Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

quá trình đổi mới kinh tế việt nam giai đoạn 1975 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.03 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
A.LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................2
B. PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................3
I.Tư duy kinh tế trước đổi mới(1975- 1986)................................................................ 3
1.Thời kỳ 1976-1982...................................................................................................3
2.Thời kỳ 1982-1986....................................................................................................4
II.Tư duy kinh tế sau đổi mới(1987 đến nay)...............................................................5
C.KẾT LUẬN...................................................................................................................14
Tài liệu tham khảo..…………………………………………………………………….15

A.LỜI MỞ ĐẦU
1


Như chúng ta đã biết, chặng đường đổi mới cũng không phải là và không thể là
một lộ trình đã được tính trước tất cả, đồng thuận tất cả. Đó là sự chung đúc những trăn
trở, những ý tưởng, những sáng kiến của rất nhiều bộ óc, nhiều cơ sở, nhiều địa phương.
Đó cũng là một quá trình vừa đi vừa tìm đường, vừa đi vừa điều chỉnh, đấu tranh với cái
cũ, đấu tranh với chính mình, thuyết phục nhau, chờ đợi nhau, rồi từng bước đi tới đồng
thuận. Trên lộ trình đó, có những bộ óc bứt phá, vươn lên trước và lần lượt cuốn hút cả
tập thể tiến lên. Có cả những sức ỳ, những nghi kỵ, những cản trở do chưa kịp nhận thức
ra cái mới. Có những bộ óc đã từng trì trệ, bỗng bừng tỉnh, vượt lên, tỏa sáng. Có những
trường hợp sau khi vượt trội, tỏa sáng lại ngưng trệ, lu mờ, bị đà tiến chung vượt qua. Lại
có không ít bộ óc rất cấp tiến về mặt này, nhưng lại chưa chuyển biến kịp về mặt kia.
Nhưng tổng hợp lực của sự vận động là tiến tới, tiến tới trong sự đồng thuận ngày càng
cao...
Nói lên được tất cả những bước quanh co, khúc khuỷu và gian nan đó chỉ càng làm
rạng rỡ thêm ý nghĩa và giá trị lớn lao của sự nghiệp đổi mới.
Theo dõi về kinh tế VN sau 1975, có thể thấy những bước chuyển biến và thăng
trầm đáng kinh ngạc. Sau khi tìm hiểu kỹ các tài liệu tôi thấy rằng ở đây tư duy kinh tế đã
quyết định chính sách kinh tế.Mà chính sách kinh tế thì ảnh hưởng rất lớn đến đời sống


kinh tế của VN. Rất nhiều thăng trầm của VN là lệ thuộc vào tư duy kinh tế.
Trước thực tế đó, với vốn kiến thức đã học cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của
cô giáo Đỗ Thị Yến em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Quá trình đổi mới tư duy kinh tế ở
Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay” làm bài tiểu luận của mình.
Kết cấu bài tiểu luận ngoài lời nói đầu và kết luận thì phần nội dung gồm:
I.Tư duy kinh tế trước đổi mới(1975- 1986).
II.Tư duy kinh tế sau đổi mới(1987 đến nay).

B. PHẦN NỘI DUNG
2


I.Tư duy kinh tế trước đổi mới(1975- 1986)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt, với việc đế quốc
Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc. Những vấn đề kinh tế tạm lùi xuống hàng thứ yếu,
để rồi lại nổi lên hàng đầu khi chiến tranh kết thúc. Chiến tranh kết thúc(1975) cũng có
nghĩa là kinh tế miền Nam mất hẳn nguồn viện trợ Mỹ và chiến phí của Mỹ, mỗi năm
chừng 2 tỷ đô la. Còn kinh tế miền Bắc thì cũng không còn viện trợ của Trung Quốc vào
khoảng 400 triệu đô la mỗi năm. Một nền kinh tế kiệt quệ về nhiên liệu và nguyên liệu,
lại mất hẳn động lực phát triển do những biện pháp quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa
được áp dụng vội vã. Trong bối cảnh ấy thì chính sách kinh tế nào có khả năng gỡ bí?

1.Thời kỳ 1976-1982
Năm 1976, Việt Nam thống nhất đổi tên thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam
được quyết định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc năm 1976. Đường lối kinh tế chủ đạo của
Việt Nam từ thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ
tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động (gồm công nhân, nông dân tập thể, trí
thức xã hội chủ nghĩa và lao động khác), xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá
bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu.

