Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Các biện pháp rèn kỹ năng nghe nói cho học sinh khối lớp 2 thông qua phân môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.28 KB, 31 trang )

Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC MÔN TIẾNG VIỆT
MỤC LỤC
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do đề tài
I.2. Mục đích nghiên cứu
I.3. Đối tượng và khách thể
I.4. Phương pháp nghiên cứu
I.5. Đóng góp về lý luận, thực tiễn
PHẦN II: NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận
II.2. Cơ sở thực tiễn
II.2.1. Vài nét khái quát về trường Tiểu học Đỗ Sơn
II.2.2. Thực trạng về năng lực tạo lập lời nói của học sinh lớp 2
II.3. Các biện pháp rèn kỹ năng nghe nói cho học sinh khối lớp 2 thông qua phân môn
Tập làm văn
II.4. Thực nghiệm
PHẦN III: KẾT LUẬN
III.1. Đề xuất biện pháp
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
III.2. Kết luận
III.3. Bài học kinh nghiệm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
II.1. Lý do chọn đề tài.
Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, giao tiếp thường là một hoạt động
khởi đầu cho những hoạt động tiếp theo . Nó tồn tại song song và ảnh hưởng to lớn
đến kết quả của những hoạt động đó. Có thể nói giao tiếp là hoạt động không thể thiếu
trong xã hội. trong xã hội thì con người luôn có nhu cầu giao tiếp với nhau. Nhu cầu
đó cũng như các nhu cầu giao tiếp khác, giao tiếp cũng giống ăn, mặc, ở, hít thở


không khí, rất quan trọng và cần thiết. nhờ hoạt động giao tiếp con người có thể trao
đổi thông tin tạo lập các mối quan hệ tốt đẹp… Có thể nói giao tiếp là một trong
những điều kiến quan trọng để con người và xã hội loài người phát triển.
Từ xa xưa tới nay, con người đã sử dụng rất hiều các phương tiện khác nhau để
thực hiện hoạt động giao tiếp. Mỗi loại phương tiện đề có những ưu điểm và nhược
điểm riêng, song phương tiện giao tiếp đặc trưng và hiệu quả của loài người là ngôn
ngữ.
Ngôn ngữ và giao tiếp bằng ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng đối với sự
trưởng thành của mỗi con người nói riêng và sự phát triển của loài người nói chung.
Khi sinh ra con người chưa có khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Trong quá trình trưởng thành, mỗi con người phải tự tích lũy dần vốn ngôn ngữ
cho bản thân. Vốn ngôn ngữ này phải được bồi dưỡng, rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ
và nhà trường chính là nơi cung cấp ngôn ngữ cho trẻ một cách có hệ thống nhất. mục
đích nghiên cứu ngôn ngữ trong nhà trường là rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ làm phương tiện học tập và và giao tiếp.
Vì vậy phát triển lời nói là nhiệm vụ quan trọng nhất của việc dạy học tiếng
trong nhà trường.
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
Trong những năm gần đây giáo dục phổ thông ở bậc tiểu học nói riêng có nhiều
đổi mới về mục tiêu dạy học và được cụ thể hóa bằng sự đổi mới về nội dung, phương
pháp dạy học.
Trong quá trình đổi mới này, định hướng giao tiếp (hay còn gọi là dạy học phát
triển lời nói) được đặc biệt quan tâm, được coi là trung tâm của dạy học Tiếng việt ở
tiểu học.
Từ năm 2002 bộ sách giáo khoa Tiếng Việt đã được đưa vào đại trà đến nay,
bước đầu cho thấy những kết quả khả quan, quan điểm giao tiếp trong dạy học đã
bước đầu khẳng định là định hường dạy học tích cực.
Phân môn Tập làm văn trong chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học, so với
các phân môn khác là một phân môn khó. Nó là sự tổng hợp các kiến thức ngôn ngữ
và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ mà học sinh được học. Nhiệm vụ chỉu yếu của phân

môn này là rèn luyện cho học sinh kỹ năng sản sinh ra các ngôn bản nói và ngôn bản
viết. Trong chương trình Tiếng Việt 2, cả hai dạng kỹ năng này đều được quan tâm
một cách thích đáng thông qua hệ thống bài tập rất phong phú và đa dạng, phù hợp
với mục tiêu của người học và phân môn.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng hiện nay việc dạy học Tập làm văn ở
trường tiểu học còn hạn chế và chưa đạt được kết quả như mong muốn. Lý do của
hiện tượng này là do đa số các giáo viên chưa định hình được phương pháp giảng dạy
và trình tự tiến hành một bài tập làm văn làm thế nào cho phù hợp với mục tiêu và nội
dung của bài đặt ra. Bên cạnh đó học sinh tiểu học là những đối tượng có năng lực tư
duy hạn chế, ký năng sử dụng ngôn ngữ của các em cũng phát triển chưa cao. Nhiều
em còn dùng từ sai, câu sai, hoặc hoạt động của các em còn chưa phù hợp với hoàn
cảnh mục đích giao tiếp hoặc chưa đúng phương cách chức năng. Hiện tượng này
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
khiến cho các em gặp phải nhiều khó khăn trong hoạt động học tập và giao tiếp. Các
em phải được thực hiện hoạt động nói năng trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung được coi là một giải pháp
hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ này.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể thấy rõ sự cần thiết của việc dạy
học rèn kỹ năng nghe nói trong phân môn Tiếng Việt ở tiểu học và cũng do tính cấp
thiết của vấn đề này mà tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài “Rèn kỹ năng nghe nói cho
học sinh trong phân môn Tập làm văn lớp 2”.
I.2. Mục đích nghiên cứu
Khi bắt tay vào nghiên cứu đề tài này giúp cho học sinh đạt được những mục
đích sau:
+ Giúp học sinh nắm chắc được các bài tập rèn luyện kỹ năng nghe nói trong phân
môn tập nói trong phân môn Tập làm văn lớp 2.
+ Giúp học sinh làm tốt bài tập phát triển lời nói trong phân môn Tập làm văn lớp 2
đạt hiệu quả cao.
I.3. Đối tượng và khách thể.
3.1. Đối tượng.

