Tải bản đầy đủ (.docx) (163 trang)

Văn xuôi việt nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.42 KB, 163 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đầu những năm 1990, lí thuyết chấn thương trỗi dậy như một điểm
nhấn đáng chú ý trong bối cảnh học thuật Hoa Kì. Nó trở thành một khuynh hướng
lí luận phê bình nổi bật, nơi ngưng tụ nhiều vấn đề khác nhau (Geoffrey Hartman).
Ngồi cái cảm giác mang tính đương đại như Geoffrey Hartman đã nói, sự phát
triển của phê bình chấn thương còn chạm đến nỗi bất an sâu xa nhất của nhân loại:
nó cảnh báo về những trạng thái bạo lực ln âm ỉ, có nguy cơ bùng phát và đe dọa
đến đời sống hiện sinh của con người. Người ta nhận ra rằng, sự bất ổn đó có thể
tồn tại bất kì đâu, trong bất cứ chiều kích khơng – thời gian nào, từ dấu vết trong
đời sống cá nhân cho đến cộng đồng, dân tộc. Bởi, xét đến cùng, lịch sử nhân loại
đã từng đi qua biết bao những cơn chấn động khủng khiếp: những cuộc chiến tranh
xóa sổ cả một dân tộc, xung đột sắc tộc, tôn giáo, diệt chủng, thảm họa môi trường,
dịch bệnh… Lịch sử đau thương đó đã góp phần đóng dấu kí ức tập thể vào trong
tiềm thức của mỗi cá nhân, khiến không ít người cho rằng: chính nỗi đau mới thực
sự ghi dấu trạng thái hiện tồn của cá nhân con người trong cuộc đời này. Từ góc
nhìn đó, rõ ràng lí thuyết chấn thương mang giá trị nhân bản sâu sắc. Nó khiến cho
con người lắng nghe tiếng vọng của những vết thương trong quá khứ để thấu hiểu
hơn những bất ổn ngầm ẩn trong đời sống hiện tại.
Sự hình thành và phát triển năng động của lí thuyết chấn thương, một mặt,
vừa xuất phát từ nhu cầu con người muốn nhận thức lại những kinh nghiệm lịch sử
khủng khiếp, tàn bạo mà những tác động của chúng ln có thể di căn sang hiện tại;
mặt khác, vừa do thực tế của xã hội nhiều bạo động, áp lực cho phép các chấn
thương trong hình thức cũ và mới tiếp tục làm tổn hại con người cả về tinh thần lẫn
thể chất. Nói lí thuyết chấn thương nằm trong cái gọi là khúc ngoặt đạo đức của lí
thuyết đương đại là vì thế: nó khắc phục được nhược điểm của lí thuyết ở giai đoạn
trước khi nhiều học giả cho rằng lí thuyết khơng có khn mặt con người.
Với chất liệu đặc thù và cách thức sáng tạo riêng, văn học trở thành phương
tiện hữu hiệu giúp con người quan sát được các chấn thương. Đặc biệt, văn xuôi,
với đặc trưng của việc kể, với khả năng hấp thu mọi tần số, mọi xung động trong



cuộc đời, bằng việc chối từ những gì thi vị hóa (vốn dĩ thường thấy trong thơ), lại
chính là thể loại thể hiện được những ưu thế của nó trong việc biểu đạt chất thương.
Thực tế là, đến những năm 90, kinh nghiệm về chấn thương của con người không
thể chỉ là đối tượng của một ngành nghiên cứu. Trong các loại hình nghệ thuật, văn
chương ngày càng thể hiện ưu thế đặc biệt trong việc biểu hiện và lưu giữ những
trạng thái chấn thương của con người. Dẫu các nghệ thuật khác cũng miêu tả chấn
thương, nhưng phải bằng ngôn từ của văn học, các dạng biểu hiện của chấn thương
mới được gọi tên, mới lộ hình hài, mới cất lên được tiếng nói (the voice of wound).
Chấn thương trong văn học, vì thế, khơng chỉ giúp con người nhìn sâu vào những
kinh nghiệm và những nếm trải của nhân tính mà cịn góp phần chất vấn lịch sử, vén
những bức màn bí mật, tìm câu trả lời cho sự thật bị chôn giấu.
1.2. Việt Nam là mảnh đất còn di căn nhiều vết thương trong quá khứ. Trên
cái nền thực tại ấy, một bộ phận văn học sẽ là tiếng nói của những vết thương than
khóc (crying wound). Cái âm vọng trong dòng chảy lịch sử văn học ấy, đã trở lại
mãnh liệt hơn bao giờ hết trong văn học sau 1975, bởi vết thương chiến tranh của
dân tộc Việt vẫn còn mưng mủ, và đời sống thế sự thời hậu chiến đã lộ diện bao
điều bất trắc. Lần đầu tiên, độc giả biết được, đằng sau hào quang của chiến thắng là
những vết thương vẫn còn nhức nhối: nỗi ám ảnh từ kí ức kinh hồng của chiến
tranh, những thân phận người với bao bi kịch giữa đời thường… Bên cạnh những
nhà văn đã có một quãng đời sống và viết dưới thời máu lửa, cịn có những cây bút
dù chưa từng trải qua thực tế chiến tranh tàn khốc, nhưng vẫn cảm nhận được những
sang chấn tâm lí âm ỉ trong kí ức cộng đồng. Ngồi ra, hiện thực bất ổn muôn thuở
của đời sống nhân sinh, với những chấn thương tâm lí hiện đại cũng là mảng đề tài
nóng bỏng thúc giục nhà văn khám phá. Việc nhìn nhận những chấn thương được
biểu đạt qua văn học, một mặt giúp ta thấy được sự phát triển tương ứng của văn
học với các xung động của đời sống, mặt khác nhấn mạnh ưu thế của văn chương
trong việc gọi tên được những trạng thái của chấn thương.
1.3. Lí thuyết văn học đóng vai trị quan trọng trong việc tiếp cận các hiện
tượng văn học. Các lí thuyết hiện đại giúp cho việc nghiên cứu văn học Việt Nam

