Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Tổ chức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường cao đẳng công nghệ bắc hà, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 114 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BGD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo
CĐ Cao đẳng
CBGV Cán bộ giảng viên
CBQL Cán bộ quản lý
ĐT Đào tạo
GV Giảng viên
GVCVHT Giảng viên cố vấn học tập
HCTC Học chế tín chỉ
PTDH Phương tiện dạy học
PPDH Phương pháp dạy học
KTDH Kỹ thuật dạy học
NHCH Ngân hàng câu hỏi
SV Sinh viên
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
b. Thời gian và kế hoạch đào tạo 23
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy: Muốn quản lý tốt quá trình ĐT
theo HCTC trong giai đoạn hiện nay ở Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà cần phải
có giải pháp phù hợp và được thực hiện một cách đồng bộ. Đề tài đã đề xuất giải
pháp tổ chức quản lý ĐT theo HCTC tại trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà gồm: 91
1. Rà soát điều chỉnh chương trình đào tạo, tiến trình đào tạo và tổ chức xây dựng đề
cương chi tiết học phần; 91
2. Cải tiến công tác xây dựng kế hoạch đào tạo và lập thời khóa biểu; 91

v
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
b. Thời gian và kế hoạch đào tạo 23
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy: Muốn quản lý tốt quá trình ĐT
theo HCTC trong giai đoạn hiện nay ở Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà cần phải


có giải pháp phù hợp và được thực hiện một cách đồng bộ. Đề tài đã đề xuất giải
pháp tổ chức quản lý ĐT theo HCTC tại trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà gồm: 91
1. Rà soát điều chỉnh chương trình đào tạo, tiến trình đào tạo và tổ chức xây dựng đề
cương chi tiết học phần; 91
2. Cải tiến công tác xây dựng kế hoạch đào tạo và lập thời khóa biểu; 91

vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới giáo dục nhằm phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực đã và đang là một nhiệm vụ có tính chiến lược ở nước ta hiện nay. Việc đổi mới
giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá sẽ đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu học tập của mọi người, tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực, Báo cáo chính
trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu rõ: “Đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục,
phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực
sáng tạo, kỹ năng thực hành”.
Để giáo dục thực hiện được sứ mạng của mình thì trước hết cần nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo. Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với giáo dục đào tạo là tiếp
tục nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ
thống trường lớp, hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa giáo dục; nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Tuy nhiên, chất lượng giáo
dục và đào tạo phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Từ việc xây dựng mục tiêu, nội dung
chương trình và phương pháp đào tạo; mà trong đó khâu đặc biệt quan trọng làm nên
chất lượng trong mỗi nhà trường đó tổ chức quá trình đào tạo, hoạt động dạy và học
cùng với các yếu tố có liên quan khác.