Các biện pháp rèn luyện kỹ năng nghe nói cho học sinh khối lớp 2 - Trường
Tiểu học Đỗ Sơn - huyện Thanh Ba qua phân môn Tập làm văn.
3.2. Khách thể.
Lớp 2A trường Tiểu học Đỗ Sơn - xã Đỗ Sơn - huyện Thanh Ba - tỉnh Phú Thọ
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
I.4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
(Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vấn đề cần quan tâm)
4.2. Phương pháp khảo sát thống kê.
Sử dựng phương pháp này để khảo sát về kĩ năng tạo lập lời nói cho học sinh
lớp 2.
Thực trạng dạy học phân môn Tập làm văn, qua dự giờ giáo viên, điều tra học
sinh qua đó thống kê phân loại bài tập rèn kĩ năng nói trong phân môn Tập làm văn 2.
4.3. Phương pháp phân tích.
4.4. Phương pháp điều tra.
Tìm hiểu giáo viên, học sinh về vấn đề cần nghiên cứu.
4.5. Phương pháp quan sát.
4.6. Phương pháp thực nghiệm.
Thông qua các tiết dự giờ để đánh giá kết quả vấn đề nghiên cứu.
I.5. Đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn.
- Nghiên cứu những vấn đề về mặt lý luận.
- Mục tiêu của bộ môn Tiếng Việt lớp 2.
- Phương pháp giảng dạy môn Tiếng Việt trong phân môn Tập làm văn lớp 2.
- Nghiên cứu những vấn đề về mặt thực tiễn.
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng việt.
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
- Nghiên cứu chương trình phân môn Tập làm văn và sách giáo khoa Tiếng Việt 2.
- Nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân của các thực trạng đó.
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
II.2. Cơ sở lý luận

Mục tiêu của môn Tiếng Việt nói chung và phân môn tập làm văn nói riêng ở
Tiểu học.
Theo quyết đinh ngày 09/11/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo,
chương trình tiểu học chính thức được sử dụng trong cả nước, trong đó có quy định rõ
mục tiêu đối với từng môn học ở tiểu học.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có mục tiêu chính nhằm hướng tới sự phát triển
một lời nói cho học sinh phát triển khả năng giao tiếp của các em. Mục tiêu này được
cụ thể như sau:
Về kiến thức: Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản
về Tiếng Viết và tri thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp. Bên cạnh đó cung cấp
những hiểu biết đơn giản về tự nhiên, xã hội, con người, về văn hóa, văn học của Việt
Nam và nước ngoài.
Về kỹ năng: Hình thành và phát triển ở học sinh những kỹ năng sử dụng Tiếng
Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi.
Thông qua việc dạy học môn Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy
của học sinh (phân tích, tổng hợp, khái quát hệ thống,…) và góp phần nâng cao phẩm
chất tư duy, năng lực nhận thức.
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
- Về thái độ: Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư
duy của học sinh, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp
phần hình thành nhân cách con người Việt Nam và xã hội chủ nghĩa.
Như vậy thông qua việc cung cấp những tri thức về Tiếng Việt, môn Tiếng Việt
nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng nhằm phát triển ở học sinh những kỹ
năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp. Hay nói cách
khác, mục tiêu lớn nhất của phân môn Tập làm văn là nhằm phát triển lời nói cho học
sinh, phục vụ cho các hoạt động học tập, gián tiếp. Đây chính là cơ sở quan trọng đầu
tiên để chúng ta có thể đưa ra các dạng bài tập rèn kỹ năng nghe nói trong phân môn
Tập làm văn ở tiểu học cụ thể là ở lớp 2.
Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao tiếp làm