có thêm những cơng cụ, những hệ quy chiếu mới để phân tích, đánh giá và tạo ra


những đối thoại học thuật cần thiết. Từ khi Đổi mới đến nay, các lí thuyết về văn
học có điều kiện du nhập vào Việt Nam, trở thành công cụ hữu hiệu giúp các nhà
nghiên cứu soi nhìn các hiện tượng văn học dưới nhiều góc độ. Dĩ nhiên, khơng một
lí thuyết nào là vạn năng, nhưng bản thân mỗi lí thuyết đều gợi dẫn những hướng
tìm tịi cần thiết. Thành tựu nghiên cứu văn học ở Việt Nam trong khoảng ba thập
niên gần đây đã chứng minh điều đó. Bên cạnh thi pháp học, kí hiệu học, phê bình
nữ quyền, phê bình sinh thái, lí thuyết trị chơi… lí thuyết chấn thương tuy đã được
biết đến, nhưng vẫn chưa thâm nhập sâu vào đời sống học thuật ở Việt Nam, và do
vậy, việc áp dụng nó vào nghiên cứu văn học vẫn cịn khá hạn chế.
1.4. Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Văn xuôi Việt Nam giai đoạn
1975 đến nay từ cách đọc chấn thương để nghiên cứu. Thực hiện đề tài này, chúng
tôi muốn trình bày một cách đọc: tiếp cận, diễn giải văn xi đương đại Việt Nam –
một thực thể có sự vận động phức tạp – dưới góc nhìn lí thuyết chấn thương.
Với nỗ lực vượt qua những cách hiểu giản đơn, chúng tơi hi vọng sẽ phân
tích biểu hiện chấn thương và cơ chế hình thành chấn thương trong văn học Việt
Nam sau 1975 với diện mạo vốn có của nó.
2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tơi hướng tới những mục đích cơ bản sau đây:
- Khẳng định vị trí, vai trị của lí thuyết chấn thương trong bối cảnh nghiên
cứu khoa học nhân văn hiện đại của thế giới, tính khả dụng của lí thuyết chấn
thương trong nghiên cứu văn học. Đặc biệt, luận án cố gắng thiết lập một mơ hình
đọc chấn thương. Mơ hình đó sẽ khiến cho người ta có điểm tựa, có thao tác để có
thể nói về văn học chấn thương.
- Khẳng định những ưu thế của cách đọc chấn thương đối với bộ phận văn
xuôi Việt Nam sau 1975, đồng thời từ góc nhìn của lí thuyết chấn thương, khám phá
đặc sắc về nội dung tư tưởng cũng như hình thức biểu đạt của một số tác phẩm văn
xi Việt Nam từ 1975 đến nay.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Lí thuyết chấn thương là một dịng mạch lí thuyết đang có sự phát triển
rất năng động trong nghiên cứu, phê bình văn học ở phương Tây. Tuy nhiên, trong


lĩnh vực nghiên cứu nhân văn ở Việt Nam, chưa có một cơng trình nào mang tính
chất tổng thuật, giới thiệu, cập nhật lí thuyết này một cách hệ thống. Từ thực tế đó,
nhiệm vụ đầu tiên chúng tơi đặt ra trong luận án đó là khái quát lại diễn trình phát
triển của lí thuyết chấn thương, diễn giải các khái niệm cơ bản, đưa lại một bức
tranh tương đối hồn chỉnh về q trình hình, phát triển và khả năng ứng dụng của lí
thuyết chấn thương trong nghiên cứu văn học.
2.2. Thực tế cho thấy, lí thuyết chấn thương có sự đa dạng về cách tiếp cận.
Chúng tơi cũng ý thức được rằng, luận án sẽ không thể khảo sát được tất cả các
cơng trình nghiên cứu về chấn thương trên thế giới. Trong giới hạn của luận án,
chúng tơi, một mặt sử dụng lí thuyết của Cathy Caruth như dịng mạch lí thuyết
đóng vai trị hạt nhân để để thiết lập quan niệm của mình về chấn thương; mặt khác,
chúng tơi cịn kết hợp với những góc tiếp cận khác để từ đó xây dựng một bộ khung
hồn chỉnh, biện luận cho những kiến giải của mình. Bởi luận án muốn đi sâu thực
hành một lối đọc chấn thương – lối đọc dựa trên các thuật ngữ và thao tác phân tích
được gợi ý từ các lí thuyết gia của khuynh hướng này.
2.3. Văn chương vốn là nơi lưu giữ kinh nghiệm sống cũng như biểu đạt tư
tưởng của con người, trong đó kinh nghiệm chấn thương là một khía cạnh rất quan
trọng. Vấn đề chấn thương khơng chỉ gợi ra cách hiểu đối với lịch sử mà còn giải
mã những vấn đề phức tạp trong đời sống cá nhân con người – yếu tố trung tâm của
đời sống lịch sử đó. Tuy nhiên, bộ phận văn học mô tả chấn thương của con người
chưa được quan tâm đúng mức, khái niệm chấn thương tuy đã được đề cập đến
nhưng chưa hề được xác định một cách chính xác về mặt nội hàm. Lấy văn chương
làm chất liệu để trình hiện một lối đọc chấn thương, chúng tơi muốn làm rõ:
chương, ở một phương diện nào đó, có thể gọi tên các giải phổ chấn thương của con
người; mặt khác, từ những khám phá thế giới nội tâm vô cùng phức tạp của con

người bởi những tác động có tính chấn thương, chúng tơi muốn nhấn mạnh rằng
cách đọc chấn thương có thể chất vấn các cơ chế gây ra và bảo lưu các chấn thương
trong đời sống; các cơ chế làm con người quên đi chấn thương trong nhiều trường
hợp, nhất là những chấn thương lịch sử.
2.4. Đọc văn xi Việt Nam dưới ánh sáng của lí thuyết chấn thương, luận
án cũng tập trung làm rõ những nét tiêu biểu trong lối viết chấn thương của một bộ


phận nhà văn; thấy được chấn thương có thể tác động mạnh mẽ tới cách thức tổ
chức trần thuật.
4. Đối tượng, phạm vi và tư liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975
đến nay – một hiện tượng phức tạp và đang vận động khơng ngừng. Đối tượng đó
được “đọc” từ cách đọc chấn thương, nói cách khác, luận án tiếp nhận lí thuyết chấn
thương và vận dụng nó để khảo sát các tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến
nay ở các thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí. Phạm vi khảo sát tương đối rộng (cả
về thời gian và thể loại) như vậy mới giúp nhận diện những dấu vết, những biểu
hiện của chấn thương trong văn học một giai đoạn, đáp ứng những đòi hỏi của đề tài
nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, luận án sẽ áp dụng, phối hợp các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Lí thuyết chấn thương vốn liên quan
đến nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn, cho nên phương pháp liên ngành tất
yếu phải được sử dụng khi triển khai nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra trong luận
án. Theo đó, văn xi Việt Nam từ 1975 đến nay sẽ được chúng tơi tiếp cận từ các
góc độ: triết học, phân tâm học, văn hóa học, ngữ văn…
- Phương pháp hệ thống: Chấn thương không hề tồn tại biệt lập, mà chỉ là
một biểu hiện trong đời sống tinh thần của con người. Vấn đề chấn thương trong
văn xi Việt Nam đương đại cũng có quan hệ với nhiều vấn đề khác của một diễn

trình văn học. Hơn thế, lí thuyết chấn thương, bản thân nó cũng là một hệ thống,
gồm nhiều khía cạnh, nhiều thành tố. Do vậy, áp dụng lí thuyết chấn thương để
nghiên cứu thực tế văn học như luận án đã xác định đòi hỏi phải áp dụng phương
pháp hệ thống để tránh rơi vào tình trạng phiến diện, siêu hình.
- Phương pháp loại hình: Bản thân một nền văn học ln ln là một thực
thể mang tính loại hình, nghĩa là những đặc điểm của nó được thể hiện trong những
điều kiện lịch sử cụ thể. Việc áp dụng phương pháp loại hình nghiên cứu chấn
thương trong văn xuôi Việt Nam đương đại là đòi hỏi tất yếu. Trong luận án,