Xuất phát từ yêu cầu đó, việc chuyển đổi phương thức đào tạo (ĐT) từ niên
chế sang học chế tín chỉ (HCTC) là bước chuyển tất yếu khách quan của giáo dục Đại
học và Cao đẳng của Việt Nam theo xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, cũng là
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, khuyến khích người học được thường
xuyên và học suốt đời.
Các nước trên thế giới cũng như Việt Nam những năm qua đã đúc kết ưu điểm
đạt được từ đạo tạo theo học chế tín chỉ như sau:
1
- Cho phép sinh viên chủ động thiết kế kế hoạch, được quyền lựa chọn cho
mình tiến độ học tập thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh riêng của bản
thân để tích luỹ kiến thức và kỹ năng để có văn bằng. Điều này còn đảm bảo cho quá
trình đào tạo trong các trường Đại học trở nên mềm dẻo hơn.
- Cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích luỹ được ngoài
trường lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích sinh viên từ nhiều nguồn gốc khác
nhau có thể tham gia học Đại học một cách thuận lợi - Không nhất thiết học trong
trường. Có thể nói đây là một công cụ quan trọng để chuyển từ nền Đại học mang
tính tinh hoa (elitist) sang nền Đại học mang tính đại chúng (mass).
- Cho phép sinh viên thay đổi thời gian trong tiến trình học tập khi thấy cần,
không phải nhất thiết theo kế hoạch từ đầu tùy theo điều kiện và khả năng của từng
người. Sinh viên có thể chủ động ghi tên học các học phần khác nhau dựa theo những
qui định chung về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực kiến thức.
- Học chế tín chỉ cung cấp cho các trường Đại học một ngôn ngữ chung, tạo
thuận lợi cho sinh viên khi cần chuyển trường cả trong nước cũng như ngoài nước.
- Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo: kết quả học tập
của sinh viên được tính theo từng học phần chứ không phải theo năm học. Chính vì
vậy giá thành đào tạo theo học chế tín chỉ thấp hơn so với đào tạo theo niên chế.
- Triển khai học chế tín chỉ, các trường Đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ chức
những môn học chung cho sinh viên nhiều trường, nhiều khoa, tránh các môn học
trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra sinh viên có thể học những môn học lựa chọn ở các
khoa khác nhau. Cho phép sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện

tốt nhất cho từng môn học. Kết hợp với học chế tín chỉ, nếu trường Đại học tổ chức
thêm những kỳ thi đánh giá kiến thức và kỹ năng của người học tích lũy được bên
ngoài nhà trường hoặc bằng con đường tự học để cấp cho tín chỉ tương đương, nhanh
cho kết thúc một văn bằng Đại học, tiết kiệm thời gian cho người học.
Như vậy, rõ ràng học chế tín chỉ mang lại nhiều lợi ích trong công tác đào tạo,
nó làm cho sinh viên chủ động hơn trong hoạt động học tập, đặc biệt nó tạo tác
phong công nghiệp đối với mọi hoạt động của nhà trường, từ sinh viên đến giảng
viên, vì mọi hoạt động đào tạo trong trường phải được khớp nối đúng thời gian và địa
2
điểm. Tuy nhiên, việc triển khai học chế tín chỉ tạo nên bước chuyển khá đột ngột do
phương pháp giảng dạy và các hoạt động khác từ học chế tín chỉ đòi hỏi. Hơn nữa,
học chế tín chỉ làm cho mức độ tự do của giảng viên giảm nhiều vì họ phải được gắn
với các giờ học và lớp học xác định phân bố trong suốt cả học kỳ, rất khó bố trí tập
trung thời gian cho các hoạt động khác ở ngoài trường. Từ đó cần có những vận động
đổi mới trong công tác quản lý để tăng nhận thức cho sinh viên và nâng cao trách
nhiệm của giảng viên thì việc triển khai học chế tín chỉ mới thuận lợi.
Thực hiện Quyết định số 43/2007/QĐ - BGD&ĐT ngày 15/8/2007 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc Ban hành “ Quy chế đào tạo Đại học và Cao đẳng hệ
chính quy theo hệ thống tín chỉ” và Thông tư số 57/2012/TT-BGDĐT ngày
27/12/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đào tạo Đại học và Cao
đẳng hệ chính quy theo HCTC ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-
BGD&ĐT ngày 15/8/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong những năm qua, việc
áp dụng phương thức ĐT này đã được nhiều trường Đại học và Cao đẳng trong cả
nước thực hiện và đạt được hiệu quả nhất định. Đào tạo theo HCTC giúp cho việc
thực hiện chế độ tích luỹ kết quả học tập theo học phần, thực hiện đánh giá kết quả
học tập thống nhất giữa các hệ ĐT, các loại hình, phương thức ĐT. Điều này còn có
tác động tích cực đến phương pháp học tập của sinh viên. Mặt khác, việc ĐT theo
HCTC bước đầu trường đã xác định lộ trình thực hiện để tiến tới thực hiện ở tất cả
các hệ, các phương thức ĐT trong toàn ngành. Bên cạnh đó, việc ĐT theo học chế tín
chỉ sẽ giúp thuận lợi cho người học, vì người học hoàn toàn chủ động lựa chọn loại