mục đích, tức là hướng vào việc hình thành các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học
sinh. Chẳng hạn trong phân môn Tập làm văn, bài tập rèn luyện kỹ năng nghe, nói
đều nhằm đưa học sinh vào các tình huống giao tiếp cụ thể giúp cho các em rèn luyện
các kỹ năng sử dụng trong Tiếng Việt.
Trong quá trình dạy học Tiếng Việt phải tổ chức tốt hoạt động nói năng của học
sinh nghĩa là phải sử dụng giao tiếp như một phương pháp dạy học chủ đạo ở Tiểu
học, người ta chủ trương lấy hoạt động giao tiếp vừa làm mục đích, vừa làm cách thức
dạy học. Nói cách khác, đó là dạy học để giao tiếp và bằng giao tiếp.
Việc dạy học sinh giao tiếp bằng Tiếng Việt nhằm 2 mục đích:
- Giúp học sinh hiểu được lời nói và bài viết sẵn có và phải diễn đạt bằng lời hoặc
bằng chữ, sự hiểu biết của bản thân theo một yêu cầu đặt ra trước.
- Để đạt được 2 mục đích này thì người thì ngữ điệu dạy họ Tiếng Việt không chỉ có
những bài sẵn có trong tài liệu học tập của học sinh mà còn bao gồm cả những lời nói,
bài nói, bài viết do các em tạo ra. Điều đó có nghĩa là học sinh không chỉ hocj sử dụng
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
Tiếng Việt thông qua các tài liệu do nhà trường cung cấp mà còn học trong quá trình
các em giao tiếp ở gia đình, nhà trường và xã hội.
Mặt khác, trong văn học bao giờ cũng chứa đựng những giá trị văn hóa của
Việt Nam và thế giới như: văn hóa tinh thần, văn hóa ứng xử,… Vì vậy trong quá
trình dạy học Tiếng Việt cần cho học sinh từng bước nhận biết cái chân, cái thiện, cái
mỹ trong các bài trích tác phẩm văn học, nhận biết được cái giá trị văn hóa, ứng xử
của dân tộc cũng như vẻ đẹp của Tiếng Việt khi giao tiếp. Có như vậy thì học sinh
mới yêu quý, tôn trọng sự trong sáng của Tiếng Việt và sử dụng Tiếng Việt làm công
cụ giao tiếp một cách có hiệu quả nhất.
Tận dụng những kinh nghiệm sử dụng Tiếng Việt, chú ý những đặc điểm tâm,
sinh lý của học sinh.
Với học sinh Tiểu học trước khi đến trường các em đã nắm 2 dạng hoạt động
của nói và nghe các em đã có một vốn từ, một số quy tắc ngữ pháp nhất đinh và sử
dụng chúng trong hoạt động giao tiếp ở mức độ tự giác còn thấp. Việc dạy môn Tiếng
Việt ở bậc Tiểu học cần khai thác vốn Tiếng Việt ở các em trong khâu lựa chọn nội

dung tổ chức và học để tránh sự nhàm chán ở các em. Giáo viên cần từng bước giúp
học sinh ý thức hóa và hoàn thiện điều mà các em đã biết cung cấp cho các em những
tri thức, kỹ năng mới một cách tiết kiệm thời gian mà vẫn hữu hiệu.
Để thực hiện điều này, trong quá trình dạy học cần thực hiện những yêu cầu
sau:
- Giáo viên cần điều tra, nắm vững vốn Tiếng Việt của học sinh theo từng lớp, từng
vùng khác nhau để hoạch định nội dung kế hoạch và phương pháp dạy học.
- Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh theo từng lớp, từng vùng khác nhau
để hoạch định nội dung kế hoạch, giáo viên cần hệ thống hóa, phát huy những năng
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
lực tích cực của học sinh, hạn chế và xóa bỏ những tích cực về lời nói của các em
trong quá trình học tập.
Bên cạnh đó, trong quá trình dạy học Tiếng Việt cũng cần chú ý đến những đặc
điểm tâm, sinh lý của học sinh để đảm bảo tính vừa sức của các em. Tâm lý học
khẳng định ở mỗi độ tuổi, học sinh chỉ có thể nhận thức được hoặc làm được một số
việc nhất định. Vì vậy, khi xây dựng các bài tập rèn luyện kỹ năng nghe nói trong
phân môn Tập làm văn lớp 2 phải thích hợp với tâm lý nhận thức của học sinh tiểu
học. Chẳng hạn, bài tập đưa ra phải có yêu cầu rõ ràng, đặt học sinh vào tình huống
giao tiếp cụ thể và thích hợp với tâm lý nhận thức của học sinh tiểu học như: Chào
hỏi, giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi,…
Sự khai thác vốn tiếng mẹ đẻ và chú ý đến những đặc điểm tâm sinh lý của học
sinh trong quá trình dạy học là một trong những điều kiện để dạy các bài tập rèn kỹ
năng nghe, nói đạt hiệu quả cao.
Phân môn Tập làm văn lớp 2, kiểu bài rèn kỹ năng nghe, nói gồm các bài sau
được nói theo các tình huống giao tiếp, ở chương trình Tập làm văn ở lớp 2 không còn
dạng bài tập nói thành dạng, bài.
II.2. Cơ sở thực tiễn
II.2.1. Vài nét giới thiệu về trường Tiểu học Đỗ Sơn.
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
II.2.2. Thực trạng về năng lực tạo lập lời nói của học sinh lớp 2A

