
tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang
tính đặc thù của mình đã vơ hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền
kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
6
NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh tốn. Thơng qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số
tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh tốn
dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn
được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng
hóa, thanh tốn dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán,
chi trả của xã hội.
1.1.3. Vai trò của Ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, từ khi ra đời và phát
triển NHTM đã đóng góp vai trị rất quan trọng trong việc xây dựng và phát
triển nền kinh tế thế giới. Ở tất cả các nước, hệ thống NHTM đã khơng ngừng
phát triển, đóng vai trị tập trung những khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế
để cung ứng vốn cho các nhà đầu tư cần vốn - Đó chính là q trình huy động
vốn và sử dụng vốn của các NHTM. Bằng hoạt động của mình NHTM đã
đóng góp một lượng vốn đáng kể và hàng loạt các dịch vụ Ngân hàng khác
cho nền kinh tế. Vậy vai trò của NHTM đối với nền kinh tế cụ thể như:
Một là: Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp tín dụng cho nền kinh
tế, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Là một trung gian tín dụng NHTM đã tích tụ và tập trung được một
khối lượng lớn tiền tạm thời nhà rỗi thông qua nghiệp vụ huy động vốn và
thực hiện các dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng. Từ nguồn tiền đó tiến hành
cấp phát tín dụng cho các thành phần kinh tế, những tổ chức và cá nhân cần
vốn để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Tức là Ngân hàng đóng vai trị
là người mơi giới giữa một bên là những người có tiền nhàn rỗi có thể cho
vay và một bên là những người cần vay vốn. Thực hiện chức năng này tức là
Ngân hàng đã trở thành người khơi thông và kích hoạt các nguồn vốn, làm
7
cho nguồn tiền tệ luôn hoạt động và sinh lời. Những hoạt động đó của NHTM
đã thực sự tác động điều hoà cung cầu tiền tệ, biến những đồng tiền nhàn rỗi
thành những đồng tiền hoạt động có ích, tập trung vốn vào việc tài trợ cho các
ngành kinh tế khác phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động và bằng
những khoản tín dụng nhỏ thích hợp giúp người lao động có thêm điều kiện
ổn đinh và cải thiện đời sống.
Hai là: Ngân hàng giúp cho các nhà kinh doanh trong việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
Ngân hàng tài trợ vốn cho các Doanh nghiệp trên cơ sở phải tuân thủ
các điều kiện do Ngân hàng đặt ra. Trong đó các khoản tín dụng mà Doanh
nghiệp nhận được đều phải trả lãi và khi hết thời gian sử dụng phải hồn trả
gốc. Vì vậy để đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cho Doanh nghiệp thì trước khi cho vay, Ngân hàng cần phải
thẩm định phương án sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp, thẩm định tính khả
thi của dự án, thẩm định các yếu tố liên quan đến Doanh nghiệp (Uy tín, trình
độ nhân viên, tài sản đảm bảo…) một cách chính xác rõ ràng, chi tiết, qua đó
cán bộ tín dụng giúp Doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh
có hiệu quả. Sau khi cho Doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng vẫn tiếp tục tiến
hành giám sát quá trình sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp và thơng qua
hoạt động thanh tốn hộ thì Ngân hàng có thể giúp Doanh nghiệp quản lý tốt
hơn về vốn và sử dụng vốn.
Ba là: Hoạt động Ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển của
vốn đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển vùng.
Khi Chính phủ có sự ưu tiên về phát triển ngành nghề hoặc vùng kinh tế
nào đó thì Chính phủ sẽ đưa ra những chính sách riêng cho từng vùng và thông
qua hệ thống NHTM để tiến hành cung ứng vốn cho những vùng đó. Hoạt
8
động tín dụng Ngân hàng ngày càng phát triển đã làm cho việc di chuyển vốn
diễn ra một cách dễ dàng, tập trung duy trì lực lượng bình quân từ tất cả các
ngành. Đồng thời với sự tác động của Ngân hàng vốn được dịch chuyển từ
vùng thừa vốn sang vùng thiếu vốn đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa
các ngành, xoá dần sự khác biệt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định.
