Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
VŨ NGỌC QUẾ
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
CÔNG TÁC QUẢN LÝ BHXH BẮT BUỘC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS ĐỖ ANH TÀI
Thái Nguyên, 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi
sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đã được ghi trong lời cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
Tác giả luận văn
Vũ Ngọc Quế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn “Những giải pháp nâng cao chất
lượng công tác quản lý BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” tôi
đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của những cá nhân và tập thể.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các cá nhân và tập thể đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong học tập và nghiên cứu.
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đối với Ban giám hiệu nhà trường,
Phòng QLĐT Sau đại học và các thầy, cô giáo Trường Đại học Kinh tế và
Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện về tinh thần và vật
chất giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học học tập và nghiên cứu.
Có được kết quả này tôi vô cùng biết ơn và bày tỏ lòng kính trọng sâu
sắc đối với PGS. TS. Đỗ Anh Tài, người đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Bảo hiểm xã hội tỉnh
Thái Nguyên và những người đã cung cấp những số liệu khách quan giúp
tôi đưa ra những phân tích chính xác.
Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp và những
người thân trong gia đình đã chia sẻ những khó khăn và động viên tôi hoàn
thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
Tác giả luận văn
Vũ Ngọc Quế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ii
LỜI CẢM ƠN iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vii
DANH MỤC CÁC BẢNG viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3
4. Kết cấu của đề tài 3
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH 4
1.1. Tổng quan về BHXH 4
1.1.1. Khái niệm về BHXH 4
1.1.2. Các dạng BHXH 6
1.2. Những vấn đề cơ bản về quản lý BHXH bắt buộc 7
1.2.1. Chế độ BHXH 9
1.2.2. Tài chính của BHXH 10
1.2.3. Điều kiện thực hiện chế độ BHXH 11
1.2.4. Chức năng của BHXH 13
1.2.5. Vai trò ý nghĩa của BHXH 15
1.3. BHXH trên thế giới 17
1.4. Sự hình thành BHXH tại Việt Nam 19
1.4.1. Quan điểm về BHXH của Đảng và Nhà nước ta 22
Chƣơng 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1. Phương pháp nghiên cứu 31
2.1.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 31
2.1.2. Phương pháp thu thập thông tin 31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
2.1.3. Phương pháp tổng hợp thông tin 31
2.1.4. Phương pháp phân tích thông tin 31
2.2. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 31
2.2.1. Tổng hợp lao động và số thu BHXH các năm 31
2.2.2. Tổng hợp cơ cấu tham gia BHXH của các loại hình lao động 32
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ BHXH BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2008 - 2012 33
3.1. Khái quát về cơ quan BHXH tỉnh Thái Nguyên 33
3.2. Thực trạng công tác quản lý BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 37
3.2.1. Quy trình quản lý thu, nộp BHXH 37
3.2.2. Quản lý đối tượng tham gia BHXH 42
3.2.3. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng BHXH 47
3.2.4. Quản lý phương thức đóng và mức đóng BHXH 49
3.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý thu BHXH 50
3.3. Đánh giá công tác quản lý BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 51
3.3.1. Những kết quả đạt được 51
3.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân 57
3.4. Kinh nghiệm quản lý thu BHXH trên địa bàn một số tỉnh ở nước ta 63
3.4.1. Kinh nghiệm quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Sơn La và
thành Phố Đà Nẵng 63
3.4.2. Những bài học rút ra từ kinh nghiệm quản lý thu của các tỉnh bạn
cho BHXH tỉnh Thái Nguyên 67
Chƣơng 4: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO CÔNG
TÁC QUẢN LÝ BHXH BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 68
4.1. Định hướng hoàn thiện công tác quản lý BHXH bắt buộc của toàn ngành 68
4.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý BHXH bắt
buộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 72
4.2.1. Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia BHXH để tăng thu trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên 72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
4.2.2. Quy định rõ việc trích nộp BHXH theo tỷ lệ nào đó trên tổng thu nhập
của người lao động thay vì theo mức lương cơ bản như hiện nay 75
4.2.3. Các giải pháp thu hồi nợ đọng BHXH 77
4.2.4. Có cơ chế phối kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan BHXH với cơ quan
thuế cùng quản lý doanh nghiệp 80
4.2.5. Quy định mức phạt vi phạm pháp luật về BHXH thật nặng để NLĐ
và người SDLĐ đều phải chấp hành những quy định về BHXH, vừa
tạo được sự răn đe, vừa tạo nên tính chấp hành đối với các đối tượng
tham gia BHXH 82
4.2.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với công
tác quản lý BHXH bắt buộc 82
4.3. Các điều kiện thực hiện giải pháp đề xuất 85
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BHXH : Bảo hiểm xã hội
2. DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
3. DN : Doanh nghiệp
4. BHYT : Bảo hiểm y tế
5. NLĐ : Người lao động
6. SDLĐ : Sử dụng lao động
7. HTX : Hợp tác xã