Để khảo sách thực trạng năng lực tạo lập kỹ năng nghe nói của học sinh lớp 2
dưới 2 dạng nghe và nói, tôi tiến hành khảo sát đối tượng là 19 học sinh lớp 2A của
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
trường Tiểu học Đỗ Sơn - huyện Thanh Ba. Ngoài ra tôi còn khảo sát trên một số tiết
dạy Tập làm văn của lớp 2C của trường Tiểu học Đỗ Sơn.
Trong quá trình khảo sát, tôi có sử dụng các phương pháp khảo sát sau:
- Phương pháp điều tra qua phiếu câu hỏi:
Phiếu điều tra này soạn sẵn một số tình huống giao tiếp cụ thể, yêu cầu học sinh
viết lại lời nói của mình trong các tình huống đó. Sau đó tôi thu lại các phiếu học tập
của học sinh đã làm để lấy căn cứ đánh giá kết quả.
- Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn trực tiếp các đối tượng cần điều tra:
Tôi đã tiến hành tiếp xúc với 19 học sinh 2A đưa ra cho các em tình huống.
Những lời nói của các em được lấy làm căn cứ để đánh giá thực trạng cần điều tra.
- Phương pháp quan sát: Tôi tiến hành dự giờ 5 tiết Tập làm văn lớp 2 ở trong khối
và ghi chép lại những thông tin cần thiết để đối chiếu các số liệu thống kê nhằm tăng
độ chính xác và tính khách quan cho kết quả điều tra ở trên.
Đánh giá kết quả khảo sát tôi đưa ra 3 mức độ sau:
Mức 1: Nói đúng theo tình huống yêu cầu, nói trôi chảy các câu văn, các câu
nói liên kết chặt chẽ với nhau.
Mức 2: Nói đúng theo tình huống yêu cầu nhưng chưa lưu loát, rành mạch hoặc
dùng chưa hay, chưa chuẩn xác.
Mức 3: Nói chưa đúng tình huống yêu cầu hoặc không nói được.
Như vậy, qua tìm hiểu lý luận kết hợp với việc dự giờ thăm lớp, tôi có một số
nhận xét về năng lực tạo lập kỹ năng nghe nói của học sinh như sau:
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
Nhìn chung, các đối tượng học sinh đều sống trong điều kiện kinh tế xã hội
bình thường. Đa số các em đều tỏ ra tự tin khi giao tiếp. Hầu hết các em hiểu được
tình huống được đưa ra và có cách ứng xử riêng của mình. Song nếu xét riêng về lời
nói của mỗi học sinh thì thấy rằng phần lớn các em nói còn chưa lưu loát và cách ứng
xử còn chưa linh hoạt, cách dùng từ chưa hay các câu trong một bài nói hoặc bài viết

thường có cùng một kiểu cấu trúc. Một số học sinh còn rụt rè, ấp úng không đưa ra
cách ứng xử của mình khi tôi hỏi chuyện. Qua tìm hiểu và qua thực tế tôi nhận thấy
các học sinh này trong lớp rất nhút nhát, rụt rè. Trong các tiết học các em thường
không sôi nổi, mạnh dạn, thường tỏ ra ngượng ngập khi nói ra trước lớp. Như vậy,
chúng ta nhận thấy rõ năng lực tạo lập lời nói của học sinh còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục hạn chế này, chúng ta phải tổ chức tốt hoạt động rèn kĩ năng
nghe nói trong các giờ Tập làm văn. Để làm rõ cách tổ chức trong các giờ Tập làm
văn hiện nay như thế nào tôi tiếp tục tiến hành khảo sát thực trạng dạy học các bài tập
rèn kĩ năng nghe nói trong phân môn Tập làm văn lớp 2.
II.3. Các biện pháp rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập
làm văn.
Để rèn kĩ năng nói cho học sinh thông qua tiết Tập làm văn người giáo viên cần
phối hợp giữa gia đình, nhà trường bằng các hình thức sau:
- Thường xuyên thông tin tình hình học tập của học sinh theo từng tháng, vào sổ
liên lạc của học sinh để gửi về gia đình. Gặp và trao đổi với phụ huynh của học sinh
mà trong giao tiếp còn sử dụng những từ ngữ thiếu văn hóa hoặc chưa mạnh dạn, bình
tĩnh tự tin trong giao tiếp. Từ đó tạo cho các em một môi trường giao tiếp lành mạnh,
có văn hóa. Điều đó có tác dụng lớn đén khả năng rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh.
- Về phía nhà trường: Phối hợp với các tổ chức của nhà trường (Đội, Công
đoàn) và các tổ chức đoàn thanh niên của xã, tổ chức tốt các hội thi theo các phong
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
trào các chủ đề của năm học. Hội thi học tốt, vẻ đẹp tuổi hoa, ngoại khóa bộ môn…
và các hoạt động khác để các em có môi trường giao tiếp phong phú. Từ đó sẽ rèn
được khả năng giao tiếp của các em cũng như sự thông minh và mạnh dạn tự tin khi
nói. Bên cạnh đó nhà trường tổ chức thực hiện các chuyên đề, tổ chức bàn bạc, thảo
luận tìm ra các phương pháp hay cho chuyên đề.
Tóm lại, việc rèn luyện kỹ năng nghe nói và khả năng diễn đạt văn bản miệng
cho học sinh bắt đầu từ việc học sinh trả lời câu hỏi một cách gãy gọn, trình bày tự tin
cho tới việc nhận xét đánh giá một vấn đề chính xác, khách quan trong quá trình giảng
dạy người giáo viên kiên trì tỉ mỉ, phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh của lớp,

