Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của lập địa, đến chất lượng gỗ keo tai tượng (acacia manggium) 9 tuổi trồng tại huyện chiêm hóa tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.87 MB, 107 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Ý nghĩa Đơn vị
RTSX Rừng trồng sản xuất
RSX Rừng sản xuất
TN Thái nguyên
ĐHKH TN Đại học khoa học thái nguyên
KLTT Khối lượng thể tích gam/ cm³
LĐ Lập địa Cây/ ha
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
M Khối lượng
h giờ
σ
ed
Độ bền ép dọc thớ MPa
σ
kd
Độ bền kéo dọc thớ MPa
σ
ut
Độ bền uốn tĩnh MPa
Χ
Trị số trung bình cộng
S Độ lệch tiêu chuẩn %
S% Hệ số biến động %
P% Hệ số chính xác
Y
o
Khối lượng thể tích cơ bản gam/ cm³
Yt Tỷ lệ giãn nở mm
ĐHLNVN Đại học lâm nghiệp Việt Nam
i


DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC HÌNH
iii
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là tài sản vô cùng quý giá của quốc gia, là nguyên liệu sản xuất
đặc biệt, là một trong những thành phần quan trọng hàng đầu của nền kinh tế
Nhà nước về phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng của quốc gia. Hiện nay,
rừng là một đối tượng sản xuất không gì thay thế được và trong những năm
gần đây, tài nguyên rừng ngày càng bị suy giảm gây ảnh hưởng trực tiếp đến
sinh thái môi trường và đời sống của người dân.
Trên thế giới trung bình hàng năm rừng nhiệt đới mất đi khoảng 11 triệu
ha. Nhằm đẩy nhanh tốc độ phục hồi rừng, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
nhiều chính sách, áp dụng nhiều giải pháp, đầu tư nhiều chương trình, dự án
trồng rừng. Kết quả diện tích rừng ở nước ta đã tăng lên (đến năm 2008 diện
tích có rừng là 13,12 triệu ha rừng, độ che phủ 38,7% - Bộ NN & PTNT, 2009),
đáp ứng nhu cầu về lâm sản, môi trường sinh thái và cảnh quan du lịch.
Tuy nhiên, sự quan tâm của chúng ta trong thời gian qua tập trung nhiều vào
đối tượng là rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, rừng trồng sản xuất (RTSX) được
quan tâm chú ý nhiều và thực tiễn rừng sản xuất hiện nay đang đặt ra rất nhiều vấn
đề cần phải có lời giải đáp, cả về kỹ thuật, kinh tế, chính sách và thị trường, gây ảnh
hưởng trực tiếp tới người trồng rừng. Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đặt ra nhiệm
vụ phải trồng 3 triệu ha rừng sản xuất (RSX) giai đoạn 1998 - 2010, tuy nhiên cho
đến nay chúng ta chưa đạt được kế hoạch đặt ra. Chính vì vậy, Chính phủ đã chỉ đạo
trong thời gian tới cần tập trung đẩy mạnh phát triển trồng RSX.
Để tiến tới nền lâm nghiệp bền vững về kỹ thuật trong sản xuất, sử dụng
cây trồng lâm nghiệp và thực hiện các dự án của rừng trồng nhằm đạt được các
giá trị kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường, giúp cho tài nguyên rừng ngày
càng phát triển bền vững và đời sống con người ngày càng được nâng lên.
Từ những cơ sở khoa học và thực tiễn trên đây, tôi đã chọn đề tài:

Nghiên cứu ảnh hưởng của lập địa, đến chất lượng gỗ keo tai tượng
(Acacia manggium) 9 tuổi trồng tại huyện Chiêm Hóa - tỉnh Tuyên Quang.
1
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về gỗ Keo tai tượng
* Đặc điểm [6]
Keo tai tượng (Acacia mangium Willd), tên đồng nghĩa
(Racospermamangium (Willd) Pedley (1987). Tên địa phương Brown
salwood, black wattle, hickory wattle (En). Tên phổ thông ở, Indonesia:
Tongke hutan, mangge hutan. Malaysia: Mangium. Thái lan: Krathin thepha.
Phân bố: Keo tai tượng được thấy ở đảo Sula, Seram, Aru, các tỉnh
miền tây của Papua New Guinia và miền Đông Bắc Quennland, đã được trồng
rải rác ở vùng Malesian, đặc biệt là ở Sabah và peninsula của Malaisia. Keo
tao tượng được nhập vào Việt Nam từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ
XIX và hiện nay được trồng ở hầu hết các tỉnh ở trong nước.
Đặc điểm nhận biết: Cây gỗ trung bình đến cây gỗ lớn, có cây cao đến
35m, chiều cao dưới tán cao tới 20m, đường kính có thể đạt đến 90cm. Bề mặt
vỏ gần gốc bị nứt, vỏ mầu nâu xám đến nâu đậm, lớp vỏ phía trong nâu nhạt.
Tán hình trứng hoặc hình tháp, thường phân cành thấp, cành nhỏ có cạnh nhẵn,
màu xanh lục. Trên cây mầm có lá kép lông chim 2 lần, cuống lá thường bẹt.
Cây trưởng thành có dạng, lá đơn, phiến lá hình trứng hoặc trái xoan
dài, đầu lá có mũ lồi tù, chiều dài của lá dài từ 15-25cm, chiều rộng từ 5-
10cm, khá dầy, 2 mặt lá xanh đậm, có 4 gân dọc song song nổi rõ. Hoa tự
hình bông dài gần bằng lá, mọc lẻ hoặc tập trung từ 2-4 hoa tự, ở nách lá, hoa
lưỡng tính, tràng hoa màu vàng, nhị nhiều vươn dài ra ngoài hoa. Quả đậu
xoắn, hạt hình trái xoan, màu đen, hơi dẹt.
Đặc tính sinh học và sinh thái học: Hầu hết các loài keo sinh trưởng
nhanh. Nhiều số liệu điều tra sinh trưởng của cây keo tai tượng cho thấy, Keo
tai tượng có thể đạt tăng trưởng đường kính hàng năm trung bình 5 cm và tăng