Bốn là: Hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Với đặc điểm của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với các
hoạt động chủ yếu là huy dộng vốn, cho vay và thực hiện chức năng trung
gian thanh toán. Lượng tiền trong lưu thơng được Ngân hàng kiểm sốt.
Thơng qua các khoản mục của NHTM, NHTƯ sẽ xác định được lượng tiền
mặt đang lưu thông trong nền kinh tế, từ đó để có các biện pháp kiểm sốt
nhằm đề phịng và hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xảy ra. Trường hợp
nếu xảy ra lạm phát thì bằng các nghiệp vụ của mình, NHTƯ sẽ tiến hành
điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu hoặc tái chiết
khấu, tham gia vào thị trường mở để tác động tới NHTM qua đó làm thay đổi
lượng tiền trong lưu thông.
Năm là: Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu- thúc đẩy
phát triển thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, cùng với xu thế khu vực hố
và tồn cầu hố thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đóng vai
trị ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Cùng hồ chung với xu thế đó NHTM cũng đóng vai trị rất quan trọng
trong việc đưa nền kinh tế của quốc gia mình hội nhập vời nền kinh tế thế giới.
Bằng các hoạt động của mình như tài trợ xuất nhập khẩu, thực hiện các hình
thức thanh tốn, bảo lãnh… đã góp phần thúc đẩy việc chu chuyển hàng hoá
dịch vụ giữa các quốc gia với nhau một cách thuận lợi và nhanh chóng.
9
1.1.4. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
a. Nhận tiền gửi
Đây là hoạt động cơ bản của NHTM, Ngân hàng nhận được các khoản
tiền gửi từ khách hàng dưới các hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của
các cá nhân, của các tổ chức kinh tế và Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi
cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng là đến
rút tiền ở Ngân hàng. Qua hoạt động này Ngân hàng đã thu hút một lượng lớn
tiền tạm thời nhàn rỗi để phục vụ cho các hoạt động của mình như hoạt động
cho vay và thơng qua đó cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
b. Hoạt động tài trợ của NHTM
Trên cơ sở lượng tiền gửi từ nền kinh tế mà Ngân hàng đã tiếp nhận và
quản lý được sau khi trừ đi phần dự trữ cần thiết theo qui định, phần còn lại sẽ
được Ngân hàng sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của mình. Do tính đa
dạng của khách hàng và nhu cầu phong phú về phương thức sử dụng tiền tài
trợ của khách hàng nên Ngân hàng đã thiết lập và xây dựng các phương thức
tài trợ khác nhau.
* Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng đã
trở thành trọng tâm chú ý của Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn của Chính
phủ và thường là cấp bách trong khi thu không đủ chi hoặc thu chưa đủ thì
Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng.
Phương thức được sử dụng nhiều nhất là Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ mua
bán tín phiếu, trái phiếu hoặc làm đại lý phát hành các giấy tờ có giá cho
Chính phủ, qua nghiệp vụ này một mặt vừa thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
mặt khác vừa đem lại thu nhập cho Ngân hàng.
10
* Tài trợ cho nền kinh tế
Để tiến hành hoạt động kinh doanh thì vấn đề sống cịn là phải có
nguồn lực tài chính đủ mạnh, trước hết là dể tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh mặt khác là để mở rộng qui mô và tham gia cạnh tranh để đứng
vững trong nền kinh tế thị trường. Nguồn lực này ngồi nguồn vốn tự có của
các Doanh nghiệp (thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ), thì phần lớn các doanh
nghiệp đều phải dựa và nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Tuỳ theo nhu cầu và
loại hình kinh doanh mà Ngân hàng chấp nhận cấp tín dụng theo các phương
thức khác nhau trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn do Ngân hàng đưa
ra. Khi thực hiện nghiệp vụ này thì nó đem lại lợi nhuận rất lớn cho Ngân
hàng và đây là nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng.
