Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tác động của việc gia nhập wto đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.05 KB, 28 trang )

ĐỀ TÀI:
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO
ĐẾN HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA NGÀNH DỆT MAY

LỜI NÓI ĐẦU
- Đề án mơn học là hình thức nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên
chuyên ngành, tôi là sinh viên của khoa thương mại dưới sự hướng dẫn của giáo
viên đặc biệt là sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy Cấn Anh Tuấn tôi đã
lựa chọn đề tài: ''Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của ngành dệt may Việt Nam'' , trong bối cảnh nước ta mới gia nhập tổ
chức thương mại quốc tế sự tác động và ảnh hưởng của nó là rất lớn đến kinh tế
nước ta. Tổ chức thương mại quốc tế còn rất mới lạ với Việt Nam ta và ngành
dệt may Việt Nam là một ngành phát triển rất mạnh của kinh tế Việt Nam và là
một ngành chủ lực, nó có tỷ trọng xuất khẩu cao và được nhà nước rất quan tâm
chú trọng phát triển. Ngành dệt may có thể nói là ngành trọng điểm của Việt
Nam, ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh. Do vậy sự
tác động của tổ chức thương mại quốc tế đến kinh tế việt nam là rất lớn vậy nên
nó tác động lên toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị sản xuất
kinh doanh, đề tài giúp ta hiểu thêm về tổ chức, ngành và sự tác động của tổ
chức tới ngành dệt may Việt Nam và cũng tác chung tới nền kinh tế.
- Tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này với mục tiêu là giúp ta hiểu thêm về tổ chức
thương mại quốc tế và ngành dệt may Việt Nam đang lớn mạnh của nước nhà để
cũng hiểu được nó tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế như thế nào? để có những
chiến lược và chính sách cho hoạt động sản xuất kinh doanh cho phù hợp, tận
dụng cơ hội cho việc gia nhập WTO tạo cho kinh tế Việt Nam những bước phát
triển lớn mạnh, có thể hội nhập được với trường quốc tế.
- Tuy đối tượng tôi nghiên cứu ở đây chỉ là tổ chức thương mại quốc tế, ngành
dệt may Việt Nam, và sự tác động của tổ chức đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của ngành, nhưng chúng ta có thể hiểu chung cho nên kinh tế Việt Nam và
với phạm vi nghiên cứu trong nền kinh tế việt nam cụ thể là ngành dệt may Việt



1


Nam với phương pháp biện chứng duy vật và lôgic … để tạo ra cho vấn đề
nghiên cứu có tinh chinh xác cao và sát thực dễ hiểu.
Đề tài đi vào nghiên cứu nội dung tuy có sự mới mẻ nhưng cũng thể hiển được
tính sát thực cao với nội dung: tổng quan về tổ chức thương mại quốc tế, thực
trạng ngành dệt may sau khi Việt Nam là thành viên của WTO vói những tác
động tích cực, tiêu cực, kết quả, hạn chế, và từ đó có những giả pháp cho ngành.
- Đề tài được tôi lựa chọn và nghiên cứu rất kỹ càng mong rằng nó sẽ giúp tơi và
mọi ngưịi có một vốn kiến thức nho nhỏ nắm bắt được phần nào kinh tế xã hội.
tuy vậy nhưng khơng thể chánh khỏi những thiếu sót mong các bạn góp ý cho ý
kiến để đề tài được hồn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!

2


Chương I
TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Lịch sử hình thành và phát triển
- WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới ( World Trade
Organization ) tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại
giữa các quốc gia trên thế giới.Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và
đang được các nước đàm phán và ký kết. Ngày thành lập:1/1/1995 Tổ chức
Thương mại Thế giới (tiếng Anh: World Trade Organization - WTO) là tổ chức
quốc tế có trụ sở ở Genève (tiếng Anh: Geneva, tiếng Đức: Genf), Thụy Sĩ, có
chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau
theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay
giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Ngày 13 tháng 5

năm 2005, ông Pascal Lamy được bầu làm tổng giám đốc thay cho ông Supachai
Panitchpakdi, người Thái Lan, kể từ 1 tháng 9 năm 2005. Tính đến ngày 7 tháng
11 năm 2006, WTO có 150 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu cầu
phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương mại, ví
dụ (với một số ngoại lệ) những sự nhượng bộ về thương mại được cấp bởi một
thành viên của WTO cho một quốc gia khác thì cũng phải cấp cho mọi thành
viên của WTO (WTO, 2004c).Trong thập niên 1990 WTO là mục tiêu chính của
phong trào chống tồn cầu hóa.
-Nguồngốc:
Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương
mại Quốc tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các
nước. Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương
mại và Việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện
Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng sự
thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ chức
Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm sốt chứ khơng phải đem lại
tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ ( Lisa Wilkins,
1997).
ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào đó để điều chỉnh thương
mại quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại

3


(GATT). GATT đóng vai trị là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại
đa phương trong suốt gần 50 năm sau đó. Các nước tham gia GATT đã tiến hành
8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại mới. Vòng đám phán
thứ tám, Vòng đàm phán Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các
hiệp định của GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở rộng. Không giống như

GATT chỉ có tính chất của một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấu tổ
chức hoạt động cụ thể.
- WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995 .
- Chức năng:
WTO có các chức năng sau:
Quản lý việc thực hiện các hiệp ước của WTO
Diễn đàn đàm phán về thương mại
Giải quyết các tranh chấp về thương mại
Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia
Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển
Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
- Đàm phán:
Phần lớn các quyết định của WTO đếu dựa trên cơ sở đàm phán và đồng thuận.
Mỗi thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau. Nguyên tắc
đồng thuận có ưu điểm là nó khuyến khích nỗ lực tìm ra một quyết định khả dĩ
nhất được tất cả các thành viên chấp nhận. Nhược điểm của nó là tiêu tốn nhiều
thời gian và nguồn lực để có được một quyết định đồng thuận. Đồng thời, nó
dẫn đến xu hướng sử dụng những cách diễn đạt chung chung trong hiệp định đối
với những vấn đề có nhiều tranh cãi, khiến cho việc diễn giải các hiệp định gặp
nhiều khó khăn.
Trên thực tế, đàm phán của WTO diễn ra không phải qua sự nhất trí của tất cả
các thành viên, mà qua một q trình đàm phán khơng chính thức giữa những
nhóm nước. Những cuộc đàm phán như vậy thường được gọi là "đàm phán trong
phòng Xanh" (tiếng Anh: "Green Room" negotiations), lấy theo màu của phòng
làm việc của Tổng giám đốc WTO tại Geneva, Thụy Sỹ. Chúng còn được gọi là
"Hội nghị Bộ trưởng thu hẹp" (Mini-Ministerials) khi chúng diễn ra ở các nước
khác. Quá trình này thường bị nhiều nước đang phát triển chỉ trích vì họ hồn
tồn phải đứng ngoài các cuộc đàm phán như vậy. Richard Steinberg (2002) lập
luận rằng mặc dù mơ hình đồng thuận của WTO đem lại vị thế đàm phán ban
đầu dựa trên nền tảng luật lệ, các vòng đàm phán thương mại kết thúc thông qua

