Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả xử trí sản phụ có sẹo mổ lấy thai ở tuổi thai ≥ 37 tuần tại bệnh viện sản nhi bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 92 trang )

1

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN

LỘC QUỐC PHƢƠNG

C

IỂ

S NG CẬN

TR SẢN PHỤ C

S NG V

T QUẢ

SẸO MỔ LẤY THAI Ở TUỔI THAI

≥ 37 TUẦN TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI BẮC GIANG

LUẬN ÁN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP II

THÁI NGUYÊN - 2016


2

T VẤN Ề


Thai nghén và sinh đẻ là một hiện tượng sinh lý bình thường ở người
phụ nữ. Tuy nhiên, trong q trình mang thai và sinh đẻ lại có nhiều vấn đề
bất thường xảy ra, đe doạ đến tính mạng của mẹ và con. Bởi vậy, an toàn cho
mẹ và con luôn là điều trăn trở của các nhà sản khoa trên thế giới cũng như ở
Việt Nam.
Mổ lấy thai là một phẫu thuật sản khoa lấy thai và phần phụ của thai
ra khỏi buồng tử cung qua một đường rạch ở thành bụng và cơ tử cung
trong các trường hợp cuộc đẻ đường dưới không thể thực hiện được [5].
Phẫu thuật này có lịch sử lâu đời từ hàng ngàn năm trước Công Nguyên,
lúc đầu người ta chỉ thực hiện trên người vừa chết, dần dần người ta nghĩ
đến việc phẫu thuật ở người sống để cứu cả mẹ và con. Nhưng do kỹ thuật
còn non kém, chưa có thuốc kháng sinh, chưa có khái niệm về vơ khuẩn
nên mổ lấy thai ít đem lại kết quả, tỷ lệ tử vong mẹ và con còn rất cao do
chảy máu và nhiễm khuẩn sau mổ.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền y học, ngành sản khoa cũng có
những bước phát triển vượt bậc, đó là sự xuất hiện các phương tiện thăm dị
chẩn đốn, cập nhật phác đồ điều trị mới, sự xuất hiện nhiều loại kháng sinh
mới và hiểu biết về vô khuẩn, khử khuẩn, sự tiến bộ của ngành gây mê hồi
sức…Theo đó, kỹ thuật mổ lấy thai ngày càng được cải tiến và hoàn thiện
hơn, tỷ lệ tử vong mẹ và con do phẫu thuật giảm đi rất nhiều. Tuy nhiên tỷ lệ
mổ lấy thai trong những năm gần đây đang có xu hướng tăng lên rõ rệt, đặc
biệt là tỷ lệ mổ lấy thai ở sản phụ có sẹo mổ lấy thai tăng lên một cách đáng
kể. Tỷ lệ mổ lấy thai ngày càng gia tăng khơng chỉ ở Việt Nam, mà cịn là xu
hướng chung của các nước trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển. Ở
Pháp, trong vòng 10 năm, từ 1972 - 1981 tỷ lệ mổ lấy thai đã tăng gấp đôi từ
6% lên 11% và gần đây là 20 - 25%. Tại Mỹ, năm 1988 tỷ lệ mổ lấy thai


3


trung bình của cả nước là 25%, đến năm 2004 tỷ lệ này là 29,1% [59]. Còn
với mổ lấy thai do sẹo mổ lấy thai cũ thì phải mổ lấy thai lại là hơn 90% [18],
[31]. Theo nghiên cứu của nhiều tác giả ở Việt Nam, tỷ lệ mổ lấy thai ở
những thập kỷ 60 - 70 khoảng từ 10 - 14% [4], [28]; tỷ lệ mổ lấy thai ở sản
phụ có sẹo mổ lấy thai khoảng từ 54 - 60% [10], [24]. Những năm gần đây tỷ
lệ mổ lấy thai chung cũng tăng cao từ 46,3% [2] đến 53,74% [16]; tỷ lệ mổ
lấy thai ở sản phụ có sẹo mổ lấy thai cũng tăng cao trên 98% [9], [16].
Với thai nghén ở một tử cung có sẹo mổ lấy thai lại là một trong những
nguy cơ sản khoa. Trong khi đó, vấn đề chỉ định mổ lấy thai ở các sản phụ có
sẹo mổ lấy thai vẫn cịn chưa được thống nhất và đang được rất nhiều các nhà
khoa học quan tâm. Đồng thời việc tiên lượng cuộc đẻ lần sau cũng sẽ khó
khăn và phức tạp hơn vì có nguy cơ nứt sẹo cũ, vỡ tử cung và những tai biến
khác ở lần mang thai sau, đòi hỏi thầy thuốc sản khoa phải tiên lượng được
mọi nguy cơ có thể xảy ra khi theo dõi những sản phụ có sẹo mổ lấy thai để
đưa ra chỉ định hợp lý nhất nhằm đảm bảo an toàn cho cả mẹ và con.
Nhận thấy ở Việt Nam cũng như tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang
trong 10 năm trở lại đây đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về mổ lấy
thai nhưng chưa có cơng trình nghiên cứu cụ thể nào về cách xử trí ở sản
phụ có sẹo mổ lấy thai. Vậy có các cách xử trí nào ở sản phụ có sẹo mổ lấy
thai? Tỷ lệ mổ lấy thai ở sản phụ có sẹo mổ lấy thai như thế nào? Các chỉ
định đó đúng hay sai? Để góp phần trả lời cho những câu hỏi trên chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đ
sẹo mổ lấy thai ở tuổ

a ≥ 37 tuần tại Bệnh viện S n

Nhi Bắc Giang”.
Mục tiêu nghiên cứu:
m lâm sàng, c n lâm sàng s n ph có sẹo mổ lấy tha ở


1. Mơ t


a ≥3

ầ tại Bệnh viện S n Nhi Bắc Giang ă

2. Phân tích

2015 – 2016.

x trí s n ph có sẹo mổ lấy thai ở

ầ tại Bệnh viện S n Nhi Bắc Gian

ă

2015 – 2016.