Cho vay: Là hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng trong một khoảng thời gian và theo mục đích
nhất định trên ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi. Đây là phương thức phổ
biến nhất trong hoạt động tài trợ của Ngân hàng đối với khách hàng.
Cho thuê tài chính: Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn kéo dài trên
cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là các tổ chức tín dụng và
khách hàng đi thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài
sản đó hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp
đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương hủy bỏ
hợp đồng. Hình thức này giúp người th có ngay tài sản có giá trị lớn để
phục vụ cho sản xuất nhưng người thuê phải trả lãi suất thuê thường cao hơn
các hình thức vay khác.
Góp vốn đầu tư: Là hình thức Ngân hàng cùng với một số đối tác cùng
góp vốn để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể là hình thức đầu
tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp, và Ngân hàng được hưởng quyền lợi và
nghĩa vụ như một cổ đông thường.
11
Mua nợ: Ngân hàng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc mua
lại các khoản nợ, hay chiết khấu các chứng từ có giá.
c. Mua bán ngoại tệ
Đây là hình thức Ngân hàng làm trung gian trong việc chuyển đổi các
đồng tiền của các quốc gia với nhau theo nhu cầu của khách hàng dựa trên tỷ giá
mua bán các đồng tiền đó với nhau. Qua hoạt động này Ngân hàng thu được lợi
nhuận từ chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán. Số lượng ngoại tệ mà Ngân
hàng mua được có thể dùng để cho vay đối với các khách hàng có nhu cầu vay
bằng ngoại tệ hoặc dùng để thanh toán trong các giao dịch bằng ngoại tệ.
d. Các dịch vụ của Ngân hàng
- Cung cấp tài khoản giao dịch và thực hiện thanh tốn hộ.
Thơng qua việc thu hút khách hàng (Cá nhân hoặc tổ chức) mở tài
khoản giao dịch tại Ngân hàng, Ngân hàng sẽ quản lý tài khoản của khách
hàng và tiến hành chi trả tiền hàng hóa dịch vụ cũng như thu hộ các khoản
phải thu của chủ tài khoản theo lệnh của họ. Thực hiện nghiệp này một mặt
Ngân hàng giúp khách hàng giảm bớt được chi phí trong q trình thanh tốn,
mặt khác Ngân hàng tập trung được một lượng tiền lớn trong nền kinh tế để
sử dụng cho các hoạt động của mình.
- Bảo quản vật có giá.
Đây là một dịch vụ mang lại thu nhập khá cao cho các Ngân hàng. Trên
thế giới dịch vụ này rất phát triển. Nội dung của nghiệp vụ này là các Ngân
hàng cho khách hàng thuê két của Ngân hàng để bảo quản tài sản của mình và
thu phí từ hoạt động cho thuê đó.
- Dịch vụ bảo lãnh.
Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín dụng
với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng
khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Muốn vay khách
12
hàng phải có được sự đồng ý của Ngân hàng, nó phải tn theo một qui trình
bảo lãnh riêng. Khi Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng thì
Ngân hàng được hưởng một khoản phí gọi là phí bảo lãnh, mức phí này tuỳ
thuộc vào mức độ rủi ro của từng hợp đồng bảo lãnh.
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn đầu tư.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, Ngân hàng có rất nhiều chun
gia về quản lý tài chính vì vậy có rất nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ
Ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng sẵn
sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp.
- Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khốn.
Với trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên và hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật, Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng các thơng tin về chứng
khốn và đầu tư chứng khốn như các danh mục đầu tư, quản lý tài khoản,
mua bán hộ, bảo quản chứng khoán…
- Cung cấp dịch vụ đại lý.