trưởng chiều cao tới 5m trong 4-5 năm đầu. Số liệu nghiên cứu ghi chép cho
2
thấy, năm đầu tiên cây đạt đến chiều cao 3m và trong năm thứ 2 Keo tai tượng
có thể đạt chiều cao trung bình hơn 8m và đường kính bình quân đạt 9cm.
Tuy nhiên, tốc độ sinh trưởng của cây giảm nhanh sau 7-8 năm tuổi,
cây keo tai tượng không thể vượt quá chiều cao 35 m và đường kính 35 cm. Ở
Sabah cây keo tai tượng ở tuổi 14 chiều cao chỉ đạt 30 m và đường kính đạt
40 cm. Ở vĩnh phú (cũ) cây 4 tuổi cao trung binh 6,8m đường kính đạt 8cm.
Keo tai tượng có thể trồng và phát triển trên nhiều lập địa khác nhau, kể
cả vùng đất khô cằn, đất bạc màu. Điều kiện thích hợp nhất đối với loài cây này
là ở vùng đất có độ PH = 4-6 và lượng mưa trung bình năm từ 1400 - 2000mm.
Cây mọc nhanh, mọc rất tốt rất tốt ở đất sâu ẩm và nhiều ánh sáng.
Nơi đất cằn cỗi cây mọc chận và phát tán sớm. Tuy nhiên, đây là loài cây dễ
trồng, nhanh khép tán, có tác dụng che phủ và cải tại đất tốt.
Cấu tạo: [12]
- Đặc điểm cấu tạo thô đại: Gỗ lõi có màu hồng đến đen nâu, đôi khi
thấy màu nâu cánh gián hoặc nâu xám, phân biệt rõ với gỗ có màu vàng tía
đến vàng rơm. Thớ gỗ thường thẳng, đôi khi thấy thớ xoắn. Bề mặt khá mịn
và đồng nhất, thỉnh thoảng thấy có dải sọc do có các dải màu sẫm chạy dọc,
gỗ có tính phản quang, mạch gỗ khá lớn đến lớn và có thể thấy rõ bằng mắt
thường, gỗ không có hiện tượng cấu tạo lớp.
- Đặc điểm cấu tạo hiển vi: Vòng năm không rõ. Mạch gỗ phân tán, số
lượng 5,9 - 6,4 mạch/mm², mạch đơn (chiếm 40%) và mạch kép 2-4, đường
kính trung bình lỗ mạch 154 µm, lỗ xuyên mạch đơn, lỗ thông ngang xếp so
le, miệng lỗ thông ngang hình đa giác, đường kính 6 -9µm,, lỗ thông ngang
giữa mạch và tia là đôi lỗ thông ngang nửa có vành, không có thể bít. Sợi gỗ
dài 1063µm, đường kính trung bình 21,1µm, chiều dày vách 2,38 µm, không
có vách ngăn ngang, màng lỗ thông ngang đơn hoặc có vành kích thước nhỏ.
Tế bào mô mềm xếp dọc thân cây khá nhiều, ở dạng vây quanh mạch
kín hình tròn, thường có từ 2-4 tế bào mô mềm vây kín quanh lỗ mạch, có xu

3
hướng vây quanh mạch hình cánh, đặc biệt với lỗ mạch nhỏ, mỗi dây tế bào
mô mềm dọc có 2-4 tế bào. Tia gỗ rộng 1-2-3 hàng tế bào, cao 0,2-,0,4mm, số
lượng 4-6-8 tia/mm, tia gỗ cấu tạo đồng nhất. Tinh thể hình lăng trụ có trong
ruột của các tế bào mô mềm xếp dọc thân cây. Gỗ không có silic, phát quang
khi có tia cực tím.
Tính chất: Gỗ keo tai tượng là loại gỗ lá rộng có khối lượng thể tích
trung bình, gỗ có hàm lượng Cululose chiếm tổng 78%, alpha Cululose chiếm
46,5%, lignin 27%, pentozan 14% và tro 0,2%, hàm lượng các chất tan trong
cồn Benzen 3,8%, trong nước nóng 3,3% và trong xút 13,4%.
Công dụng: Gỗ keo tai tượng được dùng trong xây dựng, đóng tàu,
làm nội thất và khung hộc, ván mỏng, ngoài ra còn là nguyên liệu rất tốt trong
sản xuất vàn dăm.
Gỗ keo tai tượng cho bột giấy tốt, có thể so sánh được với gỗ bạch
đàn. Ở Australia thí nghiệm nấu sunphát với dăm keo tai tượng rừng trồng 9
năm tuổi cho thấy chỉ cần lượng kiềm trung bình cho hiệu suất bột trên 50%.
Hiệu suất bột giấy thậm chí còn đạt cao hơn tới 75%, với quá trình nấu sun
phít trung tính nửa hóa học và bột giấy dễ tẩy trắng đạt đến độ trắng dùng cho
sản suất giấy chất lượng cao.
Triển vọng: Sử dụng gỗ Keo tai tượng trong sản xuất ván dăm và ván
sợi có thể tích trung bình (MDF) trong tương lai sẽ tăng và chất lượng ván
dăm đáp ứng được yêu cầu cho sản xuất bột giấy và giấy. Hiện nay, vấn đề
mục lõi có thể được hạn chế bằng cách trồng xen loài, lựa chọn, nhân giống
hay lai giống. Mức độ mục lõi cao có thể là do mùa mưa ngắn.
1.2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu Keo tai tượng
Trong những năm 1980, các loài Keo Acacia đã được đưa vào thử
nghiệm ở nhiều nước vì khả năng tốt của chúng, nhất là khả năng cải tạo đất,
4

chống xói mòn, năng suất cao. Khảo nghiệm ở Philippin với 7 loài cho thấy
Keo tai tượng có chiều cao đứng thứ 3 ở cả 2 điểm thí nghiệm (Havmoller,1989)
Năm 1986, trên đảo Hải Nam - Trung Quốc với 20 xuất xứ của 8 loài
keo đã được thực hiện ở tuổi thứ 2. Trong đó Keo tai tượng không nằm trong
nhóm loài và xuất xứ dẫn đầu. Sau 2 năm tai tuổi keo tuợng sinh trưởng D <
7,4 cm, H<4,7m (Minquan, Ziayu and Yutian, 1989).
Năm 1985, 23 xuất xứ của 12 loài keo đã được khảo nghiệm tại 6
điểm tại Thái Lan (P.chittanchumnonK and SirilaK, 1991). Kết quả cho thấy
của 3 năm tuổi tại 2 điểm thí nghiệm: Tại Ratchaouri, keo tai tượng xuất xứ
13846 xếp thứ 9 có chiều cao 7,2m. Tại Saitheng, keo tai tượng không nằm
trong 10 xuất xứ dẫn đầu, tại đây loài và xuất xứ dẫn đầu vẫn là Acrassicapa
13683 với chiều cao 18,4m.
Darus (1991). Khi nghiên cứu vai trò của lá trong việc dâm hom keo
tai tượng cho rằng, lá giữ được vai trò chủ chốt trong việc hình thành mô phân
sinh của rễ ở các hom chưa hóa gỗ, đặt dưới phun mù, cần cắt đi một phần lá
cho hom nhỏ lại, vừa đỡ thoát hơi nước lại tiết kiệm được diện tích dâm cây.
R.passad (1992). Nghiên cứu sinh trưởng của các loài keo Acacia và
một số loài cây khác trên các loại đất hoang hóa tại nhiều khu vực khác nhau
ở Ấn Độ. Kết quả khẳng định được tính chất trội và khả năng chịu hạn của
một số loài keo sinh trưởng trên đất bạc màu.
Thời gian gần đây, loài keo tai tượng ở Inđônêsia đã được dâm hom
thành công, phục vụ rừng trồng rừng kinh tế.
Theo tác giả Shuen - Chao Wu, (1994). Đã khẳng định: Gỗ keo tai
tượng hoàn toàn có thể sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất ván sợi, bởi vì gỗ
keo tai tượng là loại gỗ có ứng suất tách nhỏ, dễ phân ly, có khả năng kết dính
tốt bởi các loại keo dán tổng hợp.
5
Theo Hikaru Sasaki, Shuichi Kawai and Ling - Fei Ma, (1994). Gỗ keo tai
tượng có thể hoàn toàn có thể sử dụng làm nguyên liệu sản xuất ván dăm định
hướng.