4


vị thế đàm phán dựa trên nền tảng sức mạnh có lợi cho Liên minh châu Âu và
Hoa Kỳ, và có thể khơng đem đến sự cải thiện Pareto. Thất bại nổi tiếng nhất và
cũng gần đây nhất trong việc đạt được một sự đồng thuận là tại các Hội nghị Bộ
trưởng diễn ra ở Seattle (1999) và Cancún (2003) do một số nước đang phát triển
không chấp thuận các đề xuất được đưa ra.
WTO bắt đầu tiến hành vòng đàm phán hiện tại, Vòng đàm phán Doha, tại Hội
nghị Bộ trưởng lần thứ 4 diễn ra tại Doha, Qatar vào tháng 11 năm 2001. Các
cuộc đàm phán diễn ra căng thẳng và chưa đạt được sự nhất trí, mặc dù đàm
phán vẫn đang tiếp diễn qua suốt Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5 tại Cancún,
Mexico vào năm 2003 và Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 6 tại Hồng Kông từ ngày
13 tháng 12 đến ngày 18 tháng 12 năm 2005.
- Giải quyết tranh chấp
Ngoài việc là diễn đàn đàm phán các quy định thương mại, WTO còn hoạt động
như một trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan
đến việc áp dụng quy định của WTO. Không giống như các tổ chức quốc tế
khác, WTO có quyền lực đáng kể trong việc thực thi các quyết định của mình
thơng qua việc cho phép áp dụng trừng phạt thương mại đối với thành viên
không tuân thủ theo phán quyết của WTO. Một nước thành viên có thể kiện lên
Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của WTO nếu như họ tin rằng một nước thành
viên khác đã vi phạm quy định của WTO.
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm hai cấp: sơ thẩm và phúc
thẩm. Ở cấp sơ thẩm, tranh chấp sẽ được giải quyết bởi một Ban Hội thẩm Giải
quyết Tranh chấp. Ban hội thẩm này thông thường gồm 3 chuyên gia trong lĩnh
vực thương mại liên quan. Ban hội thẩm sẽ nghe lập luận của của các bên và
soạn thảo một báo cáo trình bày những lập luận này, kèm theo là phán quyết của
ban hội thẩm. Trong trường hợp các bên tranh chấp không đồng ý với nội dung
phán quyết của ban hội thẩm thì họ có thể thực hiện thủ tục khiếu nại lên Cơ

quan phúc thẩm. Cơ quan này sẽ xem xét đơn khiếu nại và có phán quyết liên
quan trong một bản báo cáo giải quyết tranh chấp của mình. Phán quyết của các
cơ quan giải quyết tranh chấp nêu trên sẽ được thông qua bởi Hội đồng Giải
quyết Tranh chấp. Báo cáo của cơ quan giải quyết tranh chấp cấp phúc thẩm sẽ
có hiệu lực cuối cùng đối với vấn đề tranh chấp nếu không bị Hội đồng Giải
quyết Tranh chấp phủ quyết tuyệt đối (hơn 3/4 các thành viên Hội đồng giải
quyết tranh chấp bỏ phiếu phủ quyết phán quyết liên quan).
Trong trường hợp thành viên vi phạm quy định của WTO khơng có các biện
pháp sửa chữa theo như quyết định của Hội đồng Giải quyết Tranh chấp, Hội
5


đồng có thể ủy quyền cho thành viên đi kiện áp dụng các "biện pháp trả đũa"
(trừng phạt thương mại). Những biện pháp như vậy có ý nghĩa rất lớn khi chúng
được áp dụng bởi một thành viên có tiềm lực kinh tế mạnh như Hoa Kỳ hay Liên
minh châu Âu. Ngược lại, ý nghĩa của chúng giảm đi nhiều khi thành viên đi
kiện có tiềm lực kinh tế yếu trong khi thành viên vi phạm có tiềm lực kinh tế
mạnh hơn, chẳng hạn như trong tranh chấp mang mã số DS 267 về trợ cấp bông
trái phép của Hoa Kỳ.
-Cơ cấu tổ chức
Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban của
WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp
và các ủy ban đặc thù.
+ Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai
năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành
viên này có thể là một nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng
đồng châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề
trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO.
+ Cấp thứ hai: Đại Hội đồng

Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội đồng,
Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà sốt Chính sách Thương mại.
Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau,
đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các
nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực
hiện các chức năng khác nhau của WTO.
Đại Hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được
nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ
hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định
nhân danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả
các công việc của WTO.
Hội đồng Giải quyết Tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các
phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm
đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ
hoặc tương đương).
Hội đồng Rà sốt Chính sách Thương mại được nhóm họp để thực hiện việc rà
sốt chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà sốt chính
sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát
6


diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành viên khác, việc rà
sốt có thể được tiến hành cách quãng hơn.
+ Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội
đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại
Dịch vụ và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến
Thương mại. Mội hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như
Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên
WTO. Bên cạnh ba hội đồng này cịn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu

trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và
phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản
lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm Cơng tác về việc Gia nhập chịu
trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO.
Hội đồng Thương mại Hàng hóa chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc
phạm vi của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các
hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hóa.
Hội đồng Thương mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc
phạm vi của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các hoạt
động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ. Hội đồng Các khía cạnh của
Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại chịu trách nhiệm đối với các
hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí
tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ chức
quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
+ Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan
Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên
môn riêng biệt.
Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm cơng tác, và 1 ủy
ban đặc thù.
Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm cơng tác, và 2 ủy ban
đặc thù.
Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan
phúc thẩm.
Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành lập Ủy
ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều
kiện thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên
quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
7



- Các hiệp định:
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các
vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của
Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại
Marrakesh, Maroc vào ngày 15 tháng 4 năm 1994. Bốn phụ lục đó bao gồm các
hiệp định quy định các quy tắc luật lệ trong thương mại quốc tế, cơ chế giải
quyết tranh chấp, cơ chế rà sốt chính sách thương mại của các nước thành viên,
các thỏa thuận tự nguyện của một số thành viên về một số vấn đề không đạt
được đồng thuận tại diễn đàn chung. Các nước muốn trở thành thành viên của
WTO phải ký kết và phê chuẩn hầu hết những hiệp định này, ngoại trừ các thỏa
thuận tự nguyện. Sau đây sẽ là một số hiệp định của WTO:
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994)
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS)
Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí
tuệ (TRIPS) Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại
(TRIMS) Hiệp định về Nông nghiệp (AoA)
+ Hiệp định về Hàng Dệt may (ATC)
+ Hiệp định về Chống bán Phá giá
+ Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp chống Trợ cấp Hiệp định về Tự vệ
+ Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu
+ Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch (SPS)
+ Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (TBT)
+ Hiệp định về Định giá Hải quan
+ Hiệp định về Kiểm định Hàng trước khi Vận chuyển
+ Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa (ROO)
+ Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp
2. Một số nguyên tắc của WTO
Các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) rất nhiều và phức tạp
bao gồm cả nông nghiệp, dệt may, ngân hàng, viễn thông, nông nghiệp và cả
thực phẩm... Tuy nhiên, xuyên suốt các hiệp định này là những nguyên tắc, và

chúng được coi là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương.
a. Thương mại không phân biệt đối xử: thể hiện ở hai nguyên tắc:
- Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc: Tối huệ quốc có nghĩa là “nước
(được) ưu đãi nhất”, “nước (được) ưu tiên nhất”. Nội dung của nguyên tắc này

8


được WTO quy định rằng các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối
tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc là mỗi thành viên của WTO phải đối xử với
các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác “ưu tiên
nhất”. Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một số
ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các
thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được “ưu tiên
nhất”.
- Nguyên tắc đối xử quốc gia là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước
ngồi và sản phẩm nội địa. Nội dung của nguyên tắc này là hàng hóa nhập khẩu
và hàng hóa tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử cơng bằng, bình
đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này: Bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau
khi đã qua biên giới,trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt
đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém
ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
Thương mại ngày càng tự do hơn là nhằm thực thi được mục tiêu tự do hóa
thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, bn bán
hàng hóa
Tạo ra mơi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. WTO đơi khi được miêu tả
như là một hệ thống "thương mại tự do", tuy nhiên điều đó khơng hồn tồn
chính xác. Hệ thống này vẫn cho phép có sự tồn tại của thuế quan và, trong một

số trường hợp nhất định, vẫn cho phép có các biện pháp bảo hộ. Như vậy, nói
một cách chính xác hơn thì WTO đem lại một sự cạnh tranh lành mạnh và cơng
bằng hơn.
WTO cũng có thể hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh khơng
bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh
nghiệp nhất định
b. Nguyên tắc tiếp cận thị trường:
- Nguyên tắc tiếp cận thị trường thực chất là việc mở của thị trường, hàng
hố dịch vụ và đầu tư ngơàich các quốc gia khác trong khối. trong một hệ thống
thương mại đa phương, khi tất cả quốc gia tham gia đều chấp nhận mở cửa thị
trường thì điều đó đồng nghĩa với một việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn
cầu mở.
Về mặt chính trị, nguyên tắc này thể sự tự do hoá thương mại của WTO . các rào
cản thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà hoạch định chiến lược
9


kinh doanh dài hạn, có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc
chuyển đổi cơ cấu. mức đọ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thoả thuận thông
qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương. tuy nhiên, mức độ thực hiện
tiếp cận thị trường của các quốc gia tương đối khác nhau.
về mặt pháp lý, nguyên tắctiếp cận thị trường thể hiện nghĩa vụ và tính chất ràng
buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà các nước chấp đã chấp
nhận khi đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới.
c. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng:
Nguyên tắc cạnh tranh công bằng thể hiện sự tự do cạnh tranh trong
nhưng điều kiệnbình đẳng như nhau. Nguyên tắc này nhằm hạn chế những tác
động nhưng tiêu cực của biện pháp cạnh tranh khơng bình đẳng như bán phá giá,
trợ cấp hay dành một số đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định.
d. Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi:

Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên
đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số quyền và không
phải thực hiện một số nghĩa vụ hay thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính
sách.
Qua các vịng đàm phán, lợi ích của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát
triển đã tăng lên khá nhiều. Sau vòng đàm phán Uruguay, các nước giàu trong
WTO đã cam kết sẽ rộng mở hơn nữa đối với hàng hoá xuất khẩu từ những nước
kém phát triển và trợ giúp kỹ thuật cho các nước này. Gần đây, những nước phát
triển đã bắt đầu cho phép nhập khẩu tự do, không thuế, không hạn ngạch đối với
tất cả những sản phẩm từ hầu hết quốc gia kém phát triển trong WTO.

10


Chương II
THỰC TRẠNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM
LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO
1. Kinh tế Việt Nam sau một năm gia nhập WTO
a. Những điều đạt được của kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập
WTO
Năm 2007, kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện khó khăn nhiều hơn
thuận lợi so với các năm trước. Thành công tiêu biểu nhất của việt nam là tốc độ
tăng trưởng GDP cao hơn dự kiến, đạt 8,44%, cao nhất trong 10 năm qua,dẫu
rằng có nhiều khó khăn về thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp và sự biến
động thị trường bất lợi về giá cả tăng song nền kinh tế nước ta vẫn tăng GDP
cao, đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc: 11,3% và Ấn Độ khoảng: 9%)
Thu hút đầu tư nước ngoài đạt 20,3 tỷ usd gần tăng 70% so với năm 2006, tăng
gấp đôi so với năm trước. . Điều đáng chú ý là: lần đầu tiên trong nhiều năm, tốc
độ tăng xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước cao hơn khu vực có vốn
nước ngồi (22,1% so với 18,6%) chứng tỏ các doanh nghiệp trong nước đã

năng động khai thác thị trường - cơ hội do việc gia nhập wto mang lại; do không
bị khống chế về hạn ngạch khi trở thành thành viên của wto, 11 tháng kim ngạch
xuất khẩu dệt may đã đạt trên 7 tỉ usd, tăng 32% so với cùng kỳ chiếm trên 16%
tổng kim ngạch xuất khẩu; xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm các hàng hóa
khác mà chúng ta khơng thống kê được các sản phẩm cụ thể tăng mạnh, tỉ lệ
tăng 38,9% với kim ngạch 8 tỉ 700 triệu usd chiếm 20% tổng kim ngạch xuất
khẩu (nếu thống kê rõ được chi tiết các sản phẩm, chúng ta sẽ có những giải
pháp thúc đẩy tăng trưởng cao hơn).
Đầu tư và xuất khẩu tăng, thị trường nội địa được mở rộng tạo điều kiện cho
công nghiệp và dịch vụ phát triển, nên GDP tăng gần 8,5%, là mức tăng cao nhất
trong 10 năm qua.
b. Những hạn chế mà nền kinh tế gặp phải
- Giá cả tăng cao, không đạt được mục tiêu đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng
ước tăng 12,4% so với tháng 12-2006. Đây là tốc độ tăng giá cao nhất trong
những năm gần đây, vượt qua tốc độ tăng GDP và không đạt mục tiêu đề ra.
Nhóm hàng tăng giá cao nhất trong năm qua là hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
18,92%, riêng lương thực tăng 15,4%, giá thực phẩm tăng 21,16%, thứ 2 là nhà
ở và vật liệu xây dựng tăng 17,12%, thứ 3 là đồ dùng và dịch vụ khác tăng

11


9,02%, thứ 4 là dược phẩm, y tế tăng 7,05% và thứ 5 là may mặc, mũ nón, giày
dép tăng 5,47%. ở Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ số giá cả ước cả năm tăng trên
12%.
Nguyên nhân tăng giá: Về khách quan, giá thế giới tăng, thiên tai, dịch bệnh lan
rộng, gây thiệt hại nặng nề. Về nguyên nhân chủ quan do điều hành giá yếu, dự
báo sai, điều hành chính sách tiền tệ chưa tốt. "Việc lúng túng trong điều hành
thị trường tiền tệ cũng là một lý do khiến tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) vượt
quá tốc độ tăng GDP" (đánh giá của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị

Kế hoạch và Đầu tư năm 2007, ngày 30-11-2007. Theo đánh giá của chuyên gia
kinh tế WB tại Hà Nội: Lượng tiền lưu thông quá lớn, tỷ lệ tăng tín dụng trên
38%, so với tốc độ tăng GDP khoảng 8% thì con số đó là rất nhiều, dù cho các
ngân hàng thương mại phải tăng tỷ lệ dự trữ, nhưng lượng tiền lưu thông vẫn rất
nhiều. Do dịng vốn đổ vào thị trường mạnh nhưng chưa có cơ quan điều tiết đủ
năng lực, chính sách ngoại hối, ngoại tệ chưa phát huy tác dụng vì chính sách
của Chính phủ trong thị trường tiền tệ và hối đối khơng nhất qn. Chính phủ
mua USD vào nhiều và bơm tiền đồng ra thị trường có thể làm giảm giá đồng
USD sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và tạo sức ép cho lạm phát. Nhập siêu lớn.
Chung cả năm, nhập siêu ước lên tới trên 13,1 tỉ USD, bằng 27,5% kim ngạch
xuất khẩu. Điều này thể hiện rõ nhất trong 2 tháng cuối năm. Đáng chú ý là 3
mặt hàng nhập khẩu tăng gấp hơn 2 lần so năm 2006 là ô-tô nguyên chiếc xe
máy nguyên chiếc và dầu mỡ động thực vật, khơng có mặt hàng nào giảm so với
năm 2006 về kim ngạch.
Kim ngạch nhập khẩu cả năm 2007 ước đạt 60,8 tỉ USD, tăng 35,5% so
năm 2006.
Cơ cấu kinh tế theo giá thực tế chuyển dich theo hướng tích cực. Tỷ trọng GDP
khu vực nơng - lâm nghiệp - thủy sản giảm còn dưới 20,0%/ so với 20,81% năm
2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng dần và chiếm trên 41,7% so với
41.56% và khu vực dịch vụ tăng nhẹ, chiếm 38,30% so với 38,08% trong 2 năm
tương ứng. Nét mới trong năm 2007 là tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng cao và tốc
độ tăng khá ổn định, quý sau cao hơn quý trước, trong điều kiện có khó khăn
nhiều mặt, nhất là dịch vụ vận tải, du lịch, thương mại, tài chính ngân hàng trong
bối cảnh hội nhập WTO.
Do kinh tế tăng trưởng cao nên tình hình tài chính lành mạnh, thu chi ngân sách
nhà nước cân đối, bội chi ngân sách trong phạm vi Quốc hội cho phép. Theo Bộ
Tài chính, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm 2007 ước đạt 287.900 tỉ đồng,
vượt dự toán cả năm (dự toán 281.900 tỉ đồng) và tăng 11,6% so với năm 2006.
12



Các khoản thu có tỷ trọng lớn đều đạt mức khá. Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của
mưa lũ, song nhiều khoản thu chủ yếu như thu từ doanh nghiệp đầu tư nước
ngồi, thuế cơng thương nghiệp và dịch vụ ngồi quốc doanh, phí và lệ phí, thu
từ khu vực kinh tế quốc doanh, thu từ nhà, đất tăng khá. Một số khoản thu đạt
khá so với dự toán, trong đó: thuế cơng thương nghiệp ngồi quốc doanh; thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao đạt 100,8%; thu từ nhà và đất đạt
117,6% dự toán.
Tổng số chi ngân sách nhà nước cả năm 2007 ước đạt dự toán năm. Bội chi ngân
sách cả năm ước đạt 5% GDP. Đến nay ngân sách trung ương đã cấp chuyển
100% dự toán chi bổ sung cân đối cho các địa phương, trong đó một số địa
phương có khó khăn đã được cấp đủ 100% trợ cấp cân đối ngân sách theo dự
toán để chủ động nguồn xử lý các nhiệm vụ chi trong tháng cuối năm. Bên cạnh
đó, việc bảo đảm lương thực cho công tác cứu trợ nhân dân và kinh phí để hỗ trợ
các địa phương bị thiệt hại do mưa lũ gây ra cũng được chú trọng, đáp ứng kịp
thời yêu cầu đề ra.
2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may Việt
Nam
- Toàn quốc hiện có khoảng 2.000 DN dệt may với hơn 2 triệu lao động; 25%
trong số đó là các DN có vốn đầu tư nước ngồi. Các DN may hiện nay phần lớn
là các DN tư nhân hay Cty cổ phần. Họ thường chú trọng ưu tiên thực hiện các
hợp đồng may gia công XK. Nhiều DN chỉ sản xuất các sản phẩm theo đơn đặt
hàng từ nước ngoài dưới dạng gia công thuần tuý.
Trong nhiều năm qua ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu tương đối cao - bình quân 20%/năm trong giai đoạn 2000-2005.
Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của ngành dệt may ĐVT: triêu đồng
2000

2001
Doanh

113
thu
23451 26587 (%)
Lợi
44
nhuận 476
208
(%)
109
Thuế 765
837
(%)

2002
128
33969 (%)
193
400
(%)
117
977
(%)

2003
33471
684
1102

128
(%)

171
(%)
113
(%)

2004
122
52980 (%)
74
509
(%)
217
2388 (%)

13


Trong năm 2006 ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu hàng hoá trị giá 5,83 tỷ
USD, tương đương mức tăng trưởng 20,5% so với năm trước và chiếm 15%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các nước nhập khẩu hàng dệt may
lớn nhất của Việt Nam là Mỹ (doanh thu 3.04 tỷ USD), EU (1,24 tỷ USD) và
Nhật (628 triệu USD). Trong khi đó, tồn bộ thị trường trong nước chỉ đạt doanh
số khoảng 1,8 tỷ USD. Sản phẩm xuất khẩu quan trọng nhất là áo khoác, quần
dài, sơmi, hàng dệt kim và quần áo các loại. Các lô hàng XK vẫn chủ yếu là các
hợp đồng gia cơng lại cho đối tác nước ngồi; nhiều DN VN hầu như khơng có
đối tác phân phối trực tiếp trên thị trường quốc tế. Lợi nhuận của các DN dệt
may thường khá thấp (so với doanh thu) do phần lớn nguyên phụ liệu, mẫu mã
thiết kế và hoạt động phân phối đều được quyết định bởi đối tác nước ngoài.
Phần đóng góp của phía VN vào việc hồn thiện một chiếc áo khoác chỉ vào
khoảng 11%, đối với sơ mi là 25%, quần dài là 15% và trong các sản phẩm khác

luôn dưới mức 25%.
Cũng trong năm 2006, ngành dệt may phải chi 5,65 tỷ USD cho nhập khẩu, chủ
yếu là vải (chiếm 52%), nguyên phụ liệu (34%), sợi (10%) và bông xơ (4%). Các
mặt hàng này đa phần được nhập từ Trung Quốc, Đài Loan và các nước
ASEAN.
Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành dệt đạt
khoảng 13%. Năng lực của các DN cung ứng nguyên phụ liệu trong nước còn
khá khiêm tốn. Với 24.000 ha diện tích trồng bơng, hàng năm VN mới chỉ sản
xuất ra được 8.000 tấn bông xơ, đáp ứng khoảng 5% nhu cầu trong nước. Ngoài
ra, 70% nhu cầu sợi tổng hợp, 40% nhu cầu sợi xơ ngắn, 40% nhu cầu vải dệt
kim và 60% nhu cầu vải dệt thoi vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Kim ngạch xuất nhập khẩu theo mặt hàng
ngành

trang thiết bị

ngành sợi
ngành dệt thoi
ngành dệt kim
ngành may

2,5 triệu cọc sơi
20000 máy may
4000 máy
300000 máy may công nghiệp

lực lượng sản xuất
(/năm)
250000 tấn
600 triệu m2

100000 tấn
1,25 tỷ sản phẩm

3. Những tác động tích cực đến các doanh nghiệp việt nam
14


- Cơ hội lớn đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam bởi các hàng rào hạn ngạch
được gỡ bỏ. vì khơng bị khống chế về hạn ngạch. Khi đó, nhiều nhà đầu tư nước
ngoài cũng sẽ quan tâm đầu tư vào sản xuất dệt may tại Việt Nam, các doanh
nghiệp tại nước thứ ba cũng sẽ vào đặt hàng. Như vậy số lượng hàng hóa xuất
khẩu sẽ tăng lên. Điều đó sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư mở rộng, đầu tư
mới và thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vào ngành dệt may và
các lĩnh vực hạ tầng phục vụ cho sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế
cũng như ngành dệt may phát triển hơn nữa. Việt Nam cũng sẽ có thêm cơ hội
để tiếp cận trình độ quản lý và công nghệ kỹ thuật mới.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, cái được lớn nhất của ngành Dệt May là các
rào cản xuất khẩu vào Mỹ đối với sản phẩm dệt may sẽ được xóa bỏ. Các doanh
nghiệp dệt may không phải lo chạy hạn ngạch. Với những doanh nghiệp trước
kia khơng có hạn ngạch thì nay có nhiều khả năng tiếp cận với thị trường may
mặc Mỹ. Cịn với những cơng ty đã xuất khẩu vào Mỹ rồi, việc khơng cịn hạn
ngạch sẽ tạo cơ hội gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này.
Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc tạm thời đang bị Mỹ
áp dụng biện pháp tự vệ đến năm 2008 do sau khi gia nhập WTO, nước này đã
gia tăng quá nhanh sản phẩm dệt may vào thị trường Mỹ, buộc Mỹ phải áp hạn
ngạch với 28 mặt hàng dệt may xuất xứ từ Trung Quốc. Việt Nam vẫn có nhiều
cơ hội gia tăng xuất khẩu vào thị trường đầy tiềm năng này.
Một thuận lợi nữa là, trên nguyên tắc thỏa thuận thương mại song phương với
Mỹ, khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ sẽ không áp dụng biện pháp tự vệ như đã
áp dụng khi đàm phán gia nhập WTO với Trung Quốc trước đây. Và hàng dệt

may Việt Nam sẽ được xuất khẩu vào Mỹ khơng cịn bị áp đặt hạn ngạch đối với
một số mặt hàng mà Mỹ đã từng áp dụng với Việt Nam từ năm 2003.
4. Những tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp việt nam
- Mặt trái của WTO là các doanh nghiệp cũng sẽ phải chia sẻ thị trường nội
địa cho các đối thủ nước ngoài. Điều lo ngại nhất đối với các doanh nghiệp dệt
may chính là sự cạnh tranh trên sân nhà sẽ trở nên gay gắt hơn, bởi các chính
sách hỗ trợ của Chính phủ dành cho ngành khơng cịn và quan trọng hơn là hàng
rào thuế quan bảo hộ doanh nghiệp ở thị trường nội địa cũng bị dỡ bỏ. Dù ngay
từ năm nay, thuế nhập khẩu vải và hàng may mặc từ các nước ASEAN đã giảm
xuống còn 5%, nhưng đối thủ cạnh tranh chính của sản phẩm dệt may Việt Nam
lại nằm ở những nước ngoài khối ASEAN như Hàn Quốc, Nhật, Đài Loan,

15


Pakistan, Trung Quốc và ấn Độ… Hiện tại, hàng dệt may nhập từ các nước
không thuộc khối ASEAN đang phải chịu thuế suất rất cao, 50% với sản phẩm
may và 40% với sản phẩm dệt. Nhưng khi Việt Nam trở thành thành viên WTO,
mức thuế trên sẽ giảm xuống còn tối đa là 15%, do đó, các doanh nghiệp dệt và
may sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn ở thị trường nội địa.
Trong xuất khẩu, Việt Nam đã chịu nhiều thiệt thòi khi cạnh tranh về giá với các
sản phẩm xuất xứ từ Trung Quốc thì ngay trong thị trường nội địa, hàng Trung
Quốc giá rẻ cũng là nỗi lo lớn của bất kỳ doanh nghiệp nào. Nói đến cạnh tranh
với hàng Trung Quốc, chắc chúng ta không thể vượt qua được bởi Trung Quốc
chủ động được các nguyên, phụ liệu cho ngành dệt may, trong khi chúng ta phải
nhập khẩu tới 80% các nguyên, phụ liệu.
Mặt khác, trong khi một nhà máy dệt của Trung Quốc trung bình có khoảng
6.000 máy dệt thì các doanh nghiệp dệt Việt Nam chỉ có khoảng vài trăm máy,
đa phần là cũ, lạc hậu. Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt
Nam, khoảng cách về trình độ phát triển giữa ngành Dệt Việt Nam và các nước

khá xa. Nếu xếp theo thang điểm 10, thì ngành Dệt Việt Nam chỉ đạt khoảng
3-3,5 điểm, chưa đạt mức trung bình của thế giới. Thiết bị lạc hậu dẫn đến chất
lượng vải nội không ổn định, độ bền màu kém, khiến cho khách hàng đặt may
không dám lựa chọn vải nội, buộc các doanh nghiệp may gia công lại phải nhập
khẩu vải từ các cơng ty nước ngồi. Khơng chỉ may gia công, ngay cả các công
ty may phục vụ tiêu dùng nội địa cũng không dám mạo hiểm thương hiệu của
mình khi mua vải chất lượng kém để sản xuất những mặt hàng của mình. Điều
đó làm ngành Dệt càng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, những doanh nghiệp Dệt
trong nước làm ăn được hầu hết đều là các doanh nghiệp tư nhân hoặc liên
doanh có vốn đầu tư nước ngoài
5. Những kết quả đạt được
- Sau khi gia nhập WTO nền kinh tế Việt Nam có những bước chuyển biến
Trong đó ngành dệt may đã có đóng góp xứng đáng, xuất khẩu tăng trên 33%,
đưa Việt Nam vào danh sách 10 nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, thị
trường trong nước vẫn được giữ vững và phát triển. Xuất khẩu dệt may năm
2007 đã tăng trưởng tương đối tốt, đạt 7,7 tỷ USD, tăng 32% so với năm 2006,
đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ chiếm tới 56% thị phần xuất khẩu của toàn ngành.
Để vươn lên vị trí số 1 về kim ngạch xuất khẩu, Tập thể cán bộ, cơng nhân viên
Tập đồn dệt may Việt Nam đã không ngừng cố gắng nâng cao năng suất lao

16


động, hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt gần
13.000 tỷ đồng và tổng doanh thu trên 22.000 tỷ đồng. Trong đó, nhiều doanh
nghiệp đạt mức tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung (trên 20%) như: Công
ty Cổ phần Sợi Phú Bài, Công ty Cổ phần Dệt Công Nghiệp, Tổng Công ty Cổ
phần dệt may Hòa Thọ, May & Dịch vụ Hưng Long, May Thái Nguyên, May
Đồng Nai, May Bình Định, May Sông Tiền, May Thuận Tiến, May Việt Hưng,
May Tiến Thuận... kết quả đạt được là nhờ phát huy hiệu quả tổng hợp của các

dự án đầu tư mới, đầu tư chiều sâu, khai thác các đơn hàng ổn định có giá trị
cao, củng cố tổ chức, sắp xếp bố trí hợp lý hóa sản xuất tại các đơn vị.
Kim ngạch xuất khẩu toàn Tập đoàn đạt gần 1,5 tỷ USD (hơn 19%) trong tổng
kim ngạch xuất khẩu toàn ngành tăng trên 34%, đạt gần 7,8 tỷ USD. Những
doanh nghiệp đã đạt mức tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn bình quân chung là
Tổng Công ty dệt may Hà Nội, Tổng Công ty Phong Phú, Dệt Nam Định, DK
Đông Phương, Sợi Phú Bài, Tổng Cơng ty Cổ phần dệt may Hịa Thọ, Dệt Việt
Thắng, Dệt may Huế, May Hưng Yên, May Đức Giang, May Thái Nguyên, May
Đồng Nai, May Sông Tiền, May Việt Thịnh, May Phương Nam, May Tân Châu,
May Tiền Tiến… Lợi nhuận năm 2007 ước đạt trên 556 tỷ đồng. Tỷ suất lợi
nhuận trên vốn bình quân ước đạt 15,6%. Ước nộp ngân sách của các đơn vị có
cổ phần chi phối đạt hơn 120% kế hoạch năm.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh năm 2007 tăng rõ rệt. Đây là kết quả của một q
trình chuyển đổi mơ hình quản lý - chuyển phần lớn doanh nghiệp nhà nước sang
hoạt động theo công ty cổ phần (theo Luật Doanh Nghiệp). Các đơn vị có tỷ suất
lợi nhuận/vốn cao nhất năm 2007 là Công ty Cổ phần Vinatex Tân Tạo: 100%;
May Hưng Yên: 73,9%; May Nhà Bè: 62,5%; May Hồ Gươm: 44,8%; Tổng
Công ty Phong Phú: 40,2%; May Phương Đông: 38,9%; Sợi Phú Bài: 37,3%;
May Nam Định 36,1%; Tổng Công ty dệt may Hòa Thọ: 33,3%; Dệt Việt Thắng
32,1%; May 10: 30,6%.
Các DN dệt may trong nước đã phải vượt qua hàng loạt thách thức khắc nghiệt
từ phía đối tác, trong đó có khó khăn nhất là chương trình giám sát hàng dệt may
nhập khẩu từ VN do Chính phủ Mỹ thực hiện. áp lực càng gia tăng nặng nề khi
hầu hết chi phí đầu vào sản xuất đều tăng hơn 40% so với năm ngoái. Nhiều đơn
hàng của quý I.2007 giảm mạnh khi cơ chế giám sát đặc biệt của Mỹ chính thức
áp lên 5 nhóm hàng dệt may, hàng loạt nhà nhập khẩu lớn tạm ngừng, thậm chí
rút đơn đặt hàng ở VN nhằm giảm thiểu rủi ro... khiến các DN trong nước một
phen lao đao. Tuy nhiên, vượt qua những "rào cản" đó, dệt may VN đã khẳng
định được vị thế của mình. Theo đó, Bộ Cơng Thương vừa đề ra chỉ tiêu xuất
17



khẩu dệt may năm 2008 là 9, 5 tỷ USD, đây là con số rất cao, đúng bằng tỷ lệ
tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu 20% của Bộ Công Thương. nếu có sự đồng
tâm giữa Chính phủ và các DN thì mục tiêu 9, 5 tỷ USD trong năm 2008 là hồn
tồn khả quan và có thể đạt được cao hơn".Cơ cấu thị trường xuất khẩu của
ngành dệt may VN năm 2008 vẫn xác định thị trường Mỹ là thị trường xuất khẩu
chính, chiếm 55% trên tổng kim ngạch xuất khẩu (tương đương 5,3- 5, 5 tỉ
USD), tiếp sau là EU, chiếm khoảng 1,6- 1, 8 tỉ USD... Tuy nhiên, việc xuất
khẩu dệt may trong năm 2008 vào thị trường Hoa Kỳ sẽ rất khó khăn.
6. Những hạn chế
- Thách thức vì xuất phát điểm của Việt Nam cịn nhỏ bé, những mặt yếu của
Việt Nam còn rất nhiều, Việt Nam đã có kết quả xuất khẩu dệt may rất tốt trong
năm 2007 tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo. Nhưng cũng là vô vàn
những thách thức :
Thứ nhất, hầu hết nguyên vật liệu (vải, phụ liệu…) vẫn phải nhập khẩu là chính.
Điều này cho thấy tỷ lệ nội địa hố trong ngành dệt may cịn rất thấp, phần gia
cơng cịn cao (khoảng 65%).
Thứ hai, khâu thiết kế, tạo mốt, tạo dáng sản phẩm của Việt Nam còn rất yếu,
chưa chủ động nắm bắt nhu cầu của thị trường, người tiêu dùng.
Thứ ba là vấn đề về thương hiệu. Việt Nam xuất khẩu năm 2007 là 7,8 tỷ USD,
nhưng thương hiệu chính của Việt Nam là chưa đáng kể, những doanh nghiệp
mạnh như Thành Công, Việt Tiến, May 10, Nhà Bè, Thái Tuấn… mặc dù đích
thân sản xuất nhưng thương hiệu lại là nước ngoài. Việt Nam chưa có đủ điều
kiện cạnh tranh vì thương hiệu chiếm vị trí rất quan trọng. Cũng sản phẩm như
vậy, thời gian sản xuất như vậy nhưng với thương hiệu nổi tiếng, uy tín, giá cả
có thể gấp 3 lần so cùng sản phẩm kém về thương hiệu nhưng vẫn có khả năng
cạnh tranh cao. Điểm này Việt Nam còn yếu.
Thứ tư là Việt Nam có đội ngũ lao động dồi dào, có kỷ luật, có tay nghề nhưng
cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật còn thiếu, những giám đốc giỏi, doanh nhân giỏi

trong ngành dệt may rất thiếu. Đây là điểm khó khăn cũng như bất lợi của dệt
may Việt Nam, bởi chính con người sẽ tạo nên giá trị và mong muốn trong việc
phát triển ngành dệt may.
Thứ năm là khả năng cạnh tranh. Tình thời trang, nhanh nhạy của thị trường dệt
may, giá cả…Chính vì Việt Nam khơng có ngun liệu tại chỗ, khơng có thương
hiệu…nên khả năng cạnh tranh của dệt may Việt Nam bất lợi so các cường quốc

18


xuất khẩu hàng dệt may khác. Với Trung Quốc, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh
bằng những sản phẩm cao cấp hoặc từ trung bình trở lên

19


Chương III
GIẢI PHÁP CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
1. Xu hướng thị trường những năm tới
- Ngành dệt may Việt Nam có những bước phát triển tạo ra những bước
ngoặt và ngành dệt may Việt Nam đang hướng mạnh ra xuất khẩu và được đánh
giá là có triển vọng, xu hướng xuất khẩu của ngành dệt may của Việt Nam được
nâng cao và đẩy mạnh.
Việt Nam đang phấn đấu để nhân đôi kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn
2006-2010. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi của ngành là được Nhà nước, Chính
phủ, các Bộ ngành quan tâm và nỗ lực của DN, năm 2008 sẽ có nhiều khó khăn
cho ngành để đạt được mục tiêu nói trên do có một số trở ngại đối với 3 thị
trường trọng điểm:
- Thị trường Hoa Kỳ: Là thị trường lớn nhất chiếm tỷ trọng khoảng 55% tổng
kim ngạch xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao. Thị trường này vẫn

tiềm ẩn nhiều rủi ro do Chương trình Giám sát vẫn được duy trì và sẽ tiếp tục
đánh giá số liệu 6 tháng tiếp theo vào tháng 3.2008. Bộ Thương mại Hoa Kỳ
chưa đưa ra bất kỳ một hành động cụ thể nào nhằm giảm bớt mặt hàng trong
diện bị giám sát và cũng khơng nêu lên tiêu chí điều kiện cụ thể làm cơ sở tự
khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam. Có khả năng cơ
chế giám sát của Hoa Kỳ được duy trì cho đến hết năm 2008. Hiện nay theo số
liệu xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ mà Hải quan Hoa Kỳ cơng bố, giá
xuất khẩu trung bình hàng tháng đã có xu hướng giảm xuống và lượng xuất khẩu
có xu hướng tăng lên, thêm vào đó yếu tố chính trị nội bộ của Hoa Kỳ khiến các
nhà nhập khẩu càng e ngại trong việc đặt hàng tại Việt Nam, cản trở đáng kể tốc
độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may trong năm 2008.
- Thị trường EU: Đây là thị trường tiềm năng và truyền thống của hàng dệt may,
trong những năm gần đây ln đứng vị trí thứ 2, sau thị trường Hoa Kỳ. Thị
trường này với nhiều thị trường ngách có nhu cầu hàng dệt may rất đa dạng từ
hàng có phẩm cấp thấp đến hàng có chất lượng cao phù hợp năng lực sản xuất
nhiều thành phần của Việt Nam. Tuy nhiên, việc mất giá của đồng USD so với
đồng Euro là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu sang thị trường này. Năm
2008, EU sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc và sẽ áp dụng một hệ
thống giám sát «kiểm tra kép» để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may
tại Trung Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU. Điều này ít nhiều cũng
20


sẽ ảnh hưởng đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam và các thị trường dệt may
khác vẫn phải cạnh tranh gay gắt với ngành dệt may Trung Quốc do hạn chế về
số lượng đã bị xóa bỏ, nhất là Trung Quốc có năng lực cạnh tranh lớn do chủ
động được nguyên phụ liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại phẩm cấp hàng
hóa.
- Thị trường Nhật Bản: Là thị trường đứng vị trí thứ 3 về nhập khẩu trong ngành
dệt may VN. Hiện Nhật Bản đã đạt được tiêu chí xuất xứ «hai cơng đoạn» với

mặt hàng dệt may trong EPA với 6 nước Asean (Singapore, Malaysia,
Philippines, Indonesia, Brunei và Thái Lan) trong năm 2007 và các nước này đã
được hạ mức thuế quan xuống 0%. Do đó, Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với
chính các nước trong khu vực do thuế của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản
vẫn ở khoảng 10%. Mặc dù, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật
Bản (VJEPA) đang được đàm phán và phía Nhật yêu cầu hàng dệt may Việt
Nam muốn được hưởng mức thuế ưu đãi 0% thì phải đảm bảo u cầu xuất xứ
«hai công đoạn» rất ngặt nghèo là đảm bảo 20% nguyên liệu sản xuất tại Việt
Nam, của Nhật hoặc từ các nước Asean. Việc hưởng ưu đãi từ hiệp định này của
các DN dệt may gặp nhiều khó khăn vì ngành dệt may Việt Nam hiện phụ thuộc
rất nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu và trên 80% nguồn nguyên phụ
liệu nhập khẩu từ ngồi Nhật, Asean do đó sẽ khơng được hưởng ưu đãi thuế
quan của phía Nhật Bản.
2. Một số giải pháp
- Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hồn chỉnh vào các cụm Cơng nghiệp Dệt may
theo hướng tập trung vào lĩnh vực dệt - nhuộm, đầu tư hoàn tất khâu vải và phụ
liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất khẩu nhằm tiến tới tăng tỷ
lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc xuất khẩu từ 30% lên 60%, giảm dần tỷ
lệ hàng gia cơng; Bên cạnh đó, đầu tư mở rộng sản xuất tại các địa phương có
tiềm năng, có nguồn nhân lực dồi dào; phối hợp liên doanh - liên kết và giúp đỡ
các địa phương phát triển ngành dệt may và cùng thực hiện các đơn hàng lớn; hỗ
trợ các doanh nghiệp may địa phương đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có
tiềm năng khác.
- Thực hiện chun mơn hố các sản phẩm và xác định quy mơ sản xuất của
các doanh nghiệp lớn theo mơ hình “cơng ty mẹ, cơng ty con” đủ mạnh về tài
chính, cơng nghệ, khả năng điều hành nhằm đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng cao,
đồng thời chú trọng khuyến khích phát triển sản xuất của các doanh nghiệp vừa
21



và nhỏ. Ngoài ra, tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm mới theo hướng đa
dạng hoá (sản phẩm phổ biến với nhiều màu sắc, hoa văn kiểu cách, chủng loại
vật liệu thích hợp), thực hiện cơ chế linh hoạt trong sản xuất nhằm thích nghi với
sự thay đổi và biến động của thị trường như: thay đổi mẫu mã, sản xuất đơn
hàng nhỏ, ứng dụng công nghệ mới và cải tiến kỹ thuật,… để tăng năng suất lao
động và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
- Ngoài ra, để tăng tính cạnh tranh, các doanh nghiệp dệt may cần cố gắng
giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp nâng cao năng suất lao động,
giảm chi phí cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất
(ở Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với các nước trong khu vực),
chia sẻ giữa các doanh nghiệp chi phí tiếp thị, chi phí thơng tin thị trường. Triệt
để thực hiện chủ trương tiết kiệm 10% chi phí của các doanh nghiệp, coi đó như
là cơ sở để tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với hàng dệt
may Trung Quốc. Chỉ có làm như vậy, các doanh nghiệp dệt may mới tạo được
giá cả sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng
chấp nhận.
- Tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng hình ảnh ngành dệt
may Việt Nam theo phương châm “chất lượng, nhãn hiệu, uy tín dịch vụ, trách
nhiệm xã hội” thông qua việc: Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001, ISO
14000, SA 8000; Tham gia các cuộc triển lãm hội chợ quốc tế; Xác định cấp tiêu
chuẩn sản phẩm trên cơ sở tiêu chuẩn của các thị trường chính. Qua đó, xác định
cơ cấu mặt hàng và định hướng cho các doanh nghiệp.
- Tổ chức tốt các hoạt động thông tin về thị trường, về đầu tư, về sản xuất, về
nhập khẩu của ngành dệt may trên các trang website và các bản tin hàng tháng.
Thành lập các trung tâm giao dịch tư vấn hỗ trợ dịch vụ, trung tâm giao dịch
nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại, nhằm giới thiệu sản phẩm, trực tiếp với
người tiêu dùng và qua đó tìm các biện pháp để thâm nhập thị trường.
- Thành lập Trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các
chuyên viên cao cấp về: Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị hàng hoá,
tổ trưởng - chuyền trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất

nhập khẩu.7. Tiếp tục phát triển mạng lưới tiêu thụ để chiếm lĩnh thị trường nội
địa, Tổng công ty dệt may (VINATEX) có thể là đầu mối tập hợp các doanh
nghiệp dệt may trong cả nước để hình thành hệ thống cửa hàng - siêu thị kinh
doanh hàng thời trang dệt may, trước hết mở tại các thành phố lớn để trong một
vài năm tới hệ thống cửa hàng siêu thị này sẽ có mặt hầu hết tại các tỉnh thành,
thành phố lớn trong cả nước.
22


- Nâng cao vai trò và tăng cường hơn nữa chức năng hoạt động của Hiệp hội
dệt may Việt Nam (VITAS) trong việc tổ chức thơng tin kịp thời tình hình thị
trường cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về
ngành dệt may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm, xúc tiến xây
dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất
khẩu, tổ chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước
ngồi, đề xuất các chế độ, cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi cho các doanh nghiệp trong ngành.
- Giải pháp về khoa học công nghệ để thực hiện chiến lược phát triển ngành
Dệt May nêu ra những việc cần thực hiện: Đó là triển khai các chương trình sản
xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản
lý sản xuất và chất lượng sản phẩm Dệt May. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với pháp luật về tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thông lệ quốc tế. Tổ chức lại các Viện nghiên cứu
chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm; xây dựng phịng
thí nghiệm sinh thái Dệt May và Trung tâm phát triển các mặt hàng vải trong giai
đoạn 2008-2010.
- Giải pháp về thị trường yêu cầu tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán
mở rộng thị trường Dệt May trên thị trường quốc tế. Tăng cường công tác tư vấn
pháp luật thương mại quốc tế, chuẩn bị kỹ việc chống các rào cản kỹ thuật mới
của các nước nhập khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh đó, tổ chức

mạng lưới bán lẻ trong nước, đổi mới phương thức tiếp thị xuất khẩu, đồng thời
quan tâm đến việc quảng bá thương hiệu sản phẩm, xây dựng hình ảnh của
ngành Dệt May trên thị trường trong nước và quốc tế.
3. Một số kiến nghị
a. Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn
hậu WTO?
- Ngành dệt may Việt Nam đã có chiến phát triển đến năm 2010 xuất
khẩu đạt 9 – 10 tỷ USD, hiện Bộ Công Thương đang chỉ đạo việc xây dựng
chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2015 và 2020. Theo dự kiến, nếu
kết thúc năm 2008, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 9,5 tỷ USD thì Việt Nam sẽ
hồn hành kế hoạch năm 2010 trước 2 năm, với đà như vậy đến 2010 xuất khẩu
dệt may của Việt Nam sẽ đạt khoảng 12 – 13 tỷ USD, tiếp đó đến năm 2015 sẽ
đạt khoảng 15 – 17 tỷ USD, đến 2020 sẽ là 25 tỷ USD.

23


Mục tiêu này Việt Nam phải cố gắng thực hiện được, các mặt yếu về nguyên phụ
liệu cần được khắc phục. Hiện Bộ Cơng Thương đang chỉ đạo Tập đồn Dệt
may xây dựng đề án sản xuất 1 tỷ mét vải phục vụ xuất khẩu đến năm 2015, xây
dựng đề án phát triển vùng bông chuyên canh để nâng cao sự tự túc bông, tránh
biến động về nguyên liệu trên thị trường thế giới. Xây dựng nhà máy sơ tổng
hợp…Mặt khác, cần phải phát triển việc tạo mốt. Tăng cường việc tổ chức các
tuần lễ thời trang, cuộc thị người thiết kế hàng năm của Hiệp hội dệt may, Viện
Mốt nhằm tìm ra các nhà thiết kế mới, trẻ, triển vọng…phục vụ cho sản xuất.
Cần đăng ký và xây dựng thương hiệu ở các cấp độ quốc gia, doanh nghiệp, tạo
nên những thương hiệu sản phẩm nổi tiếng… phục vụ tiêu dùng trong nước cũng
như xuất khẩu.
Trú trọng vào việc đào tạo nguồn nhân lực nhất là trong việc thiết kế. Xây dựng
lực lượng sản xuất phát triển, các nhà máy mới sẽ phải làm gì để có vải? những

vải cho năm 2010, 2015 là những vải gì?...phải có những bước đi trước đón đầu
phù hợp với nhu cầu mới của thị trường…để được như vậy Việt Nam phải tiếp
thu những cái mới của nước ngồi. Có như vây, khơng những Việt Nam hồn
thành mục tiêu nêu trên mà cịn trở thành 1 trong 5 nhà xuất khẩu lớn nhất của
thế giới vào giai đoạn 2015 – 2020
+) Chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2001:
đối với ngành dệt, bao gồm: sản xuất nguyên vật liệu, sợi, dệt, in nhuộm hồn
tất:
- kinh tế nhà nước làm lịng cốt, giữ vai trị chủ đạo; khuyến khích các thành
phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia lĩnh vực này.
- đầu tư phát triển gắn với bảo vệ môi trường; quy hoạch xây dựng các cụm cộng
nghiệp sợi, dệt, in nhuộn hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị lớn.
- tập trung đàu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến. Trình
độ chun mơn hóa cao. Chú trọng cơng tác thiết kế các sản phảm mới, nhằm
từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt Nam trên thị trường
quốc tế.
tổ chức lại hệ thống quản lheejchaats lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước
nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh về sản lượng các sản phảm dệt, nhằm đáp
ứng nhu cầu xất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Đối với ngành may:
- đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp may mà nhà nước khơng cần nắm
giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành
may, nhất là ở các nước đông dân cu, nhiều lao động.
24


- đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may. Tập trung
trung đàu tư, cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các
biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá thành sản
xuất và nâng cao tính cạnh tranh của sản phảm dệt may Việt Nam trên thị trường

quốc tế.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bơng, dâu tằm, các loại cây có xơ, tơ
nhân tạo, các lọa nguyên liệu, phụ liệu hóa chất, thuốc nhuộn cung cấp cho
ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật liệu và phụ liệu
thay thế nhập khẩ.
Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, để phát triển cơ
khí dệt may, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt may trong
nước.
b. Một số cơ chế, chính sách cho phát triển ngành dệt may
- Nhà nước hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy
hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm; đầu tư các
cơng trình xử lý nước thải; quy hoạch các cụm công nghiệp dệt; xây dựng cơ sở
hạ tầng đối với các cụm công nghiệp mới; đào tạo và nghiên cứu của các viện,
trường và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dệt may.
- Các dự án đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất: sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất, nguyên
liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may:
+) Được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó 50% vay với
lãi suất bằng 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại thời điểm rút vốn,
thời gian vay 12 năm, có 3 năm ân hạn; 50% còn lại được vay theo quy định của
Quỹ Hỗ trợ phát triển;
+) Được coi là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và được hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy
định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
- Bộ Tài chính nghiên cứu trình Chính phủ để trình ủy ban Thường vụ Quốc hội
cho phép áp dụng cơ chế đối với vải và phụ liệu may sản xuất trong nước nếu
bán cho các đơn vị sản xuất gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam được hưởng
mức thuế suất thuế giá trị gia tăng như đối với hàng xuất khẩu.
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước sản xuất sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất,
nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may:
+) Trong trường hợp cần thiết, được Chính phủ bảo lãnh khi mua thiết bị trả
chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc tổ chức tài chính trong và

ngồi nước;

25


×