8. HCSN : Hành chính sự nghiệp
9. NSNN : Ngân sách nhà nước
10. TBXH : Thương binh xã hội
11. QH : Quốc hội
12. BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng 3.1. Quản lý đối tượng tham gia BHXH giai đoạn năm 2008-2012 44
Bảng 3.2: Tốc độ tăng lao động đóng BHXH giai đoạn 2008 - 2012 tại tỉnh
Thái Nguyên 45
Bảng 3.3: Tổng hợp kết quả rà soát đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên tính đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2012 46
Bảng 3.4. Tổng hợp quỹ tiền lương đóng BHXH 47
Bảng 3.5. Kết quả thu BHXH tại BHXH tỉnh Thái Nguyên (2008- 2012) 52
Bảng 3.6. Kết quả thu BHXH theo khối loại hình doanh nghiệp 54
Bảng 3.7. Tình hình nợ đọng BHXH từ năm 2008 - 2012 55
Bảng 3.8. Tốc độ tăng giảm liên hoàn tỷ lệ nợ đọng BHXH 55
Bảng 3.9. Lãi phạt chậm đóng BHXH và lãi suất cho vay của Ngân hàng công
thương tỉnh Thái Nguyên 60
Sơ đồ 3.1: Tổ chức bộ máy BHXH tỉnh Thái Nguyên 34
Sơ đồ 3.2 Sơ đồ bộ máy quản lý thu tại BHXH tỉnh Thái Nguyên 38
Sơ đồ 3.3. Quy trình thu BHXH tại tỉnh Thái nguyên 41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách xã hội lớn của Đảng và
Nhà nước ta. Nó mang trong mình bản chất nhân văn sâu sắc vì cuộc sống an
bình, hạnh phúc của con người. Trong suốt cuộc đời, mỗi con người sinh ra,
lớn lên, trưởng thành bình thường đều trải qua một quá trình lao động để nuôi
sống gia đình mình và đóng góp một phần vào sự phát triển chung của xã hội.
Tham gia BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc qua đời.
Ngay từ khi mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng và
Bác Hồ đã đặc biệt quan tâm đến công tác BHXH. Chính phủ đã ban hành các
sắc lệnh về chính sách BHXH, và sau đó là Điều lệ tạm thời quy định các chế độ
BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang. Chính sách
BHXH ban hành đã kịp thời và phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, đáp ứng
nhiệm vụ cách mạng cho từng thời kỳ, đồng thời đảm bảo nguyên tắc hưởng thụ
theo cống hiến có tính đến sự ưu đãi cho người lao động cùng đông đảo các tầng
lớp nhân dân. Qua nhiều lần ban hành, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều
kiện kinh tế, chính trị xã hội của từng thời kỳ, chính sách BHXH ở nước ta đã
đạt được những kết quả to lớn trong việc ổn định đời sống cho hàng triệu người
lao động.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, trong 17 năm qua ngành BHXH
Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, tổ chức thực hiện tốt chính
sách BHXH, khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả của chủ trương đổi mới
chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Với chức năng nhiệm vụ được giao, BHXH Việt
Nam luôn hướng vào các mục tiêu chủ yếu sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
2
Từng bước mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT ở mọi thành
phần kinh tế, tiến tới thực hiện mục tiêu BHXH cho mọi người lao động và
BHYT toàn dân như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và IX
đã đề ra.
Giải quyết đúng chế độ chính sách, chi trả kịp thời đầy đủ các chế độ
BHXH cho người lao động; đảm bảo quyền lợi về khám chữa bệnh cho người
tham gia BHYT.
Cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới
quy trình làm việc, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động và nhân
dân khi tham gia BHXH, BHYT.
Xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy; nâng cao năng lực chỉ đạo và tổ
chức thực hiện của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là trình độ
chuyên môn và ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Nhiệm vụ thu BHXH, BHYT được toàn ngành xác định là đầu vào hết
sức quan trọng để hình thành và phát triển quỹ BHXH, BHYT đáp ứng được
khả năng chi trả các chế độ BHXH.
Trong những năm qua tài chính ngành BHXH Việt Nam đã được đánh
giá ổn định, nhưng theo dự báo có thể sẽ mất cân đối trong những năm tiếp
theo do xu hướng tuổi thọ của người lao động ngày càng nâng cao, tỷ lệ thu
BHXH còn thấp do đó cần những giải pháp để khắc phục những khó khăn,
vướng mắc trong công tác quản lý BHXH bắt buộc. Là người cán bộ trực tiếp
thực hiện công tác BHXH, với mong muốn nghiên cứu thực trạng công tác
quản lý BHXH bắt buộc trên địa bàn đồng thời đề xuất, đóng góp một số kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện trong thời gian tới, vì vậy tôi
lựa chọn đề tài: "Những giải pháp nâng cao chất lƣợng công tác quản lý
BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên" làm luận văn tốt nghiệp
của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác quản lý BHXH bắt buộc trên địa
bàn đồng thời đề xuất, đóng góp một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần
nâng cao chất lượng công tác quản lý BHXH bắt buộc của ngành BHXH nói
chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng, đáp ứng mục tiêu an sinh xã hội do
Đảng và Nhà nước đặt ra.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Tổng hợp các vấn đề lý luận về BHXH bắt buộc;
Đánh giá thực trạng công tác quản lý BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên và các tỉnh bạn;
Phân tích, đánh giá những kết quả, xác định những tồn tại và tìm ra các
nguyên nhân của hạn chế tồn tại;
Đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm cải thiện công tác BHXH bắt
buộc ở tỉnh Thái Nguyên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu công tác quản lý BHXH bắt buộc
tại BHXH tỉnh Thái Nguyên.