phương pháp loại hình sẽ thể hiện tính ưu việt trong việc phân loại chấn thương, các
kiểu nhân vật chấn thương…
- Phương pháp phân tích cấu trúc văn bản nghệ thuật: Sử dụng lí thuyết
chấn thương vào nghiên cứu thực tế văn học đã xác định, thực chất là dùng ánh sáng
lí thuyết ấy để soi tỏ các tác phẩm văn học. Những luận điểm về chấn thương trong
văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến nay phải được rút ra trên cơ sở phân tích văn bản
văn học. Ngồi ra, khơng có con đường nào khác.
6. Đóng góp của luận án
- Luận án là cơng trình đầu tiên ở Việt Nam giới thiệu một cách có hệ
thống về lí thuyết chấn thương, quá trình hình thành, sự phát triển, nội dung chủ yếu
và tính khả dụng của nó trong nghiên cứu các lĩnh vực, trong đó nổi trội nhất là
nghiên cứu văn học.
- Luận án đã cho thấy được tính khả dụng của việc thực hành cách tiếp cận
văn học từ lí thuyết chấn thương để giải quyết những vấn đề của văn xuôi Việt Nam
giai đoạn 1975 đến nay, đặc biệt đi sâu vào phân tích chủ đề chấn thương trong đời
thường, góp phần mở rộng phạm vi của văn học chấn thương. Đây là khía cạnh
chưa từng được đề cập trong các nghiên cứu trước đây.
- Việc nghiên cứu chấn thương trong văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến nay
không chỉ giúp khám phá chiều sâu của một bộ phận văn học, khẳng định tính đặc
thù (dân tộc, lịch sử) và tính phổ qt (nhân loại) của nó, mà cịn nhìn thấy một

khơng gian tiềm năng cho sáng tạo văn học trong tình hình hiện tại. Trong bối cảnh
hội nhập, tồn cầu hóa diễn ra như hiện nay, kiểm chứng hiệu quả của việc áp dụng
lí thuyết hiện đại vào việc khảo sát các dữ kiện văn học Việt Nam là rất có ý nghĩa.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Nhận diện chấn thương và văn học chấn thương
Chương 3. Một số chủ đề chấn thương trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn
1975 đến nay
Chương 4. Chấn thương và cấu trúc tự sự trong văn xuôi Việt Nam giai


đoạn 1975 đến nay.


Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lí thuyết chấn thương như là một cách đọc văn học
Lí thuyết (theory) bắt nguồn từ thuật ngữ “theōria” (θεωρία) trong tiếng Hy
Lạp cổ, được hiểu là “suy ngẫm, suy đoán” [1]; hoặc “chiêm nghiệm về bản chất
của sự vật” [2]. Thuật ngữ này được nhắc tới đầu tiên vào cuối thế kỉ XVI gắn với
tên tuổi của Christopher Marlowe, một nhà thơ, nhà viết kịch người Anh. Việc truy
nguyên ý nghĩa của lí thuyết từ một thuật ngữ cổ xưa có thể gợi nhắc chúng ta về
một phần bản chất của các cách tiếp cận lí thuyết đối với văn học. Bởi “theoria”
nhằm chỉ một góc nhìn hoặc một viễn cảnh của sân khấu Hy Lạp. Đó cũng chính là
những gì lí thuyết văn học hướng tới. Lí thuyết (Literary Theory) liên quan đến các
hoạt động diễn dịch ý nghĩa của các văn bản trên thế giới này. Mà diễn dịch, về cơ
bản chính là trình diễn một lối đọc, trong đó, hoạt động đọc chính là q trình chúng
ta truy tìm, kiến tạo, chất vấn các ý nghĩa trong đời sống.
Jonathan Culler trong cơng trình Nhập mơn lí thuyết văn học khi đi vào diễn
giải về lí thuyết và ý nghĩa của lí thuyết cho rằng, thực ra khơng hề dễ dàng để đi

tìm câu trả lời cho câu hỏi Lí thuyết là gì?. Đối với ngành nhân văn, đặc biệt trong
lĩnh vực nghiên cứu văn chương, lí thuyết “đã thay đổi đáng kể bản chất của nghiên
cứu văn học” [3; 11-12], tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là lí thuyết chỉ thuộc về
địa hạt của văn chương. Lí thuyết, theo ông, hướng đến một thứ khác. Khi quan
niệm lí thuyết như là một thể loại – một dạng nghĩ và viết có giới hạn vơ cùng khó
xác định, Jonathan Culler đã chỉ ra được một thực tế rằng có những cơng trình lí
thuyết vượt lên trên lĩnh vực gốc. Điều đó có nghĩa là lí thuyết thách thức những
giới hạn, định hướng tư duy trong các vấn đề nằm ngoài lĩnh vực của chúng. Quan
điểm của Jonathan Culler đã chỉ ra được tình trạng trong thực tế chuyển động của lí
thuyết phương Tây. Rõ ràng trên diễn trình phát triển của ngành nhân văn, lí thuyết
ln triển hạn những khả thể của nó. Sự vận động của các hệ hình lí thuyết nằm ở
chỗ các hệ hình ấy lấy cái gì là tâm điểm của sự diễn giải. Từ những năm 1949 của
thế kỉ XX, với sự ra đời của cơng trình Lý luận văn học (Wellek và Warren) – cơng
trình đầu tiên trình bày các vấn đề lí thuyết phê bình văn học một cách hệ thống,


khoa học. Vào thời điểm đó, lí thuyết được xem là “cách chúng ta nói, sắp xếp và
suy ngẫm về những gì đang làm với tư cách là một nhà phê bình: một loại ngơn ngữ
lấy thực hành phê bình làm đối tượng của nó” [4; 2]. Tuy nhiên, hơn hai thập niên
trở về sau, lí thuyết dường như đã nới rộng đường biên. Cuộc cách mạng lí thuyết
vào những năm 1960, 1970 đã phá vỡ thế độc tôn của mơ hình thống trị tập trung
vào ngơn ngữ của Phê bình mới Anh - Mỹ và Chủ nghĩa cấu trúc. Ở thời điểm này,
quyền bá chủ của các học thuyết tập trung vào ngôn ngữ đã dần suy yếu. Vậy nên,
nếu như lí thuyết trước năm 1970 thường được hiểu là lí thuyết văn học thì lí thuyết
sau năm 1970 rẽ hướng, tạo nên nhiều khúc ngoặt trên bối cảnh văn hóa rộng lớn.
Sự ra đời và trỗi dậy của lí thuyết chấn thương nằm trong mạch vận động đó của lí
thuyết đương đại.
Như vậy, về bản chất, ở ý nghĩa sâu xa nhất, lí thuyết, đặc biệt là lí thuyết
đương đại là lí thuyết về việc diễn dịch, cụ thể, lí thuyết tồn tại như là một cách đọc.
Điều đó cũng có nghĩa là lí thuyết đương đại là sự tiếp nối, thay thế của các mơ hình