Nhiều Ngân hàng trong q trình hoạt động khơng thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi, nhiều Ngân hàng (thường là các Ngân
hàng lớn) cung cấp dịch vụ đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán hộ,
phát hành chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về huy động vốn
Vốn mà ngân hàng huy động được bao gồm nhiều hình thức như:
nhận tiền gửi, đi vay và từ các nguồn khác như: nguồn uỷ thác, nguồn trong
thanh toán… tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, tác giả sẽ tập
trung nghiên cứu việc huy động vốn từ nhận tiền gửi mặc dù có nói qua về
các hình thức khác.
13
1.2.2. Vai trò của huy động vốn trong hoạt hoạt động Ngân hàng
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính với chức năng cơ bản là đi
vay để cho vay. Vì vậy mục tiêu lợi nhuận ln đặt lên hàng đầu. Để đạt được
mục tiêu đó, cơng cụ cần thiết đầu tiên là các NHTM cần phải có là vốn để hoạt
đơng kinh doanh. Nếu có nguồn vốn dồi dào ổn định ln tăng trưởng thì
NHTM sẽ tạo ra thế chủ động trong hoạt động kinh doanh, tăng trưởng về quy
mơ và đa dạng các hình thức hoạt động từ đó tăng thu nhập cho Ngân hàng.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn
1.2.3.1. Nhận tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là
mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách
đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để
gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có
chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đó đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau.
- Tiền gửi thanh tốn
Đây là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu
cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các
khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào
tiền gửi thanh tốn theo u cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất
thấp (hoặc bằng khơng), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các
dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh
toán cho khách hàng. Thủ tục mở rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là
khách hàng phải có tiền và chỉ thanh tốn trong phạm vi số dư.
14
- Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi
suất lại thấp, trong khi đó nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và
các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Để đáp ứng nhu
cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đó đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ
hạn. Người gửi khơng được hưởng các dịch vụ thanh tốn của ngân hàng đối
với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng rút tiền ra.
Tuy khơng thuận tiện cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh tốn, song
tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lái suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Tiền gửi tiết kiệm là những khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng với
mục đích tiết kiệm, thơng thường khơng có mức giới hạn về số tiền, có hoặc
khơng có thời hạn đáo hạn cố định, người gửi tiền được trả lãi trên số dư tiền gửi.
Chủ của các khoản gửi tiết kiệm thơng thường là các cá nhân và hộ gia
đình. Họ gửi vào ngân hàng những khoản thu nhập chưa sử dụng trong kỳ
hiện tại khơng vì nhu cầu giao dịch hoặc kinh doanh mà vì nhu cầu tiết kiệm
để chi dùng trong tương lai. Điều họ quan tâm trước hết là lợi tức họ được
hưởng, dưới dạng tiền lãi ngân hàng trả hoặc có thể bao gồm cả chênh lệch
giá nếu như những khoản này được thiết kế dưới dạng các hợp đồng đủ tiêu
chuẩn trao đổi rộng rãi trên thị trường.
Đối với ngân hàng, tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn khá ổn định, cho
phép ngân hàng chủ động trong việc đầu tư chúng vào các kế hoạch sinh lời.
Tuy nhiên, do đa phần những món tiết kiệm thường nhỏ, phân tán và lãi suất
các ngân hàng phải trả cho chúng cao nên chi phí thu hút nguồn vốn này
thường lớn hơn so với tiền gửi thanh toán.
Trên thực tế, nhu cầu sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại rất
lớn, nguồn tiền gửi các ngân hàng huy động được không phải lúc nào cũng đủ
15
đáp ứng. Đôi khi, để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình các ngân
hàng thương mại cũng huy động vốn bằng cách đi vay.