* Phạm vi nghiên cứu: BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 2008-2012, tuy nhiên không bao gồm: Bảo hiểm y tế; Bảo hiểm thất
nghiệp; Bảo hiểm xã hội tự nguyện; Bảo hiểm xã hội trong các đơn vị thuộc
lực lượng vũ trang.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm có 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về BHXH;
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu;
Chương 3: Thực trạng quản lý BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
Chương 4: Những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao công tác
quản lý BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
4
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH
1.1. Tổng quan về BHXH
1.1.1. Khái niệm về BHXH
Từ khi loài người sinh sống thành cộng đồng thì các quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với cộng đồng được hình thành và cũng
từ đó nảy sinh những vấn đề xã hội. Xã hội loài người càng phát triển thì
những vấn đề xã hội cũng càng ngày phức tạp hơn. Mỗi chế độ chính trị - xã
hội khác nhau có những vấn đề xã hội mang tính chất riêng nhưng cũng có
những vấn đề xã hội mang tính chất chung, đều phải giải quyết không chỉ vấn
đề xã hội hiện tại mà còn phải giải quyết hàng loạt vấn đề mà xã hội cũ để lại
cũng như giải quyết những vấn đề của tương lai. Công cụ điều chỉnh các vấn
đề xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, đó chính là những chính sách xã hội.
Chính sách xã hội được biểu hiện là công cụ của Nhà nước được thể
chế hoá nhằm tác động vào mối quan hệ xã hội, thực hiện công bằng xã hội,
bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người. Để giải
quyết các vấn đề xã hội cần phải đề ra các chính sách xã hội phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI năm (1986) đã đặt
đúng vị trí và tầm quan trọng của vấn đề chính sách xã hội trong chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nghị quyết nêu rõ: “Chính sách xã hội
bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt,
giáo dục văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc Coi
nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội”.
Chính sách xã hội luôn gắn với hệ thống chính trị- xã hội. Mỗi chế độ
chính trị đều phát triển những chính sách xã hội phù hợp với điều kiện lịch sử
của mình. Ở nước ta hiện nay, chủ thể đặt ra các chính sách xã hội là Đảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
5
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với sự
tham gia tư vấn của các tổ chức chính trị- xã hội, như: Mặt trận Tổ quốc,
Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Liên hiệp các hội Khoa học- kỹ
thuật, đại biểu cho giới trí thức, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp Thanh
niên. Chính sách xã hội bao quát nhiều lĩnh vực hoạt động rộng lớn của xã
hội, những lĩnh vực hoạt động đó lại liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau
trong xã hội.
Thời kỳ đổi mới với những kết quả quan trọng trên mặt trận kinh tế đã
tạo tiền đề vững chắc cho những đổi mới tương ứng về chính sách xã hội nói
chung và chính sách BHXH nói riêng nhằm đảm bảo chỗ dựa tinh thần và vật
chất cho người lao động trước những rủi ro ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, nghỉ hưu BHXH đã nhanh chóng trở thành lĩnh vực quan
trọng hàng đầu của hệ thống an sinh xã hội ở nước ta. Hiến pháp năm 1992 đã
xác định: “Nhà nước thực hiện chế độ đối với nhà nước và người làm công ăn
lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao
động”. Đại hội VIII của Đảng cũng đã chỉ định rõ: “Mở rộng chế độ BHXH
đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”.
Trong cuộc sống, con người luôn có những nhu cầu cơ bản nhất như:
ăn, mặc, ở, đi lại, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí Để thoả mãn những nhu cầu
này, con người phải lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Trong quá
trình đó con người không tránh khỏi quy luật “Sinh, lão, bệnh, tử”. Trong đời
sống thực tế, xảy ra nhiều trường hợp như: ốm đau, tai nạn, tuổi già Điều
này làm suy giảm khả năng lao động, dẫn đến tình trạng thu nhập thấp. Do
vậy cần có chính sách thích hợp, làm sao vẫn đảm bảo được thu nhập để thoả
mãn được nhu cầu cần thiết của cuộc sống khi có rủi ro xảy ra. Các nhà
nghiên cứu chính sách xã hội gọi đó là nhu cầu BHXH. Vậy, BHXH là gì:
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, BHXH là “Sự đảm bảo thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khả năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
6
lao động hoặc bị mất việc làm, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài
chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH nhằm góp phần đảm bảo an
toàn đời sống của gia đình họ, đồng thời đảm bảo an toàn xã hội”
BHXH được hiểu theo các góc độ khác nhau:
+ Dưới góc độ Pháp luật
BHXH là chế độ pháp lý bảo vệ quyền lợi người lao động thông qua việc
giải quyết mọi chính sách do pháp luật quy định đối với người tham gia BHXH.