đọc khác nhau, trong đó khơng có cách đọc nào là tồn năng, mỗi cách đọc có thể
làm nổi bật một số khía cạnh của văn bản mà truyền thống đọc cấu trúc luận ít quan
tâm. Đối tượng của sự đọc ở đây chính là văn bản theo nghĩa rộng, chứ khơng phải
chỉ là văn chương. Và các văn bản đời sống đó khơng chỉ được nhìn dưới lăng kính
duy nhất mà cịn được quan sát dưới rất nhiều góc độ. Đó là lí do tại sao các lí
thuyết khơng ngừng sinh sơi nảy nở, lịch sử của nghiên cứu phê bình văn học chính
là lịch sử vận động khơng ngừng của các lí thuyết. Ngồi ra, cũng như các lí thuyết
đương thời, lí thuyết chấn thương ra đời trên nền của văn hóa hậu hiện đại. Ngồi
việc khắc phục sự bế tắc của cách đọc tập trung vào văn bản, lí thuyết chấn thương
còn chống lại cái trung tâm, hướng tới sự phi trung tâm, tính liên ngành. Việc gọi
chấn thương như là một lí thuyết trong ngành nhân văn (cũng như cách gọi lí thuyết
về giới, lí thuyết chủng tộc, lí thuyết hậu thực dân…) đã góp phần giải phóng lí
thuyết ra khỏi tính đại tự sự, tiệm cận với những cái tiểu tự sự. Càng ngày chúng ta
càng thấy rằng lí thuyết khơng cịn bó hẹp trong diễn ngơn trung tâm của văn bản
khép kín mà đã mở rộng ra ở những giá trị ngoại biên, đối thoại với những diễn
ngôn, tư tưởng hiện đại. Và cách đọc chấn thương có thể hiểu là cách tiếp nhận lí


thuyết chấn thương, vận dụng nó vào việc đọc văn bản.
Tuy nhiên, sự giao cắt giữa các lí thuyết ngồi văn học và các văn bản văn
chương có thể trở thành chìa khóa vạn năng để mở ra vơ cùng những cách đọc đối
với văn bản văn học. Cụ thể ở đây, lí thuyết chấn thương có thể gợi ý cách đọc phân
tâm, trong đó những khái niệm được gợi ý từ Freud đã trở thành công cụ đắc lực
cho các nhà nghiên cứu nhận diện các triệu chứng bệnh học được mơ tả trong văn
bản. Bởi vì tính chất của nó là một lối đọc triệu chứng cho nên lối đọc chấn thương
tập trung nhận diện tính chấn thương. Chúng tơi cho rằng, lối đọc chấn thương có
thể đưa lại những ý nghĩa vơ cùng quan trọng và có tính phát hiện đối với những
thực thể văn chương sinh động và phức tạp. Thứ nhất, cách đọc ấy phải chỉ ra rằng:
các triệu chứng chấn thương được mô tả, nhận diện trong văn chương khác với
những vết thương thể chất. Nó là thứ lặn vào thế giới tinh thần, tác động tới vơ thức,

vơ cùng khó nắm bắt. Khơng phải lúc nào các nghiên cứu về bệnh lý cũng có thể
nhạy cảm hơn các cách tiếp cận của nghệ thuật đối với các trạng thái tinh thần của
con người. Thực chất ngơn ngữ miêu tả của bệnh lí trong văn bản y khoa vẫn là một
kiểu loại mô tả khá trừu tượng và duy lí. Chính vì thế nó có thể nhận diện được
nhưng khó có thể tạo sự đồng cảm, khó có thể khơi dậy cảm xúc. Hơn nữa, trong
văn hóa hậu hiện đại, chấn thương thực chất là đa ngành, nổi lên như một nơi ngưng
tụ cho rất nhiều vấn đề khác nhau (Geoffrey Hartman). Trong bối cảnh văn hóa
rộng lớn, chấn thương sẽ giao cắt, tiệm cận với những vấn đề nóng bỏng của đời
sống hiện đại như chủng tộc, môi trường, giới… Chấn thương về giới, đặc biệt là
giới tính thứ ba liệu có “vừa vặn” với bất kì bản mơ tả nào về y khoa? Hay nỗi mặc
cảm về chủng tộc (như chủng tộc Do Thái trong sự kiện Holocaust, chủng tộc người
da đen trong bối cảnh xung đột chủng tộc ở Châu Âu và Hoa Kì) – vấn đề trọng tâm
của đời sống và cảm thức phương Tây một thời liệu có thể được nhận diện đơn
thuần thông qua những thuật ngữ tâm lý học? Và liệu các chấn thương lịch sử có thể
được thanh giải thông qua những phương pháp trị liệu của y học? Những câu hỏi đó
sẽ dẫn tới những vấn đề quan trọng tiếp theo, mà theo chúng tôi thể hiện rõ ưu thế
của cách đọc chấn thương trong văn học. Đó là, ngồi việc nhận diện các triệu
chứng phức tạp, lối đọc chấn thương còn đi vào chất vấn nguyên nhân, nguồn gốc


của chấn thương. Cơ chế nào khiến cho chấn thương xảy ra và lưu cữu trong cõi
tinh thần của con người? Cơ chế nào khiến cho một trạng thái chấn thương được
nhận diện hay khơng được nhận diện? Thậm chí, phê bình chấn thương có tác động
trở lại việc tìm kiếm hình thức nghệ thuật, lối viết? Các khả thể đó khiến cho chấn
thương trong văn chương khơng bao giờ là sự mô phỏng của chấn thương trong
ngành tâm lý học, thậm chí nó cịn thách thức, chấn vấn tính duy lí của những phán
đốn tâm lý thuộc ngành này. Xa hơn nữa, cách đọc chấn thương cịn có khả năng
khôi phục lại đạo đức của việc đọc, giúp ngành Nhân văn vượt qua khỏi cơn khủng
hoảng và bế tắc trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học…
Bản thân cách đọc của lí thuyết chấn thương là cách đọc có tính vận động.

Đó là sự phát triển từ lối đọc triệu chứng sang lối đọc mang tính phản tư và tác động
trở lại thực tại. Tính vận động đó đến từ chính những chuyển động mạnh mẽ của
diễn ngơn lí thuyết này: sự chuyển dịch ý nghĩa của nội hàm khái niệm chấn
thương, sự tạo lập các hệ hình lí thuyết chấn thương qua từng giai đoạn phát triển,
từng ngã rẽ của lí thuyết chấn thương – chặng đường sẽ được chúng tơi giới thiệu
một cách có hệ thống dưới đây. Dõi theo một lí thuyết trên tiến trình lịch sử tư
tưởng nhân loại không chỉ giúp chúng ta hình dung một cách tổng quan về sức sống
và khả năng ứng dụng của một lí thuyết đã trở thành một phạm trù quan trọng trong
diễn ngơn lí thuyết và phê bình đương đại, mà cịn có thể đánh giá về tính khả dụng
của một cách đọc dựa trên các thuật ngữ và thao tác phân tích được gợi ý từ các lí
thuyết gia của khuynh hướng này.
1.2. Những chặng đường phát triển của lí thuyết chấn thương
Từ khi ra đời đến nay, lí thuyết chấn thương đã có một diễn trình phát triển
rất năng động trong bối cảnh học thuật của Hoa Kì và Châu Âu. Bắt nguồn từ một
thuật ngữ được sử dụng trong lĩnh vực y học, được nhận diện thông qua hàng loạt
triệu chứng về thể chất và thần kinh, chấn thương trở thành một khái niệm nổi bật
trong ngành nghiên cứu nhân văn. Trong quá trình hình thành và phát triển, chúng
tơi nhận thấy chặng đường của lí thuyết chấn thương có thể phân chia thành ba giai
đoạn như sau:
1.2.1. Chặng thứ nhất: thời kì manh nha của lí thuyết chấn thương
Những ý niệm ban đầu của con người về chấn thương được nhận diện trong