a ≥3


4

Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Sơ lƣợc về lịch sử phẫu thuật lấy thai
Theo lịch sử của người Ai Cập, mổ lấy thai đã được thực hiện vào những

năm 3000 năm trước Công Nguyên, khi ấy chỉ tiến hành trên người mẹ mới chết
hoặc đang hấp hối để cứu con. Năm 730 trước Cơng Ngun vị Hồng đế La Mã
Pompillius đã ban hành một sắc lệnh: Tất cả các bà mẹ mang thai khi bị chết chỉ
được chôn sau khi thai nhi đã được lấy ra khỏi bụng mẹ, điều này chứng tỏ mổ
lấy thai (MLT) đã có từ rất lâu đời và chỉ được thực hiện trên người chết [19].
Đến thế kỷ 16, phẫu thuật này mới được thực hiện trên người mẹ sống.
Năm 1500 Jacob Nufer (Thuỵ Sỹ) một người làm nghề thiến lợn ở Thuỵ Sỹ
đã thực hiện cuộc phẫu thuật cho vợ ơng ta, đó được coi là trường hợp mổ lấy
thai đầu tiên trên thế giới [19]. Năm 1610 Jeremiah Trautmann ở Saxony
(Đức) đã thực hiện MLT trên người sống nhưng người mẹ đã tử vong sau
phẫu thuật 25 ngày. Cho đến năm 1794 mới có ca phẫu thuật đầu tiên thành
công cứu sống cả mẹ lẫn con tại bang Virginia của Mỹ [19].
Từ đó MLT đã được nhiều người ủng hộ và có ở nhiều nước Pháp, Anh
nhưng tỷ lệ tử vong quá cao do biến chứng chảy máu và nhiễm trùng. Từ
1500-1769 trong suốt 200 năm chỉ có 76 trường hợp cứu sống người mẹ bằng
MLT, Y văn Châu Âu: Năm 1865 tỷ lệ chết do MLT là 85%, ở nước Áo
100% từ năm 1780-1888.
Năm 1876, Edueardo Porro thực hiện thành công đầu tiên MLT tiếp theo
cắt tử cung bán phần và khâu mép cắt vào thành bụng đã hạn chế được biến
chứng nhiễm trùng và chảy máu.


5

Đến năm 1882, Max Sanger người Đức đã đưa cách phẫu thuật là rạch dọc
thân tử cung để lấy thai sau đó khâu phục hồi lại cơ tử cung, đem lại kết quả khả
quan hơn mà ngày nay được gọi là MLT theo phương pháp cổ điển [5].
Năm 1805, OSiander lần đầu tiên mô tả phẫu thuật rạch dọc đoạn dưới tử
cung lấy thai [5]. Nhưng mãi đến đầu thế kỷ XX năm 1906 FranK cải tiến
phương pháp của OSiander và sau đó được áp dụng rộng rãi nhờ cơng của

William và Delee và cũng chính ơng là người đầu tiên so sánh đối chiếu giữa
mổ dọc thân tử cung và mổ dọc đoạn dưới tử cung để lấy thai [5].
Đến năm 1926, Kerr đề xuất thay đổi kỹ thuật từ rạch dọc đoạn dưới tử
cung sang rạch ngang đoạn dưới tử cung để lấy thai, đây là bước thay đổi kỹ
thuật quan trọng đem lại kết quả cao tuy nhiên, mổ lấy thai vẫn cịn hạn chế vì
nhiễm khuẩn và yếu kém trong gây mê hồi sức [5].
Năm 1940, Flemming phát minh ra kháng sinh làm giảm tỷ lệ nhiễm
khuẩn. Sau đó vào những năm 1950, gây mê hồi sức đã có bước tiến mới
trong việc áp dụng các phương tiện gây mê hiện đại, thuốc tê, thuốc mê mới
thì phẫu thuật MLT thực hiện an tồn hơn, đảm bảo hơn cho mẹ và con.
Ở Việt Nam, trước năm 1950 do nguy cơ nhiễm khuẩn lớn, chưa có
kháng sinh và hạn chế của gây mê nên MLT được áp dụng rất hạn chế. Chỉ sau
khi kháng sinh ra đời, MLT mới được áp dụng rộng rãi. Năm 1956 phẫu thuật
mổ dọc đoạn dưới tử cung lấy thai được áp dụng đầu tiên tại khoa Sản Bệnh viện
Bạch Mai (Hà Nội), sau đó giáo sư Đinh Văn Thắng thực hiện mổ ngang đoạn
dưới tử cung lấy thai tại bệnh viện Bạch Mai và phương pháp này đang được áp
dụng rộng rãi trên Tồn Quốc cho đến ngày hơm nay [28] (Hình 1.1).


6

1.2. ặc điểm về giải phẫu sinh lý và tổ chức học sẹo mổ tử cung
1.2.1. T ay ổi về gi i phẫu
Tử cung bị biến dạng do bị sẹo dúm dó, co kéo thể hiện trên hình ảnh
siêu âm thấy một hình trụ khác với bình thường là hình quả lê. Tư thế tử cung
bị dính làm thay đổi vị trí khơng cịn hơi đổ ra trước, gấp ra trước, không di
động dễ dàng trong một tiểu khung rỗng, đặc biệt không thể quay sang phải
như ở tử cung bình thường.
Mật độ vùng sẹo kém mềm mại vì nhiều tổ chức liên kết hơn sợi cơ và
sợi chun giãn. Có thể gặp trường hợp sẹo mỏng hơn bình thường thành một

hình rãnh lõm, cũng có thể gặp sẹo phì đại lồi vào buồng tử cung… Những
trường hợp này thường chỉ có thể phát hiện được qua kiểm sốt tử cung sau
đẻ hoặc trên hình ảnh siêu âm.
Tổn thương dính là nguy hiểm nhất vì dễ làm tổn thương bàng quang,
niệu quản, ruột non và đại tràng trong những lần mổ sau (Hình 1.2).
1.2.2. Đ

m về sinh lý học

Hoạt động co bóp của cơ tử cung là mối liên quan giữa hoạt động cơ học
(các sợi cơ actin trượt trên các sợi khác làm thay đổi dạng sợi và tính chất vật
lý) và hiện tượng điện học (sự trao đổi ion chủ yếu là Ca++) qua màng tế bào
gây hiện tượng giải phóng năng lượng làm biến đổi những protein co bóp,
hiện tượng co bóp có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào của cơ tử cung và bất kỳ vị
trí giải phẫu nào và với sẹo tử cung các sợi cơ vùng đó bị ảnh hưởng sẽ làm
sự co bóp khơng nhịp nhàng.
Về bản chất thì sẹo cơ tử cung gồm nhiều tế bào xơ, tổ chức liên kết sợi
cơ rải rác mong manh nên dễ vỡ khi có cơn co tử cung trong q trình chuyển
dạ. Theo Surean, Csapo, Jung tác dụng cơn co tỷ lệ thuận với cường độ và tỷ