Để thực hiện điều này, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống kinh tế trong đó:

Công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển,

Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc
doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên, nông dân
ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ được khuyến khích tham gia sản xuất tập thể,

Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất.

Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các nước xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ Kinh tế từ năm 1978.

Do sản xuất kém phát triển, hàng hóa không đủ,
nên việc phân phối bị kiểm soát bằng chế độ tem
phiếu.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có
cả “do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ
sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội” dẫn tới "chủ quan, nóng vội, đề ra
những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ
3


trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến lãng phí
lớn về sức người, sức của; ... rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp hành đường lối của Đảng
và nhiều nghị quyết của Trung ương, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về
nhiều mặt của đất nước.... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với cách kế hoạch
hóa gò bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ sở,
địa phương và ngành, và cũng không tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung ương

cần và phải quản lý... duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế không còn thích hợp, cản
trở sản xuất và không phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của những
người lao động ... chưa nhạy bén trước những chuyển biến của tình hình, thiếu những
biện pháp có hiệu quả," Hậu quả nghiêm trọng phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực
thi "đánh tư sản mại bản", tiêu diệt tiết kiệm vốn liếng của người dân và làm xáo trộn
kinh tế trầm trọng.
Nhận định tổng quát về thực trạng kinh tế nước ta, trong những năm cuối thập kỷ
70, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) tháng 8/1979 đã chỉ ra: Việt Nam đang đứng
trước nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống; sản xuất phát triển chậm (tốc độ tăng tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới 1%/năm); năng suất lao động quá thấp; đời
sống nhân dân thiếu thốn, nhiều hiện tượng trong xã hội có tính tiêu cực nghiêm trọng.

2.Thời kỳ 1982-1986
Năm 1982, Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận kinh tế Việt Nam
trong thời kỳ 1976-1980 là: "kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn
đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc dân
chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường, vật giá,
tài chính, tiền tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động còn nhiều khó khăn". Vì
thế, từ năm 1982, Đảng này quyết định Việt Nam sẽ tập trung sức phát triển mạnh nông
nghiệp và coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, và
kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu
công - nông nghiệp hợp lý, tăng cường phân cấp cho địa phương trong công tác sản xuất
và quản lý sản xuất. Kinh tế quốc doanh vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, kinh tế gia đình
được khuyến khích. Thị trường không có tổ chức bị quản lý chặt chẽ.
Tuy nhiên, thời kỳ 1981-1985 kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu
đã đề ra trong nghị quyết đại hội V là cơ bản ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời
sống nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá - lương - tiền cuối năm 1985 đã đưa nền
kinh tế đất nước đến những khó khăn mới. Nền kinh tế-xã hội lâm vào khủng hoảng trầm
trọng. Siêu lạm phát xuất hiện và kéo dài.

4


Để vượt qua khó khăn, các địa phương nhất là địa phương ở Nam Bộ đã có những
biện pháp “xé rào” như khoán hộ, khoán sản phẩm, bù giá vào lương, tăng cường quan hệ
ngoại thương với các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Những biện pháp “xé rào” này
đã mang lại những hiệu quả nhất định trong tăng năng suất sản xuất, giải quyết tình trạng
khan hiếm hàng hóa và nợ lương người lao động. Vì thế, chúng đã thu hút được sự chú ý
của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ. Khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
(hay Khoán 100 gọi dựa theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư trung ương Đảng CSVN khóa
IV) và mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh (nghị
quyết 25/CP của Chính phủ) được Đảng và Chính phủ cho phép thí điểm và dần áp dụng
rộng rãi từ năm 1981. Ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, một số nhà nghiên cứu kinh
tế gồm cả những người được đào tạo thời Việt Nam Cộng hòa đã được lãnh đạo Đảng
triệu tập để nghiên cứu, chuẩn bị cho Đổi Mới.
Những thực tiễn “xé rào” và lý luận mới trên đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam
triển khai chính thức chương trình Đổi mới tư duy quản lý kinh tế mà thể hiện trước hết
là nghị quyết của Đại hội VI tổ chức vào giữa tháng 12 năm 1986.Đề cập tới sự cần thiết
đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, Đại hội VI khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải
đi đôi với đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Cơ chế quản lí tập trung quản lí tập trung quan
lieu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực động lực phát triển, làm suy yếu
kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác,
kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối
lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”.Chính vì vậy, việc đổi mới cơ
chế quản lí kinh tế quản lí kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách. Và, giai đoạn
Đổi Mới bắt đầu từ năm 1987.