1.2.3.2. Đi vay
Trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng ln tồn tại tình trạng
hoặc dư vốn, hoặc đủ vốn, hoặc thiếu vốn. Khi một ngân hàng thương mại
thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng hay cho mục đích đầu tư
phát triển mà các nguồn khác chưa đủ đáp ứng, ngân hàng thương mại có thể
đi vay. Các ngân hàng thương mại có thể vay từ nhiều nguồn khác nhau:
Một là, vay ngân hàng trung ương: Đây là khoản vay nhằm giải quyết
nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ
(thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), NHTM thường vay ngân hàng
trung ương.
Ngân hàng trung ương có thể cho các ngân hàng thương mại vay dưới
hình thức tái chiết khấu hoặc cho vay có đảm bảo bằng cầm cố các giấy tờ có
giá. Khi cần tiền, các ngân hàng thương mại mang những thương phiếu hoặc
các giấy tờ có giá khác đến ngân hàng trung ương xin tái chiết khấu.
Khoản vay này liên quan đến lượng tiền cung ứng, đến việc thực hiện
chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương nên ngân hàng trung ương kiểm
soát rất chặt chẽ, các ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm
bảo và kiểm sốt nhất định. Thơng thường ngân hàng trung ương chỉ tái chiết
khấu và nhận cầm cố các giấy tờ có giá có chất lượng (thời gian đáo hạn
ngắn, khả năng trả nợ cao) và việc cho vay này phải phù hợp với mục tiêu của
ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ.
Hai là, vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là khoản tiền vay để đáp
ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, trong nhiều trường hợp khoản tiền
vay các TCTD khác bổ sung hoặc thay thế cho khoản tiền vay từ ngân hàng
trung ương.
16
Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại đang có dự trữ
vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc
giảm cho vay có thể sẵn sàng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất
cao hơn. Ngược lại, một số ngân hàng lại đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay
tức thời để đảm bảo thanh khoản. Các ngân hàng đang thiếu hụt dữ trữ sẽ tìm
đến các ngân hàng đang thừa dự trữ để vay. Quá trình vay rất đơn giản. Ngân
hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân
hàng đại lý (hoặc ngân hàng trung ương). Khoản vay có thể khơng cần đảm
bảo, hoặc được đảm bảo bằng các giấy tờ có gia của kho bạc. Kết quả là dự trữ
của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
Ba là, vay bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu: Các NHTM có thể
tìm kiếm vốn hoạt động bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu,
trái phiếu). Việc phát hành được tiến hành khi ngân hàng thiếu vốn, và ngân
hàng ln có những quy định cụ thể về khối lượng huy động, mức lãi suất,
thời hạn và phương pháp huy động. Việc huy động được tiến hành trong một
thời gian nhất định, khi đã huy động đủ khối lượng theo dự kiến, các ngân
hàng sẽ ngừng huy động.
Thông thường vay bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu là các
khoản vay khơng có đảm bảo. Ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ
vay được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay bằng hình thức
này; và thường phải vay thơng qua các ngân hàng đại lý hoặc được bảo
lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay cũng phụ thuộc vào trình độ
phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công
cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mơ, mệnh
giá, lãi suất và thời hạn vay thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh
lãi suất, bảo quản hộ… cũng cần được các ngân hàng quan tâm.
17
Ngồi ra, các NHTM có thể vay từ một số nguồn khác như: vay của các
tổ chức tài chính khác trong nước, vay các tổ chức tài chính nước ngồi…
1.2.3.3. Huy động khác
Các ngân hàng thương mại cũng huy động vốn từ nguồn uỷ thác, nguồn
trong thanh toán và một số nguồn khác.
Khi thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư,
uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ… các NHTM đã tạo nên nguồn
uỷ thác tại ngân hàng mình. Do việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ
công việc nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời lượng tiền này vào hoạt
động kinh doanh.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, các NHTM cũng tạo được
một khoản vốn: tiền gửi đảm bảo thanh tốn séc, tiền kí quĩ để mở L/C, các
khoản tiền phong toả do ngân hàng chấp nhận hối phiếu thương mại… Các
khoản này tạm thời được trích ra khỏi tài khoản tiền gửi của khách hàng, nhập
vào một tài khoản khác chờ sử dụng nên được coi là tiền nhàn rỗi.