ý nghĩa y học của thuật ngữ này. Chấn thương được định nghĩa như là một vết
thương hay một tổn thương ngồi cơ thể nói chung. Tuy nhiên, đến nửa sau thể kỉ
XIX, đặc biệt tại Anh, dưới thời Victoria, thuật ngữ chấn thương chuyển nội hàm từ
vết thương thân thể, vết thương vật lí sang chấn thương tâm lí. Bước ngoặt ý nghĩa
đó bắt nguồn từ những sự kiện tai nạn tàu hỏa khủng khiếp mà nạn nhân của những
tai nạn đó phải chịu cả vết thương về thể xác lẫn những ám ảnh về tinh thần. Người
ta nhận ra rằng, dẫu vết thương thân thể được chữa lành hoàn toàn, nhưng những ấn

tượng kinh hoàng trở thành nỗi đau dai dẳng kéo dài mãi về sau. Năm 1860, John
Ericsson – một bác sĩ người Anh trong cơng trình Về đường sắt và các chấn thương
khác của hệ thần kinh (On Railway and Other Injuries of the Nervous System) đã
ghi nhận một mơ hình phản ứng tâm lí của bệnh nhân có liên quan đến tai nạn
đường sắt [dẫn theo 5; 290]. Ericsson đưa ra giả thuyết rằng nguyên nhân vật lí trực
tiếp cho hiện tượng này bắt nguồn từ cú sốc cột sống (spine shock). Thuật ngữ đó
xuất hiện nhiều trong các diễn ngôn y khoa và pháp lí thời kì này, theo đó những rối
loạn về thể chất như sợ hãi, lo lắng, sốc… được xem là nguồn gốc của hệ thống y
học về chấn thương tâm lí ở phương Tây hiện đại. Nhà văn Charles Dickens – một
nạn nhân của vụ tai nạn xe lửa năm 1865, cũng là một ví dụ điển hình của hiện
tượng rối loạn tâm lí chấn thương. Ơng bị chứng run rẩy và mất giọng trong hai
tuần. Ông đặc biệt ám ảnh bởi sự rung lắc của tàu. Thậm chí, những năm về sau,
những nỗi sợ hãi mơ hồ và trải nghiệm vượt ngưỡng đó vẫn ám ảnh ơng [6]. Những
cú sốc gây ra bởi tai nạn tàu hỏa (railway shock) như trường hợp của Charles
Dickens không phải là hiện tượng hiếm gặp ở Anh thời bấy giờ. Tuy nhiên, Jill
Matus – chuyên gia về chấn thương thời kì Victoria, đã khẳng định rằng có một
thực tế là con người thời đại Victoria đã thấy được mối quan hệ giữa shock, kí ức và
ý thức, thậm chí tồn tại lí thuyết về sự tổn thương tinh thần cho thấy những xúc cảm
mạnh mẽ có thể tạo ra trạng thái như hiệu ứng, phá vỡ kí ức… nhưng thời bấy giờ
chưa thể phát triển một lí thuyết đầy đủ về chấn thương tâm lí. Dẫu thời đại Victoria
đã hình thành một thứ phả hệ về nghiên cứu chấn thương tinh thần, phải đến phân
tâm học của Freud, những luận điểm quan trọng về chấn thương mới được xây dựng
thành một hệ thống – tiền đề cho phê bình chấn thương sau này.


Quan niệm về chấn thương giai đoạn này chủ yếu gắn với tên tuổi của
Freud, và lí thuyết chấn thương, do đó, nằm trong dịng mạch của phân tâm học.
Các nghiên cứu phân tâm học về nguồn gốc của chấn thương cũng như tác động của
nó tới thần kinh con người bắt nguồn từ trong nghiên cứu về sốc và chứng cuồng
loạn của các nhà nghiên cứu, bên cạnh Freud, gồm Jean Martin Charcot, Joseph

Breuer, Pierre Janet… Cuối thế kỉ XIX, ở phương Tây nổi lên một số xu hướng
nghiên cứu về chứng loạn thần kinh, đặc biệt ở các bệnh nhân nữ. Nếu như các
chuyên gia về y học thời bấy giờ cho rằng chấn thương vẫn là một khiếm khuyết về
thể chất thì các nhà tâm lí học đã đưa ra các giả thuyết về mối quan hệ nhân quả
giữa chấn thương và tâm lí. Đặc biệt, Jean Martin Charcot, cha đẻ của ngành thần
kinh học và thôi miên đã thấy được dấu hiệu của sự thối hóa thần kinh. Ông cho
rằng chứng rối loạn phân ly (hysteria) là một căn bệnh tâm lí, và kết luận rằng triệu
chứng của hysteria xuất phát từ một sự kiện chấn thương làm tổn thương não. Pierre
Janet, người có cùng ý tưởng với Charcot đã tìm cách chữa trị cho những bệnh nhân
bị chấn thương bằng cách khuyến khích họ nhớ lại những kí ức chấn thương, biến
nó thành kí ức trần thuật/kể chuyện. Quan điểm của Charcot và Janet đã gợi ý cho
Freud về ý tưởng chấn thương thần kinh, đặc biệt là các chấn thương bị che giấu
như là căn nguyên của của chứng cuồng loạn. Cùng với cộng sự của mình, Josef
Breuer, trong cơng trình Nghiên cứu về chứng cuồng loạn (Studies on hysteria,
1895), Freud đã khám phá ra rằng cái lõi của chấn thương luôn khởi nguồn từ một
sự kiện trong thời thơ ấu, dẫu rằng khi mới xảy ra, sự kiện đó khơng phải là chấn
thương tự nó. Bằng sự hồi tưởng, những triệu chứng ban đầu ấy mới trở thành cơ
chế gây đau. Freud và Breuer ví sự kiện chấn thương ấy như là thời kì ủ bệnh của
những hành động trì hỗn, có nghĩa là những sự kiện chấn thương chỉ có thể được
hiểu, được nhận biết sau thời gian của hành động trì hỗn (ơng dùng thuật ngữ
Nachträglichkeit), làm trì hỗn hiệu lực và ý nghĩa của q khứ. Đó là lí do vì sao,
chấn thương – sự kiện neo đậu trong phần vơ thức con người – chỉ có thể được nhận
diện trong quá trình hồi tưởng.
Năm 1920, Freud cho ra đời cuốn tiểu luận Sâu xa hơn nguyên tắc không
đổi (Beyond the Pleasure Principle) trong đó, ơng mở rộng lí thuyết chấn thương,