Theo tác giả R.M.H.J Lemmen, I.soerianegara and W.C. Wong
(1995). Đã xác định, mặc dù trong thành phần của gỗ keo tai tượng có chứa
nhiều chất màu, tanin, gỗ có màu sẫm v.v, song sợi gỗ của gỗ keo tai tượng
lại rất dễ tẩy trắng. Do đó gỗ keo tai tượng là nguồn nguyên liệu tốt cho công
nghiệp sản xuât giấy thông dụng. Vì gỗ keo tai tượng là loại gỗ có chiều dài
sợi không lớn (Chiều dài sợi từ 0,7-0,9mm) nên không thể sản xuất các loại
giấy có chất lượng cao. Hiện nay trên thế giới có nhiều nơi sử dụng gỗ keo tai
tượng để sản xuất giấy.
1.2.1.2. Nghiên cứu về lập địa, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và chất
lượng rừng trồng
Lập địa rừng trồng cũng là một trong những biện pháp, kỹ thuật lâm
sinh quan trọng có ảnh hưởng đến năng suất rừng trồng. Đối với mỗi lập địa,
mỗi loài cây trồng, mỗi mục đích kinh doanh rừng đều có cách sắp xếp, bố trí
cây trồng khác nhau. Về vấn đề này đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu
với nhiều loài cây khác nhau trên các lập địa khác nhau, điển hình là các công
trình nghiên cứu của Julian Evans (1992) khi nghiên cứu mật độ và lập địa
trồng rừng cho Bạch đàn E. deglupta ở papua New Guinea đã bố trí theo các
lập địa. Số liệu thu được sau 5 năm trồng cho thấy đường kính bình quân của
các công thức thí nghiệm cũng có kết quả tăng khác nhau.
1.2.2. Ở Việt nam
1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng keo tai tượng
Nghiên cứu loài keo tai tượng được bắt đầu năm 1980. Theo Nguyễn
Hoàng Nghĩa (1991), một số xuất xứ của 4 loài keo đã được đưa vào thử
nghiệm ở nước ta cho thấy, tiềm năng sinh trưởng đáng khích lệ, ở 2 điạ điểm
Ba Vì (Hà Nội), Hóa Thượng (Thái Nguyên), keo tai tượng sinh trưởng khá
nhất cả về chiều cao và đường kính.
6
Cuối năm 1980. Keo tai tượng đã trở thành loài được ưa chuộng nhất
ở nước ta. Vì bên cạnh, nó có khả năng sinh trưởng cao, còn có khả năng duy trì
độ phì nhiêu của đất, chống xói mòn. Nhìn chung ở Miền Nam lớn nhanh hơn ở

miền Bắc, cụ thể là ở Bình Sơn (Đồng Nai) loài cây này đạt chiều cao bình quân
2,8m/ năm, đường kính 4,5cm/ năm. Trong khi đó ở Ba Vì - Hà Nội và Vĩnh
Phú, hai chỉ tiêu này chỉ đạt 1,9 m/ năm và đường kính 2,4 - 2,6cm/ năm.
Một số xuất xứ A.mangium đã được đưa vào thử nghiệm một số nơi,
mặc dù các rừng khảo nghiệm còn non tuổi, song đã có kết quả bắt đầu. Sinh
trưởng của loài keo tai tượng ở Bầu Bảng chỉ đạt gần 2m/ năm, trong khi đó ở
La Ngà xuất xứ tốt nhất đạt chiều cao 3,3m /năm.
Đầu năm 1990. Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã triển khai một
khảo nghiệm gồm 39 xuất xứ của 5 loài keo tại Ba Vì (Hà Nội), sau 6 tháng sinh
trưởng của 5 loài keo được xếp theo chiều cao (m) và đường kính (cm) như sau:
Loài H (m) D (cm)
A. auriculiformis 1,12 1,29
A.crassocarpa 0,96 1,26
A.mangium 0,85 1,19
A.aulacocarpa 0,76 0,80
A.cincinnata 0,67 0,86
Năm 1990, một số xuất xứ keo tai tượng được trung tâm nghiên cứu
Đông Nam Bộ thực hiện tại Sông Mây (Đồng Nai) và Bầu Bảng (Sông Bé),
cho thấy sinh trưởng của keo tai tượng ở Bầu Bảng vượt hơn hẳn ở Sông
Mây, song các xuất xứ có nhiều thay đổi, thậm trí ngược nhau ở hai địa điểm.
Vi Văn Viện (2000). Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại hình rừng
trồng thuần loài Keo tai tượng đến một số tính chất vật lý - hóa học của đất
đai tại lâm trường Bát Sát - Lào Cai. Kết quả đã đưa ra được sự ảnh hưởng
của đến tính chất vật lý và hóa học của đất.
Ngoài những nghiên cứu về khả năng sinh trưởng của Keo tai tượng,
nghiên cứu ảnh hưởng của Keo tượng đến độ phì của đất, vv. Cũng đã có
7
nhiều công trình nghiên cứu về cấu tạo, tính chất và khả năng sử dụng Keo tai
tượng trong các lĩnh vực khác nhau.
- Theo tác giả Phạm Văn Chương (2001), gỗ Keo tai tượng hoàn toàn

phù hợp với nguyên liệu sản xuất ván ghép thanh. Nhưng khi sản xuất ván
ghép thanh chỉ nên dùng để sản xuất ván lõi cho loại sản phẩm dạng ván ghép
thanh có phủ mặt. Tỷ lệ kết cấu theo phương chiều dày sản phẩm (R) hợp lý
giữa lớp mặt và lớp lõi khi sản xuất ván ghép thanh với ván lõi và keo tai
tượng, ván phủ mặt là ván mỏng từ gỗ trám trắng là R=24-35%.
- Theo tác giả Lê Xuân Tình (1993). Đã đưa ra nghiên cứu và đưa ra
cấu tạo và tính chất cơ lý của gỗ Keo tai tượng, từ đó ứng dụng loại keo này
vào sản xuất ván dăm.
- Tác giả Trần Ngọc Thiệp (1993). Đã tiến hành nghiên cứu sản xuất ván
mộc từ gỗ Keo tai tượng để thay thế chi tiết mộc. Kết quả tác giả đã kết luận gỗ
keo tai tượng hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu trong sản xuất đồ mộc dân dụng.
Bên cạnh đó cũng có nhiều tác giả ở Việt Nam đã tiến hành nghiên
cứu sử dụng gỗ keo tai tượng trong công nghệ sản xuất các loại ván nhân tạo
và mộc thông dụng.
Tuy nhiên, với những kết quả trên ta thấy, lập địa có ảnh hưởng như
thế nào đến chất lượng gỗ Keo tai tượng chưa được làm rõ. Vì vậy, việc tôi
tiến hành làm đề tài này là cần thiết.
1.2.2.2. Ảnh hưởng của lập địa đến khả năng sinh trưởng của rừng trồng Keo
tai tượng
Điều kiện lập địa là sự sắp xếp không gian của một số lượng cây nhất
định trên một đơn vị diện tích. Rừng trồng gỗ nguyên liệu thì sản phẩm lấy ra
từ rừng chủ yếu là gỗ. Muốn có sản lượng gỗ cao, đảm bảo quy cách, phẩm
chất đáp ứng được yêu cầu và mục đích sử dụng thì điều kiện lập địa cần phải
phù hợp. Vì vậy, có thể nói điều kiện lập địa là một trong những biện pháp kỹ
thuật quan trọng trong trồng rừng.
8
Trên thực tế, rừng trồng nguyên liệu gỗ nhỏ ở Tuyên Quang hiện nay,
trồng ở nhiều lập địa khác nhau. Sự ảnh hưởng của các lập địa này đến chất
lượng gỗ Keo như thế nào và sử dụng gỗ ở những lập địa như thế nào, cho
đến nay chưa có công trình nào khẳng định chắc chắn. Chính vì vậy, để có cơ

sở khoa học khẳng định lập địa có ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng gỗ
keo tượng và tôi thấy việc nghiên cứu của tôi là rất cần thiết.
1.3. Cơ sở lý thuyết phân tích kết quả nghiên cứu
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chât lượng gỗ
1.3.1.1. Ảnh hưởng của điều kiện sinh trưởng
Điều kiện sinh trưởng là sự tham gia tổng hợp của các nhân tố: Khu
vực địa lý, độ cao so với mặt nước biển, nhiệt độ, lượng mưa, đất đai vv.
- Ánh sáng là nguồn năng lượng không thể thiếu được của cây xanh,
nhờ có ánh sáng cây xanh mới tổng hợp được các chất hữu cơ, vì vậy điều
kiện ánh sáng khác nhau có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng và phát triển của
cây trồng. Điều kiện ánh sáng của nơi trồng rừng khác nhau chủ yếu do vĩ độ
địa lý và địa hình thay đổi. ở miền núi trong phạm vi một vùng, độ cao so với
mặt nước biển, hướng dốc khác nhau, dẫn đến điều kiện ánh sáng khác nhau.
- Nhiệt độ là điều kiện tất yếu để cây rừng tiến hành các quá trình sinh
lý, nhiệt độ cao thấp, thời gian dài ngắn quyết định thời kỳ sinh trưởng và tình
hình phát triển thực vật, vì vậy ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng cây rừng.
Cùng với điều kiện ánh sáng, tinh hình nhiệt độ nơi trồng rừng có thể khác nhau,
đặc biệt la miền núi, trong phạm vi hẹp, nhiệt độ có thể thay đổi rõ rệt do khác
nhau về độ cao với mặt nước biển, hướng dốc, vị trí của hướng dốc. [11]
- Nước có vai trò quyết định trong đời sống cây trồng, nhờ có nước
thực vật mới hấp thụ được cá chất dinh dưỡng, mới duy trì được nhiệt độ cơ
thể vv. Ở vùng núi, nước trong đất không chỉ thay đổi do đặc điểm của đất mà
còn thay đổi do địa hình (độ cao so với mặt nước biển, độ dốc, hướng dốc, vị
trí của dốc). [11]
9
- Độ phì của đất cao hay thấp là do hai nhân tố quyết định: Dung
lượng và chất lượng các chất khoáng có trong đất. Dung lượng là chỉ độ dày
của đất, mức độ các chất khác lẫn trong đất. Chất lượng là hàm lượng và
thành phần chất khoáng có trong một đơn vị thể tích của đất nhiều hay ít.
Vùng đồi núi ở nước ta, lớp đất mặt thường mỏng, tỷ lệ đá lẫn lớn, thường là

những nhân tố hạn chế độ phì của đất.
- Để nghiên cứu sự ảnh hưởng của điều kiện sinh trưởng đến chất
lượng gỗ (tính chất cơ lý của gỗ) việc tách riêng sự ảnh hưởng của một nhân
tố nào đó để nghiên cứu thì khó có thể thực hiện được.
- Sự ảnh hưởng của các nhân tố khí hậu đến tính chất cơ - lý của gỗ
cho phép giả định rằng: Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố khí hậu có liên
quan đến vùng phân bố đến các loài gỗ. Mức độ ảnh hưởng rõ ràng đối với
các loài gỗ có vùng phân bố rộng rãi (Thông rụng lá, Bạch dương), đối với
các loài phân bố hẹp yêu cầu điều kiện sinh trưởng cao hơn (Sồi, Bạch lạp) thì
ảnh hưởng của các nhân tố khí hậu ít rõ ràng.
- Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đưa ra một kết
luận chung cho tất cả các loài cây. Đã có một số công trình nghiên cứu cho
từng loại gỗ riêng biệt. Những kết luận của các tác giả không phù hợp với
nhau, được giải thích như thế nào là điều kiện khó khăn, vì bản thân của
những công trình nghiên cứu đó cũng chưa được hoàn thiện. Tuy nhiên, đa số
những công trình nghiên cứu về loài gỗ lá kim (Thông), các loài gỗ lá rộng
(mạch xếp vòng: Sồi mạch phân tán, Thủy thanh cương, Sơn dương) đưa đến
kết luận sau đây. Ở đất tốt gỗ được hình thành có chất lượng tốt, song một số
công trình nghiên cứu khác cho biết, gỗ Thông sinh trưởng ở điều kiện trung
bình có tính chất gỗ cao nhất (điều kiện đất tốt và xấu đều gây lên làm giảm
chất lượng gỗ, song xu thế điều kiện đất tốt giảm ít hơn so với đất xấu), còn
đối với gỗ Sồi ở đất khô thì tính chất của gỗ tốt hơn.
10
Điều đó cho thấy, với từng loài gỗ khác nhau trong cùng một điều
kiện sinh trưởng sẽ cho chất lượng gỗ là khác nhau. Cùng một loài gỗ, được
trồng tại khu vực có điều kiện sinh trưởng khác nhau sẽ cho ta chất lượng gỗ
khác nhau. Cây có điều kiện sinh trưởng tốt sẽ phát triển nhanh hơn sẽ phát
triển nhanh hơn cây có điều kiện sỉnh trưởng không tốt, do đó cây sinh trưởng
tốt sẽ có chất lượng gỗ thường kém hơn.
Trong đề tài này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sự ảnh hưởng của lập địa

đến chất lượng rừng trồng. Do vậy, chúng tôi tiến hành khống chế yếu tố điều
kiện sinh trưởng. Việc khống chế điều kiện sinh trưởng bằng cách: Cây thí
nghiệm được lấy ở nơi có lập địa sinh trưởng về ánh sáng, độ ẩm, đất đai, độ ẩm
vv.
1.3.1.2. Ảnh hưởng của lập địa rừng trồng
Lập địa là một trong những biện pháp kỹ thuật lâm sinh quan trọng có ảnh
hưởng đến năng suất cây trồng, ảnh hưởng đến chất lượng gỗ. Điều kiện khác
nhau, kích thước và đường kính, chiều cao cũng khác nhau. Theo các tài số [21]
gỗ là vật dị hướng, có sự biến đổi về tính chất ( cơ học, vật lý) trong cùng một
thân cây, biến đổi theo chiều cao của gỗ. Do vậy với đường kính khác nhau, chiều
cao khác nhau của gỗ sẽ làm cho gỗ có sự khác nhau về chất lượng của gỗ.
Trong đề tài này, chúng tôi tiến hành phân tích sự ảnh hưởng của lập
địa đến chất lượng gỗ ở 3 điều kiện lập địa khác nhau: Đỉnh-Sườn- chân.
1.3.1.3. Ảnh hưởng của cấu tạo gỗ
Trong đề tài này chúng tôi sẽ nghiên cứu ảnh hưởng của lập địa rừng
trồng đến chất lượng gỗ, do đó chúng tôi sẽ khống chế cây keo tai tượng được
trồng trên các lập địa khác nhau, nhưng được trồng cùng một độ tuổi. Cấu tạo
gỗ là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng gỗ. Loại gỗ
khác nhau sẽ có cấu tạo khác nhau, dẫn đến chất lượng gỗ cũng khác nhau.
* Cấu tạo ảnh hưởng đến khối lượng thể tích gỗ [21]
Cấu tạo gỗ là một nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng thể tích, gỗ có
cấu tạo khác nhau dẫn đến khối lượng thể tích khác nhau. Cấu tạo gỗ ảnh
11
hưởng đến khối lượng thể tích được thể hiện qua nhiều cấu tạo.
- Yếu tố, cấu tố thành tế bào trong cây (đó là tỷ lệ tế bào vách dày và
tế bào vách mỏng), vách tế bào tạo ra độ rỗng của gỗ nhiều hay ít, độ rỗng
càng lớn khối lượng thể tích càng nhỏ và ngược lại.
- Tỷ lệ gỗ sớm - gỗ muộn: Đối với những cây gỗ có gỗ sớm - gỗ muộn
phân biệt thì tỷ lệ gỗ muộn nhiều hay ít có ảnh hưởng lớn đến khối lượng thể
tích của gỗ. Khối lượng thể tích gỗ muộn gấp 2 -3 lần khối lượng thể tích gỗ

sớm. Do đó, tỷ lệ gỗ muộn càng nhiều thì khối lượng thể tích càng lớn và
ngược lại.
- Vòng tăng trưởng hàng năm (vòng năm): Đối với cây gỗ lá rộng
mạch vòng, vòng tăng trưởng hàng năm càng lớn thì tỷ lệ gỗ muộn càng
nhiều, nên khối lượng thể tích càng cao. Đối với gỗ lá rộng mạch phân tán,
vòng năm rộng thì tỷ lệ gỗ sớm và gỗ muộn là một hằng số nên khối lượng
thể tích không thay đổi.
* Ảnh hưởng đến tỷ lệ co dãn của gỗ [21]
Cấu tạo gỗ là một nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ co dãn của gỗ, cấu tạo
gỗ là nhân tố gây ra sự chênh lệch về co dãn giữa chiều dọc và chiều ngang
thớ, gây sự chênh lệch giữa chiều tiếp tuyến và chiều xuyên tâm. Từ đó gây
lên hiện tượng gỗ bị cong vênh, nứt nẻ.
- Cấu trúc vách tế bào: Trong thân cây đại đa số các tế bào xếp theo
chiều dọc thân cây. Trong mỗi tế bào, vách thứ sinh chiếm phần chủ yếu.
Cách sắp xếp các mixen trong vách thứ sinh đặc biệt là lớp giữa của vách thứ
sinh, các mixen xếp song song với trụ dọc của tế bào. Mặt khác bản chất của
quá trình co dãn là sự thay đổi về khoảng cách giữa các mixen. Từ đó dẫn đến
co dãn theo chiều ngang thớ lớn hơn nhiều so với chiều dọc thớ gỗ.
- Tia gỗ: Do tia gỗ dẫn đến co dãn theo chiều tiếp tuyến lớn hơn 2 lần
so với chiều xuyên tâm. Các tế bào cấu tạo nên tia gỗ nằm vuông góc với trục
dọc thân cây, cùng chiều với các đường kính. như vây, với mỗi tia gỗ đại bộ
phận tế bào xếp xen theo chiều dọc tia gỗ. Trong mỗi tế bào mô mềm đại bộ
12
phận mixen sếp song song với trục tế bào. Do đó trong mỗi tia gỗ đại bộ phận
mixenxenlulo xếp song song với trục tia gỗ. Do vậy, khi co dãn sự thay đổi
theo chiều ngang tia gỗ lớn hơn nhiều so với chiều dọc tia gỗ, chiều ngang tia
gỗ là chiều tiếp tuyến của cây, chiều dọc tia gỗ là chiều xuyên tâm của cây.
* Ảnh hưởng đến sức hút nước của gỗ [21]
Gỗ hút nước nhanh hay chậm, nhiều hay ít phụ thuộc nhiều vào cấu tạo
gỗ. Gỗ có độ rỗng lớn khả năng hút nhanh, nhiều và ngược lại. Ngoài ra, gỗ hút

nước còn phụ thuộc vào vị trí, chiều thớ, hình dạng và kích thước của mẫu gỗ.
Khối lượng thể tích càng lớn gỗ hút nước càng chậm. Gỗ lõi thường hút nước
chậm hơn gỗ giác. Mặt xuyên tâm và tiếp tuyến của gỗ hút nước rất chậm.
* Ảnh hưởng đến độ bền ép, kéo dọc thớ và uốn tĩnh [21]
Sự sắp xếp tế bào trong cây và cấu trúc của vách tế bào: trong thân
cây, đại đa số các tế bào sắp xếp theo chiều dọc thân cây. Trong mỗi tế bào,
đặc biệt là lớp giữa của vách thứ sinh trong vách tế bào, các mixen xếp theo
chiều dọc thân cây. Khi có ngoại lực tác dụng sẽ tác dụng vào đồng các mixen
làm cho trong gỗ sản sinh ra một nội lực chống lại. Do vậy, làm cho độ bền,
kéo dọc thớ và uốn tĩnh sẽ lớn hơn nhiều so với ép và kéo ngang thớ gỗ.
Tia gỗ: Tia gỗ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến độ bền ép ngang tiếp
tuyến và xuyên tâm. Chiều xuyên tâm là chiều dọc theo tia gỗ, chiều tiếp tuyến là
chiều ngang tia gỗ. Khi tiến hành ép xuyên tâm sẽ có cường độ lớn hơn tiếp tuyến.
Gỗ sớm - gỗ muộn: Đối với cây gỗ lá kim và gỗ lá rộng mạch vòng có gỗ
sớm và gỗ muộn phân biệt, tia gỗ nhỏ. Cường độ theo chiều xuyên tâm sẽ nhỏ
hơn cường độ theo chiều tiếp tuyến. Nguyên nhân là do khi ép theo chiều xuyên
tâm chỉ có phần gỗ sớm chịu lực, gỗ sớm có cường độ chịu lực nhỏ hơn phần gỗ
muộn. Khi ép theo chiều tiếp tuyến sẽ có cả hai phần gỗ sớm và gỗ muộn chịu lực.
Tố thành tế bào trong cây: Là tỷ lệ tế bào vách dày và tế bào vách
mỏng. Các loại cây khác nhau, vị trí khác nhau trong thân cây có tổ thành tế
bào khác nhau nên dẫn tới mọi tính chất gỗ khác nhau.
13
Tỷ lễ giữa 3 tổ chức: + Tổ chức dẫn nước và muối khoáng (nhựa
nguyên): Ở gỗ lá kim do quản bào gỗ sớm đảm nhận. Gỗ lá rộng do mạch gỗ
đảm nhận. Đây là những tế bào có kích thước, có phần ruột rỗng lớn nhất. Do
đó, nếu tỷ lệ này phát triển thì tính chất cơ học của gỗ sẽ giảm xuống.
+ Tổ chức dự trữ chất dinh dưỡng: Chức năng này do mô mềm đảm
nhận, đây là những tế bào vách mỏng, do đó những tổ chức này phát triển thì
tính chất cơ lý của gỗ sẽ giảm xuống.
+ Tổ chức cơ học: Ở gỗ lá kim là do quản bào gỗ muộn đảm nhận, ở gỗ