Những ngân hàng là đầu mối trong đồng tài trợ có kết dư từ tiền của các
ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay cũng tạo nên nguồn vốn
cho ngân hàng. Ngồi ra, các NHTM cũng có thể sử dụng các khoản nợ khác như
thuế chưa nộp, lương chưa trả… để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình.
Trên đây là toàn bộ nội dung của hoạt động huy động vốn một trong
những hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại.
Hiện nay, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, các NHTM muốn tồn
tại và phát triển phải nâng cao hiệu quả huy động vốn.
1.3. Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng cũng như các tổ chức
tín dụng khác đang phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bất kỳ
18
biến động nào dù nhỏ hay lớn đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Vì vậy, hiệu quả
trong hoạt động huy động vốn không chỉ đánh giá chính xác đúng đắn hoạt
động huy động vốn nói riêng mà cịn phản ánh khả năng thích nghi và khẳng
định sự phát triển trên thị trường của ngân hàng.
Có quan niệm cho rằng: Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và
chi phí bỏ ra và chỉ khi nào đạt được kết quả cao nhất trong điều kiện chi phí
thấp nhất mới được coi là có hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định kết
quả nào là cao nhất với chi phí thấp nhất là rất khó. Để đánh giá xem hoạt
động huy động vốn có hiệu quả hay khơng, các ngân hàng khơng chỉ quan tâm
đến việc đó huy động được bao nhiêu vốn mà còn quan tâm đến nhiều vấn đề
khác chẳng hạn: ngân hàng đó sử dụng những cách nào để huy động được số
vốn đó? chí phí huy động bao nhiêu? khả năng khai thác số vốn này để tài trợ
cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng như thế nào? tỷ trọng các loại vốn
có hợp lý khơng, có phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng không?
Lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng khi tiến hành huy động ra sao?...
Từ nhận thức trên một định nghĩa đầy đủ hơn về hiệu qủa huy động
vốn đã được đưa ra đó là: Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương
mại chính là huy động vốn mà ngân hàng đạt được, phù hợp với nhu cầu sử
dụng vốn, đảm bảo được mục tiêu an toàn và sinh lời cao của ngân hàng
trong từng thời kỳ.
Như vậy, muốn đạt hiệu quả huy động vốn cao, ngân hàng cần bám sát
nhu cầu sử dụng vốn, huy động vốn khơng những đủ đáp ứng nhu cầu mà cịn
phù hợp về cơ cấu kỳ hạn và loại tiền, với chi phí huy động thấp nhất. Đồng
thời, phải duy trì được tính ổn định cao của các nguồn tiền huy động. Có như
vậy mới hạn chế được rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất, và gia tăng lợi
nhuận cho ngân hàng.
19
Đánh giá hiệu quả huy động vốn là việc làm cần thiết và quan trọng đối
với mỗi ngân hàng thương mại, nhất là trong điều kiện cạnh tranh ngày càng
gay gắt như hiện nay. Việc làm này giúp cho các ngân hàng thương mại thấy
được những điểm mạnh, điểm yếu của mình trong cơng tác huy động vốn, từ
đó có những điều chỉnh thích hợp nhằm phát huy thế mạnh, khắc phục điểm
yếu và nâng cao hiệu quả huy động vốn.