hình học tập cũng như việc thực hiện kế hoạch học tập trong quá trình ĐT của mình.
Cùng đó, khi ĐT, nhà trường sẽ giải quyết được được khủng hoảng thừa về đội ngũ
giảng viên, tiết kiệm về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và nâng cao tính chuẩn
mực trong chương trình ĐT cho các hệ ĐT của nhà trường.
Trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh được thành lập và tổ chức
đào tạo từ năm 2006 theo quy định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Từ năm học
2010 -2011, trường bắt đầu tổ chức ĐT thẹo HCTC nhằm phát huy cao độ khả năng
học tập của sinh viên và cũng đã đạt được những kết quả đáng kể.
Tuy nhiên, để phương thức ĐT theo HCTC phát huy tác dụng và hạn chế tối
đa những nhược điểm vốn có của nó thì ngoài thời gian cần thiết để triển khai, rút
3
kinh nghiệm thực tiễn, cần có sự chỉ đạo quyết liệt, có hiệu quả của các cấp quản lý vĩ
mô, các cơ sở ĐT; sự thay đổi nhận thức, tư duy hành động đúng đắn của từng cá
nhân trong hệ thống ĐT Đại học và Cao đẳng hiện nay. Qua một thời gian thực hiện
phương thức ĐT theo HCTC của trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh,
đứng ở góc độ của người thực hiện, tôi thấy cần nâng cao nhận thức của các chủ thể
tham gia vào quá trình ĐT về những ưu điểm, nhược điểm của phương thức ĐT này
và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ưu điểm và khắc phục các nhược
điểm của phương thức ĐT theo HCTC tại trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, góp
phần thực hiện thắng lợi quan điểm đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục Đại học,
Cao đẳng ở nước ta hiện nay. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Tổ chức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Cao đẳng Công nghệ
Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ quản lý giáo dục của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến việc tổ chức
quản lý ĐT theo HCTC và nghiên cứu đánh giá thực trạng việc tổ chức quản lý ĐT
theo HCTC tại trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, đề xuất giải pháp tổ chức quản
lý ĐT theo HCTC nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp tổ chức quản lý đào tạo theo HCTC tại