II.Tư duy kinh tế sau đổi mới(1987 đến nay)
Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta cũng được
đổi mới qua nhiều bước.

Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế
thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải nói về
toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán
nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới
quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định:
“thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển
thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh
5


tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản,
không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phầ đang hình thành. Và cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ
chế vận hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế
đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý
luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ
nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị
trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất
khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư
bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha,
còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi
phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó
chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị

trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có
đi đến phủ định kinh tế thị trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất
là kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận động theo các quy luậtd dặc thù của chủ
nghĩa xã hội hay không? Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm
của Đại hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của
Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng và
Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
6


xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các
thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm cả kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX ra Nghị quyết: Tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và
tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
thời kỳ 2001 - 2010; khẳng định kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt

là Hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể liên kết rộng rãi
người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không giới hạn quy mô,
lĩnh vực, địa bàn; phân phối theo lao động, vốn và mức độ tham gia dịch vụ. Phát triển
kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN; kinh tế tư nhân được phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh
doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô; những đảng viên đang làm
chủ các doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt Điều lệ Đảng và pháp luật, chính sách của
Nhà nước thì vẫn là đảng viên của Đảng; Đại hội IX cũng nhấn mạnh việc phát triển nền
kinh tế nước ta ở những thập niên đầu thế kỷ XXI, phải tạo ra bước tiến rõ rệt về chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN, chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Những chủ trương chính sách kinh tế mới của Đại hội IX và các Nghị quyết Trung ương
(khóa IX) đề ra đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực tạo nhiều
cơ hội cho nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình
quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,51% và phát triển tương đối toàn diện; lương thực
xuất khẩu hàng năm từ 4 đến 5 triệu tấn gạo. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện,
đặc biệt là thành tựu về xóa đói giảm nghèo, chúng ta đã đạt chuẩn quốc tế vào năm
2003.
Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trương toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
(tháng 4/2006) đã xác định 5 năm (2006 - 2010) có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn
7


thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI và đề ra mục tiêu
phương hướng tổng quát trong lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục đổi mới nền kinh tế. Đó là, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH,
HĐH đất nước... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ mục tiêu

tổng quát trên trong lĩnh vực kinh tế, Đại hội X chỉ rõ một số quan điểm lớn về đổi mới
như: Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đây là thể hiện bước tiến
về nhận thức của Đảng ta, bắt kịp xu thế phát triển mới của thế giới. Đại hội X chủ
trương phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng,
sức cạnh tranh và hiện đại hóa; tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ; tạo
bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại. Đảng tiếp tục lãnh
đạo công cuộc đổi mới kinh tế, đổi mới đất nước trong giai đoạn mới.
Như vậy,sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so
với trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn như sau:
- Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công
hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến
quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân,
tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần
kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ,
tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải
nhanh chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ là
những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đến quan niệm rằng trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản xuất
cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của
lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa
bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu đã là nền tảng
của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế ấy
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải trải qua một quá trình dài xây dựng, đổi
mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó, vẫn khuyến khích phát triển
8


các thành phần kinh tế tư nhân, coi như thành phần này là động lực quan trọng của phát

triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập
trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến
phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh;
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc nhà nước, còn
chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối hóa vai trò của
kế hoạch, phủ nhận vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn cứ,
vừa là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên
bình diện vĩ mô, còn thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa
chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh.
- Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối
theo lao động đã đi đều quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức
đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi
xã hội. Công bằng xã hội thể hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế mà là ở
chỗ phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi
người đến có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm mọi sự
làm giàu mà trái lại khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật,
đồng thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực quá đáng hai đầu.
Qua hơn 25 năm đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng hoàn
thiện hơn. Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ
hàng hóa - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội thì đến Đại hội VII và Đại hội VIII Đảng đã
khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội IX tiếp tục đánh dấu thêm một bước phát triển mới trong đổi mới tư duy lý
luận kinh tế của Đảng, đã xác định: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đại hội X làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền
kinh tế thị trường, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ
và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh

lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh
doanh. Nền kinh tế không chỉ độc tôn bàn tay kế hoạch của Nhà nước, mà phải được vận
hành bởi hai bàn tay: thị trường và Nhà nước. Thực hiện cơ chế thị trường đã khuyến
9


khích sự làm giàu hợp pháp, tháo gỡ sự kìm hãm sản xuất và lưu thông. Cơ chế thị trường
cũng đã góp phần phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng, các khu vực trong nước, giữa
thành thị và nông thôn, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, cải
thiện đời sống nhân dân. Sự phá bỏ độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp phát huy tính năng động, sáng tạo
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thực tiễn những thành công kinh tế Việt Nam đạt được như ngày hôm nay đã thể
hiện tính đúng đắn, khách quan và phù hợp của chủ trương, chính sách. Nền kinh tế tiếp
tục có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được xây dựng bước đầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước
tiến mới rất quan trọng. Tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường đáng
kể; khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng lên. Văn hóa - xã hội có tiến bộ
trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; xóa đói, giảm
nghèo đạt kết quả nổi bật. Chính trị - xã hội ổn định. Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và an ninh quốc gia được giữ vững. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm, vị thế
quốc tế của đất nước được nâng lên rõ rệt.
Thực tế cuộc sống cho thấy, đang có xu hướng bằng lòng với những thành tựu đạt
được. Ngược lại với xu hướng trên, lại có biểu hiện nóng vội, quá chú trọng đến tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao mà chưa quan tâm, chú trọng đúng mức đến phát triển bền vững
và chất lượng. Hơn nữa, có nơi còn có biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm cho lãnh đạo cấp
trên, xem đổi mới tư duy là trách nhiệm của những người lãnh đạo, của các nhà quản lý.
Đổi mới tư duy kinh tế của chúng ta chưa theo kịp với những biến đổi nhanh chóng của
thời đại, chưa giải quyết thỏa đáng những đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra. Do vậy, để giải
quyết tốt những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống, cũng như lý luận kinh tế thì trong thời

gian tới cần phải tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế.
Trong bối cảnh mới, cùng với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào môi trường khu
vực và quốc tế, cần phải nhận thức được rằng: luôn luôn chủ động, sáng tạo và dựa vào
nội lực. Để từ đó thấy rằng: mọi chủ trương chính sách tiếp tục đổi mới kinh tế phải coi
ưu tiên số một là giải phóng lực lượng sản xuất và mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của xã
hội nhằm tất cả vì mục tiêu phát triển.
Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay bảo đảm cho kinh tế tăng trưởng nhanh,
phát triển bền vững là nhiệm vụ chính trị trọng đại hàng đầu, là nhiệm vụ trung tâm.

10


Bên cạnh đó, phải lưu ý lãnh đạo thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ song song:
CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và phát triển mạnh nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Cần phải nhận thức sâu sắc rằng thành công của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước trước mắt, cũng như lâu dài không thể tách rời sự phát triển ngày
càng hiện đại của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đo, là một trong những
vấn đề có tính “hạt nhân” của sự tiếp tục đổi mới lãnh đạo kinh tế của Đảng là đề ra và
thực hiện được những chính sách kinh tế có tác động tích cực thúc đẩy mạnh nền kinh tế
thị trường phát triển theo định hướng XHCN và thực hiện có hiệu quả các chính sách
CNH, HĐH đất nước để từng bước thực hiện được mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Cũng cần phải giải quyết tốt mâu thuẫn giữa nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế với
yêu cầu bắt buộc phải tiến lên theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Đồng thời tập
trung lãnh đạo đẩy lùi những nguy cơ tiềm ẩn có thể đưa nền kinh tế chệch định hướng
XHCN; lãnh đạo phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Vì đây là một đặc trưng của định hướng
XHCN nền kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta.
Ngoài ra, phải nhanh chóng khắc phục nguy cơ tiềm ẩn suy thoái kinh tế do tác
động của khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới, quyết tâm giảm tỷ lệ lạm phát và tăng