Để đánh giá chính xác hiệu quả huy động vốn, các ngân hàng thương
mại cần đưa ra được hệ thống các chỉ tiêu đánh giá.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của NHTM
NHTM được đánh giá đạt hiệu quả huy động vốn cao khi quy mô vốn
huy động đáp ứng mục tiêu với chi phí hợp lý và có mức chênh lệch lãi suất
bình qn đảm bảo đủ bù đắp chi phí và mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
1.3.2.1. Quy mô vốn huy động đáp ứng mục tiêu với chi phí hợp lý
* Quy mô vốn huy động đáp ứng mục tiêu
Quy mô vốn huy động có ảnh hưởng quyết định đến quy mơ sử dụng
vốn cũng như việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Các ngân
hàng không thể đạt hiệu quả cao nếu không huy động được đủ vốn để tài trợ
cho hoạt động kinh doanh của mình. Mỗi ngân hàng cần phải huy động được
quy mô vốn nhất định theo mục tiêu đã đề ra cho từng thời kỳ. Mục tiêu này
được xác định trên cơ sở xem xét nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng.
Quy mô vốn huy động đáp ứng mục tiêu thể hiện như sau:
- Số vốn ngân hàng huy động được đủ để đáp ứng nhu cầu cho vay và
đầu tư của ngân hàng, không quá thừa hoặc quá thiếu so với nhu cầu sử dụng.
Trong thực tế, ngân hàng không thể sử dụng toàn bộ số vốn huy động
được để cho vay và đầu tư mà phải giữ lại một tỷ lệ nhất định. Ngân hàng
phải duy trì tỷ lệ này nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh, sử
dụng để chi trả khi khách hàng có nhu cầu rút tiền.
20
Mặt khác, với mục đích huy động để cho vay và đầu tư, ngân hàng
thường tìm cách khai thác và sử dụng tối đa số vốn huy động được, vốn được
sử dụng càng nhiều ngân hàng hoạt động càng có hiệu quả. Tuy nhiên, điều
này cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao,
do đó, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ xem nên huy động vốn ở mức nào để
đảm bảo hoạt động có hiệu quả mà vẫn an tồn.
- Tốc độ tăng trưởng vốn huy động luôn dương và tương đối ổn định.
- Tỷ trọng các loại vốn ngắn hạn, trung dài hạn, nội tệ, ngoại tệ ở mức
hợp lý, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Bất kỳ một sự không
phù hợp nào về kỳ hạn và loại tiền giữa huy động vốn với sử dụng vốn cũng
sẽ đem lại bất lợi cho ngân hàng.
Nếu không có sự phù hợp về kỳ hạn giữa huy động vốn với sử dụng vốn,
ngân hàng sẽ gặp rủi ro về kỳ hạn. Nếu khơng có sự phù hợp về loại tiền, ngân
hàng sẽ phải chịu những chi phí để chuyển đổi nguồn tiền đã huy động được
sang loại tiền cần sử dụng và có khả năng sẽ gặp rủi ro về tỷ giá. Đây chính là
những nguy cơ tiềm ẩn làm giảm hiệu quả huy động vốn của ngân hàng.
* Chi phí hợp lý
Chi phí huy động vốn là toàn bộ số tiền ngân hàng phải bỏ ra để có
được số vốn đó, bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí khác.
Chi phí trả lãi được thể hiện thông qua lãi suất huy động, lãi suất huy
động càng cao càng huy động được nhiều vốn, từ đó mở rộng cho vay và đầu
tư. Tuy nhiên, lãi suất cao làm gia tăng chi phí của ngân hàng và nếu doanh
thu khơng tăng kịp chi phí, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm tương ứng. Hoạt
động huy động vốn đạt hiệu quả cao khi ngân hàng huy động được đủ vốn
cho nhu cầu sử dụng với chi phí huy động thấp nhất. Để làm được điều đó
ngân hàng cần phải quản lý chặt chẽ lãi suất huy động.