điều chỉnh một số quan điểm về cơ chế phòng thủ của cái bản ngã (ego). Sự điều
chỉnh quan niệm về chấn thương của Freud bắt nguồn từ tình trạng phổ biến của
những cựu binh chiến tranh: shellshock – những người sống sót trở về từ Thế chiến

thứ 1. Tình trạng của những người lính này cho thấy, ở họ khơng chỉ tồn tại trạng
thái rỗng của trí nhớ, mà cịn có sự xuất hiện liên tục, ám ảnh của những trạng thái
cực đoan như ảo giác, ác mộng. Freud nhấn mạnh đặc điểm đó như là tính tái diễn,
sự quay trở lại của kí ức (compulsion of repeat). Freud cho rằng có một cơ chế
khiến sự kiện chấn thương quay trở lại, tái diễn, biến cải thông qua những giấc mơ.
Khi được nhớ lại, sự kiện chấn thương đó sẽ neo vào trong vơ thức của con người;
từ đó tạo ra cảm giác đứt gẫy, tan rã của bản ngã. Đây là quan điểm rất tiến bộ của
Freud - là tư tưởng được những nhánh nghiên cứu chấn thương ở giai đoạn sau tiếp
thu và phát triển: một sự kiện chấn thương chỉ được nhìn nhận trong quá trình tái
trình hiện của kí ức (q trình nhớ lại), và nó khơng chỉ là q trình của một cá
nhân, mà cịn là cơ chế kiến tạo nên kí ức của cộng đồng – một dạng biểu hiện của
văn hóa (cái gì được nhớ và cái gì khơng được nhớ).
Phải hơn một thế kỉ sau, triệu chứng rối loạn kí ức hay cịn gọi là hậu chấn
tâm lí (PTSD) mới được chính thức xác nhận bởi Hiệp hội tâm thần Hoa Kì. PTSD
xuất phát từ việc điều trị sang chấn tâm lí cho những cựu binh trở về từ chiến tranh
Việt Nam, trong đó những trải nghiệm trong chiến tranh được xem như là một tác
nhân gây chấn thương cực độ (Roger Luckhurst). Trên thực tế, PTSD đã từng được
biết đến ở thế chiến thứ nhất với hiện tượng shellshock – trạng thái trống rỗng của
trí nhớ, kèm theo đó là sự xâm lấn của những trạng thái cực đoan vào trong trí óc,
khiến cho kinh nghiệm chấn thương bị tái diễn đầy đau đớn trong thực tại. Thừa
nhận PTSD và những cơ chế vận hành đặc biệt của tâm lí hậu chấn thương, các bác
sĩ và nhà tâm thần học thời kì này đã bắt đầu lưu ý đến một yếu tố quan trọng, tác
nhân đầu tiên gây nên chấn thương, là kí ức.
1.2.2. Chặng thứ hai: sự trỗi dậy của lí thuyết chấn thương
Có thể thấy, lí thuyết chấn thương của Freud cùng những khám phá của ông
về sự lặp lại mang tính bắt buộc của kinh nghiệm/sự kiện chấn thương, sự đổ vỡ và
phân mảnh của bản ngã chấn thương đã góp phần thúc đẩy sự ra đời, phát triển của


nhánh nghiên cứu này, đặc biệt là giai đoạn những năm 90 của thế kỉ XX. Kế thừa tinh

thần của Freud, Cathy Caruth, Shoshana Felman, Geoffrey Hartman – các nhà nghiên
cứu trường phái Yale, Hoa Kì đã tạo ra làn sóng đầu tiên trong việc xây dựng lí thuyết
chấn thương trong ngành khoa học nhân văn. Các nhà nghiên cứu chấn thương thời kỳ
đầu đều đồng ý với quan điểm của Freud: chấn thương thách thức khả năng tái trình
hiện. Họ định nghĩa chấn thương như là một sự kiện khơng thể biểu đạt, tiết lộ những
mâu thuẫn vốn có trong kinh nghiệm chấn thương và ngơn ngữ. Ngồi ra, lí thuyết về
ảnh hưởng, tác động của chấn thương tới tâm lý của cá nhân (sự phân ly, gián đoạn,
phân mảnh) được sử dụng để khám phá trải nghiệm của cá nhân trước một sự kiện
chấn thương cộng đồng trong văn bản, từ đó, kết nối kinh nghiệm cá nhân và các nhóm
văn hóa, hoặc cá nhân và đời sống chính trị.
Một trong những sự kiện đánh dấu cho sự bắt đầu của một hệ thống lí
thuyết liên quan đến chấn thương được thiết lập thời kì này chính là sự ra đời của
kho lưu trữ video làm chứng cho sự kiện thảm sát người Do Thái tại Yale năm
1980. Dự án kho lưu trữ Yale thu thập chứng ngôn của những người Do Thái sống
sót sau thảm họa diệt chủng của Đức quốc xã, trong đó, những người cịn sống
mong muốn được kể lại những trải nghiệm chết chóc của họ.
Geoffrey Hartman – một trong những người sáng lập ra kho lưu trữ Yale trước khi đặt mối quan tâm của mình vào tiếng nói của những người Do Thái sống
sót khỏi thảm họa diệt chủng, đã từng thực hành phân tích chấn thương thơng qua
việc đọc mảng văn chương hư cấu, đặc biệt là thơ lãng mạn của Wordsworth.
Hartman đã nhìn thấy mối liên hệ giữa chấn thương cá nhân và tập thể qua sáng tác
của thi sĩ người Anh. Sự phản bội của nước Anh khi chống lại Pháp và cuộc cách
mạng Pháp, theo Geoffrey Hartman là một sự kiện gây chấn thương có quy mơ tập
thể. Sự kiến ấy đã tác động mạnh mẽ tới kinh nghiệm chấn thương cá nhân, mà ở
đây chính là mối tổn thương sâu sắc của hồn thơ Wordsworth. Những phân tích
chấn thương trong các văn bản văn chương và điện ảnh, được Geoffrey Hartman
trình bày trong bài tiểu luận Hành trình của nhà phê bình: Những suy tư văn học
1958-1988.
Geoffrey Hartman chuyển mối quan tâm sang chấn thương của người Do