giá xuống ở mức một con số; bảo đảm và nâng cao đời sống dân sinh cả về vật chất và
tinh thần.
Điều quan trọng là trong sự điều hành, nắm bắt, quản lý đó cần nâng cao năng lực
lãnh đạo kinh tế của Đảng, đặc biệt nâng cao năng lực nắm vững các quy luật khách quan
của kinh tế thị trường, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra những
chủ trương, chính sách kinh tế đúng đắn, khai thác được tối đa những tiềm năng trong
nước và ngoài nước cho sự nghiệp phát triển kinh tế và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
CNH, HĐH đất nước trong từng thời kỳ phát triển của đất nước. Nâng cao năng lực lãnh
đạo Nhà nước, lãnh đạo quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc, thực hiện thành công các chính sách đổi mới kinh tế trong bất cứ tình huống khó
khăn nào.
Bạn bè quốc tế thời gian qua cũng đánh giá cao những thành tựu kinh tế to lớn mà
Việt Nam đạt được trong những năm qua. Trong chuyến thăm cấp Nhà nước của Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết tới Cộng hòa Italia tháng 12/2009, Chủ tịch Hạ viện Italia Gianfranco Fini - khẳng định, Việt Nam là một hình mẫu cần được nghiên cứu về kinh
11


nghiệm vượt qua khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới. Trong khi đó, lãnh đạo các đảng
cộng sản, cánh tả Italia bày tỏ tin tưởng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục giành được nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trên con đường
xây dựng và phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo các đảng cộng sản,
cánh tả Italia bày tỏ mong muốn tìm hiểu về kinh nghiệm đổi mới của Việt Nam, nhất là
vấn đề phát triển kinh tế đi cùng với công bằng xã hội… Và còn rất nhiều những nhận
định lạc quan nữa về sự phát triển đáng khích lệ của Việt Nam từ các tổ chức quốc tế, các
quốc gia cùng hợp tác trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Rõ ràng là, cho đến nay Đảng ta vẫn là lực lượng chính trị duy nhất đảm nhận vai
trò tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới kinh tế, đổi mới đất nước giai đoạn mới từ nay về
sau - giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và phát triển bền vững hơn.
Chính sách “đổi mới” được xem là lối thoát cho cuộc khủng hoảng về chính sách
kinh tế ở nước ta kéo dài mấy thập kỷ. Nó khơi thông dòng chảy cho các hoạt động kinh

tế. Tuy nhiên, nó không phải là lời giải cho những vấn đề cơ bản của kinh tế Việt Nam,
của xã hội Việt Nam. Bàn về vấn đề nhạy cảm này cũng chính là chúng ta chúng ta đi tim
đáp án cho 1 loạt câu hỏi nhức nhối hiện nay:
- Với sự phát triển của kinh tế cá thể, tư nhân, kinh tế Việt Nam sẽ đi về đâu? Sẽ trở
thành một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển ư? Làm thế nào hòa hợp được với định
hướng xã hội chủ nghĩa?
- Với kinh tế thị trường thì tránh sao được phân hóa giàu nghèo trong lớp người tiểu sản
xuất, tránh sao được “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản”? Ai đó đã gắn chủ
nghĩa xã hội với nền kinh tế thị trường, nhưng chưa có ai chứng minh được chúng gắn
với nhau như thế nào!
- Với chính sách “đổi mới”, chúng ta đang ở vào thời điểm nào của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội? Những chính sách kinh tế đặc trưng của thời điểm ấy là gì? Đến lúc
nào thì chính sách “đổi mới” hết tác dụng và phải thay bằng chính sách khác?
- Với sự phá sản của mô hình xã hội chủ nghĩa Liên Xô, từ nay người ta phải hiểu chủ
nghĩa xã hội theo mô hình nào, theo những đặc trưng nào? Phải hiểu định hướng xã hội
chủ nghĩa theo những định hướng nào, đặc trưng nào?
- Đạt đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như Liên Xô, như Đông Âu, mà vẫn
12


thấy chưa đủ chín muồi để thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, vậy thì Việt Nam sẽ phải rút
ra kết luận như thế nào cho con đường phát triển hướng tới chủ nghĩa xã hội của mình?
Việt Nam sẽ phải trải qua những “bước quá độ nhỏ” như thế nào để hướng tới mục tiêu
đó?
- Cuối cùng thì cũng vẫn phải quay về với những vấn đề lý luận của chủ nghĩa MacLenin. Những phát hiện của Mac-Lenin về chủ nghĩa tư bản có còn đúng nữa không?
Những dự đoán của các ông về xã hội tương lai có còn đúng nữa không? Điểm nào còn
đúng, điểm nào là sai?
- Chỉ điểm sơ đầu việc đã thấy ngổn ngang những vấn đề. Những cuộc tranh luận đang
chờ đón chúng ta. Nếu tiếp tục tìm tòi, tranh luận theo kiểu ấp úng, né tránh, kiêng kỵ
như mấy thập kỷ vừa qua thì không biết đến bao giờ chúng ta mới tiếp cận được chân lý.

Phải có những nhóm nghiên cứu, những diễn đàn, những câu lạc bộ, những “think tank”
với tinh thần cởi mở, chỉ lấy chân lý làm trọng, không kiêng kỵ, không cho phép bất cứ ai
lên giọng dạy đời, chụp mũ. Lại phải có những người, hoặc nhóm người, đủ khả năng gạn
lọc những gì là chân lý để hình thành nên những quan điểm, những chương trình, những
chính sách sẵn sàng đưa vào cuộc sống.
Đây mới chỉ là vài tiền đề góp ý vào thao thức và mạch nghĩ chung hiện nay của cả
nước đang ý thức được sự cần thiết của thay đổi, của một tư duy mới cho nền kinh tế xã
hội nói chung và một chiến lược phát triển cho 10 năm tới nói riêng, nhưng thật sự chúng
ta vẫn loay hoay quanh việc tìm ra những ý kiến và hướng đi cụ thể.
Bài học lớn nhất cho tương lai là Việt Nam cần thay đổi tư duy lẫn chiến lược phát
triển, nếu muốn phát triển bền vững trong thập niên tới để đạt các chỉ tiêu đã đề ra cho
năm 2020. Chủ đề này sẽ là đề tài của rất nhiều hội thảo bàn luận kinh tế tương lai.
Con đường của tư duy kinh tế Việt Nam xem ra còn dài, còn lắm chông gai!

13


C.KẾT LUẬN
Bàn về quá trình đổi mới tư duy kinh tế Việt Nam, với vai trò là môt người sinh
viên tôi bồi hồi nhớ lại câu nói của Bác Hồ kính yêu "nước nhà thịnh hay suy, yếu hay
mạnh một phần lớn là ở thanh niên".Như vậy, trước những thuận lợi và khó khăn của đất
nước cũng như của bản thân mình, hơn lúc nào hết thanh niên Việt Nam (lực lượng
chiếm gần 30% dân số) phải nhận thấy rõ vị trí, vai trò của mình đối với sự phát triển của
đất nước. Phải nhận thức được khó khăn lớn nhất của mình trong giai đoạn này là sự cạnh
tranh quyết liệt về trí tuệ để đạt tới những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật và công nghệ
cũng như trình độ quản lý. Để vượt qua được khó khăn đó, đòi hỏi rất cao ở thanh niên là
phải tự học tập, tự rèn luyện để nâng cao trình độ về mọi mặt, phải trau dồi bản lĩnh chính
trị, giữ vững lý tưởng XHCN, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh với vai trò là chủ thể tích cực, là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp CNH, HĐH, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Để cùng đất nước vượt qua những khó khăn, trước mắt mỗi thanh niên phải nỗ lực
nhiều hơn, đặc biệt là phải mở rộng tầm hiểu biết của mình về tình hình thế giới để có tư
duy, hành động phù hợp hơn. Đây vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của
thanh niên, của tổ chức đoàn để cùng đất nước gặt hái được nhiều thành công trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hoàn thành bài tiểu luận về “Quá trình đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam giai
đoạn 1975 đến nay”- một vấn đề quan trọng và xuyên suốt luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm hàng đầu nên chắc chắn em không tránh khỏi những thiếu sót do trình độ còn
hạn chế, thời gian không cho phép nghiên cứu sâu rộng, điều kiện để thu thập thông tin
còn khó khăn…Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài
tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Đỗ Thị Yến đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn
thành đề tài tiểu luận này./.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam do Bộ Giáo dục và Đào
tạo chỉ đạo biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, xuất bản.
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Các Văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam
4. Website Đảng Cộng sản Việt Nam ()

15




×