21
Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của ngân hàng và với
mỗi ngân hàng. Lãi suất huy động thay đổi thường xuyên dưới ảnh hưởng của
nhiều nhân tố như:
- Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia;
- Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp, Nhà nước và hộ gia đình;
- Tỷ lệ lạm phát;
- Tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác;
- Trình độ phát triển của thị trường tài chính;
- Khả năng sinh lời của ngân hàng;
- Độ an toàn của các ngân hàng…
Trên cơ sở tác động của hàng loạt các nhân tố, hình thành nên lãi suất
huy động của ngân hàng thương mại. Lãi suất huy động của mỗi ngân hàng
được phân biệt theo nhiều hình thức khác nhau như: phân biệt theo thời gian
huy động, theo loại tiền huy động, theo mục đích huy động, theo quy mô huy
động, theo rủi ro của ngân hàng và theo các dịch vụ đi kèm. Tiện ích mà ngân
hàng cung cấp cho người gửi tiền và người cho vay càng cao thì lãi suất càng
thấp. Có một số nguồn tiền lãi suất ngân hàng trả bằng không và người gửi
phải trả phí để được hưởng tiện ích của ngân hàng.
Ngồi chi phí trả lãi, các ngân hàng cũng phải trả một số chi phí khác
cho việc huy động vốn như: chi lương cho nhân viên; chi phí vận chuyển,
kiểm đếm, bảo quản tiền; chi mua công cụ, dụng cụ phục vụ cho công tác huy
động, chi khuyến mại, tuyên truyền, tiếp thị…
Chi phí huy động vốn cao hay thấp là biểu hiện trực tiếp của hiệu quả
huy động vốn, nếu chi phí huy động vốn cao thì hiệu quả huy động vốn thấp
và ngược lại, nếu chi phí huy động vốn thấp thì hiệu quả huy động vốn cao.
Tuy nhiên, khái niệm “cao” hay “thấp” chỉ mang tính tương đối, tức là các chi
phí huy động ngân hàng bỏ ra phải hợp lý, phải thấp nhất có thể ứng với từng
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của ngân hàng.
22
Chi phí huy động vốn có ảnh hưởng quyết định đến lãi suất cho vay của
ngân hàng, chi phí huy động vốn càng cao lãi suất cho vay càng cao để bù đắp
chi phí và tạo lợi nhuận cho ngân hàng. Nhưng lãi suất cho vay quá cao, ngân
hàng sẽ không cho vay được, vốn bị ứ đọng, hiệu quả huy động vốn giảm.
Nhiệm vụ của ngân hàng là xác định một mức chi phí huy động hợp lý đảm
bảo vừa huy động được vốn, vừa cho vay được để thu lợi nhuận cao nhất.
Để phục vụ cho việc quản lý chi phí huy động vốn và xác định các mức
lãi suất tiền gửi, tiền vay một cách hợp lý, các ngân hàng thường tính tốn lãi
suất huy động bình quân.
Lãi suất huy động bình quân: là chỉ tiêu phản ánh chi phí trả lãi mà
ngân hàng phải bỏ ra để huy động được một đồng vốn, được tính bằng cơng
thức sau:
Chi phí trả lãi
Lãi suất huy động bình qn =
Tổng vốn huy động bình quân
Trong quá trình hoạt động các NHTM huy động nhiều nguồn vốn khác
nhau tương ứng với nhiều mức lãi suất, để đánh giá một cách tổng quát chi
phí huy động vốn và so sánh với các kỳ trước, cần phải xác định lãi suất huy
động bình quân. Lãi suất huy động bình quân cho thấy xu hướng thay đổi lãi
suất của nguồn, mức độ thay đổi lãi suất mỗi nguồn, nguồn nào đắt tương đối,
nguồn nào rẻ tương đối. Thông qua lãi suất huy động bình qn các ngân
hàng có thể xác định được các mức lãi suất đầu ra với cơ cấu hợp lý, đảm bảo
bù đắp chi phí và đạt được mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng.
1.3.2.2. Chênh lệch lãi suất bình quân
Chênh lệch lãi suất bình quân là chỉ tiêu phản ánh chênh lệch giữa lãi
suất đầu ra bình quân (lãi thu được từ hoạt động cho vay, đầu tư) và lãi suất
đầu vào bình quân (lãi phải trả cho các khoản huy động). Được tính bằng
cơng thức: