Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận Lịch sử Đảng: Đảng ta lãnh đạo Kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.09 KB, 18 trang )

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:

ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)

GVHD:
Sinh viên thực hiện:
MSSV:
Số báo danh:
Ngành:

TP. Hồ Chí Minh, 17 tháng 6 năm 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU …………………………………………….…………………... ............... 1
NỘI DUNG ............................................................................................................... 3
Chương 1:

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN KHÁNG CHIẾN CHỐNG

THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954) ………………. ............................. 3
1.1.

Tình hình thế giới giữa thế kĩ XX … .......................................................... 3



1.2.

Tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XX…………... .......................................... 3

Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954) ....................................... 5
2.1. Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946) .... 5
2.1.1. Chủ trương lớn của Đảng nhằm bảo vệ chính quyền non trẻ…… ............. 5
2.1.2. Đảng lãnh đạo khắc phục khó khăn, bước đầu xây dựng xã hội mới ........ 6
2.2. Đường lối kháng chiến toàn quốc của Đảng (1946) ....................................

7

2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử ................................................................................... 7
2.2.2. Đường lối kháng chiến toàn quốc của Đảng ..........................................

8

2.3. Đảng lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ (1946-1954) .......................................................................................................... 9
2.3.1. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến từ tháng 12-1946 đến 12-1950……… .. 9
2.3.2. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến từ tháng 1-1951 đến 7-1954 ................ 10
2.4. Ý nghĩa lịch sự và bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng ....................

12

2.4.1. Ý nghĩa lịch sử ....................................................................................... 12
2.4.2. Bài học kinh nghiệm .............................................................................


13

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................ 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 16


MỞ ĐẦU
Xuyên suốt lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam
ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, trong đó khơng thể khơng kể đến cuộc
kháng chiến hào hùng chống thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ 2 giai
đoạn năm 1945 – 1954. Khi này, nước ta vừa giành được thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Nhân dân vừa được hưởng độc lập, tự do khơng lâu thì thực dân Pháp lại
âm mưu chiếm lấy nước ta một lần nữa. Để ngăn chặn âm mưu ấy, để bảo vệ
thành quả cách mạng và độc lập tự do mới giành được, nhân dân ta quyết định
vùng dậy, kiên cường đấu tranh không khoan nhượng theo lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau hơn 9 năm chiến
đấu không ngừng nghỉ, nhân dân ta đã đánh bại được các thế lực thù địch, đế
quốc xâm lược, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giải phóng hồn toàn
miền Bắc, tạo cơ sở để miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành
hậu phương vững chắc cho việc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
sau này. Để đạt được kết quả này, toàn Đảng, tồn qn, tồn dân ta đã đổ
nhiều mồ hơi, xương máu và cả nước mắt. Và những yếu tố quan trọng làm
nên lịch sử oai hùng này phải kể đến đó chính là đường lối lãnh đạo đúng đắn,
linh hoạt, sáng suốt của Đảng; lịng u nước, sức mạnh đồn kết một lòng
bảo vệ đất nước của nhân dân ta, ln kiên trì đấu tranh trong thời gian dài
khơng ngại gian khổ. Đây là một tấm gương sáng hùng hồn để lớp trẻ học tập
và noi theo.
Mới đây, không chỉ riêng Việt Nam chúng ta mà còn nhiều nước trên
thế giới đều phải đón nhận một thảm họa to lớn, để lại những hậu vô cùng

nặng nề cho nhân loại - Đại dịch COVID-19. Nó lây lan nhanh và đầy nguy
hiểm; nó đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người dân, biết bao gia đình
phải tan vỡ, làm thay đổi trật tự xã hội, nền kinh tế cũng theo chiều hướng đi
xuống. Có thể thấy, lịch sử nhân loại từng chứng kiến những trận dịch lớn,
nhưng có lẽ chưa bao giờ phải đối mặt với đại dịch như dịch COVID-19 vừa
qua. May thay, hiện nay mọi thứ đang dần ổn định lại. Và có thể nói, Việt
1


Nam là một trong những nước chiến đấu ngoan cường với đại dịch và giảm
thiểu ít nhất những hậu quả mà nó mang lại. Tính đến hiện nay, chúng ta gần
như có đủ điều kiện để thơng báo rằng Việt Nam hết dịch. Vậy tại sao Việt
Nam chúng ta có thể làm được điều này trong khi nhiều nước vẫn cịn đang
chiến đấu với chúng? Đó một phần là dựa vào việc phát huy cao độ những bài
học kinh nghiệm đánh giặc giữ nước quý báo của ông cha ta để lại. Việt Nam
chúng ta chiến đấu với đại dịch với khẩu hiệu xuyên suốt là “chống dịch như
chống giặc!”. Bằng sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Đảng, lịng u nước
và sức mạnh đồn kết dân tộc, hăng hái bảo vệ của đất nước con Rồng cháu
Tiên, nhân dân ta đã giành thắng lợi trên mặt trận chống dịch COVID.
Để đất nước Việt Nam có được độc lập, tự do, hạnh phúc như ngày
hơm nay đó là cả một quá trình chiến đấu lâu dài, gian khổ, hi sinh của biết
bao thế hệ anh hùng, để mọi người dân Việt Nam biết được lịch sử hào hùng,
vẻ vang đó của ơng cha ta và đồng thời cũng biết được rằng những kinh
nghiệm trong lịch sử chống giặc đó khơng chỉ có thể áp dụng trong lịch sử,
khi đất nước có giặc ngoại xâm mà ngay cả khi hịa bình, khơng có chiến
tranh, nhân dân ta vẫn có thể vận dụng nó đặc biệt là trong cơng cuộc xây
dựng, bảo vệ đất nước. Chính vì những lý do đó, em quyết định chọn đề tài
“Đảng lãnh đạo nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954)” làm đề tài kết thúc học phần Lịch sử Đảng.

2



NỘI DUNG
Chương 1
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)
1.1.

Tình hình thế giới giữa thế kỉ XX
Sau khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II cơ bản kết thúc vào tháng 8 năm

1945, thắng lợi thuộc về phe đồng minh chống phát xít với vai trị quyết định của
Liên Xơ. Một loạt nước Đơng Âu được giải phóng khỏi chủ nghĩa phát xít, lựa chọn
con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Sau đó phe chủ nghĩa xã hội dần hình
thành do Liên Xô đứng đầu trở thành hệ thống đối trọng với phe tư bản chủ nghĩa
cho Mỹ đứng đầu.
Bên cạnh đó, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ,
đặc biệt là phong trào giải phòng ở các nước thuộc địa dâng cao do tác động tích
cực và ảnh hưởng lan tỏa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa
phát xít, đế quốc thực dân.
Tuy nhiên, phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới trong việc chia
lại hệ thống thuộc địa, bắt tay dàn xếp với nhau tiếp tục tấn công phong trào cách
mạng thế giới, trong đó có cuộc cách mạng của Việt Nam. Sau khi Việt Nam dành
được chính quyền, vì lợi ích cục bộ của mình, các nước đồng minh không ủng hộ
lập trường độc lập của Việt Nam, khơng có nước nào cơng nhận Nhà nước Việt
Nam mới. Quan hệ của Đảng Cộng sản Đông Dương với các Đảng cộng sản trên
thế giới với các phong trào giải phóng dân tộc gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
1.2.

Tình hình Việt Nam giữa thế kỉ XX

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8-1945, Đảng ta và cách mạng nước ta

đứng trước nhiều thuận lợi, nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn thách
thức mới rất to lớn và quyết liệt.
Về thuận lợi:
Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân ta trở thành chủ nhân
của chế độ xã hội mới: Việt Nam dân chủ cộng hịa. Hệ thống chính quyền cách
mạng, chính quyền dân chủ nhân dân do Đảng lãnh đạo được thiết lập thống nhất từ
trung ương đến cơ sở trong toàn quốc.

3


Sự lãnh đạo quyết đoán, sáng tạo với đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản
Đông Dương đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh trở thành linh hồn
của Đảng, là trung tâm đoàn kết toàn dân tộc, là niềm tin của nhân dân.
Các công cụ chuyên chính được xây dựng và phát triển với những phẩm chất
chính trị mới, sức mạnh mới làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh chống thù trong giặc
ngoài bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng. Đặc biệt sự hình thành lực
lượng Quân đội quốc gia Việt Nam, Công an nhân dân, các tòa án quân sự, hệ thống
luật pháp cách mạng và các tổ chức bán vũ trang khác.
Về khó khăn, thách thức mới:
Hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập còn rất non trẻ, thiếu
thốn về nhiều mặt và phải chịu tác động tiêu cực từ nhiều thói hư tật xấu của chế độ
cũ.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế tiêu điều,
sơ xác sau chiến tranh tàn khốc; nền tài chính kiệt quệ, tệ nạn xã hội tràn ngập, nhất
là nạn mù chữ, thất học, nạn đói.
Hơn nữa, thực dân Pháp lại âm mưu muốn cướp nữa ta một lần nữa, cùng với
đó là sự bảo trợ của 2 vạn quân Anh - Ấn, sự có mặt của hơn 20 vạn quân Trung

Hoa Dân Quốc. Ăn theo các thế lực này là các đảng phái chính trị phản động, tay
sai, thế lực phản cách mạng cũng ngóc đầu dậy chống phá cách mạng quyết liệt.
Chưa bao giờ trên đất nước ta có nhiều kẻ thù và đội quân nước ngồi đơng đúc như
vậy. Nền độc lập của Tổ quốc bị đoe dọa nghiêm trọng, vận mệnh chính quyền cách
mạng như ngàn cân treo sợi tóc.

4


Chương 2
ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)
2.1. Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
2.1.1. Chủ trương lớn của Đảng nhằm bảo vệ chính quyền non trẻ
Cách mạng tháng Tám vừa thành công, nước ta đã lập tức đối đầu với bao
nhiêu khó khăn, thử thách, trong đó thù trong giặc ngồi đã đe dọa trực tiếp đến sự
sống cịn của chính quyền cách mạng. Tình thế lúc này được những người trong
cuộc gọi là “ngàn cân treo sợi tóc”. Thực sự khơng có hình tượng nào phản ánh
đúng hơn nữa.
Trước tình hình đó, ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ban hành chỉ thị về
kháng chiến kiến quốc (mật), nêu rõ kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp
xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng; mục tiêu của cuộc cách
mạng Đơng Dương lúc này vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết”. Và cũng đề ra phương hướng nhiệm vụ, giải pháp lớn
của cách mạng Việt Nam lúc này là phải tăng cường mặt trận thống nhất chống xâm
lược; củng cố chính quyền cách mạng, kiên quyết chống thực dân Pháp xâm lược,
bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.
Trên cơ sở đường lối đã vạch ra, Đảng đã lãnh đạo toàn dân kiên quyết
chống thực dân Pháp quay trở lại; Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cảnh
giác và sẵn sàng chiến đấu. Ngày 5/9/1945, Người kêu gọi: “(Nhân dân Việt Nam)

cương quyết phản đối qn Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm
dân tộc Việt Nam vào vịng nơ lệ một lần nữa… Hiện một số quân Pháp đã lọt vào
nước ta. Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”.Những điều này
thể hiện rõ ý chí sắc đá, tinh thần kiên quyết chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập tự
do vừa dành được và tích cực chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài sau này của ta.
Còn đối với quân đội Trung Hoa dân quốc (quân Tưởng), các tổ chức đảng
phái tay sai thân Tưởng, số cầm đầu Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt
Nam cách mạnh đồng minh hội (Việt Cách) khi vào Việt Nam, Đảng chủ trương
giao thiệp thân thiện, trách khiêu khích, xung đột, nhân nhượng có ngun tắc, vận
dụng sách lược mềm dẻo, khơn khéo để đối phó.

5


Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đối sách vơ cùng
sáng suốt, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết. Riêng trong việc xây
dựng và củng cố chính quyền, vấn đề được coi là cơ bản, cốt yếu của mọi cuộc cách
mạng xã hội, đã được thực hiện rất quyết liệt và đạt được những kết quả rất quan
trọng, góp phần giữ vững thành quả cách mạng.
2.1.2. Đảng lãnh đạo khắc phục khó khăn, bước đầu xây dựng xã hội mới
Thực hiện chủ trương chiến lược “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” của
Đảng, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa: chống
giặc đói, chống giặc dốt, xây dựng đời sống mới, củng cố hệ thống chính quyền
cách mạng, tăng cường xây dựng bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân,..
Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói được xác định là một nhiệm vụ lớn, quan
trọng, cấp bách lúc bấy giờ. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động
thi đua sản xuất; động viên nhân dân tiết kiệm; thực hiện bãi bỏ thuế thân và các thứ
thuế vô lý khác của chế độ thực dân; tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt
gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý.

Nhờ đó đầu năm 1946 nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân ổn định, tinh
thần dân tộc được phát huy cao độ, góp phần động viên kháng chiến ở Nam Bộ.
Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc
biệt, coi đó là một “giải pháp quan trọng” để xây dựng hệ thống chính quyền cách
mạng và phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Đảng đã vận động tồn dân xây
dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn văn hóa nơ dịch, xóa bỏ hủ tục lạc hậu,
phát triển phong trào “Bình dân học vụ” toàn dân học chữ quốc ngữ . Đến cuối năm
1946 cả nước có thêm hơn 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Đời
sống tinh thần của một bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng
vào chế độ mới, nêu cao quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.
Xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền cách mạng. Trước hết để bảo tồn
chính quyền cách mạng, làm thất bại âm mưu thâm độc của quân Tưởng, Đảng
Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí mật, đồng thời
thành lập Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hoạt động cơng khai. Tiếp đó, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương tiến hành cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu và
quyết định chạy đua với thời gian để tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trong toàn quốc
6


bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức. Ngày 6-1-1946, cả nước tham
gia cuộc bầu cử và có hơn 89% số cử tri đã đi bỏ phiếu dân chủ lần đầu tiên và chọn
ra 333 đại biểu. Trong kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế
thuộc các đảng Việt Quốc và Việt Cách nâng tổng số đại biểu là 403. Sau đó, Quốc
hội đã thơng qua Hiến pháp năm 1946 tại kỳ họp thứ hai.
Đối với vấn đề ngoại xâm, ngày 6-3-1946 Chính phủ ta đã ký Hiệp định Sơ
bộ với Pháp. Về mặt pháp lý, Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có
chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng; Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân
Pháp thay thế quân Tưởng giải giáp quân Nhật. Đến ngày 20-10-1946, sau khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam đi thăm Pháp về đến càng Hải Phịng an
tồn, cơng cuộc chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài của ta được đẩy mạnh hơn bao giờ

hết. Đến ngày toàn quốc kháng chiến, Đảng và nhân dân ta có thêm ba tháng chuẩn
bị và tăng cường lực lượng cho cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược.
2.2. Đường lối kháng chiến toàn quốc của Đảng (1946)
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau khi thực hiện sách lược hịa hỗn với Pháp bằng việc ký Hiệp định sơ bộ
6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, Đảng và nhân dân ta vẫn tiếp tục kiên trì thực
hiện chủ trương và tỏ rõ thiện chí hịa bình, thái độ nhân nhượng nhằm tìm kiếm
con đường tốt nhất bảo vệ và giữ gìn toàn vẹn nền độc lập của Việt Nam. Tuy
nhiên, với dã tâm xâm lược nước ta, cuối năm 1946 Pháp phản bội mọi cam kết,
quyết cướp nước ta một lần nữa. Ngày 18-12-1946, ở Hà Nội , Pháp gửi liên tiếp 3
tối hậu thư cho ta. Cho đến ngày 19-12-1946, mọi cố gắng ngoại giao và thiện chí
hịa bình, hịa hỗn của Chính phủ và Nhân dân Việt Nam đã bị thực dân Pháp
thẳng thừng chối bỏ. Trước hành động ngày càng lấn tới của thực dân Pháp, ta
không thể nhân nhượng được nữa, nhân nhượng nữa là mất nước. Vì vậy, ngay đêm
19-12-1946 Đảng và Chính phủ đã phát động toàn quốc kháng chiến. Ngày 20-121946, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm của
nhân dân ta và vạch ra nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến...
Bước vào cuộc kháng chiến chính nghĩa bảo vệ nền độc lập của dân tộc này,
thuận lợi của nhân dân ta đó là đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu
dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược. Tuy nhiên, sự tương quan lực

7


lượng, vũ khí lớn giữa ta và Pháp, đồng thời nước ta chưa được sự công nhận và
giúp đỡ của các nước khác cũng mang lại cho ta vô vàng khó khăn.
2.2.2. Đường lối kháng chiến tồn quốc của Đảng
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta ngày càng trở nên
hồn chỉnh, có thêm những cơ sở khoa học vững chắc, có tính chiến đấu cao từ
những thực tiễn đấu tranh của nhân dân ta. Tính chất cuộc kháng chiến của nhân
dân ta là chính nghĩa, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của thực dân

Pháp với mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp, giành lại nền độc lập, tự do, thống nhất
hoàn toàn cho đất nước. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến là: toàn dân,
toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến tồn dân là “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh
thực dân Pháp”. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi
phố là một mặt trận.
Kháng chiến toàn diện là kháng chiến trên mọi lĩnh vực, mặt trận không chỉ
đánh địch bằng quân sự mà về cả chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa tư tưởng.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trước hồn
cảnh khơng cân sức lực lượng giữa ta và Pháp, nhằm phá tan âm mưu đánh nhanh
thắng nhanh của thực dân Pháp, ta cần phải có thời gian chuyển hóa lực lượng nhỏ
thành lớn, yếu thành mạnh, chớp lấy thời cơ phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi,
nhân hòa” của ta. Đây là một quy luật cơ bản của cuộc chiến tranh nhân dân lấy ít
địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn trong lịch sử chiến tranh của dân tộc Việt Nam.
Kháng chiến dự vào sức mình là chính. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nổ
ra trong điều kiện quốc tế bất lợi, phe đế quốc hung hăng hiếu chiến, Việt Nam bị
bao vậy bốn phía. Vì vậy con đường duy nhất đúng đắn lúc này là phải đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta, phải tự lập, tự cường, tự cấp, tự túc về mọi mặt; phải dựa
vào nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn mạnh vốn có trong nhân dân làm sức
mạnh, làm cơ sở đề sử dụng và phát huy ngoại lực khi có điều kiện.
Đường lối kháng chiến của Đảng trong cuộc chiến tranh chống Pháp là hoàn
toàn đúng đắn và là ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta; huy động và phát huy cao nhất mọi nguồn lực, mọi nguồn sức mạnh của
toàn dân tộc để đánh thắng kẻ thù xâm lược. Đường lối kháng chiến của Đảng được
8


nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

2.3. Đảng lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ (1946-1954)
2.3.1. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến từ tháng 12-1946 đến 12-1950
Từ trước ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Đảng tích cực lãnh đạo cuộc
chiến đấu giam chân địch tại các thành phố, thị xã, mặt khác thực hiện tổng di
chuyển cơ quan lãnh đạo ra khỏi thành phố, thị xã để bảo toàn lực lượng, thực hiện
chiến lâu dài với khẩu hiệu “vường không nhà trống” “phá hoại để kháng chiến”.
Thực hiện lệnh toàn quốc kháng chiến, tại Hà Nội vào 20 giờ 3 phút, nhân
dân ta đồng loạt tấn cơng các vị trí đóng quân của thực dân Pháp. Cuộc chiến đấu
diễn ra vô cũng ác liệt, không cân sức trong suốt 60 ngày đêm khói lửa. Với tinh
thần và ý chí kiên cường “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, dân ta đã bước đầu làm
thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của địch. Ở các đô thị khác cũng đồng
loạt nổ súng tấn cơng địch hưởng ứng tồn quốc kháng chiến. Những thắng lợi
trong ngày đầu kháng chiến đã chứng tỏ đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng,
có tác dụng cổ vũ, khích lệ rất lớn để tồn qn toàn dân ta vững tin vào thắng lợi.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, các lực lượng vũ trang nhân dân được
chăm lo củng cố về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trên lĩnh vững kinh tế, văn hóa,
xã hội, Đảng tiếp tục quan tâm đến phong trào tăng gia sản xuất, tự túc lương thực,
đảm bảo đời sống cho nhân dân và tiếp tục duy trì bình dân học vụ.
Triển khai thế trận chiến tranh nhân dân đánh bại hoàn toàn kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
Thất bại trong âm mưu đánh úp thắng nhanh, các thế lực hiếu chiến Pháp
quyết định mở cuộc tấn công quân sự lớn lên Việt Bắc với khoảng 15.000 quân gồm
ba lực lượng lục quân, hải quân và không quân hình thành ba mũi tiến cơng chính
tiến lên cũng ATK Việt Bắc. Để đối phó, quân ta đã phát động mạnh mẽ cuộc chiến
tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ; chặt đứt giao thông, bao vây không
cho địch tiếp tế, liên lạc tiếp ứng cho nhau. Sau 75 ngày chiến đấu liên tục (7-10
đến 21-12-1047) quân và dân ta đã chiến đấu vô cùng oanh liệt, thông minh, sáng
tạo, anh dũng tuyệt vời, lần lượt bẽ gãy các mũi tiến công nguy hiểm của Pháp, loại
khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, phá hủy hàng trăm xe cơ giới, tàu xuồng

9


và nhiều phương tiện chiến tranh khác của địch. Thắng lợi của cuộc phản công Việt
Bắc thu đông 1947 đã mở ra bước ngoặc mới cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Trước những thuận lợi mới, Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến toàn dân,
toàn diện. Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, việc xây dựng lực lượng kháng
chiến được tổ chức phát động rộng rãi, mạnh mẽ. Trên mặt trận ngoại giao, Đảng
chủ trương tích cực tranh thủ và đặt quan hệ ngoại giao với các nước trong phe xã
hội chủ nghĩa. Trên mặt trận quân sự, Đảng chủ trương phát triển chiến tranh du
kích, “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”. Hoạt động du kích
chiến phối hợp với các hoạt động quân sự được phát huy cao độ và giành được
thắng lợi giịn giã trong nhiều trận đánh phục kích lớn ở các địa phương.
Trên cơ sở đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch
quân sự lớn tiến công dọc theo biên giới Việt – Trung. Chiến dịch Biên giới thu
đông 1950 diễn ra từ ngày 16-9 đến 14-10 là chiến dịch quân sự lớn đầu tiên do
quân là chủ động mở, là chiến dịch hết sức quan trọng, đích thân Chủ tịch Hồ Chí
Minh đi thị sát và trực tiếp chỉ đạo. Sau gần 1 tháng chiến đấu vô cùng anh dũng và
quyết liệt, quân ta dành thắng lợi to lớn, mở ra cục diện mới tạo điều kiện thuận lợi
phát triển lực lượng về mọi mặt, đẩy mạnh kháng chiến tiến tới.
2.3.2. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến từ tháng 1-1951 đến 7-1954
Phát huy thắng lợi to lớn của chiến dịch Biên giới thu đông (10-1950), Đảng
ta tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo phát triển thế tiến công và phản công trên các chiến
trường, giành quyền chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ. Cuộc chiến tranh
xâm lược của Pháp ở Đông Dương bị coi là “cuộc chiến tranh bẩn thiểu” và bị nhiều
lên án, cơng kích. Song, do bản chất ngoan cố, hiếu chiến lại được Mỹ tiếp sức,
Pháp vẫn ngoan cố quyết chiếm giữ Đơng Dương. Đầu năm 1951, Chính phủ Pháp
đã cử Đại tướng Đờ Lát Đờ Tátxinhi - đang làm Tư lệnh lục quân khối NATO, một
danh tướng tài ba bậc nhất nước Pháp sang làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh.
Điều này đã gây cho ta nhiều khó khăn mới, nhất là ở vùng địch hậu.

Để đưa cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới với khí thế mới từ ngày
11 đến ngày 19-2-1951, Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II. Đại hội
xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là: tiêu diệt thực dân
Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập thống nhất hoàn toàn,

10


bảo vệ hịa bình thế giới. Đại hội nhất trí đưa Đảng ra hoạt động công khai và lấy
tên mới là Đảng Lao động Việt Nam.
Để đối phó, Đảng chủ trương mở liên tiếp nhiều chiến dịch tiến cơng có quy
mơ lớn đó là các chiến dịch mang biệt danh: Trần Hưng Đạo (12-1950), Hoàng Hoa
Thám (3- 1951), Quang Trung (5-1951), Hịa Bình (12-1951). Thu đơng 1952 Đảng
chủ trương mở tiếp chiến dịch Tây Bắc nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch,
giải phóng một phần đất đai và nhân dân vùng Tây Bắc. Sau hơn 2 tháng chiến đấu
quyết liệt, gian khổ quân dân ta đã dành được thắng lợi to lớn, cuộc kháng chiến
cũng chuyển biến theo hướng có lợi cho ta. Nước Pháp lúng túng, bị động lệ thuộc
ngày càng sâu vào viện trợ quân sự Mỹ; giới quân sự Pháp hung hăng, tuyệt vọng
đang tìm mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hịng tìm một lối thốt trong danh dự.
Tháng 5-1953 được sự đồng tình và hối thúc của Mỹ, Pháp quyết định cử
Đại tướng H.Nava đang đảm nhiệm chức vụ Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối
NATO sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đơng Dương. Để đối
phó, Tổng Qn ủy báo cáo quyết tâm và Bộ Chính trị đã quyết định mở chiến dịch
Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư
lệnh quân đội được giao trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ
và góp phần nghi binh, phân tán lực lượng địch trên chiến trường Đông Dương, Bộ
Tổng tư lệnh chỉ đạo các đơn vị mở các cuộc tấn công địch đồng loạt, mạnh mẽ trên
các hướng chiến lược quan trọng. Cả nước đều ráo riết chuẩn bị tiếp tế, chi viện
nhân tài vật lực cho mặt trận Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:

“chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự mà cả về
chính trị, khơng những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, tồn qn,
tồn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”.
Đến đầu năm 1954, với cố gắng cao nhất của Pháp và Mỹ, Điện Biên Phủ đã
được xây dựng thành một “pháo đài khổng lồ bất khả xâm phạm”. Về phía quân đội
ta đã tập trung 33 vạn quân với mọi nỗ lực cao nhất bao vây chặt Điện Biên Phủ. Để
bảo đảm chắc thắng, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã quyết đoán kịp
thời chuyển hướng phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang
“đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc thắng”. Ngày 13/3/1954 quân ta nổ súng tấn
cơng địch ở phân khu phía Bắc trung tâm Mường Thanh, mở màn chiến dịch Điện
11


Biên Phủ. Vào hồi 17 giờ 30 phút, chiều 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam đã
đánh chiếm hầm chỉ huy, bắt sống tướng Đờ Cátơri chỉ huy trưởng và toàn bộ Bộ
chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng sau 3 đợt tiến công, 55 ngày đêm chiến
đấu liên tục, kiên cường, thông minh sáng tạo và vô cùng anh dũng, hy sinh vô bờ
bến của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Chiến thắng vĩ đại “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu” ở Điện Biên Phủ là chiến thắng của tồn dân tộc Việt
Nam, của lịng u nước sâu sắc, ý chí và khát vọng độc lập tự do của nhân dân Việt
Nam. Đánh dấu sự thất bại thảm hại của thực dân Pháp, của quân đội Pháp và hệ
thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trong thế kỷ XX.
Sau thắng lợi to lớn của qn dân ta, Pháp khơng cịn lựa chọn nào khác
cùng với các nước Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc triệu tập Hội nghị Giơnevơ bàn
về lập lại hịa bình ở Đông Dương. Sau 75 ngày đàm phán căng thẳng, gay go, phức
tạp, ngày 20-7-1954 ta đã chấp nhận ký kết bản Hiệp định Giơnevơ. Tinh thần cao
nhất của Hiệp định là: Pháp và các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các
quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống
nhất và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của các nước đó.

Hiệp định Giơnevơ được kí kết là một thắng lợi to lớn của cách mạng ba
nước Đông Dương, phản ánh xu thế chung của tình hình quốc tế lúc bấy giờ. Đây là
văn bản pháp lý quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam
và các dân tộc ở Đơng Dương. Nó là sự kiện lịch sử đánh dấu kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng từ
ngày 23-9-1945 đến 20-7-1954; lập lại nền hịa bình ở Đơng Dương; mở ra trang
lịch sử mới của dân tộc Việt Nam.
2.4. Ý nghĩa lịch sự và bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
2.4.1. Ý nghĩa lịch sử
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng tuy chưa dành được thắng lợi triệt để, trọn vẹn nhưng có ý nghĩa
hết sức to lớn, có sức lan tỏ rộng lớn, mang tầm vóc thời đại sâu sắc.
Thắng lợi này đã đánh bại cuộc xâm lược quy mô lớn với những điều kiện
lớn mạnh, hiện đại của thực dân Pháp. Đập tan ách thống trị kéo dài hơn 80 năm
của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến ở Việt Nam và trên bán đảo Đông
12


Dương, bảo vệ và phát triển tốt nhất các thành quả của Cách mạng tháng Tám.
Củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, mang đến niềm tin vào thắng lợi tất
yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Qua cuộc kháng chiến gian khổ này, các lực lượng vũ trang ngày càng được
tôi luyện, phát triển và trưởng thành mạnh mẽ về mọi mặt có bản lĩnh giai cấp vững
vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân. Trên cơ sở đó từng
bước xây dựng nên nền nghệ thuật quân sự cách mạng độc đáo huy động toàn dân
đánh giặc, toàn dân bảo vệ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đưa đến việc giải
phóng hồn tồn miền Bắc, tạo ra tiền đề về chính trị -xã hội vững chắc đưa miền
Bắc phát triển mạnh mẽ, toàn diện, chỗ dựa vững chắc, hậu phương lớn chi viện cho
tiền tuyến lớn miền Nam sau này và thực sự trở thành nhân tố quyết định nhất đối

với công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau này.
2.4.2. Bài học kinh nghiệm
Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức kháng chiến kiến quốc, Đảng đã tích lũy
được nhiều bài học quan trọng.
Bài học thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối
đó cho tồn Đảng, tồn qn, tồn dân thực hiện. Đó là đường lối chiến tranh nhân
dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Bài học thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với
nhiệm vụ chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mần móng
cho chủ nghĩa xã hội. Trong đó, nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế quốc, giải
phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Bài học thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế
độ mới, xây dựng hậu phương vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của kháng chiến.
Bài học thứ tư, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu
dài; đồng thời, tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến
tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại
giao đưa kháng chiến đi đến thắng lợi.
Bài học thứ năm, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến
đấu và hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
13


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Như vậy, có thể thấy rằng sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 8 năm
1945, Đảng và Nhà nước ta đã luôn giữ mối quan hệ hịa hỗn, vơ cùng nhân
nhượng Pháp bằng việc kí với Pháp Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-91946 nhằm bảo về độc lập tự do, tìm kiếm con đường kháng chiến tốt nhất cho dân
tộc. Tuy nhiên, với âm mưu biến nước ta thành thuộc địa một lần nữa, cuối năm
1946, Pháp phản bội mọi cam kết, chính thức xâm lược nước ta tại Hà Nội và các
đô thị khác. Sau hơn 60 ngày chiến đấu gian nan cùng với những đường lối chiến

đấu đúng đắn của Đảng với nội dung cơ bản là: toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào
sức mình là chính, nhân dân ta đã nhanh chóng dành được thắng lợi đầu tiên.
Thất bại trong âm mưu đánh nhanh thắng nhanh, các thế lực hiếu chiến Pháp
lại quyết định mở cuộc tấn công lớn lên Việt Bắc. Với tinh thần và ý chí kiên cường
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, nhân dân ta mở nhiều cuộc chiến tranh du kích
bẻ gãy các mũi tiến công nguy hiểm của địch, chiến đấu suốt 75 ngày đêm và đem
lại chiến thắng vô cùng oanh liệt. Trên tinh thần chiến thắng, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh quyết định chủ động mở cuộc tiến cơng quân sự lớn đầu tiên của nhân
dân ta dọc theo biên giới Việt – Trung – Chiến dịch Biên giới thu đông 1950. Quân
ta tiếp tục dành thắng lợi to lớn, mở ra cục diện mới tạo điều kiện thuận lợi phát
triển lực lượng về mọi mặt, đẩy mạnh kháng chiến tiến tới.
Một lần nữa thất bại trong tay ta, nhưng được sự can thiệp và hỗ trợ của Mỹ,
thực dân Pháp vẫn quyết định mở các cuộc tấn công hịng kiêng quyết chiếm lấy
nước ta, trong đó phải kể kế hoạch biến Điện Biên Phủ thành căn cứ quân sự, làm
pháo đài để Pháp tiến đánh quân ta. Nhưng đáng tiếc thay cho Pháp, với sự lãnh đạo
sáng suốt, tài ba của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và tinh thần vì nước
quên mình của nhân dân ta, Pháp một lần nữa phải đón nhận thất bại thảm hại.
Khơng cịn lựa chọn nào khác, Pháp cùng với các nước Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung
Quốc triệu tập Hội nghị Giơnevơ bàn về lập lại hịa bình ở Đơng Dương và chính
thức ký kết bản Hiệp định Giơnevơ vào ngày 20-7-1954. Hiệp định Giơnevơ được
kí kết là một thắng lợi to lớn của cách mạng ba nước Đông Dương, mở ra trang lịch
sử mới của dân tộc Việt Nam.

14


Qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần này, có một điều chúng ta
phải cơng nhận rằng các đường lối kháng chiến của Đảng ta là đúng đắn, sáng suốt.
Đường lối kháng chiến của Đảng ta ngày càng trở nên hồn chỉnh, có thêm những
cơ sở khoa học vững chắc, có tính chiến đấu cao từ những thực tiễn đấu tranh của

nhân dân. Biết rằng trong tình thế bị xâm lược, bao vây tứ phía thì khơng ai có thể
cứu ta ngồi chính ta, do đó Đảng ln chủ trọng hậu phương, phải tự cung tự cấp,
tự túc về mọi mặt, phải đem sức ta mà giải phóng cho ta. Lãnh đạo nhân dân “vừa
kháng chiến vừa kiến quốc”, Đảng không chỉ chú trọng vào vấn đề quân sự mà
đồng thời cịn đưa ra nhiều chủ trương, chính sách quân tâm đến kinh tế, văn hóa,
xã hội, ngoại giao của đất nước. Bên cạnh đó, góp phần vào thắng lợi này không thể
không kể đến tinh thần nồng nàng u nước và ln đồn kết chống giặc xun suốt
bao năm lịch sử của nhân dân Việt Nam ta. Dù biết phía trước là mn vàng khó
khăn, phải rơi mồ hơi, nước mắt thậm chí là máu thịt nhưng nhân dân ta vẫn một
lòng kiên quyết bảo vệ độc lập tự do của tổ quốc thân yêu, quyết hi sinh chứ khơng
chịu mất nước.
Có thể thấy, thời nào cũng vậy, có hai nhân tố chủ yếu cực kỳ quan trọng có
ý nghĩa quyết định, đó là sự lãnh đạo tổ chức đúng đắn của Đảng và sự đồng lòng
ủng hộ của tồn dân mà hạt nhân là lịng u nước, tinh thần đồn kết và khát vọng
giải phóng, phát triển đất nước. Cuộc kháng chiến này có lẽ là một tấm gương sáng
và cũng là một bài học kinh nghiệm to lớn mà tổ tiền, ông bà ta đã để lại cho các thế
hệ mai sau. Tiếp nối và phát huy nó chính là cơ sở để đất nước Việt Nam ta ngày
càng trở nên phát triển, hùng mạnh hơn nữa.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng.
2. Nguyễn Minh Hải, Việc xây dựng và củng cố chính quyền sau Cách mạng
tháng Tám dưới sự lãnh đạo của Đảng, Trang điện tử Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh.
3. PGS.TS Bùi Đình Phong, Bài học về lịng u nước và đại đoàn kết toàn dân
tộc trong Cách mạng Tháng Tám với công cuộc chống đại dịch Covid-19
hiện nay, Cổng thông tin điện tử Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao.

4. Bùi Tuấn An, Phân tích đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta,
Minh Khuê – Công ty Luật TNHH Minh Khuê.
5. TS. Trần Thị Vui, Những sáng tạo về đường lối của Đảng ta trong thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Tạp chí Quốc phịng toàn
dân.

16



×