7

lệ nghịch với sức đối kháng đoạn dưới tử cung và cổ tử cung như sẹo ở
đoạn eo đã trở nên một sức đối kháng làm giảm cường độ lan truyền từ
thân xuống làm cổ tử cung khó giãn nở khi chuyển dạ. Các yếu tố thần kinh
nội tại ở vùng sẹo ít hơn bình thường nên giảm đáp ứng kích thích, một mặt
cản trở co bóp, mặt khác ảnh hưởng đến thần kinh nội tại tử cung nằm ở
vùng cơ, eo gây hiện tượng ngưng hẳn chuyển dạ ảnh hưởng đến hoạt động
co bóp và gây đau đớn cho thai phụ.

1.2.3. Đ

m về tổ chức học

Schawarz (1938) và Siegel (1952) đã làm thực nghiệm trên tử cung của
chó thấy rằng: Ban đầu sẹo ấy đều là tổ chức xơ, có nhiều tế bào là xơ non,
nhưng về sau các sợi ấy biến thành sợi cơ lẫn vào các lớp cơ của tử cung.
Siegel cho rằng sự hình thành các tổ chức trung gian tức là phản ứng
Fibroblastes rất quan trọng trong quá trình hình thành sẹo ở tử cung. Nghiên
cứu trên một số người mổ lại cho thấy: Chỗ sẹo là tổ chức xơ có tế bào xơ
non xen lẫn các sợi cơ trơn hình ảnh sợi cơ bình thường, chỉ có lưới mao
mạch là ít phát triển. Liên bào phủ mặt trong sẹo là liên bào trụ tiết nhầy
giống hệt liên bào phủ mặt trong cổ tử cung, loại liên bào này có chỗ lồng vào
rất sâu trong lớp cơ gây ra hình ảnh tổ chức học gặp trong trường hợp rau cài
răng lược.
Sử dụng điện quang để nghiên cứu sẹo mổ tử cung đoạn dưới một số tác
giả kết luận: Những hình ảnh đối chiếu trên điện quang xấu nhất là hình ảnh
của tử cung khâu bằng chữ X hay chữ U, hay khi đã phải khâu thêm để cầm
máu hoặc khi niêm mạc bị kẹt vào sẹo. Vỡ tử cung tỷ lệ phần trăm cao khi mổ
lần trước là rau tiền đạo. Hình ảnh tốt nhất là những hình ảnh của sẹo khi
khâu 2 lớp bằng chỉ catgut thường. Nếu hình ảnh điện quang bình thường hay


8

chỉ có biến dạng nhỏ và nếu nguyên nhân mổ lần trước khơng phải là ngun
nhân cố định thì có triển vọng lần sau đẻ đường dưới, trái lại nếu có biến dạng
vừa hay lớn nên mổ trước chuyển dạ vì sẹo có thể tốc ra hoặc tử cung bị vỡ
ngay trong những cơn co đầu tiên.
1.3. Thay đổi giải phẫu và sinh lý ở tử cung khi có thai

* Thay đổi ở thân tử cung:
Thân tử cung là bộ phận thay đổi nhiều nhất trong khi có thai và chuyển
dạ. Trứng làm tổ ở niêm mạc tử cung và niêm mạc tử cung biến thành ngoại
sản mạc. Tại đây hình thành bánh rau, màng rau, buồng ối để chứa thai nhi ở
trong. Trong khi có thai, thân tử cung thay đổi về kích thước, vị trí và tính chất.
Trọng lượng: Khi chưa có thai, tử cung nặng 50 – 60 gam. Sau khi thai
và rau sổ ra ngoài, tử cung nặng trung bình 1000 gam (900 – 1200 gam). Tăng
trọng lượng của tử cung chủ yếu trong nửa đầu của thời kỳ thai nghén. Bình
thường khi chưa có thai cơ tử cung dày khoảng 1cm, đến khi có thai vào
tháng 4- 5, lớp cơ tử cung dày nhất khoảng 2,5cm. Các sợi cơ tử cung có thể
phát triển theo chiều rộng gấp 3 – 5 lần, theo chiều dài lên tới 40 lần.
Trong những tuần đầu của thai nghén, tử cung to lên chủ yếu do tác
dụng estrogen và progesteron. Nhưng sau 12 tuần lễ, tử cung tăng lên về
kích thước chủ yếu do thai và phần phụ của thai to lên làm cho tử cung
phải tăng lên theo [14]:
- Dung tích: Khi chưa có thai, buồng tử cung có dung tích 1 – 4ml. Khi
có thai dung tích buồng tử cung tăng lên tới 4000 – 5000ml, trong các trường
hợp đa thai, đa ối dung tích buồng tử cung có thể tăng nhiều hơn nữa. Buồng
tử cung khi chưa có thai đo được trung bình 7cm, vào cuối thời kỳ thai nghén,
buồng tử cung cao tới 32cm.


9

- Hình thể: Trong 3 tháng đầu, đo đường kính trước sau to nhanh hơn
đường kính ngang nên tử cung có hình trịn. Phần dưới phình to lên, có thể
nắn thấy qua túi cùng bên âm đạo. Do thai chiếm khơng hết tồn bộ buồng tử
cung làm cho tử cung khơng đối xứng, hình thể tử cung khơng đều. Vào
khoảng 3 tháng giữa tử cung có hình trứng, cực to ở trên, cực nhỏ ở dưới.
Trong 3 tháng cuối hình thể tử cung phụ thuộc vào tư thế của thai nhi nằm