+ Dưới góc độ chính trị
BHXH được hiểu là sự liên kết giữa Đảng, nhà nước, chủ sử dụng lao
động với quần chúng nhân dân lao động để thực hiện mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
+ Dưới góc độ kinh tế
BHXH được hiểu đó là sự phân phối quỹ BHXH tập trung được đóng
góp của các bên tham gia BHXH nhằm đảm bảo thu nhập ổn định đời sống
cho người lao động và gia đình họ khi mất hoặc giảm sút sức lao động do tuổi
già, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp hoặc chết.
Từ khái niệm trên ta thấy BHXH là nhu cầu cần thiết khách quan của
con người và vì thế BHXH là một bộ phận rất quan trọng trong chính sách xã
hội của mỗi quốc gia.
1.1.2. Các dạng BHXH
Ở nước ta đang hình thành hai loại hình BHXH và bảo hiểm thương
mại, cần phân biệt sự giống và khác nhau giữa hai loại hình BHXH và bảo
hiểm thương mại.
Như ta đã nêu ở trên: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ
nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm vì ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hưu trí hoặc
chết, thông qua việc sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
7
tham gia BHXH nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Bảo hiểm thương mại là sự bảo đảm bù đắp những tổn thất hoặc thiệt
hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra về tài sản (nhà xưởng, hàng hóa, công
trình xây dựng, phương tiện vận tải ) về sức khỏe và tính mạng con người,
về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm quản lý trên cơ sở đóng góp phần bảo
đảm cho quá trình tái sản xuất diễn ra bình thường và đời sống của mọi thành
viên trong xã hội ổn định.
BHXH giống bảo hiểm thương mại ở mục đích cuối cùng là góp phần
đảm bảo cho tái sản xuất xã hội diễn ra bình thường, đời sống các thành viên
trong xã hội an toàn và ổn định nhưng khác nhau ở đối tượng tác động, tính
chất và phương thức hoạt động. Tính chất kinh doanh trong phương thức hoạt
động của bảo hiểm thương mại thể hiện rất rõ, lãi suất được tính vào cơ cấu
chi phí toàn phần của mỗi nghiệp vụ bảo hiểm cụ thể. Ngoài ra, bảo hiểm
thương mại còn có thể tham gia tái bảo hiểm với các công ty bảo hiểm của
các nước trên thế giới để nâng cao hiệu quả hoạt động. Về quan hệ bảo hiểm,
chỉ phát sinh và tồn tại trong một khoảng thời gian xác định kể từ khi người
tham gia mua phí hoặc hợp đồng bảo hiểm. Thời hạn này thường là một năm
hay một chu kỳ hoạt động. Trong khi đó, BHXH không được tính lãi trong cơ
cấu chi phí toàn phần đối với những người tham gia và chỉ sử dụng phần nhàn
rỗi tương đối của quỹ bổ sung nhằm tăng thêm cho phần chi trả trợ cấp của
chế độ BHXH. Quan hệ BHXH là quan hệ lâu dài, tương đối ổn định và chủ
yếu là bắt buộc dựa trên quan hệ lao động và quan hệ phân phối. Quỹ tài
chính của loại hình BHXH được tồn tích và sử dụng liên tục qua các thế hệ
dưới sự bảo trợ chặt chẽ của Nhà nước.
1.2. Những vấn đề cơ bản về quản lý BHXH bắt buộc
Như đã nêu, BHXH ra đời và phát triển trong nền kinh tế hàng hoá, đầu
tiên là hình thức tự bảo hiểm của những người lao động, sau đó có sự tham
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
8
gia của giới chủ và Nhà nước. BHXH thường do một cơ quan trung gian đảm
nhận có nhiệm vụ quản lý quỹ do các bên tham gia đóng góp và chi trả các trợ
cấp cho đối tượng khi có nhu cầu phát sinh. Vì vậy, có thể tóm tắt những đặc
trưng cơ bản của BHXH là:
- Là loại bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động;
- Các rủi ro của người lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, mất việc làm già yếu (mất sức lao động), chết làm người
lao động bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Họ không có nguồn thu nhập khác
bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là một đặc trưng cơ bản của BHXH.
Quỹ BHXH được hình thành do sự đóng góp của người sử dụng lao
động, người lao động, nhà nước hỗ trợ và nguồn khác. Số tiền mà các bên
đóng góp được tập trung vào một quỹ riêng không nằm trong ngân sách Nhà
nước do tổ chức BHXH Việt Nam thống nhất quản lý để chi trả các chế độ trợ
cấp và hoạt động quản lý BHXH.
BHXH đảm bảo cho người lao động khi gặp rủi ro liên quan đến các
vấn đề như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già yếu.
Người tham gia BHXH được trợ cấp một khoản tiền nhằm bù đắp nguồn thu
nhập bị giảm hoặc mất để ổn định cuộc sống của bản thân và gia đình. Quyền
được hưởng trợ cấp phụ thuộc vào nghĩa vụ đóng góp, mức đóng góp và mức
hưởng BHXH đều có liên quan đến thu nhập của người được BHXH.
Các hoạt động của BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật.