phải tạo ra được các tình huống trong giờ học, phải gợi ý khuyến khích học sinh tham
gia học tập một cách sáng tạo và đầy hứng thú.
II.4. Thực nghiệm.
II.4.1. Mục đích thực nghiệm.
Bước đầu giả định vào thực tiễn nhằm kiểm tra tính khả thi của một số biện
pháp rèn luyện kỹ năng nghe nói cho học sinh khối lớp 2 trường Tiểu học Đỗ Sơn.
- Các đề xuất có phù hợp với phương pháp dạy học mới không, nhận thức của học
sinh lớp có nâng cao được chất lượng nghe nói trong phân môn Tập làm văn của học
sinh khối lớp 2 hay không?
II.4.2. Đối tượng thực nghiệm.
Học sinh khối lớp 2 trường Tiểu học Đỗ Sơn - xã Đỗ Sơn - huyện Thanh Ba -
năm học 2013 - 2014. Lớp 19 học sinh.
II.4.3. Nội dung thực nghiệm
TẬP LÀM VĂN
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
Người dạy: Ngô Thị Thiện - lớp 2A
Bài: Đáp lời phủ định. Nghe - trả lời câu hỏi
Nghe kể: Vì sao
1. Ổn định tổ chức: Hát đầu giờ.
2. Kiểm tra bài cũ.
- Gọi 1 học sinh đọc bài tập về nhà.
- Học sinh nhận xét kết quả.
- Giáo viên nhận xét ghi điểm.
3. Dạy bài mới
a. Giới thiệu bài: Trong giờ tập làm văn hôm nay chúng ta sẽ tập nói đáp lời phủ định
trong các tình huống. Sau đó nghe và trả lời các câu hỏi về nội dung một câu chuyện
vui có tựa đề là “Vì sao?”
- Giáo viên ghi đầu bài: - Học sinh đọc đầu bài.
b. Hướng dẫn học sinh làm bài tập.
* Bài tập 1:

- Treo tranh minh họa và hỏi: Bức tranh
minh họa điều gì?
- Giáo viên hỏi: Khi gọi điện thoại đến
bạn nói thế nào?
+ Cô chủ nhà nói thế nào?
- Tranh minh cảnh một bạn học sinh gọi
điện thoại đến nhà bạn.
Bạn nói: Cô cho cháu gặp bạn Hoa ạ
+ Ở đây không có ai tên là Hoa đâu cháu
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
+ Lời nói của cô chủ nhà là một lời phủ
định, khi thấy chủ nhà phủ định lời mình
hỏi, bạn học sinh đã nói như thế nào?
- Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta
thường xuyên được nghe lời phủ định của
người khác, khi đáp lại những lời này các
em cần có thái độ lịch sự nhã nhặn.
- Giáo viên gọi 2 học sinh lên bảng đóng
vai thể hiện lại tình huống trên.
- Gọi học sinh nhận xét, giáo viên nhận
xét 2 bạn đóng vai tốt chưa, lưu loát
chưa?
* Bài tập 2: Thực hành
- Giáo viên viết sẵn các tình huống vào
bảng giấy, gọi 2 học sinh lên thực hành
- Gọi học sinh dưới lớp lên bổ sung nếu
có cách nói khác
ạ.
+ Bạn nói: Thế ạ? Cháu xin lỗi cô.
- Đóng vai tốt, diễn đạt lưu loát.

- Tình huống a.
Học sinh 1: cô làm ơn chỉ giúp cháu nhà
bác Hạnh ở đâu ạ.
Học sinh 2: Rất tiếc, cô không biết vì cô
không phải người ở đây.
Học sinh 1: Dạ xin lỗi cô/ Không sao ạ.
Xin lỗi cô/
- Nhóm khác có thể đáp lại như sau:
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
- Gọi nhiều nhóm đóng lại 1 tình huống
- Một tình huống cho nhiều nhóm thực
hành đóng vai, đưa ra lời đáp.
- Gọi học sinh nhận xét.
- Giáo viên nhận xét, cho điểm.
* Bài tập 3. Học sinh nghe kể chuyện
và trả lời câu hỏi.
- Gọi học sinh đọc yêu cầu và các câu hỏi
- Yêu cầu học sinh quan sát tranh minh
họa câu chuyện “Vì sao” trong sách giáo
khoa.
- Giáo viên kể 1 lần (giọng chậm rãi)
- Giáo viên kể lần 2.
+ Không sao ạ, cháu sẽ hỏi người khác,
cháu cám ơn cô!
- Tình huống b.
Thế ạ. Không sao đâu ạ/ Không sao đâu ạ.
Hôm sau bố mua cho con nhé./
Không sao ạ/ Con xin lỗi bố./
- Tình huống c.
Mẹ nghỉ đi nhé./ Mẹ nghỉ đi cho đỡ mệt