trong buồng tử cung.
- Vị trí: Khi chưa có thai, tử cung nằm ở đáy chậu, trong tiểu khung. Khi
có thai tử cung lớn lên và tiến vào ổ bụng. Khi tử cung lên cao, nó kéo giãn
căng dây chằng rộng và dây chằng tròn theo. Tháng đầu, tử cung còn nằm ở
dưới khớp vệ. Từ tháng thứ 2 trở đi trung bình mỗi tháng tử cung phát triển
cao lên phía trên khớp vệ 4cm.
- Cấu tạo: Phúc mạc ở thân tử cung dính chặt vào lớp cơ tử cung. Khi có
thai phúc mạc phì đại và giãn ra theo lớp cơ tử cung. Ở đoạn eo tử cung phúc
mạc có thể bóc tách được dễ dàng ra khỏi lớp cơ tử cung, ranh giới giữa hai
vùng là đường bám chặt của phúc mạc. Đó là ranh giới để phân biệt đoạn thân
tử cung với đoạn dưới tử cung. Người ta thường MLT ở đoạn dưới tử cung để có
thể phủ được phúc mạc sau khi đã đóng kín vết mổ ở lớp cơ tử cung.
Cơ ở thân tử cung gồm 3 lớp: Lớp ngoài là lớp cơ dọc, lớp này vòng
qua đáy tử cung và kéo dài tới các dây chằng của tử cung. Lớp trong là lớp
cơ vịng, nó có các sợi cơ giống như các sợi cơ thắt ở quanh các lỗ vòi tử
cung và lỗ trong cổ tử cung. Lớp giữa gồm các cơ đan chéo nhau gọi là lớp
cơ đan, lớp cơ này dày nhất và phát triển mạnh nhất, trong lớp cơ này có
nhiều mạch máu. Sau khi sổ rau, lớp cơ này co chặt lại để tạo thành khối an


10

tồn của tử cung, thít chặt các mạch máu lại, đảm bảo khơng chảy máu đó là
sự cầm máu sinh lý.
Niêm mạc tử cung khi có thai biến đổi thành ngoại sản mạc.
- Khả năng co bóp và co rút: Trong khi có thai khả năng co bóp và co rút
của cơ tử cung tăng lên rất lớn. Thể tích của tử cung có thể co lại cịn 2/3,
đang từ mềm tồn bộ có thể co chắc lại. Tăng khả năng co bóp và co rút do 2
yếu tố: Các sợi cơ tử cung đã tăng tình trạng dễ kích thích nên dễ bị co bóp
hơn và các sợi cơ thường xuyên ở trong tình trạng giãn nên dễ dàng và sẵn

sàng co rút lại.
* Thay đổi ở eo tử cung
Trước khi có thai eo tử cung chỉ là một vòng tròn nhỏ, chiều cao 0,5 – 1cm
nằm giữa thân và cổ tử cung.
Phúc mạc ở eo tử cung lỏng lẻo, dễ bóc tách ra khỏi lớp cơ vì giữa phúc
mạc và lớp cơ có 1 tổ chức liên kết khá dày. Khi có thai và đoạn dưới tử cung
được thành lập phúc mạc cũng giãn dần ra. Lớp cơ ở đoạn dưới tử cung chỉ có
lớp cơ dọc ở ngồi, lớp cơ vịng ở trong, khơng có lớp cơ đan chéo ở giữa.
Khi có thai eo tử cung giãn rộng dần, dài và mỏng ra tạo thành đoạn dưới tử
cung. Đến cuối cuộc chuyển dạ đẻ đoạn dưới tử cung dài khoảng 10cm. Đối
với sản phụ con so đoạn dưới tử cung được thành lập từ đầu tháng thứ 9. Ở
người con rạ đoạn dưới tử cung được thành lập vào giai đoạn đầu của cuộc
chuyển dạ. Đoạn dưới tử cung là phần dễ vỡ nhất trong cuộc chuyển dạ đẻ và
dễ chảy máu khi có rau tiền đạo.


11

* Thay đổi ở cổ tử cung
Khi có thai cổ tử cung mềm ra, mềm từ ngoài vào trung tâm. Vị trí và
hướng cổ tử cung khơng thay đổi nhưng khi đoạn dưới được thành lập, cổ
tử cung thường quay về phía xương cùng do đoạn dưới tử cung phát triển
nhiều ở mặt trước hơn mặt sau. Khi bắt đầu chuyển dạ đẻ cổ tử cung xóa và
mở [14].
Trên đây là những thay đổi tử cung ở phụ nữ khi mang thai. Cuộc đẻ sẽ
diễn ra bình thường, sản phụ có thể đẻ đường dưới. Nếu có nguyên nhân đẻ
khó cố định hoặc nguyên nhân phối hợp khiến sản phụ phải mổ lấy thai ở lần
sinh đầu, thì lần sinh sau sẽ để lại vết sẹo mổ cũ. Tuỳ vào kỹ thuật MLT, kỹ
thuật khâu cũng như săn sóc sau mổ, số lần mổ lại, thời gian mổ lại ở các sản
phụ có thể có những thay đổi về giải phẫu, sinh lý và dựa vào đó có thể tiên

lượng một phần ở lần đẻ sau.
1.4. Tình hình mổ lấy thai ở Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới
1.4.1. Tình hình mổ lấy thai chung
Trong những thế kỷ 16, 17 phẫu thuật lấy thai cịn thơ sơ, trình độ kỹ
thuật thấp, biến chứng chảy máu và nhiễm trùng cao là nguyên nhân chính
dẫn đến tử vong cho mẹ và con sau mổ. Do đó chỉ định MLT cịn hạn chế, các
nhà sản khoa vẫn nghiêng về các thủ thuật âm đạo, thậm chí huỷ một thai để
ưu tiên cứu sống mẹ trong những trường hợp ối vỡ sớm trên 12 tiếng vì cho
rằng khả năng nhiễm trùng cao.
Cho tới mấy chục năm gần đây nhờ phát kiến của các nhà khoa học được
coi là đánh dấu bước ngoặt trong lĩnh vực MLT: đó là cơng trình nghiên cứu
về vô trùng của Pasteur Lister, Semmelweiss; phát minh ra kháng sinh của


12

Fleming năm 1940 cùng với sự tiến bộ của gây mê hồi sức - tỷ lệ tử vong
trong MLT đã giảm hẳn.
Hiện nay MLT khơng cịn là phẫu thuật khó khăn nữa, MLT không chỉ
được áp dụng ở các trung tâm y khoa lớn mà ngay cả ở tuyến tỉnh, thậm chí
tuyến huyện cũng được áp dụng rộng rãi và có hiệu quả. Chính vì thế mà tỷ lệ
MLT ngày càng gia tăng. Tại Viện BVBMTSS từ năm 1964 tỷ lệ MLT là
9,68% (Đinh Văn Thắng, Nguyễn Thìn, Trần Đăng Tính) [28]; năm 1996 tỷ lệ
này là 30,5%. Tại BVĐKTƯTN năm 2012 là 46,3% [2]; tại BVPSHN năm
2013 tỷ lệ MLT là 53,86% so với tổng số đẻ chung [16].
Bảng 1.1. Tỷ lệ mổ lấy thai ở Việt Nam
Năm