trường CĐ Công nghệ Bắc Hà tỉnh Bắc Ninh.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng tổ chức quản lý ĐT theo
HCTC tại trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh năm học 2010 -2011
và năm học 2011-2012; Trên cơ sở nghiên cứu quá trình tổ chức quản lý đào tạo theo
HCTC, đề tài chỉ tập trung đề xuất giải pháp tổ chức quản lý cơ bản nhằm góp phần
nâng cao chất lượng ĐT theo HCTC tại trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ.
4.2. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác tổ chức quản lý đào tạo theo học
chế tín chỉ tại trường cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh.
4.3. Đề xuất giải pháp pháp tổ chức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh.
4
5. Giả thuyết khoa học
Việc tổ chức ĐT theo HCTC tại trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà tuy đã
đáp ứng được yêu cầu trong việc nâng cao chất lượng ĐT Tuy nhiên trước yêu cầu
của đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay, việc tổ chức ĐT theo HCTC hiện nay
vẫn còn nhiều bất cập. Nếu xây dựng được giải pháp tổ chức quản lý ĐT theo HCTC
phù hợp và được thực hiện một cách đồng bộ thì chất lượng ĐT tại trường Cao đẳng
Công nghệ Bắc Hà trong giai đoạn tiếp theo sẽ được nâng cao.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tổ
chức quản lý ĐT theo HCTC tại trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà - tỉnh Bắc Ninh,
từ đó đề xuất giải pháp tổ chức quản lý ĐT phù hợp với điều kiện của nhà trường,
giúp nhà trường nâng cao chất lượng ĐT. Ngoài việc giúp nhà trường nâng cao chất
lượng đào tạo kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể là tài liệu quan trọng giúp các
trường Cao đẳng khác tham khảo trong quá trình chuyển đổi từ ĐT theo niên chế
sang ĐT theo HCTC.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Sử dụng phương pháp nghiên cứu những tài liệu lý luận, văn bản, Nghị quyết,
sách báo, các công trình đã nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Tổ chức thu thập các
số liệu thống kê và các thông tin có liên quan để xây dựng cơ sở lý luận cho việc
nghiên cứu thực tiễn.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra: Điều tra bằng Anket (Phiếu trưng cầu ý kiến)
Chúng tôi xây dựng 02 mẫu phiếu điều tra dùng để trưng cầu ý kiến của cán bộ
quản lý (CBQL), giảng viên, sinh viên tại các khoa của trường Cao đẳng Công nghệ
Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh.
+ Phương pháp phỏng vấn:
Chúng tôi gặp gỡ, trao đổi, quan sát, trò chuyện, lấy ý kiến trực tiếp các
CBQL, giảng viên (GV), sinh viên(SV) ở các khoa của nhà trường về những ưu điểm,
khó khăn khi tham gia tổ chức ĐT theo HCTC nhằm nâng cao chất lượng ĐT cho
sinh viên nhà trường.
5
7.3. Phương pháp thống kê Toán học
Sử dụng phương pháp thống kê Toán học để xử lý các tài liệu, số liệu đã thu
thập được làm cơ sở cho sự phân tích đánh giá khách quan bản chất của vấn đề
nghiên cứu.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:
+ Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ.
+ Chương 2: Thực trạng về tổ chức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ tại
trường Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh.
+ Chương 3: Giải pháp tổ chức quản lý đào tạo theo HCTC tại trường Cao
đẳng Công nghệ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ ĐÀO TẠO

THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Theo báo cáo của UNESCO: Học tập - một kho báu tiềm ẩn, đã xác định học
tập suốt đời sẽ là một trong những chìa khóa nhằm vượt qua những thách thức của thế
kỷ XXI với đề nghị gắn nó với bốn trụ cột của giáo dục (bốn trụ cột của giáo dục bao
gồm: học để biết - Learning to know, học để làm -Learning to do, học để tự khẳng
định-Learning to be, học để cùng chung sống - Learning to live together) và hướng
tới xây dựng một xã hội học tập. Để thỏa mãn nhu cầu đó của mỗi con người trong xã
hội hiện đại thì nhiệm vụ đặt ra cho các nhà trường là phải tổ chức tốt quá trình ĐT
giúp cho người học có đủ năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu việc làm.
Từ nhiều năm trước đây, các nhà khoa học và các nhà quản lý giáo dục đã xác
định vấn đề quản lý chất lượng ĐT là một trong những nội dung quan trọng, cấp bách
trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Nó không chỉ dựa trên kinh nghiệm thực
tiễn mà cần phải được nghiên cứu một cách nghiêm túc, và phải được bắt đầu từ khâu
lý luận và phương pháp luận
Đã có nhiều nhà trường, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu và áp dụng ĐT theo HCTC, cụ thể:
1.1.1. Ở nước ngoài
Đào tạo theo HCTC, lần đầu tiên được tổ chức tại trường Đại học Havard, Hoa
Kỳ vào năm 1872, sau đó lan rộng ra khắp Bắc Mỹ và thế giới. Tiếp sau đó, hệ thống
này được các nước ở Bắc Mỹ, Nhật Bản Philippin, Hàn quốc, Trung quốc, Đài Loan,
Thái Lan, Malaixia, Ấnđộ và nhiều các nước khác áp dụng. Năm 1999, Bộ trưởng đặc
trách giáo dục Đại học ở 29 nước trong Liên minh Châu Âu đã ký tuyên ngôn
Bologna nhằm hình thành “ Không gian giáo dục đại Châu Âu” và áp dụng HCTC
trong toàn bộ hệ thống này. [12, tr.7]
Theo đánh giá của tổ chức Ngân hàng thế giới (World Bank), thì đào tạo theo
HTTC, không chỉ có hiệu quả đối với các nước phát triển mà còn rất hiệu quả đối với
các nước đang phát triển. Đây là phương thức ĐT theo triết lý “Tôn trọng người học,
7
xem người học là trung tâm quá trình đào tạo”. Bản chất của đào tạo theo HCTC là