ạ!/ Mẹ yên tâm nghỉ ngơi. Con làm được
mọi việc mà./ …
- Học sinh nghe kể chuyện
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
- Treo bảng phụ có các câu hỏi:
+ Chuyện có mấy nhân vật? Đó là những
nhân vật nào?
+ Lần đầu về quê chơi, cô bé thấy thế
nào?
+ Cô bé hỏi cậu anh họ điều gì?
+ Cậu bé giải thích ra sao?
+ Thực ra con vật mà cô bé nhìn thấy là
con gì?
- Gọi 2 đến 4 học sinh kể lại câu chuyện
- Nhận xét, cho điểm
+ Hai nhân vật: Cô bé và cậu anh họ
+ Cô bé thấy mọi thứ đều lạ lẫm
+ Cô bé hỏi sao con bò này lại không có
sừng hả anh?/ Nhìn thấy một con vật đang
ăn cỏ, cô bé hỏi người anh họ “Sao con
bò này lại không có sừng, hả anh?”
+ Cậu bé giải thích: Bò không sừng vì
nhiều lý do, con thì bị gãy sừng, con còn
non chưa mọc, riêng con này không có
sừng vì nó là con ngựa.
+ Là con ngựa
- 2 đến 4 học sinh kể lại câu chuyện
4. Củng cố, dặn dò.
- Con đáp lại như thế nào khi:
+ Một bạn hứa cho em mượn truyện nhưng lại để quên ở nhà.

+ Em hỏi một bạn mượn bút nhưng bạn lại không có.
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
- Gọi học sinh đáp lại
- Nhận xét cho điểm.
- Giáo viên chốt lại và nhận xét tiết học
- Hướng dẫn về nhà chuẩn bị bài sau.
Nhận xét chung
- Qua 2 tiết dự giờ tôi thấy giáo viên đã đi đúng phương pháp và tiến hành của một
bài học. Học sinh nắm vững và kể lại được nội dung bài.
- Chú ý tới 3 đối tượng học sinh trong lớp.
- Tạo được hoàn cảnh giao tiếp, cung cấp vốn từ cho học sinh.
- Đánh giá đúng lúc, chính xác, khách quan, công bằng.
Giờ dạy đạt hiệu quả cao.
PHẦN III: KẾT LUẬN CHUNG
III.1. Đề xuất biện pháp.
Từ việc xác định rõ mục đích yêu cầu của tiết Tập làm văn tôi có một số đè suất
một số biện pháp sau:
Về phía giáo viên và học sinh.
Trước tiên người giáo viên phải nhận thức được một cách đúng đắn rõ ràng về
tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh thông qua tiết Tập làm
văn, đặc biệt là các bài tập nghe và các bài tập nói. Từ đó có sự chuẩn bị đầu tư hết
sức chu đáo, cẩn thận trong một tiết tập làm văn nghe, nói, có dàn bài mẫu cụ thể, chi
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
tiết, nghiên cứu kỹ chương trình lớp mình dạy, tìm hiểu rõ ý đồ, nội dung sách giáo
khoa và vở bài tập, chuẩn bị cách diễn đạt chôi chảy, lưu loát.
Đặc điểm của học sinh tiểu học là hay bắt chước do đó để học sinh nói hay, nói
tốt, trình bày được một vấn đề chôi chảy, có khoa học thì trước tiên người giáo viên
phải là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Muốn vậy, người giáo viên phải
thường xuyên tham khảo các tài liệu văn học, các bài văn chọn lọc để tích lũy trau dồi
vốn từ ngữ, vốn văn học, cách diễn đạt, cách hành văn,… để từ đó trong mọi hoàn

cảnh giao tiếp mình luôn là người chủ động, sáng tạo, tự tin linh hoạt khi nói, khi
trình bày,…
Để giúp học sinh có vốn từ ngữ phong phú biết sử dụng vốn từ vào việc nói và
viết trong các tiết học luyện từ và câu giáo viên cần giúp học sinh nắm chắc hệ thống
từ ngữ gắn với các chủ đề trong chương trình học. Trong các tiết tập đọc bước học
sinh tìm từ khó giáo viên nên để học sinh đề suất từ rồi để học sinh tự giải nghĩa từ.
Làm tốt điều này không những luyện cho học sinh kỹ năng nói và giúp học sinh hiểu
được nghĩa của từ này một cách thấu đáo, giúp các em có thêm kỹ năng dùng từ chính
xác trong các văn cảnh và các câu cụ thể.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh có sổ tay Tiếng việt ghi lại những câu văn
hay, những từ ngữ thường dùng để có vốn từ phong phú hơn. Khi học sinh đã có một
vốn từ dồi dào, giáo viên cần phải hướng dẫn các em biết sử dụng chúng vào việc
giao tiếp cho đúng, cho phù hợp nghĩa, có giá trị gợi cảm. Công việc này trong bước
tìm từ khó của các giờ tập đọc đã thực hiện một số phần, phần nữa là thông qua các
giờ luyện từ và câu, phần còn lại thông qua các tiết giáo viên nhận xét đánh giá các
loại bài tập nghe, bài tập nói trong giờ tập làm văn.
Để học sinh nói hoặc viết đúng cấu trúc ngữ pháp thì qua tiết luyện từ và câu
giáo viên cần khắc sâu kiến thức về kiểu câu mà các em đã được học như câu ở đâu?,
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
Như thế nào?, Khi nào?,… Khi các em đã hiểu rõ cấu tạo và tác dụng của từng loại
câu thì các em sẽ biết sử dụng chúng trong từng trường hợp một cách hợp lý, khoa
học. Bên cạnh đó giáo viên cần sắp xếp thời gian hợp lý để hướng dẫn các em đọc
sách giúp các em nâng cao năng lực cảm thụ văn học tích lũy dần các tư liệu văn học.
Trong các tiết Tập làm văn lớp 2 nói riêng và trong tất cả các tiết học khác,
người giáo viên cần tạo ra nhiều tình huống để học sinh luyện nói nhiều, đưa ra nhiều
câu hỏi để các em tranh luận, suy nghĩ, ghi lại ý, trả lời đúng hoặc đưa ra các kiểu bài
tập để học sinh luyện nói như loại bài tập phát âm theo chuẩn Tiếng việt, loại bài tập
tạo ra tình huống giao tiếp, loại bài tập ngâm thơ, học thuộc lòng… Việc tạo ra các
tình huống như trên sẽ giúp học sinh khắc phục được những tồn tại khi nói, hay khi
trình bày một vấn đề như còn rụt rè, diễn đạt chưa chôi chảy, chưa thoát ý.