lá rộng do sợi gỗ đảm nhận. Nói chung đây là những tế bào vách dày có kích
thước bé nên có ruột rỗng rất nhỏ, có loại ruột hoàn toàn bị bịt kín. Do đó, nếu
tổ chức cơ học mà phát triển thì tính chất cơ lý của gỗ sẽ tăng lên đáng kể.
Tỷ lệ xenlulo và linhin: Xenlulo là thành phần chủ yếu của gỗ, chiếm
trung bình 50% thể tích gỗ, là phần tử chủ yếu sinh sản ra nội lực của gỗ. Nội lực
xenlulo tạo ra đều là những ứng lực lớn nhất (kéo dọc, nén dọc, uốn tĩnh). Linhin
là thành phần thứ hai cấu trúc nên vách tế bào, linhin có cấu trúc vô định hình
nên ứng lực nào do linhin tạo ra nội lực đều là những lực nhỏ nhất (ép ngang,
trượt dọc, trượt ngang, tách vv). trong cấu trúc vách tế bào, linhin là một chất
bám trên sườn xenlulo, vì vậy linhin tạo ra độ nhẵn của gỗ. Nói cách khác, gỗ
nào ở vị trí nào trong cây nếu hàm lượng linhin cao thì gỗ đó sức chịu ép cao.
1.3.2. Cơ sở đánh giá chất lượng của gỗ
1.3.2.1. Khối lượng thể tích của gỗ
Khối lượng thể tích là cơ sở hợp lý cho việc đánh giá giá trị của gỗ
trong lĩnh vực sử dụng khác nhau. Khối lượng thể tích có mối liên quan mật
thiết với các tích chất vật lý, cơ học khác của gỗ.
Khối lượng thể tích liên quan chặt chẽ đến sức co dãn của gỗ, theo các
chiều thớ khác nhau, ảnh hưởng của khối lượng thể tích là khác nhau.
Khối lượng thể tích là nhân tố quan trọng đối với khả năng truyền
nhiệt của gỗ, gỗ nặng có khả năng truyền nhiệt cao hơn gỗ nhẹ.
14
Khối lượng thể tích cũng ảnh hưởng tới độ cứng của gỗ, gỗ có khối
lượng thể tích càng lớn thì độ cứng càng cao đồng thời có khả năng chịu mài
mòn cao. Khối lượng thể tích của gỗ nặng hay nhẹ là do cấu tạo của gỗ quyết
định, do đó khối lượng thể tích có ảnh hưởng đến hầu hết các tính chất vât lý,
cơ học của gỗ. Gỗ có khối lượng thể tích thấp thì cường độ cơ học của gỗ
cũng thấp. Khối lượng thể tích là một nhân tố quan trọng trong việc sử dụng
nguyên liệu gỗ. Trong sản xuất ván dán, thích hợp nhất là sử dụng những loại
gỗ có khối lượng thể tích từ 0.4 - 0.6 g/cm³. Trong sản xuất giấy bột và giấy
thường sử dụng những loại gỗ có khối lượng thể tích nhỏ hơn 0.6 g/cm³.

Trong sản xuất ván dăm thường sử dụng gỗ có khối lượng thể tích là 0.4 -
0.65 g/cm³. Trong sản xuất đồ mộc lớn hơn 0.4g/cm³.
1.3.2.2. Co rút và giãn nở
Khi phơi sấy gỗ, nước từ trong gỗ bốc hơi ra, kích thước gỗ thu nhỏ
lại, hiện tượng ấy gọi là sự co rút. Ngược lại, khi gỗ khô kiệt hút nước, làm
cho kích thước gỗ tăng lên, hiện tượng ấy gọi là sự dãn nở. Nhưng không phải
mỗi khi độ ẩm thay đổi thì hiện tượng co dãn đều sản sinh, gỗ chỉ co dãn khi
độ ẩm của nó biến đổi trong khoảng từ 0% đến độ ẩm bão hòa thớ gỗ. Mặt
khác, gỗ có cấu tạo không đồng nhất theo 3 chiều thớ nên co dãn của gỗ theo
3 chiều là rất khác nhau. Co dãn là nguyên nhân gây lên biến hình, cong,
vênh, nứt nẻ trong quá trình sấy gỗ sử dụng gỗ trực tiếp vv. Hiểu được đặc
điểm co dãn của từng lọai gỗ sẽ giúp chúng ta sử dụng gỗ hợp lý và có các
biện pháp phòng trừ, hạn chế những nhược điểm do gỗ co dãn gây ra. [21]
1.3.2.3. Tính chất hút nước của gỗ
Sức hút nước của gỗ là năng lực hút lấy nước vào gỗ khi ngâm gỗ
trong nước. Tính chất hút nước của gỗ được thể hiện ở độ hút nước. Độ hút
nước, thời gian hút nước phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như: Khối lượng thể
tích gỗ, vị trí gỗ, chiều thớ, kích thước, nhiệt độ nước và độ ẩm ban đầu vv.
trong đó yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất là khối lượng thể tích. Khối lượng thể
15
tích càng lớn thì khả năng hút nước càng chậm hơn gỗ giác. Mặt cắt xuyên
tâm và mặt cắt tiếp tuyến của gỗ hút nước rất chậm. Diện tích mặt cắt ngang
càng lớn thì thì tốc độ hút nước càng nhanh, ở nhiệt độ cao gỗ hút nước nhanh
nhưng không nhiều. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sức hút nước của
gỗ là vấn đề có ý nghĩa thực tê trong kỹ thuật ngâm tẩm gỗ bằng hóa chất,
dưới điều kiện áp suất thường.
Gỗ hút nước làm thay đổi độ ẩm của gỗ, độ ẩm ảnh hưởng nhiều đến các
tính chất vật lý và cơ học, đặc biêt trong giới hạn độ ẩm bão hòa thớ gỗ. Trong công
nghệ cần phải chú ý đặc điểm này của gỗ để lựa chọn độ ẩm gỗ cho thích hợp.
Với loại gỗ có độ hút nước lớn, tốc độ hút nước nhanh, trong quá trình

nấu bột giấy, dịch nấu dễ dàng thẩm thấu vào gỗ. Tuy nhiên, trong sản xuất
ván nhân tạo, lượng keo dễ bị thấm sâu, nhiều, gây thiếu keo trên bề mặt dán
dính nếu điều chỉnh độ nhớt dính của keo không phù hợp.
1.3.2.4. Giới hạn bền khi nén (ép)
Gỗ chịu nén dọc thớ: Khi gỗ chịu nén dọc thớ, trong gỗ sản sinh ra nội lực
chống lại keo theo chiều dọc thớ. Do đại bộ phận các tế bào sắp xếp song song với
trục dọc thân cây nên khi có lực tác động theo chiều dọc thì các bó
mixenxenluloza sản sinh ra nội lực chống lại tác động đó. Khả năng liên kết giữa
các mixenxenluloza bởi linhin và lớp keo màng giữa các tế bào làm cho các
mixenxenluloza ổn định vị trí khi chịu lực. Sức hút tương hỗ giữa các phần tử cấu
tạo nên gỗ, tạo cho nó một khối vững chắc và chính nó tạo ra ứng lực cho gỗ. [21]
Gỗ chịu nén ngang thớ: Trong một giới hạn nhất định, khi chịu nén ngang
thớ gỗ biến dạng đàn hồi, trong giới hạn đó sức hút và sức đẩy tương hỗ giữa các
mixenxenluloza cân bằng nhau, làm cho khối gỗ vững chắc theo phương nằm
ngang. Gỗ được cấu tạo bởi các tế bào hình ống, rỗng ruột nên khi lực bên ngoài
vượt quá giới hạn đàn hồi (chủ yếu là phía đầu các tế bào) làm cho các tế bào
(trước hết là tế bào mạch gỗ, tế bào mô mềm, quản bảo gỗ sớm) bị phá hoại.
16
Giới hạn bền khi nén ngang thớ toàn bộ liên quan chặt chẽ đến tỷ suất
nén trong sản xuất ván nhân tạo (đặc biệt là sản xuất ván dán), nếu giới hạn
bền khi nén ngang thớ toàn bộ nhỏ thì tỷ suất nén sẽ lớn, tiêu tốn nhiều
nguyên liệu trong khâu ép ván.
1.3.2.5. Giới hạn bền khi uốn tĩnh
Giới hạn bền khi uốn tĩnh là một trong hai chỉ tiêu cơ học quan trọng
để đánh giá cường độ của gỗ.
Modul đàn hồi uốn tĩnh cũng đánh giá khả năng chống lại tác dụng
của ngoại lực đối với gỗ. [21]
Từ các giá trị về giới hạn bền khi uốn tĩnh và modul đàn hồi uốn tĩnh
của gỗ, ta có thể lấy đó làm cơ sở cho việc tính toán và chọn kết cấu cho phù
hợp trong việc sử dụng gỗ làm dầm, ván vv, cũng như việc lựa chọn phươngg

án gia công chế biến.
1.3.2.6. Giới hạn bền kéo dọc thớ
Sức kéo dọc thớ của gỗ rất lớn do hầu hết các mixenxenlulose sắp xếp
theo chiều dọc thớ.Tùy theo các loại gỗ, ứng suất kéo dọc thớ của gỗ là khác
nhau biến động từ 500- 2000.105N/m², ứng suất kéo dọc thớ gấp 2-3 lần sức
chịu ép dọc thớ. Vì vậy, trong các kết cấu gỗ, gỗ rất ít bị phá hoại do lực kéo
dọc thớ gây ra. Đối với gỗ thớ thẳng, dài, tia gỗ nhỏ, tỷ lệ tổ chức cơ học
trong cây càng phát triển thì sức chịu kéo càng cao. [21]
17
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội huyện Chiêm Hóa
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Chiêm Hóa nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Tuyên Quang, cách thành phố
Tuyên Quang 67km về phí Bắc bao gồm 26 xã, thị trấn, có tổng diện tích tự
nhiên là 145.960 ha (chiếm 24.87% diện tích tự nhiên của Tỉnh).
Huyện có 1 thị trấn Vĩnh lộc và có 26 xã gồm: Minh Quang, Phúc
Sơn, Trung Hà, Tân Mỹ, Hà Lang, Tân An, Hùng Mỹ, Phúc Thịnh, Hoà Phú,
Tân Thịnh, Hoà An, Trung Hoà, Yên Nguyên, Nhân Lý, Yên Lập, Bình Phú,
Phú Bình, Ngọc Hội, Kim Bình, Kiên Đài, Tri Phú, Linh Phú, Vinh Quang và
Bình Nhân. là nơi có 80% dân tộc thiểu số là địa bàn sinh sống của 22 dân tộc
như: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Thuỷ vv.
Địa giới hành chính:
- Phía Đông giáp với huyện Chợ Đồn - tỉnh Bắc Kạn
- Phía Tây giáp với huyện Bắc Quang - tỉnh Hà Giang, Huyện Hàm
Yên - Tuyên Quang
- Phía Nam giáp với huyện Yên Sơn - Tuyên Quang
- Phía Bắc giáp với huyện Lâm Bình, Na Hang - Tuyên Quang
* Địa hình

Chiêm Hóa là huyện miền núi nên có địa hình nhiều dãy núi cao như:
Khau Bươn, núi quạt Phia Gioòng, Chạm Chu vv, giữa các vùng đồi núi là
những thung lung sâu, đất đai màu mỡ. Sông suối có độ dốc cao, độ cao phổ
biến từ 200 - 600m và giảm dần xuống phía Nam, độ dốc trung bình 25ºC.
* Khí hậu
Theo số liệu của trung tâm khí tượng thủy văn huyện Chiêm Hóa, tỉnh
Tuyên
18
Quang. Chiêm Hóa thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có 2 mùa rõ rệt.
- Mùa mưa: Trung bình từ tháng 4 đến tháng 10 trong năm, số lượng ngày
mưa trung bình trong năm 120 ngày đến 160 ngày trong năm, lượng mưa trung
bình năm đạt 1500 - 1700mm và tập trung chủ yếu vào tháng 7, tháng 8 hàng năm.
- Mùa khô: Từ tháng 11 trong năm đến tháng 3 năm sau, khí hậu hanh,
có sương mù vào tháng 1, tháng 2 năm sau.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ bình quân trong năm từ 22 - 24ºC. Nhiệt độ tối
cao hàng tháng trung bình 25ºC, Nhiệt độ tối thấp hàng tháng trung bình
12ºC. Tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 8 (37ºC), Tháng có ngày nhiệt độ
thấp nhất là tháng 2 (5ºC). Số ngày nắng trung bình tháng từ 12 - 17ngày/
tháng. Tổng ngày nắng trong năm 155 ngày/ năm. Độ ẩm không khí bình
quân từ 65% - 85%. Chế độ gió, chủ yếu là gió mùa Đông Bắc và gió Đông
Nam, lưu lượng gió thổi từ 2m/giây đến 4m/giây. Hàng năm có sương muối
từ tháng 11 năm trước đến tháng 2 năm sau.
* Thủy Văn
Huyện Chiêm Hóa có hệ thống sông suối chính chảy qua: Sông Gâm
bắt nguồn từ huyện Nà Hang chảy theo hướng bắc nam qua các xã Yên Lập,
Hùng Mỹ, Ngọc Hội, Vĩnh Lộc, Trung Hòa, Hòa An, Vinh Quang, Nhân Lý,
Bình Nhân chảy vào huyện Yên Sơn xuôi về thành phố Tuyên Quang. Ngoài
ra còn có hệ thống suối lớn bắt nguồn từ các khe núi, đồi đổ ra Sông Gâm,
trong đó: Suối Na Héc bắt nguồn từ xã Trung Hà, Tân Mỹ chảy theo hướng
Bắc - Nam qua các xã Hùng Mỹ, Xuân Quang Vĩnh Lộc và đổ vào Sông