sự tích lũy kiến thức được quy định trong chương trình đào tạo. Sự tích lũy được
đánh giá bằng: Số tín chỉ tích lũy tối thiểu quy định của mỗi chương trình để sinh
viên (SV) có thể tốt nghiệp. [20. tr.8]
Ngày nay, HCTC trong các trường Đại học Hoa Kỳ đòi hỏi phải hoàn thành
thường là 120 tín chỉ trong vòng 4 năm để có một bằng Đại học. Điều này tương
đương với 15 tín chỉ mỗi học kỳ. Khi xác định khối lượng công việc cho SV, các
trường Đại học Hoa Kỳ không chỉ tính đến giờ tiếp xúc với giáo sư, mà còn tính đến
cả khoảng thời gian SV cần có để thực hiện việc chuẩn bị dự án, viết báo cáo khoa
học, nghiên cứu tự học. Tín chỉ phản ánh toàn bộ khối lượng công việc, cả trong và
ngoài lớp học. Một bài giảng tiêu biểu là 3 tín chỉ, trong đó có 3 giờ lên lớp mỗi tuần
(thường là 3 lần/tuần, mỗi lần 50 phút), cùng với 6-9 giờ làm việc ngoài lớp học (1
giờ trong lớp đòi hỏi 2-3g chuẩn bị và tự học bên ngoài lớp học. Như vậy tổng số
khối lượng công việc của một tín chỉ là 3-4 giờ (kết hợp cả giờ lên lớp và giờ làm
việc ngoài lớp học). Nhìn chung, một SV đăng ký 15 tín chỉ mỗi học kỳ sẽ có 15 giờ
lên lớp và khoảng từ 30-45 giờ làm việc ngoài lớp. [5, tr.8]
1.1.2. Ở trong nước
Ở Việt Nam, trước 1975, Viện Đại học Cần Thơ đã từng áp dụng HCTC trong
các Đại học Văn Khoa, Đại học Luật Khoa và Đại học Khoa học. Sau 1975, nhiều
giảng viên của Trường Đại học Cần Thơ đã được đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở
nhiều trường Đại học Âu - Mỹ. [1, tr.8] Từ năm 1987, HCTC được áp dụng một phần
dưới hình thức tổ chức môn học theo học phần và đơn vị học trình. HCTC chỉ được
hính thức triển khai từ năm 2001 khi Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh HCTC như là
một giải pháp để đổi mới giáo dục Đại học, và được khẳng định trong Luật giáo dục
2005: “ Về chương trình giáo dục: Đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục Đại học có
thể được tiến hành theo hình thức tích lũy tín chỉ hay theo niên chế” .
Để thực hiện tiến trình đến với sự hoà nhập với các nước trong khu vực và thế
giới, các trường Đại học Việt Nam đã tiên phong trong việc tham khảo kinh nghiệm
và áp dụng HCTC vào chương trình ĐT của mình. Có thể kể ra các trường đi đầu
trong việc áp dụng này là các trường thuộc kỹ thuật như Trường Đại học Bách khoa
8