Đối với học sinh tiểu học, những lời khen, những lời động viên kịp thời, đúng
lúc là vô cùng quan trọng, bởi vậy khi các em trả lời các ý hay, diễn đạt tốt, giáo viên
phải khích lệ động viên kịp thời. Bên cạnh đó giáo viên phải kịp thời sửa sai cho các
em những từ, ý dùng chưa hợp lý, chưa hay khi trình bày để các em rút ra kinh
nghiệm cho bản thân.
Trong tiết Tập làm văn nhất là những tiết có kiểu bài tập nghe và nói, người
giáo viên phải thực sự là một giáo viên nhiệt tình giúp đỡ học sinh và cung cấp cho
học sinh những kiến thức vần thiết để các em có thể hiểu và càm nhận được nội sung
câu chuyện đã nghe, đã học sao cho chính xác và hay hơn. Từ đó giúp học sinh không
còn ngại, không còn sợ học các tiết Tập làm văn cũng như phân môn Tiếng việt. Để
tạo ra được nhu cầu giao tiếp cho các em thì người thầy giáo phải tạo ra được những
tình huống giao tiếp giả định. Điều quan trọng là tình huống chân thực không gượng
ép, kích thích được nhu cầu nói của các em. Khi các em đã hòa mình vào hoàn cảnh
đã nhập vai giao tiếp thì lúc ấy các em sẽ muốn nói một cách thực sự. Khi đã tạo ra
được những hứng thú nói cho học sinh thì người giáo viên cũng cần nắm được các
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
nhu cầu nói của các em. Có học sinh muốn nói tranh luận, bàn bạc vấn đề nào đó với
người khác. Nắm bắt được nhu cầu nói của các em và quan tâm tới nó thì giáo viên sẽ
giúp học sinh phấn khởi học tập, say sưa hứng thú học tập và vì thế kết quả giờ Tập
làm văn se tăng lên rất nhiều. Để tiết Tập làm văn sau có kết quả cao thì giáo viên
phải chú trọng đến khâu chấm và sửa sai bài cho học sinh một cách khách quan, đánh
giá đúng mức. Chữa bài phải chân thật, tỉ mỉ về từng khía cạnh, nội dung, hình thức,
cách đặt câu…những lời nhận xét của giáo viên xác đáng. Cuối cùng, giáo viên phải
hướng dẫn các em học sinh rèn luyện kỹ năng nói ở mọi nơi, mọi lúc, trong tiết học.
Kiểm tra đánh giá sự chuẩn bị bài của học sinh phải sát sao, cụ thể hơn nữa.
III.2. Kết luận
Môn Tiếng việt là một trong những môn học rất quan trọng và cần thiết đối với
học sinh tiểu học.
Môn học này nhằm hình thành cho học sinh những tri thức ban đấu về Tiếng
việt, cách dùng Tiếng việt, đồng thời là cơ sở ban đầu cho sự phát triển kỹ năng nhận