Nhà nước bảo hộ cho các hoạt động BHXH bằng cách định ra chính sách
quốc gia về BHXH; quy định quyền hạn trách nhiệm các bên tham gia BHXH
cho phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước.
BHXH được áp dụng rộng rãi và thống nhất trong cả nước đối với các đối
tượng là cán bộ công nhân viên chức, người lao động trong các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế có sử dụng lao động hợp đồng 3 tháng trở lên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
9
1.2.1. Chế độ BHXH
Các chế độ BHXH từ xưa đến nay, ở tất cả các nước trên thế giới, đều có
mục đích chung là giúp đỡ những người tham gia BHXH giải quyết những khó
khăn về vật chất tạm thời, và ổn định cuộc sống lâu dài khi đã hết tuổi lao động.
Ở nước ta cũng vậy, chế độ BHXH đã được đề ra, bổ sung và phát triển
trong một thời gian dài: được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 và đã trải
qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi đặc biệt trong các năm 1961, 1985, 1995 và
2006. Năm 1961, một Nghị định của Chính phủ được ban hành để cung cấp
các dịch vụ phúc lợi xã hội cho tất cả các cán bộ, viên chức làm việc trong
ngành nội chính, giáo dục, y tế, các doanh nghiệp Nhà nước, nội vụ. Hệ thống
này chỉ chịu trách nhiệm bảo hiểm cho khoảng 600.000 - 700.000 người trên
tổng số dân là 17 triệu người của miền Bắc Việt Nam (theo số liệu năm 1962).
Năm 1964, Nghị định 218/CP thực hiện BHXH cho quân nhân. Từ năm 1975,
chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Chế độ BHXH
bao gồm: trợ cấp hưu trí, mất sức lao động và tử tuất, cùng với các chế độ ốm
đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp do cơ quan, đơn vị và
doanh nghiệp đóng góp. Trước năm 1995, BHXH do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội chịu trách nhiệm quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài
hạn (hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người nghỉ
việc), Tổng Liên đoàn Lao động chịu trách nhiệm quản lý thực hiện các
khoản chi trả trợ cấp ngắn hạn (trợ cấp đau ốm, thai sản và tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp đối với người đang làm việc).
Từ tháng 01/1995, Bộ Luật Lao động có hiệu lực, trong đó có chương
XII về BHXH. Để hướng dẫn thực hiện Bộ Luật Lao động, ngày 16/02/1995
Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP của Chính phủ thành lập hệ thống
BHXH Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức thực hiện các chế độ,
chính sách về BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH. Ngày 26/01/1995,
Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 12/CP về điều lệ BHXH đối với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
10
dân sự với 5 chế độ BHXH: chế độ trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản; trợ cấp
tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ trợ cấp tử tuất.
Và ngày 15/07/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45 quy định về
BHXH đối với quân sự (quân đội, công an). Trong 2 nghị định của Chính phủ
có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người
sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương và người lao động đóng 5% tiền
lương hàng tháng. Quỹ này được sử dụng để chi cho 5 chế độ trên. Quỹ
BHXH được bảo tồn, tăng trưởng và được Nhà nước bảo hộ.
Từ tháng 01 năm 2007, chế độ chính sách BHXH được hoàn thiện và
có tính pháp lý cao, đó là Luật BHXH số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với 6 chế độ BHXH:
chế độ trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản; trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề
nghiệp; chế độ hưu trí; chế độ trợ cấp tử tuất và chế độ bảo hiểm thất nghiệp
(riêng chế độ bảo hiểm thất nghiệp thực hiện từ tháng 01 năm 2009). Theo
quy định hiện hành thì người sử dụng lao động đóng góp 17% tổng quỹ lương
cấp bậc chức vụ và các phụ cấp khác (nếu có) người lao động đóng góp 6%
tiền lương của bản thân, Nhà nước bảo trợ một phần để đảm bảo thực hiện các
chế độ BHXH với người lao động.
1.2.2. Tài chính của BHXH
Lợi ích thiết thực của người tham gia bảo hiểm (dù theo loại hình bảo
hiểm bắt buộc hay tự nguyện) là được cơ quan BHXH trợ cấp kịp thời, nhằm
bù đắp một phần thu nhập bị giảm sút hoặc mất đi do gặp rủi ro. Do vậy,
nhiệm vụ của cơ quan BHXH là phải có nguồn tài chính để sẵn sàng đáp ứng
kịp thời nhu cầu của mọi người được bảo hiểm.
Nguồn tài chính của BHXH còn phải để trang trải các chi phí quản lý
bộ máy từ trung ương đến địa phương. Nguồn tài chính đó cần phải vững
chắc và đều đặn. Các ngành kinh tế xã hội phải phát triển, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động của cơ quan BHXH, phải luôn đảm bảo có một lượng dự trữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
11
có thể ứng phó những tình huống đột xuất, như dịch bệnh lan tràn, số người
thôi việc có nhu cầu lĩnh trợ cấp một lần, hoặc có số người về hưu sớm
Nguồn tài chính của BHXH được hình thành từ ba nguồn chính, đó là mức
đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của Nhà
nước. Ở Việt Nam trước khi có Nghị định số 19/CP thì phần thu của BHXH
chủ yếu là do Ngân sách Nhà nước cấp, sau khi có Nghị định số 19/CP của
Chính phủ và Nghị số 100/2002/NĐ-CP thì nguồn tài chính của BHXH tách
dần khỏi ngân sách Nhà nước thu từ người sử dụng lao động, người lao động
được hỗ trợ của Chính phủ.