Tác giả


Bệnh viện

Tỷ lệ
(%)

1964

Đinh Văn Thắng [28]

Viện BVBMTSS

9,68

1970

Dương Thị Cương [4]

Viện BVBMTSS

13,90

1981- 1983 Lê Điềm, Lê Hồng [7]

Viện BVBMTSS

15,27

1974- 1992 Nguyễn Thìn [29]

Viện BVBMTSS


20,25

1991- 1993 Lê Điềm, Lê Hoàng [7]

Viện BVBMTSS

23,45

1998

Nguyễn Đức Hinh [12]

Viện BVBMTSS

34,90

2000

Phạm Văn Oánh [23]

Viện BVBMTSS

35,10

2002

Vương Tiến Hòa [13]

BVPSTƯ


36,97

2004

Võ Thị Thu Hà [8]

BVPS Tiền Giang

31,00

2005

Phạm Thu Xanh [37]

BVPSTƯ

39,71

2012

Nguyễn Thị Bình [2]

BVĐKTƯTN

46,3

2013

Đào Thanh Kiều [16]


BVPSHN

53,86


13

Tỷ lệ MLT cũng tăng dần theo năm ở các tỉnh, tại Bệnh viện Đa Khoa
tỉnh Thái Bình tỷ lệ MLT từ 1992-1993 là 19% [3]; năm 1994-1997 theo
Nguyễn Đức Vy tại Bệnh viện Hải Dương tỷ lệ MLT là: 16,62% [36]. Năm
2004 theo Võ Thu Hà tại BVPS Tiền Giang tỷ lệ MLT là: 31% [8]; năm 2012
theo Nguyễn Thị Bình tại BVĐKTƯ TN là 46,3% [2]; năm 2013 theo Đào
Thanh Kiều tại BVPSHN tỷ lệ này là 53,86% [16].
Tỷ lệ MLT trên thế giới cũng tăng dần đặc biệt trong những năm gần
đây, năm 1972 theo Phipott và Castele tại Zimbawue tỷ lệ MLT là 9,90%;
năm 1982 tại Mexico là 25,84%; tại Mỹ theo Francis & CS tỷ lệ MLT chung
từ 1989-1990 là 22,7% [52]; đến năm 1994 tỷ lệ này theo John.p.Elliot là
26,1% tăng 3%.
Bảng 1.2. Tỷ lệ mổ lấy thai ở một số nước
Năm

Tác giả

1989- 1990 Francis [52]

Nƣớc

Tỷ lệ (%)


Scotland

14,20

1999

Mark hill [64]

Anh

21,50

1999

Mark hill [64]

Đan Mạch

14,00

1999

Mark hill [64]

Na Uy

12,60

1999


Mark hill [64]

Thụy Điển

12,20

1999

Mark hill [64]

Phần Lan

15,10

1999

Mark hill [64]

Pháp

17,30

1999

Mark hill [64]

Italia

12,60


2003

Koc [61]

Thổ Nhĩ Kỳ

26,10

2004

Hyattsville M.D [59]

Hoa Kỳ

29,10

2013

Kun Huang [62]

Trung Quốc

46-64,7


14

1.4.2. Tình hình mổ lấy thai ở s n ph có sẹo mổ lấy thai:
Bảng 1.3. Tình hình mổ lấy thai ở sản phụ có sẹo mổ lấy thai
Năm


Tác giả

Bệnh viện

Tỷ lệ %

Huỳnh Quế Phương [24]

Viện BVBMTSS

60,10

1976-1978

Vũ Quý Nhân [21]

Viện BVBMTSS

30,00

1979

Lê Đình Liên [19]

Viện BVBMTSS

68,72

1986


Đào Quang Trung [34]

Viện BVBMTSS

64,32

1991

Nguyễn Thìn [29]

Viện BVBMTSS

74,21

1995-1996

Tạ Xuân Lan [18]

Viện BVBMTSS

85,70

1999-2000

Bùi Quang Tỉnh [31]

Viện BVBMTSS

93,93


2005

Phạm Thu Xanh [37]

BVPSTƯ

94,35

2013

Đào Thanh Kiều [16]

BVPSHN

98,52

2014

Nguyễn Thị Thu Hằng [9] BVSNBG

98,20

1964

Qua thống kê của các tác giả cho thấy tỷ lệ MLT khơng giảm đi thậm chí
tăng nhanh đặc biệt ở các sản phụ có sẹo mổ lấy thai. Năm 1964 theo Huỳnh
Quế Phương nghiên cứu tại viện BVBMTSS tỷ lệ này là 60,10% [24]. Năm
1979 theo Lê Đình Liên nghiên cứu tại Viện BVBMTSS tỷ lệ này tăng lên
68,72% [19]; năm 1991 tỷ lệ này tăng 74,21% (theo Nguyễn Thìn) [29]. Năm

1995-1996 Tạ Xuân Lan và Nguyễn Thị Ngọc Khanh tại Viện BVBMTSS
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ này là 87,6% [18]. Năm 2013 theo Đào Thanh Kiều
tại Bệnh viện PSHN là 98,52% [16]; Tỷ lệ MLT ở sản phụ có sẹo MLT tại
Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang cũng tương đương với một số bệnh viện khác
năm 2014 Nguyễn Thị Thu Hằng tỷ lệ này là 98,2% [9].


15

Như chúng ta đã biết, sẹo ở tử cung do MLT lần trước đã là một ngun
nhân đẻ khó, thì ở lần đẻ sau chỉ cần một nguyên nhân bất lợi cho mẹ và thai
có thể chỉ định mổ ngay để tránh tai biến cho mẹ và con. Tiên lượng một cuộc
đẻ khi tử cung có sẹo mổ lấy thai khó khăn, mặt khác do các sản phụ muốn
mẹ trịn con vuông, muốn sinh giờ đẹp, tha thiết xin mổ. Những yếu tố trên
cũng phần nào đã làm tỷ lệ mổ lại ở các sản phụ có MLT tăng cao.
1.5. Chỉ định mổ lấy thai qua một số nghiên cứu
Chỉ định MLT là vấn đề đang được tranh luận nhiều. Theo nghiên cứu
của Đào Quang Trung (1986) tại Viện BVBMTSS kết luận: MLT chủ yếu
gặp ở con so [34], đây là trở ngại cho sản phụ ở những lần đẻ sau, vì vậy
trước khi chỉ định MLT ở con so cần cân nhắc kỹ. Các chỉ định mổ thường
thấy là: suy thai, bất tương xứng thai nhi và khung chậu, sẹo mổ lấy thai,
ngôi ngược. Chỉ định trên cũng phù hợp với nghiên cứu của Bùi Hữu
Chuân (1992-1993) tại BV Đa khoa Thái Bình nhận xét: Chỉ định MLT
thường gặp là suy thai, đầu không lọt, sẹo mổ lấy thai (15,13%), cổ tử cung
không tiến triển, ngôi thai bất thường [3].
Theo Phạm Văn Oánh tại Viện BVBMTSS (2000) chỉ định MLT chia
làm 5 nhóm: do thai (42,8%), do đường sinh dục (33,2%), do bệnh mẹ
(12,5%), do phần phụ chiếm 10,7%, lý do xã hội chiếm 0,8% [23]. Trong
tổng số hơn 30 nguyên nhân khác nhau chỉ định mổ do sẹo mổ lấy thai chiếm
tỷ lệ cao nhất 22,8% [23].



16

Bảng 1.4. Phân tích một số nguyên nhân mổ lấy thai ở sản phụ có sẹo mổ
lấy thai
1965-1969

1991-1992

2000

Huỳnh Quế

Tạ Xuân Lan

Phạm Văn Oánh

Phương [24]

[18]

[23]

KC hẹp, lệch

18,40

3,70


3,37

Rau tiền đạo

2,32

0,90

0,98

Nguyên nhân mổ

Tiền sản giật

2,66

Mẹ bệnh tim

1,26

Đau dính vết mổ

7,72

Sp xin mổ

6,03

Thai to


4,07

Thai suy

5,87

4,10

0,42

Ngôi bất thường

11,00

2,50

7,02

Thai già tháng

9,26

5,00

Đầu không lọt

24,10

22,70


Mổ lấy thai ≥ 2 lần

13,90

4,30

Mổ lấy thai ≤ 2 năm

11,70

Vỡ tử cung

1,37

Sa dây rau

2,00

CTC không tiến triển

10,40

Ối vỡ sớm-CTC
không tiến triển

3,37

8,98
0,42


0,50

0,42

27,50

24,01


17

Bảng trên cho thấy chỉ định MLT ở các sản phụ có MLT khác nhau giữa
các năm và giữa các tác giả. Năm 1965-1969, theo Huỳnh Quế Phương tỷ lệ
MLT trên sản phụ có sẹo MLT cao nhất ở các chỉ định: đầu không lọt (24,1%)
tiếp theo là khung chậu hẹp, lệch (18,4%), mổ lấy thai ≥ 2 lần chiếm 13,9%,
CTC không tiến triển chiếm 10,4% [24].
Năm 1991-1992, chỉ định MLT trên sản phụ có MLT chiếm tỷ lệ cao
nhất là ối vỡ sớm CTC khơng tiến triển, sau đó là nguyên nhân đầu không lọt,
tiếp đến là mổ lấy thai ≤ 2 năm. Năm 2000, chỉ định ối vỡ sớm (24,1%), thai
to 9,26%, mổ lấy thai ≤ 2 năm 8,98%, ngôi bất thường 7,02% và xuất hiện
thêm các chỉ định xã hội (sản phụ xin mổ).
Nghiên cứu tại một số Bệnh viện khu vực: Tại khoa Sản Bệnh viện Đa
khoa Hải Dương (1990 – 1994). Tác giả Nguyễn Đức Vy năm 1997 tỷ lệ
MLT chung là 16,62% với sản phụ có sẹo MLT là 86,90% [36]. Tác giả Đinh
Văn Nhữ tại BVPS Nam Định (1995 – 1998) tỷ lệ MLT chung 21,44%, MLT
ở sản phụ có sẹo MLT là 91,8% [22]. Qua đây chúng ta thấy tỷ lệ mổ lấy thai
ở sản phụ có sẹo MLT cũ trong những năm gần đây tăng nhanh.
Trên đây chúng tôi chỉ nêu chỉ định của một vài tác giả còn rất nhiều các
nghiên cứu khác không thể liệt kê trong khuôn khổ luận án này. Nhưng tựu
chung lại nguyên nhân phối hợp ối vỡ sớm - cổ tử cung không tiến triển là chỉ

định mổ chiếm tỷ lệ cao nhất ở các năm, nguyên nhân thứ 2 là do bất tương
xứng thai nhi và khung chậu, mổ lấy thai ≤ 2 năm. Tới thời điểm gần đây nhất
năm 2000 chỉ định mổ do thai to chiếm tỷ lệ khá cao 9,26%, điều này cũng dễ
lý giải do đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, các bà mẹ mang thai
được chăm sóc đầy đủ và khoa học hơn, do vậy trọng lượng thai to hơn những
năm trước đây.


18

1.6. Các phƣơng pháp mổ lấy thai
1.6.1. Mổ thân t cung lấy thai cổ

n

Trước đây phương pháp mổ thân tử cung lấy thai được chỉ định trong
các trường hợp: MLT kèm cắt tử cung như phong huyết tử cung rau, mẹ bị
suy tim, MLT lần trước tử cung dính hồn tồn vào thành bụng, bàng quang
khơng thể bóc tách được, khối u tiền đạo như u xơ tử cung ở đoạn dưới, trong
trường hợp thầy thuốc không thể mổ ngang đoạn dưới tử cung.
Ngày nay chỉ định cho những trường hợp cần lấy thai ra nhanh, không
thể mổ được đoạn dưới hoặc sau mổ lấy thai chủ động cắt tử cung vì mổ thân
dễ và nhanh hơn, tai biến chủ yếu là chảy máu, mổ thân tử cung khơng có
phúc mạc che phủ nên dễ bị viêm phúc mạc.
Kỹ thuật mổ thân tử cung: Rạch da đường trắng giữa trên và dưới rốn
đủ rộng để lấy thai. Sau khi lấy thai và rau tiến hành đóng buồng tử cung
và phủ phúc mạc. Khâu 2 lớp bằng chỉ catgut, lớp 1 khâu thanh mạc, xuyên
qua lớp cơ trừ niêm mạc tử cung mũi dời cách nhau 1cm, lớp 2 khâu nông
thanh mạc và lớp cơ ngồi phủ kín lớp 1. Tiến hành khâu phủ phúc mạc tử
cung. Kiểm tra ổ bụng, phần phụ, lau sạch dịch máu trong ổ bụng, kiểm tra

đủ gạc, mét, đóng thành bụng.
Mổ thân tử cung có thể có những biến chứng khi phẫu thuật: chảy máu
nhiều, đờ tử cung sau phẫu thuật, nhiễm trùng viêm phúc mạc vùng tiểu
khung, viêm phúc mạc tồn thể, sót gạc tạo thành ổ mủ và dính ruột.