Thái khi ông bắt đầu công việc lưu trữ những chứng tích của những chứng nhân của
Holocaust tại Yale. Với ông, điều đó giúp phục chế lại những trải nghiệm đau
thương, đảm bảo không lãng quên trường hợp cá thể. Những cơng trình nổi tiếng
của Hartman như Hồi tưởng Holocaust: Bóng hình của kí ức (Holocaust
remembrance: The Shape of Memory, 1993), Về tri thức chấn thương và nghiên cứu
văn học (On Traumatic Knowledge and Literary Studies, 1995), Bóng đêm bất tận:
hệ quả của Holocaust (The Longest Shadow: In the Aftermath of the Holocaust,
1996) đã đưa lại những dự đoán về tác động, ảnh hưởng to lớn của nghiên cứu chấn
thương đối với phê bình văn học; thể hiện mối quan tâm đặc biệt của ông đối với sự
kiện Holocaust và sự vận hành của trí nhớ. Đặc biệt, việc thành lập kho lưu trữ
video Fortunoff Holocaust tại Yale, nơi thu thập lời khai của những người sống sót
sau thảm họa Holocaust khơng chỉ góp phần thúc đẩy sự khám phá của ơng về
phương diện lí thuyết, mà với một mục đích nhân văn hơn, để những tiếng nói của
những cá thể chấn thương không bị rơi vào quên lãng (bản thân Hartman thoát khỏi
thảm sát Do Thái ở Châu Âu bằng cách đi từ Đức đến Anh, sau đó đến Mĩ định cư
khi còn nhỏ). Hơn nữa, lịch sử được kể lại bởi những chứng nhân sẽ là một thứ lịch
sử truy vấn gắt gao những vấn đề nhức nhối trong kí ức của họ – vốn dĩ đã từng
được tái hiện lại một cách đơn sơ và bị giản lược quá nhiều. Dự án của Hartman và
các đồng nghiệp của ơng đã gợi ý một mơ hình rất quan trọng trong nghiên cứu văn
học chấn thương, đó là nghiên cứu văn chương chứng nhân. Ngồi ra, ý tưởng của
ơng cho thấy văn học chấn thương có thể thâu nạp thêm thể loại tự truyện, từ đó
“đưa nghiên cứu văn học lại gần hơn những hình thức căn bản phi văn chương,
thông tục của tự biểu hiện bằng tự sự” [8; 569].
Rõ ràng, kho lưu trữ video về chứng nhân Holocaust đã thu hút sự quan
tâm của những nhà nghiên cứu chấn thương của Yale khi họ bắt đầu xây dựng hệ
thống lí thuyết của riêng mình. Shoshana Felman đã từng cho rằng phải có một thứ
ngơn ngữ khủng hoảng và cấp bách về việc chịu trách nhiệm đối với sự thật lịch sử,
được cho là thời đại của chứng ngơn, một thời đại chứng kiến bản thân nó trải qua
một sự kiện lớn [dẫn theo 4; 503]. Trong công trình viết chung với Dori Laub, Bằng
chứng, Sự khủng hoảng của chứng nhân trong văn học, phân tâm học và lịch sử



(Testimony, Crises of Witnessing in Literature, Psychoanalysis and History) xuất
bản năm 1992, nhà phê bình văn học của Yale và nhà phân tâm học Dori Laub đã
lần đầu tiên nêu lên một lí thuyết tổng quan về bằng chứng ngơn, chứng nhân và vai
trị của trí nhớ, cũng như cho thấy nhu cầu quan sát lại những biến động lịch sử,
chẳng hạn từ trường hợp Holocaust. Thông qua việc phân tích các văn bản, các bộ
phim, tài liệu, bao gồm tiểu thuyết của Camus, tiểu luận của de Man, dự án thơ ca
của Paul Celan và Pagis, những lời chứng lưu trữ trong video, bộ phim Shoah của
Claude Lanzmann…các tác giả đã khám phá ảnh hưởng, tác động của Holocaust tới
văn hóa, nghệ thuật đương đại.
Năm 1995, cuốn sách Chấn thương, những khám phá về kí ức (Trauma,
Explorations In Memory) với những góc nhìn đa chiều về chấn thương được xuất
bản. Trong bài mở đầu, Cathy Caruth đã nhắc tới trải nghiệm muộn màng của kinh
nghiệm chấn thương – quan điểm bà kế thừa từ Freud và sẽ được phát triển sâu hơn
trong những cơng trình về sau. Tuy nhiên, trong giới hạn của một bài giới thiệu,
thay vì đi xác lập khái niệm chấn thương, Cathy Caruth quan tâm tới tác động của
kinh nghiệm chấn thương đối với phân tâm học trên cả thực hành lẫn lí thuyết, cùng
những khía cạnh khác của văn hóa như văn chương và sư phạm, cấu trúc của lịch sử
qua văn bản và phim ảnh, chủ nghĩa tích cực chính trị và xã hội. Những chủ đề đó
được triển khai trong một loạt các bài viết của Shoshana Felman, Dori Laub, Henry
Kristal, Harold Bloom, Van Der Kolk… Chấn thương được nhận diện dưới nhiều
góc nhìn, trong cuộc đối thoại rộng rãi với nhiều văn bản, nhiều ngữ cảnh.
Năm 1996, chuyên luận Kinh nghiệm không được khẳng định, chấn
thương, trần thuật và lịch sử (Unclaimed Experience: Trauma, Narrative, History)
của Cathy Caruth được ấn hành và gây tiếng vang lớn. Cuốn sách được xem là văn
bản kinh điển của phê bình chấn thương. Từ đây, lí thuyết chấn thương bắt đầu xác
lập nội hàm của nó trong lĩnh vực nghiên cứu. Cơng trình của Caruth một mặt tiếp
thu những quan điểm về chấn thương của Freud, mặt khác phát triển lí thuyết của
mình, với hệ thống ý tưởng được xem là rất thời thượng và có tầm ảnh hưởng rộng

rãi trong lĩnh vực nghiên cứu nhân văn, đặc biệt ở ở Hoa Kì. Cuốn sách bao gồm 5
phần chính trong đó có thể thấy được khả năng bao quát, kết nối những vấn đề


thuộc những chủ đề khác nhau như phân tâm học của Freud, lí thuyết chấn thương
và rối loạn tâm lí hậu chấn, nghiên cứu lịch sử và văn hóa, lí thuyết về đạo đức… và
tất cả đều được soi chiếu từ góc nhìn của lí thuyết chấn thương. Đặc biệt, Cathy
Caruth chú ý đến tính khơng đồng hóa được của chấn thương dẫn đến việc quay trở
lại đầy ám ảnh của nó. Cathy Caruth cho rằng chấn thương ln tạo ra được những
nghịch lí kép trong ý thức và ngơn ngữ. Một mặt ta rất muốn biết ý nghĩa của quá
khứ, nhưng mặt khác ta lại không thể hiểu nổi nó. Kinh nghiệm chấn thương, theo
bà, nó vượt quá chiều kích tâm lí của sự chịu đựng. Mâu thuẫn từ đó nảy sinh: một
mặt thấy đe dọa của cái chết, một mặt ta phải sinh tồn. Bạo lực luôn xuất hiện theo
cách ta không thể ngờ tới, và chấn thương, vì thế là cái đến muộn.
Cơng trình của Cathy Caruth đóng vai trị rất quan trọng trong bối cảnh vận
động của phê bình chấn thương, đặc biệt nó có vai trị khơi nguồn của lí thuyết chấn
thương hiện đại. Việc đọc chấn thương thông qua những văn bản triết học, văn
chương, điện ảnh (chẳng hạn Caruth đọc lại Mose và Nhất thần luận của Freud,
phân tích các dạng chấn thương trong Hiroshima mon amour của Duras và
Resnais…) đã đưa lại những gợi ý sâu xa về các kinh nghiệm chấn thương, như
nhận ra chấn thương cộng đồng tái diễn trong số phận cá nhân, nguy cơ tái diễn
chấn thương từ những gì bị quên lãng dẫn đến những trải nghiệm muộn màng của
chấn thương… Đặc biệt, mơ hình về tính bất khả trình hiện của ngơn ngữ gây ra
bởi chấn thương của Caruth vẫn là một tư tưởng cốt lõi trong ngành nghiên cứu
chấn thương hai thập kỉ sau đó. Michelle Balaev cịn nhận thấy rằng tầm quan trọng
trong mơ hình lí thuyết của Cathy Caruth đó là một mặt tiếp tục duy trì cơ sở của
mơ hình truyền thống, mặt khác mở rộng khung lý thuyết tới các lí thuyết khác như
nữ quyền luận, lí thuyết chủng tộc và hậu thuộc địa [7; 365].
1.2.3. Chặng thứ ba: đa dạng hóa, đa phương hóa lí thuyết chấn thương
Lí thuyết chấn thương giai đoạn sau, một mặt tiếp nối mạch tư tưởng của