Gâm. Suối Pắc Khuẩy bắt nguồn từ tại xã Tân An chảy theo hướng Tây - Bắc
vào Suối Na Héc tại xã Hùng Mỹ. Suối Cầu Cả tại xã Yên Nguyên chảy vào
sông Lô tại xã Bình Xa - huyện Hàm Yên. Ngoài các xã của huyện còn có rất
nhiều nhánh suối nhỏ chảy vào sông Gâm như: xã Bình Phú, Kiên Đài, Phú
Bình, Minh Quang, Hà Lang vv.
Do cấu tạo địa hình có độ dốc lớn, tốc độ dòng chảy mạnh nên có
nhiều bất lợi cho công tác vận chuyển thủy của một số nhánh suối lớn. Lưu
19
tốc dòng chảy từ 3- 5m/ giây, thường tập trung vào mùa mưa, ảnh hưởng
không tốt cho sản xuất nông - lâm nghiệp.
* Địa chất và thổ nhưỡng
Kết quả điều tra lập địa xây dựng bản đồ dạng đất đai tỉnh Tuyên
Quang của phân viện điều tra quy hoạch rừng Đông Bắc Bộ năm 2001, đất đai
tại huyện Chiêm Hóa được hình thành bởi quá trình phong hóa của đá mẹ
chính là đá Givet với 2 loại đất chính:
- Đất Feralit phát triển trên phiến thạch set (Fs) có màu vàng đỏ, độ
dày tầng đất ở mức trung bình >80cm, độ PH = 4-5.
- Đất Feralit phát triển trên Mắcma chua có màu vàng nhạt, độ dày
tầng đất ở mức trung bình 60-80cm, độ PH = 5-6.
Hai loại đất này phù hợp với trồng cây lâm nghiệp và công nghiệp.
2.1.2. Điều kiện dân sinh - kinh tế xã hội
* Đặc điểm dân số, lao động, kinh tế
- Dân sô: Theo báo cáo tổng hợp dân số năm 2011, tổng dân số toàn
huyện là 126.000 người, chiếm 17,32% so với tổng dân số toàn tỉnh Tuyên
Quang. Trong đó, người ở trong độ tuổi lao động 97532 người, chiếm 77,41%
tỷ lệ dân số toàn huyện. Tỷ lệ tăng dân số toàn huyện 2,13%. Mật độ dân số
bình quân 89 người/km², xã có mật độ thấp nhất là xã Trung Hà, 52 người/
km², xã có mật độ cao nhất là xã Vinh Quang, 266 người/km².
- Lao động: Theo báo cáo tổng hợp năm 2011, toàn huyện có 97532
lao động, chiếm 77.41% dân sô. Trong đó, lao động nông nghiệp chiếm 77,45

% tổng số lao động, lao động phi nông nghiệp chiếm 22,55% tổng số lao
động. Qua số liệu thống kê hàng năm năm 2011 của huyện cho thấy, người
lao động chỉ sử dụng khoảng 70% quỹ thời gian lao động do thiếu việc làm,
có khoảng 10- 15% lao động thường xuyên không có việc làm và khoảng
40% lao động nông nghiệp không có việc làm khi kết thúc thời vụ mùa màng.
20
- Kinh tế: Theo Báo cáo năm 2011 của huyện Chiêm Hóa, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm đạt 11,75%
+ Nông nghiệp: Trong những năm gần đây ngành nông nghiệp đạt
được tốc độ tăng trưởng ổn định từ 1,6%, giải quyết được nhu cầu lương thực,
thực phẩm của nhân dân. Năm 2011 giá trị kinh tế ngành trồng trọt đạt 77.600
tấn, nâng cao năng suất 62.2 tạ/ha. trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Có
được những kết quả như trên là nhờ huyện Chiêm Hóa đã có những biện pháp
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, tăng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Lâm nghiệp và hiện trạng tài nguyên rừng: Tình hình sản xuất lâm
nghiệp của huyện trong những năm gần đây đã có những bước phát triển rất
lớn. Người dân đã được phần nào nhận thức vai trò, lợi ích của rừng trong
việc bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế xã hội. Do đó, ngày càng có
nhiều hoạt động tích cực hơn trong công tác gây trồng và bảo vệ rừng. Chính
vì vậy, diện tích rừng ngày càng tăng lên, diện tích đất trống đồi núi trọc được
thu hẹp lại, chất lượng rừng cũng được tăng lên. Năm 2011 rừng được trồng
mới thêm 5.450 ha, nâng độ che phủ của rừng lên trên 70% và khai thác gỗ
rừng trồng 141.000 m3, khai thác tre nứa 21.500 tấn.
Theo Theo Báo cáo năm 2011 của huyện Chiêm Hóa. Đất đai ở các xã
vùng cao của Chiêm Hoá phù hợp với việc khoanh nuôi rừng tự nhiên và
trồng rừng, phát triển kinh tế lâm - nông nghiệp, còn các xã phía Nam của
Chiêm Hoá có độ dốc phổ biến 10 - 25
0
, thích hợp trồng cây công nghiệp dài

ngày, cây lương thực và cây ngắn ngày khác. Chiêm Hoá hiện có trên 9.000
ha rừng đặc dụng ở các xã Kim Bình, Hòa Phú, Hà Lang, Trung Hà với nhiều
loài cây cổ thụ, động vật hoang dã quý hiếm. Huyện Chiêm Hóa có trên 60%
diện tích đất đai có khả năng tham gia vào sản xuất đất lâm nghiệp, đây chính
là thế mạnh của ngành lâm nghiệp trên địa bàn huyện nói riêng và toàn tỉnh
nói chung. Các định hướng sử dụng tối ưu nhất phần diện tích này là khoanh
21
nuôi bảo vệ nghiêm ngặt những diện tích rừng đã có rừng nguyên sinh và
trồng rừng đất trống Ia, Ib theo hướng thâm canh tăng năng suất rừng trồng.
* Cơ sở hạ tầng
- Giao thông: Chiêm Hoá có đường quốc lộ 279 dài 20,2 km từ Hà
Giang chạy qua Chiêm Hoá đến Na Hang, đường 190 từ km 31 chạy qua huyện
chiêm Hoá lên huyện Na Hang, đường 185 từ đầu cầu Chiêm Hoá thị trấn Vĩnh
Lộc đi Vinh Quang, Kim Bình đến Kiến Thiết huyện Yên Sơn; đường 188 từ thị
trấn Vĩnh Lộc đến xã Thổ Bình và đường 187 từ xã Yên Lập sang huyện Chợ
Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Chiêm Hoá có 127 km liên huyện; 5,5 km đô thị và tuyến
giao thông thuỷ là sông Gâm đoạn chảy qua Na Hang đến Chiêm Hoá với độ dài
40 km. Hệ thông giao thông trên địa bàn huyện nói chung tương đối hoàn chỉnh,
các xã đều có đường giao thông liên thôn, ô tô vào tận trung tâm xã. Huyện có 1
cây cầu lớn bắc qua sông tại Thị trấn Vĩnh Lộc và có nhiều cầu nhỏ bắc qua
suối, thuận tiên giao thông đi lại liên xã, liên thôn.
- Y tế - Giao dục:
+ Y tê: Huyện có 1 bệnh viện tại trung tâm huyện, có 1 phòng khám
cổ truyền tại thị trấn Vĩnh Lộc, có 26 trạm y tế xã - thị trấn. Đội ngũ cán bộ y
tế gồm 72 bác sỹ, 90 y tá và khoảng 600 y tế thôn bản, có 86 cơ sở tư nhân
hành nghề Y - Dược - Y học cổ truyền.
+ Giáo dục: Toàn huyện có 37 trường mầm non, 43 trường tiểu học, 38
trường trung học cơ sở, 6 trường trung học phổ thông, 01 trường trung cơ sở dân
tộc nội trú (Thị trấn Vĩnh Lộc), 01 trường trung cấp nghề ( xã Minh Quang).
- Thông tin, văn hóa, xã hội: Mạng lưới thông tin liên lạc đã phủ kín

các xã trên địa bàn toàn huyện. Hơn 90% dân số sắm được tivi để xem đài
truyền hình, 75% dân số có đài nghe phát thanh. 100% các xã có điện thoại và
có trạm bưu điện để liên lạc và giao dịch. Toàn huyện có 5 trạm sóng viễn
thông, có 50 trạm sóng BTS, 4.000 thuê bao điện thoại cố định, hơn 300 km
đường dây cáp quang, 1.500 thuê bao internet tốc độ cao, 1.000 thuê bao
22

×