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của nhà nước,
hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được thực hiện các
biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của Chính phủ.
1.2.3. Điều kiện thực hiện chế độ BHXH
Các điều kiện cơ bản để thực hiện và mở rộng chính sách BHXH cho
người lao động trong các thành phần kinh tế là:
- Điều kiện kinh tế
Kinh tế phát triển là điều kiện tiên quyết và trực tiếp để mọi người lao
động có thể tham gia BHXH. Bởi vì, muốn tham gia BHXH thì phải có khả
năng đóng góp vào quỹ BHXH. Đây là yếu tố đòi hỏi người lao động trực tiếp
hoặc gián tiếp sản xuất phải có thu nhập không chỉ đủ bù đắp chi phí sản xuất,
trang trải chi tiêu cho cuộc sống mà còn phải có tích luỹ một phần để tham gia
đóng góp vào quỹ BHXH, nhằm đảm bảo cho cuộc sống của họ trong tương
lai khi hết tuổi lao động hoặc lúc ốm đau. Nguyện vọng và nhu cầu này của
người lao động chỉ có thể đạt được khi làm ăn có hiệu quả, có tích luỹ. Như
vậy, để mở rộng được BHXH trong tương lai phải chú ý những yếu tố sau:
Một là: Việc hoạch định chính sách BHXH cho các thành phần kinh tế
phải dựa trên cơ sở thu nhập thực tế đảm bảo mức sống chung của người lao
động theo hướng được nâng cao. Theo kinh nghiệm của các nước, BHXH của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
12
một quốc gia muốn phát triển được thì GDP bình quân đầu người phải đạt
khoảng 1.000USD/năm trở lên. Trong điều kiện này khả năng mở rộng
BHXH cho người lao động sẽ tỷ lệ thuận với mức tăng trưởng của GDP bình
quân đầu người. Ở Việt Nam qua nghiên cứu cho thấy: Để người lao động có
thể tham gia BHXH, người lao động phải có thu nhập ổn định bình quân ở
mức 1.500.000 đồng/tháng trở lên.
Hai là: Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ phải có lãi sau
khi đã trừ chi phí để tái sản xuất và tham gia các khoản đóng góp với Nhà
nước trong đó có BHXH.
Ở Việt Nam, trong những năm qua mức thu nhập và chi tiêu của các hộ
dân cư ở các vùng miền từ thành thị đến nông thôn đều tăng so với thời kỳ
đầu những năm 90 của Thế kỷ XX. Thu nhập bình quân đầu người tăng
khoảng 3,1 lần, khu vực thành thị tăng 5 lần và khu vực nông thôn tăng 2,7
lần so với năm 1993. Đây là yếu tố quan trọng để có thể vận động người dân
tham gia.
- Điều kiện pháp lý:
Đây là điều kiện liên quan đến việc ban hành và quản lý Nhà nước đối
với BHXH là tạo ra hành lang pháp lý, chính sách cho BHXH. Đây cũng là
yếu tố quan trọng then chốt, giúp cho hệ thống BHXH có được cơ sở vững
chắc để tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và phục vụ tốt hơn
cho người lao động. Ở đây, các nội dung BHXH cần được thể chế hoá trong
pháp luật BHXH và trong các ngành luật có liên quan.
Ngoài ra, phải tiếp tục thể chế hoá chính sách và pháp luật về BHXH
cho phù hợp với từng loại đối tượng tham gia BHXH, đảm bảo cơ chế quản lý
BHXH phải rõ ràng, thông thoáng, đúng luật và tạo điều kiện thuận lợi cho
người tham gia bảo hiểm, có như vậy, mới thu hút được đông đảo đối tượng
tham gia và thực hiện BHXH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
13
Đồng thời, Nhà nước phải có cơ chế định hướng đầu tư đảm bảo an
toàn và tăng trưởng quỹ, bảo tồn được vốn có lãi. Vấn đề bảo tồn và tăng
trưởng quỹ BHXH là nhiệm vụ quan trọng của ngành BHXH. Do vậy, Nhà
nước phải có chính sách ưu tiên cho việc đầu tư của quỹ BHXH.
- Điều kiện về tổ chức thực hiện
Một trong những điều kiện quan trọng quyết định, đến việc mở rộng
chính sách BHXH là khả năng tổ chức thực hiện chính sách BHXH của cơ
quan BHXH và Nhà nước. Điều kiện này thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH cho người lao động
trong mọi thành phần kinh tế phải có bước đi thích hợp; trước tiên phải tổ
chức thực hiện thật tốt loại hình BHXH bắt buộc và thực hiện thử nghiệm sẽ
rút kinh nghiệm để loại hình BHXH tự nguyện, đặc biệt là BHXH đối với
nông dân. Sau đó tiến hành trên diện rộng.