giai đoạn trước nó, mặt khác, kiếm tìm nhiều hướng biểu đạt mới. Ở xu hướng
nghiên cứu chấn thương tiếp theo, khơng ít người quay lại hồ nghi quan điểm của
Cathy Caruth. Có người cho rằng lí thuyết của Caruth trong khi q xốy sâu vào
tính bất khả trình diện của chấn thương đã quên đi nhiệm vụ lớn lao của văn chương


nói riêng, của nghiên cứu nhân văn nói chung là làm nổi bật lên sự bạo tàn. Nổi bật
giữa những tiếng nói phản biện, nghi vấn của nghiên cứu chấn thương giai đoạn này
là quan điểm của Ruth Leys trong cơng trình Chấn thương: Một phả hệ (Trauma: A
Genealogy, 2000). Cách tiếp cận của Ruth Leys chối từ lối tiếp cận của khái niệm
chấn thương thường được áp dụng trong văn học hiện đại. Bởi xuất phát từ điểm
nhìn của một người lập bảng phả hệ, cơng trình bà mang tư tưởng của một tác phẩm
của lịch sử trí tuệ, khác hẳn với cơng trình hậu cấu trúc về chấn thương, đặc biệt là
những môn đệ của Freud. Bằng cách chú trọng vào việc phân tích Freud vốn dĩ là
nền tảng tư tưởng trong những diễn giải của Caruth, Ruth Leys cho rằng Caruth đã
đọc sai Freud, và chính cách đọc gượng ép đó đã dẫn đến những điểm mù trong việc
xác lập nội hàm chấn thương. Ruth Leys lấy thơi miên làm nền tảng cho lí thuyết
chấn thương [11; 8-9]. Cách tiếp cận của Ruth Leys, căn bản vẫn là cách tiếp cận
phả hệ, trong đó các khái niệm và lí thuyết về chấn thương được nhìn thấy dưới ánh
sáng của bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa thay vì xem nó như sự phát triển tuyến
tính của một nền tảng tri thức đang vận hành, phát triển.
Cũng như Ruth Leys, Dominick Lacapra đặt lịch sử là trục trung tâm của
rất nhiều vấn đề đáng lưu tâm trong bối cảnh ngành nhân văn đương đại. Hầu hết
các cơng trình của Dominick Lacapra (trong đó có Viết về lịch sử, viết về chấn
thương (Writing History, Writing Trauma) và Lịch sử và những giới hạn của nó,
con người, động vật, bạo lực (History and Its limits, Human, Animal, Violence) đều
cho thấy sự quan tâm đặc biệt của ông đối với mối liên hệ giữa văn chương và lịch
sử, đặt các văn bản phê bình trong những cuộc đối thoại với nhiều ngữ cảnh phức
tạp. Trong những thập kỉ gần đây, Lacapra quan tâm đến chấn thương và đại diện,
đặc biệt là sự kiện của Holocaust. Ông tiếp cận với những sự kiện chấn thương

thông qua các chứng ngôn và việc làm chứng của những người trải qua thảm họa
diệt chủng. Tuy nhiên, từ những cơng trình của các nhà nghiên cứu khác như
Michael Bernard - Donals và Richard Glejzer, Dominick Lacapra thấy rằng cái nhìn
lịch sử, với những giới hạn của chính nó đã khước từ tầm quan trọng của tiếng nói
của những người làm chứng. Trong khi đó, theo ơng, đó là vấn đề sống cịn đối với
nạn nhân. Bởi kinh nghiệm chấn thương, nhất là trong trường hợp của Holocaust


thường gắn với những điều không thể biểu đạt, vượt lên cái bình thường, những
chấn động vượt ngưỡng, nên nó thường được giới thiệu kèm theo cái trác tuyệt.
Như vậy, cơng trình của Ruth Leys và Dominick Lacapra là những dẫn
chứng điển hình cho nỗ lực của các nhà nghiên cứu hậu Caruthian trong việc kiếm
tìm một mơ hình mới cho lí thuyết chấn thương. Thực tế cho thấy rằng, hơn hai thập
kỉ kể từ khi chuyên luận của Cathy Caruth được ấn hành, nghiên cứu chấn thương
đã dần chuyển mình sang một bước ngoặt mới. Phê bình chấn thương càng ngày
càng mở rộng phạm vi nghiên cứu, kết hợp, cộng hưởng với nhiều nhánh của lí
thuyết đương đại.
Mơ hình nghiên cứu chấn thương cũng dần thay đổi, chuyển từ mơ hình cổ
điển của Cathy Caruth sang mơ hình lí thuyết đa nguyên (pluralism theory Michelle Balaev). Trong bài viết Xu hướng trong lí thuyết chấn thương trong văn
học (Trend in Literary Trauma Theory) đăng trên tập chí Mosaic: An
Interdisciplinary Critical Journal vào năm 2008, Michelle Balaev đã gợi ý về mơ
hình đa ngun lí thuyết khi nghiên cứu chấn thương. Trong khi xem xét những mơ
hình và kí ức chấn thương được biểu hiện trong tiểu thuyết, Michelle Balaev đã chú
ý tới vai trò của địa điểm thể hiện trong việc neo giữ trải nghiệm cá nhân trong bối
cảnh văn hóa rộng lớn. Bà cho rằng thơng qua việc dựng nên bối cảnh thách thức
những ngầm định về các mối quan hệ trong xã hội và quy tắc đạo đức, tiểu thuyết
về chấn thương thể hiện rất rõ cách thức mà những sự kiện đau thương tác động vào
người trong cuộc. Lí thuyết về địa điểm của Michelle Balaev đã bước đầu cung cấp
thêm một mơ hình, một cách tiếp cận với văn học chấn thương, phá vỡ tính độc tơn
của lí thuyết truyền thống.

Quan điểm của Michelle Balaev được triển khai một cách đầy đủ và sâu sắc
trong cơng trình Bản chất của chấn thương trong tiểu thuyết Hoa Kì (The nature of
Trauma in American Novels, 2012). Cơng trình là kết quả nghiên cứu cơng phu
dịng mạch văn học chấn thương từ nhiều điểm nhìn lí thuyết. Với mục đích mở
rộng khả năng diễn giải của lí thuyết chấn thương trong văn chương, Michelle
Balaev đã khẳng định tầm quan trọng của mơ hình đa ngun, trong đó, văn học
chấn thương nên được tiếp cận diễn giải từ nhiều mơ hình và phương pháp tiếp cận.



×