19

1.6.2. Phẫu thu t bằng mổ

a

oạ dưới t cung (Hình 1.3)

Được áp dụng khi khơng có chỉ định mổ thân tử cung, phúc mạc đoạn
dưới bóc tách dễ dàng và dùng để phủ kín hồn tồn lớp cơ đã khâu. Lớp cơ
và phúc mạc khâu riêng rẽ, sẹo tử cung sau mổ đoạn eo sẽ thu nhỏ.
Về kỹ thuật: Mở thành bụng có thể theo đường giữa từ bờ trên khớp mu
đến dưới rốn hoặc rạch ngang, sau đó chèn hai mép vết mổ bằng hai gạc lớn.
Rạch ngang phúc mạc và bóc tách phúc mạc đoạn dưới.
Sau khi lấy thai, rau và lau sạch buồng tử cung, khâu phục hồi lại đoạn
dưới tử cung, khâu vết rạch tử cung và phúc mạc: Lớp 1 toàn thể lớp cơ mũi
rời, lớp 2 khâu vắt phủ lớp 1, phủ lộn mép phúc mạc khâu vào phía cơ tử cung
để tránh dính ruột sau này. Phẫu thuật mở ngang đoạn dưới có nhiều ưu điểm
và được áp dụng rộng rãi (Hình 1.4).
1.7.

ột số tai biến biến chứng trong

T và hậu quả của


T

1.7.1. Tai bi n, bi n chứng trong MLT
* Tai biến, biến chứng cho mẹ
- Chảy máu: Là tai biến hay gặp nhất 50 – 70% và chiếm tỷ lệ tử vong
cao 70-100%. Có thể xảy ra chảy máu khi đang phẫu thuật như: Rách sâu
xuống đoạn dưới tử cung, rách sang 2 động mạch tử cung, rau tiền đạo, rau
cài răng lược…Hoặc chảy máu sau khi đã phẫu thuật xong như: Đờ tử cung,
chảy máu tại vết rạch tử cung, chảy máu vết mổ. Nguyên nhân chảy máu
trong MLT nếu khơng được xử trí kịp thời bệnh nhân có thể sẽ bị tử vong
nhanh chóng; tỷ lệ này cịn cao ở các tỉnh là do số lượng máu truyền ít, chưa
có ngân hàng dự trữ máu đầy đủ, động tác vơ trùng cịn yếu, kém, các trang
thiết bị sản khoa chưa đầy đủ.


20

- Rách bàng quang: Có thể gặp trong các trường hợp MLT cũ quá dính
bàng quang bị treo cao nằm ngay dưới vết mổ, hoặc trong các trường hợp
chuyển dạ kéo dài, ngôi không lọt tỳ đè nhiều vào vùng bàng quang gây tổn
thương bàng quang.
- Thắt hoặc cắt phải niệu quản: Gặp trong các trường hợp ngôi đã lọt, lấy
thai khó khăn gây rách rộng hoặc tụ máu, khâu phục hồi khó khăn.
- Tổn thương ruột, mạc nối: Gặp trong các trường hợp MLT cũ q dính, gỡ
dính khó khăn phức tạp có thể sẽ vơ tình làm tổn thương đến ruột và các mạc nối.
- Nhiễm khuẩn: Tỷ lệ gặp phải 25 – 35%, có thể gặp nhiễm khuẩn tại vết
mổ, nhiễm khuẩn tại tử cung. Có thể phát hiện sớm ngay khi sản phụ đang nằm
điều trị tại viện, nhưng có trường hợp sau khi sản phụ đã ra viện một thời gian
mới phát hiện được.

- Tắc ruột do dính: Gặp sau MLT, có thể do cơ địa của sản phụ, nhưng
cũng có thể do phẫu thuật viên lau ổ bụng bằng gạc hoặc mét khô quá nhiều,
quá kỹ [9].
* Tai biến cho con:
- Rạch vào thai nhi: Có thể xảy ra ở người phẫu thuật viên lần đầu tiên
MLT, cũng có thể do đoạn dưới chưa thành lập khi rạch tử cung khó khăn
hơn, hoặc trong trường hợp khơng cịn ối.
- Ngạt: Trước đây khó khăn do thuốc gây mê đòi hỏi phải lấy thai ra
nhanh, hoặc do thai ngủ vì thuốc mê. Hiện nay chủ yếu giảm đau bằng gây tê
tủy sống nên ảnh hưởng về phía gây mê giảm đi rất nhiều. Ngạt có thể do
chuyển dạ kéo dài khi mổ vì suy thai giai đoạn muộn, vì một số trường hợp
khó khăn lấy thai như ngôi bất thường, ngôi đã xuống thấp, ngôi quá cao
trong MLT chủ động.