thức và tư duy của các em, môn Tiếng việt ở tiểu học có rất nhiều phân môn rất thiết
thực đối với các em để các em có được một văn bản hay có chiều sâu và giúp các em
có kỹ năng diễn đạt tốt thì Tập làm văn nghe nói là một môn học rất cần thiết. Mỗi
người thầy, người cô, cần có tinh thần trách nhiệm của mình luôn nghiên cứu, tìm tòi
cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm góp phần nâng cao chất lượng và có hiệu quả
trong giảng dạy bộ môn.
Qua tham khảo tài liệu và dự giờ thăm lớp tôi rút ra một vài nét cơ bản trong
việc rèn kỹ năng nói cho học sinh tiểu học qua phân môn Tập làm văn lớp 2 như sau:
1. Giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình môn Tập làm văn lớp mình giảng
dạy. Nắm vững nội dung yêu cầu từng tiết học để chọn phương pháp giảng dạy và
chuẩn bị đồ dùng trực quan, phục vụ cho bài dạy.
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
2. Học sinh phải được giáo viên hướng dẫn và chuẩn bị tốt bài tập ở nhà trước khi đến
lớp. Hướng dẫn quan sát, hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà.
3. Tập làm văn cần phải đảm bảo đặc trưng của bộ môn. Được quan sát cụ thể, được
tập nói, tập diễn đạt nhiều.
4. Giáo viên phải biết hướng dẫn học sinh vốn từ, ngữ pháp của mình khi diễn đạt.
Khi học sinh diễn đạt, giáo viên phải lằng nghe và nhận xét bổ sung, sủa sai, khen
ngợi học sinh kịp thời.
5. Giáo viên cần nắm vững đối tượng của lớp, khi dạy phải chú ý cả 3 đối tượng học
sinh.
6. Cần tôt chức tiết học cho nhịp nhàng giữa thầy và trò, thầy chỉ đóng vai trò chủ
đạo, hướng dẫn.
7. Chú ý giáo dục đạo đức cho học sinh giữa mỗi bài dạy.
8. Giáo viên cần phải biết phối hợp giữa các lực lượng giáo dục để tạo môi trường
giao tiếp lành mạnh cho các em. Bản thân người giáo viên luôn mẫu mực trong mọi
hoàn cảnh giao tiếp, làm tấm gương sáng cho học sinh học tập và noi theo. Luôn luôn
cố gắng học tập không ngừng để nâng cao hiểu biết và nghiệp vụ sư phạm của mình.
Tóm lại, đổi mới phương pháp dạy môn Tập làm văn là một giải pháp tích cực
để khắc phục tình trạng học sinh có kỹ năng cách nói chưa tốt và chất lượng chuyên

môn chưa cao. Bên cạnh đó là góp phần nâng cao chất lượng học tập của các em ở tất
cả các môn học. Bởi vậy mỗi người thầy, người cô hãy gắng sức bài học của mình
thành những hiểu biết, những bài học, những kinh nghiệm bổ ích để giúp các em thu
thập được vốn hiểu biết phong phú, vốn tri thức dồi dào. Nó sẽ là hành trang để theo
các em đi suốt cuộc đời.
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt
Với những bài học tổng kết về những biện pháp rèn luyện kỹ năng nghe nói cho
học sinh khối lớp 2 cho phân môn Tiếng việt mà tôi đã đưa tuy không mới trong thực
tiền và công tác giảng dạy nhưng thực tế đã giúp cho công việc nâng cao chất lượng
cho việc rèn kỹ năng nói qua phân môn Tập làm văn ở lớp tôi thực tập, đã tạo nên
những chuyển biến tích cực dù mới chỉ là kết quả ban đầu. Việc thực hiện các iện
pháp để nâng cao chất lượng cho học sinh của lớp tôi thực tập là một quá trình thường
xuyên, lâu dài. Tiến tới hoàn thiện những bài học kih nghiệm rút ra là tiền đề quan
trọng giúp cho bản thân tôi vững tâm hôn trong công tác giảng dạy sau này, nhằm tiếp
cận cao hơn với mục tiêu đào tạo.
Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ với các bài học được tổng kết có những
cải tiến, biện pháp đồng bộ hơn với những điều kiện cho phép,tiến tới đích cuối cùng
là nâng cao chất lượng học sinh, góp phần hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ của bậc tiểu
học.
III.3. Bài học kinh nghiệm.
Qua thực hiện các biện pháp rèn kỹ năng nghe nói cho học sinh khối lớp 2 qua
phân môn Tập làm văn tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho việc nâng cao
chất lượng cho học sinh tiểu học như sau:
- Giáo viên thực sự yêu nghề mến trẻ, tận tụy kiên trì, yêu thương học sinh như
người mẹ thứ hai của các em.
- Đi sâu tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh về:
+ Hoàn cảnh gia đình.
+ Khả năng nhận thức.
+ Tâm tư nguyện vọng của học sinh đối với phân môn Tập làm văn.
Đề tài nghiên cứu khoa học môn Tiếng Việt

- Phối kết hợp giữa 3 môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội.
- Thực hiện các tiết học, nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa ở Tiểu
học.
- Luôn cải tiến phương pháp dạy học, phát huy tính tích của học sinh. Tìm tòi các
hình thức dạy học vận dụng vào các giờ để dạy để giờ học diễn ra nhẹ nhàng và thoải
mái.
- Sử dụng triệt để và có hiệu quả bộ đồng dùng dạy học có sẵn, luôn có ý thức tự tạo
các đồ dùng dạy học để phục vụ cho các tiết dạy.
- Hướng dẫn học sinh có phương pháp học tập phù hợp với phân môn Tập làm văn.
- Không ngừng học hỏi trao đổi kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn, tích
cực bồi dưỡng và tự bồi dưỡng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 (tập 1 + 2)
2. Sách thiết kế bài dạy Tiếng Việt 2.
3. Phương pháp giảng dạy Tiếng Việt 2.
4. Sách nâng cao Tiếng Việt 2.
5. Tạp chí khoa học.
6. Tập soạn giáo dục thời đại.

×