Hai là, việc tổ chức bộ máy thực hiện sự nghiệp BHXH cho các thành
phần kinh tế phải đảm bảo tính hệ thống, tập trung; trình độ cán bộ phải được
nâng cao ngang tầm với yêu cầu của xã hội và phải được Nhà nước, Chính
phủ kiểm tra, giám sát quỹ BHXH.
1.2.4. Chức năng của BHXH
BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã hội rất cao. Vì
vậy, về tổng quát BHXH có những chức năng sau:
Chức năng đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thiếu hụt thu nhập của người
lao động và gia đình họ. Đây là chức năng cơ bản thực hiện rõ bản chất kinh
tế và bản chất xã hội của BHXH.
Chức năng phân phối lại thu nhập: Chức năng này thực hiện khi người
lao động tham gia BHXH thực hiện việc san sẻ rủi ro với cộng đồng theo thời
gian BHXH; thực hiện phân phối lại theo chiều ngang giữa các nhóm người,
giữa các thế hệ tham gia BHXH và thực hiện nguyên tắc: "Lấy của số đông bù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
14
cho số ít” góp phần tạo ra tinh thần tương trợ giúp đỡ giữa các nhóm người
lao động.
Người lao động hàng tháng chỉ phải trích một tỷ lệ nhỏ từ thu nhập của
mình đóng góp cho quỹ BHXH, nhưng với số đông người tham gia sẽ có một số
tiền đủ lớn, đủ trang trải cho những người không may mắn rủi ro. Nhờ đó mà
BHXH đã tạo ra sự đoàn kết tương trợ và gắn kết lợi ích của các bên tham gia.
BHXH là một chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia, vì nó liên
quan đến đời sống của đông đảo người lao động. Vì vậy, quản lý BHXH là
nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động của hệ thống BHXH. Quản lý BHXH có
hai bộ phận, đó là quản lý Nhà nước về BHXH và quản lý hoạt động sự
nghiệp BHXH.
Quản lý Nhà nước về BHXH xuất phát từ chức năng xã hội của Nhà
nước. Việc quản lý này thực hiện trên các nội dung sau:
- Quản lý toàn bộ hệ thống BHXH trên phạm vi quốc gia: thực hiện
hoạch định các chính sách vĩ mô về BHXH: xây dựng và ban hành các chế
định về chế độ BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
trong từng giai đoạn cụ thể.
- Xây dựng luật BHXH, ban hành các văn bản pháp qui và văn bản
dưới luật để thực hiện pháp luật về BHXH thống nhất trong phạm vi cả nước.
- Định hướng các hoạt động BHXH: xem xét và quy định hình thành
các loại hình BHXH hợp lý.
- Thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sự nghiệp
BHXH: xử lý các vi phạm, các tranh chấp xảy ra về BHXH.
Để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về BHXH, đòi hỏi phải có
bộ máy quản lý. Ở nước ta hiện nay quản lý về BHXH được giao cho Bộ Lao
động- Thương binh và Xã hội. Giúp cho việc quản lý hệ thống BHXH có Hội
đồng quản lý. Trong Hội đồng quản lý có các đại diện của Nhà nước, đại diện
của người lao động, người sử dụng lao động và đại diện lãnh đạo cơ quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
15
BHXH. Cụ thể, Hội đồng quản lý BHXH bao gồm đại diện Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam; Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tham gia Hội đồng quản lý với tư
cách là uỷ viên.
1.2.5. Vai trò ý nghĩa của BHXH
BHXH ra đời là một yêu cầu tất yếu khách quan, nó góp phần hoàn
thiện hệ thống công cụ quản lý xã hội ở nước ta; nó bảo đảm đầy đủ quyền
lợi nghĩa vụ của mỗi công dân đối với đất nước và đối với bản thân mình,
thực hiện “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
Trình độ phát triển của BHXH được quyết định bởi mức độ phát triển
của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thì điều kiện cho việc thực hiện
BHXH càng cao. Ngược lại hoạt động của BHXH kém hiệu quả sẽ gây ra
những ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy, BHXH là một trong những chính sách trụ cột, quan trọng
không thể thiếu của mỗi quốc gia nhằm bình ổn đời sống kinh tế, xã hội và
góp phần làm vững chắc thể chế chính trị.
- BHXH đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
Từ lâu, loài người đã ý thức rõ rằng, phát triển là một quá trình, trong đó
các nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau, thúc đẩy
lẫn nhau. BHXH sẽ có những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế thông
qua việc đảm bảo và cải thiện đời sống người lao động, BHXH chính là cách:
đầu tư trực tiếp cho nguồn nhân lực, yếu tố cơ bản và quyết định mọi quá trình
phát triển.
Mối quan hệ giữa nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội, giữa lao động và
sinh hoạt, giữa sản xuất và tiêu dùng là mối quan hệ biện chứng. Việc nâng
đời sống vật chất của mỗi cá nhân là mục tiêu quan trọng của sự phát triển
kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện các mục
tiêu xã hội. Ngược lại, thực hiện tốt chính sách xã hội sẽ có tác dụng điều hoà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
16
các mối quan hệ xã hội, tạo đà cho phát triển kinh tế. Vì vậy, nếu Nhà nước
có chính sách hợp lý, tiến bộ, sẽ tạo ra động lực phát triển kinh tế.