21

- Gãy xương: Tỷ lệ này ít gặp, có thể gặp khi lấy thai trong ngôi mông,
ngôi ngang do tử cung bóp chặt khó khăn khi lấy thai hoặc thủ thuật hạ tay
không đúng kỹ thuật...
- Chấn thương sọ não như: Lõm xương sọ, xuất huyết não [9].
1.7.2. H u qu mổ lấy thai
* Sản khoa
- Chửa ngoài tử cung: Một trong những nguyên nhân gây chửa ngoài tử
cung là do viêm nhiễm, có thể ngay tại vịi tử cung, có thể từ tử cung...Sau mổ
viêm niêm mạc tử cung, viêm tử cung... Cũng có thể gặp làm tăng nguy cơ
chửa ngồi tử cung, thậm chí chửa tại vết mổ tử cung.
- Sảy thai: Do sẹo tử cung gây ảnh hưởng đến quá trình làm tổ của trứng,
của thai.
- Đẻ non: Do sẹo tử cung gây tổn thương niêm mạc tử cung, gây tăng co

bóp bất thường của cơ tử cung.
- Ngôi thai bất thường.
- Rau tiền đạo và rau cài răng lược: Một số tác giả cho rằng tổn thương
niêm mạc tử cung do sẹo mổ cũ ở tử cung có nguy cơ gây rau tiền đạo trong
những lần có thai sau [15].
- Rối loạn cơn co tử cung, ối vỡ sớm, cổ tử cung không tiến triển.
- Vỡ tử cung và nứt sẹo MLT là biến chứng nghiêm trọng nhất có thể
làm chết mẹ và con trong chuyển dạ và ngay cả trong thời kỳ mang thai. Tỷ lệ
vỡ tử cung và nứt sẹo cũ là 0,6 – 1,3% [9].


22

* Phụ khoa
- Lạc nội mạc tử cung: Là hiện tượng có tổ chức giống về hình thái và
chức năng như nội mạc tử cung ở ngồi vị trí niêm mạc tử cung, có thể khu
trú trong các lớp cơ ngoài nội mạc do khi khâu cơ tử cung làm lộn lớp niêm
mạc vào trong cơ tử cung hoặc gặp ở nhiều vị trí khác nhau.
- Viêm phần phụ mạn tính có rối loạn nội tiết, do dính.
- Dị bàng quang: Trong khi phẫu thật đã làm tổn thương bàng quang
nhưng không phát hiện được, thường phát hiện sau mổ có thể sớm ngay sau
mổ hoặc sau một thời gian sản phụ đã ra viện mới phát hiện được [9].
- Rong kinh, rong huyết.


23

Chƣơng 2
ỐI TƢỢNG V PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. ối tƣợng nghiên cứu
- Tất cả sản phụ có sẹo mổ lấy thai vào đẻ tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc
Giang từ 01/9/2015 - 29/02/2016 có tuổi thai ≥ 37 tuần.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Tất cả các sản phụ có sẹo mổ lấy thai vào đẻ tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc
Giang từ 01/9/2015 đến 29/02/2016 có tuổi thai ≥ 37 tuần.
- Các hồ sơ bệnh án phải đảm bảo đầy đủ thông tin cần thiết theo tiêu
chuẩn của nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
- Hồ sơ bệnh án và bệnh nhân mổ lấy thai từ nơi khác chuyển đến.
- Những bệnh nhân có thai dị dạng, thai chết lưu.
2.2. Thời gian địa điểm nghiên cứu
2.2.1. Thời gian nghiên cứu: Từ 01/9/2015 đến 29/02/2016
2.2.2. Địa

m nghiên cứu: Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang.

Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang được thành lập ngày 05/02/2010 theo
Quyết định số 14/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Giang, là bệnh
viện Hạng I, chỉ tiêu giường bệnh được giao năm 2015 là 450 giường theo kế
hoạch [35]; bệnh viện là nơi tiếp nhận các bệnh nhân trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang và một số khu vực các tỉnh lân cận. Năm 2015 bệnh viện đón tiếp
129529 lượt bệnh nhân đến khám bệnh, điều trị nội trú 41632 bệnh nhân. Tổng số
đẻ cả năm là 14074 ca, mổ lấy thai 3864 ca chiếm tỷ lệ 27,5% [1].


24

Nhân lực: Tổng số biên chế là 357, trong đó có 93 bác sĩ (49 bác sĩ có
trình độ sau đại học), bệnh viện có đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ cao về

chun mơn; đảm bảo thường trực 24/24 giờ; cơ sở vật chất tốt, trang thiết bị
y tế hiện đại đáp ứng tốt cho nghiên cứu.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu mô tả
- Thiết kế nghiên cứu: thiết kế cắt ngang
2.3.1. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu trong nghiên cứu
* Cỡ mẫu: Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng công thức dùng
trong nghiên cứu mô tả cắt ngang
pxq
2

n=Z

(1 - α/2)

x
d2

n: số sản phụ cần cho nghiên cứu
p = 0,64 (dựa theo nghiên cứu của Đào Quang Trung (1986) tỷ lệ mổ lấy
thai ở sản phụ có sẹo MLT là 64,32% [34]).
q = 1-p = 0,36
d: sai số mong muốn, lấy d = 0,04
Z1-α/2 = 1,96 (với α = 0,05)
Thay vào công thức ta có: n=553
* Cách chọn mẫu: p dụng kỹ thuật chọn mẫu chủ đích, lấy theo thời gian.
Bao gồm tất cả các sản phụ có sẹo mổ lấy thai vào đẻ tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc


25


Giang từ 01/9/2015 đến 29/02/2016 ở tuổi thai ≥ 37 tuần có đủ tiêu chuẩn nghiên
cứu. Trên thực tế, trong khoảng thời gian nghiên cứu chúng tơi tìm được 568 sản
phụ có đủ tiêu chuẩn nghiên cứu nên chúng tơi chọn cỡ mẫu n = 568.
2.3.2. Kỹ thu t thu th p thông tin
- Xây dựng phiếu thu thập thông tin theo mục tiêu nghiên cứu.
- Khám, phỏng vấn bệnh nhân, điều tra bệnh án và thu thập thông tin số
liệu có trong hồ sơ bệnh án tại khoa Đẻ, khoa Sản I, khoa Sản II Bệnh viện
Sản Nhi Bắc Giang từ ngày 01/9/2015 đến ngày 29/02/2016 vào phiếu thu
thập thơng tin.
2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu
* Từ phía mẹ
- Tuổi
- Nghề nghiệp
- Khu vực sinh sống
- Tiền sử sản phụ khoa (tiền sử các lần mổ lấy thai trước)
* Từ phía thai và trẻ sơ sinh
- Tuổi thai
- Ngơi thai
- Trọng lượng trẻ sơ sinh sau đẻ
- Tình trạng trẻ sơ sinh sau đẻ: ngạt hay không ngạt
* Các nguyên nhân và thời điểm mổ lấy thai
- Sự kết hợp các lý do trong chỉ định MLT
- Nguyên nhân MLT do đường sinh dục của mẹ


×