- BHXH thực hiện tình đoàn kết cộng đồng tạo sự giúp đỡ lẫn nhau,
tăng cường tính tương thân tương ái
BHXH có tính bắt buộc về nguyên tắc, song vẫn đảm bảo tính tự
nguyện về lợi ích. Hàng tháng, người lao động chỉ phải trích nộp một tỷ lệ
nhỏ từ thu nhập đóng quỹ BHXH, nhưng với số lượng lớn người tham gia sẽ
có một khoản tiền lớn đủ trang trải cho những người bị rủi ro cho họ. Nhờ
vậy, BHXH đã tạo ra sự đoàn kết, tương trợ và gắn kết lợi ích của các bên
tham gia. Việc người lao động đóng BHXH có ý nghĩa về mặt tâm lý đáng kể,
một mặt xoá bỏ những nhận thức sai lệch về BHXH, coi BHXH là một sự ban
ơn, bao cấp mặt khác nhắc nhở ý thức trách nhiệm của người tham gia.
Ý nghĩa quan trọng nhất của BHXH là ở chỗ người may mắn đóng
BHXH để trợ giúp cho những người rủi ro. Vì vậy, việc người lao động phải
đóng BHXH có tầm quan trọng trong việc củng cố tình đoàn kết cộng đồng.
Ở nước ta hiện nay, đối tượng được BHXH chỉ mới là cán bộ công nhân
viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang, những người lao động trong các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có sử dụng lao động. Trong khi đó
những người lao động tự do, làm việc theo mùa vụ, những người sản xuất nông
nghiệp chưa được BHXH. Đây lại là lực lượng lao động chiếm một tỷ lệ cao
hơn 80% dân số. Mặc dù một số năm qua, phạm vi đối tượng BHXH đã được
mở rộng, nhưng mới chỉ thực hiện bảo hiểm được khoảng 15% tổng số lao
động. Đây quả là một con số còn khiêm tốn. Chỉ khi, BHXH được áp dụng cho
mọi người kinh doanh, mọi người lao động thì ý nghĩa đoàn kết mới được phát
huy triệt để, sâu rộng.
Tóm lại, sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội là một
trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội, góp phần hoàn thiện
những giá trị nhân bản, đảm bảo cho sự phát triển xã hội một cách lành mạnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
17
1.3. BHXH trên thế giới
Trong thời cổ đại, con người ngoài phần nỗ lực của bản thân còn phải
đoàn kết lại với nhau để kiếm sống và đấu tranh với thiên nhiên. Khi gặp rủi
ro mỗi người tự phải chịu đựng và khắc phục. Sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau
mang tính tự phát và mới được thực hiện trong phạm vi các thành viên trong
gia đình, thân tộc, một nhóm người hay các thành viên cùng bộ lạc.
Đến giai đoạn có phân công lao động, sản xuất phát triển thì quan hệ
tác động lẫn nhau giữa cá nhân, giữa các cộng đồng được mở rộng. Tôn giáo
phát triển, hội nhà chùa, hội nhà thờ được hình thành. Sự trợ giúp này mang
mục đích từ thiện, nhằm giúp đỡ các tín đồ, đạo hữu khi gặp các nghịch cảnh
rủi ro nghèo đói, mồ côi, bệnh tật Những hoạt động nhân ái của người lao
động đã thức tỉnh thêm "tính bản thiện" trong các nhà cầm quyền và cũng để
ngăn chặn rối loạn xã hội có thể nảy sinh làm ảnh hưởng đến địa vị thống trị.
Không ít nhà cầm quyền đã tham gia hoạt động từ thiện, trích công quỹ để tế
bần, phát chẩn cho những người túng đói. Nhiều ông Vua, bà Chúa coi việc hỗ
trợ các gia đình nhằm giảm thiểu nghèo đói không chỉ là nghĩa vụ nhân đạo mà
còn là một trong những nguyên tắc quan trọng để yên dân, thịnh nước.
Đến giai đoạn công nghiệp phát triển, chủ nghĩa tư bản ra đời, hàng loạt
người lao động nông thôn chuyển ra thành thị tìm việc làm và sinh sống. Số
người làm công ăn lương tăng mạnh. Trong khoảng từ thế kỷ 16 đến thế kỷ
18, một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, tình đoàn kết tương thân, tương ái
giữa những người làm thuê được phát triển và lan rộng ở nhiều nơi. Ở một số
nước Châu Âu nhiều quỹ tương trợ được thành lập. Ví dụ, Anh năm 1973 có
hội “Bằng hữu”. Hội này đã giúp hội viên trong các trường hợp ốm đau,
thương tật. Đặc biệt đến giai đoạn cách mạng công nghiệp, giai cấp công nhân
công nghiệp ngày càng đông bao gồm những người lao động thành thị, lao
động nông thôn, làm công ăn lương. Họ lấy tiền lương làm nguồn sống chủ
yếu. Nếu ốm đau, tai nạn, sinh con phải nghỉ việc và không có lương cuộc