thành phố Hồ Chí Minh, trường Đại học Bách khoa Hà Nội , Đại học Cần thơ,
Trường Đại học Đà Lạt, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hồ Chí Minh, Trường
Đại học Thủy sản Nha Trang và nhiều trường Cao đẳng khác v.v
Nhìn chung, các trường được phép áp dụng thử nghiệm HCTC từ năm 1993 -
toàn bộ chương trình ĐT Đại học chính quy đã được chuyển sang hệ tín chỉ. Mô hình
nhóm ngành-ngành rộng được áp dụng. Đối với hệ ĐT chính quy tại trường áp dụng
loại hình tập trung, ĐT theo HCTC. Các học phần tự chọn sẽ được giới thiệu chi tiết,
cụ thể trong chương trình ĐT theo từng ngành học và từng học kỳ, người học sẽ dựa
vào quy chế mà có thể đăng ký học những học phần hoàn toàn theo khả năng và sở
thích của mình. Theo hệ thống này, người học không phải trải qua kỳ thi tốt nghiệp
hay phải bảo vệ luận văn tốt nghiệp như trước đây mà người học có thể lựa chọn là
hoàn thành thêm một số (thường là 10) tín chỉ ngoài các học phần như đã công bố
trong chương trình ĐT của từng ngành học.
Từ năm học 2008-2009, căn cứ Quyết định số 43/2007/QĐ- BGD&ĐT ngày
15/8/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Ban hành “Quy chế đào tạo Đại học
và Cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ”, các trường Đại học và Cao đẳng cả
nước chính thức áp dụng ĐT theo HCTC tại trường mình quản lý. Chính vì thế,
nhiều công trình khoa học, bài viết, tham luận của các nhà khoa học, các giảng viên
đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề này và đã được đăng tải trên sách báo, website làm
kinh nghiệm quý báu trong việc tổ chức ĐT cho các trường. Tiêu biểu như bài viết
“Chất lượng đào tạo theo hệ thống tín chỉ khó khăn và giải pháp” của Phó Giáo sư,
Tiến sĩ Phan Quang Thế - Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng trường Đại học Kỹ thuật
Công nghiệp Thái Nguyên; “Đào tạo Đại học theo học chế tín chỉ - Những vấn đề đặt
ra” của Tiến sĩ Nghiêm Thị Thà - Website: Học viện tài chính; “Đào tạo theo hệ
thống tín chỉ: Kinh nghiệm thế giới và thực tế ở Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Kim
Dung Viện Nghiên cứu Giáo dục - Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh; “Hệ thống tín chỉ tại các trường Đại học Hoa Kỳ: Lịch sử phát triển, Định
nghĩa và Cơ chế hoạt động” của Phó Giáo sư - Tiến sĩ. CaryJ. Trexler, Khoa Giáo dục
Sư phạm, trường Đại học (UC), Davis, Hoa Kỳ; “Những vấn đề của quản lý đạo tạo
theo học chế tín chỉ ở trường Đại học Sư phạm” của tác giả Lê Quang Sơn, trường

Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
9
Trong “Chương trình hành động của Chính phủ” thực hiện Nghị quyết số
37/2004/QH11 khóa XI, kỳ họp thứ sáu của Quốc hội đã chỉ rõ: “Mở rộng, áp dụng
HCTC trong đào tạo Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp ”. Đề án đổi mới
giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã được Chính phủ phê duyệt cũng
khẳng định: “ xây dựng học chế tín chỉ thích hợp cho giáo dục Đại học ở nước ta và
vạch ra lộ trình hợp lý để toàn bộ hệ thống giáo dục Đại học chuyển sang đào tọa theo
HCTC ”. Chính vì vậy, việc ĐT theo HCTC ở các trường Đại học và Cao đẳng trên
cả nước đã xây dựng cho mình Quy chế đào tạo. Mỗi quy chế được xây dựng với
những mục tiêu, quy định, cách thức tổ chức ĐT riêng thể hiện được nhưng ưu điểm
của mỗi ngành học ở mỗi nhà trường trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và ĐT,
phát huy khả năng tự học, tự bồi dưỡng của người học.
Hiện nay, các hoạt động liên quan đến tổ chức ĐT theo HCTC của các nhà
trường như đăng ký môn học, thời khoá biểu của người học, kết quả điểm tích lũy của
từng môn học theo số tín chỉ v.v , từng bước đi vào thế ổn định và mang tính bền
vững. Nhiều trường đã thực hiện chế độ tích luỹ kết quả học tập theo học phần thống
nhất cho các loại hình ĐT Đại học chính quy, Đại học bằng 2, Đại học tại chức, Sau
Đại học, chuyển đổi từ Cao đẳng lên Đại học, hợp đồng liên kết ĐT với các cơ sở ĐT
tại các địa phương, các bộ, ngành và các cơ sở ĐT. Hiện nay, các trường này đã thực
hiện cấp chứng chỉ tích lũy theo học phần đối với các học phần phải bổ sung kiến
thức thuộc đào tạo Sau Đại học và chứng chỉ các môn học. Ngoài ra, các trường này
cũng đã thống nhất đánh giá kết quả học tập của SV theo chế độ tích luỹ học phần
cho các loại hình ĐT tập trung, chính quy, ĐT ngoài giờ, tại các địa phương, các
ngành và liên kết ĐT với các trường Đại học. Thực hiện kiểm tra, thi kết thúc học
phần, thi tốt nghiệp theo hình thức thi viết đồng thời mở rộng hình thức thi trắc
nghiệm khách quan.
Từ Quyết định số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/8/2007 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc Ban hành “ Quy chế đào tạo Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo
hệ thống tín chỉ” và những kết quả đạt được qua quá trình ĐT, Thông tư số

57/2012/TT-BGDĐT ngày 27/12/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế
đào tạo Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo HCTC như một cơ sở khoa học, một
10
lần nữa khẳng định quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về ban hành Quy chế ĐT
theo HCTC là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục trong xu thế hội nhập
quốc tế hiện nay.
Tuy nhiên, vấn đề tổ chức ĐT theo HCTC, đặc biệt ở trình độ Cao đẳng, trong
xu thế hội nhập hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất định và ít được quan tâm
nghiên cứu. Vì vậy, đề tài “Tổ chức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường
Cao đẳng Công nghệ Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh” mà tôi chọn nghiên cứu làm luận văn
Thạc sĩ quản lý giáo dục cũng là nhằm khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong quá
trình tổ chức ĐT theo HCTC tại trường CĐ Công nghệ Bắc Hà, với mục đích góp
phần nâng cao chất lượng ĐT trong nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và
xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Quản lý
Bản chất của quản lý là các hoạt động của chủ thể quản lý tác động lên các
đối tượng quản lý để đạt mục tiêu đã xác định. Quản lý vừa là một nghệ thuật, vừa là
một khoa học. Đó là nghệ thuật làm cho người khác làm việc hiệu quả hơn những
điều bản thân họ sẽ làm được nếu không có sự quản lý. Còn khoa học chính là cách
làm thế nào để thực hiện được nghệ thuật quản lý. Lên kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và
giám sát là bốn điều căn bản trong khoa học đó.
Nói đến khái niệm “quản lý” là một khái niệm rất tổng quát và có nhiều quan
niệm khác nhau. Dưới đây là một số quan niệm chủ yếu:
Theo Tự điển Tiếng Việt: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định”; [18, tr.11-13]
F.W Taylor cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và
rẻ nhất”;
Harol Koontz thì khẳng định: “Quản lý là hoạt động thiết yếu bảo đảm sự nỗ

lực của các cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức”;
Thomas J. Robbins - Wayned Morrison cho rằng: “Quản lý là một nghề nhưng
cũng là một nghệ thuật, một khoa học”;
11
Ở nước ta, cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý:
Theo Nguyễn Kỳ - Bùi Trọng Tuân: “Quản lý là những tác động có định
hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận
hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định”;
Theo Mai Hữu Khuê: “Quản lý là sự tác động có mục đích tới tập thể những
người LĐ nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục đích đã định trước”;
Theo Đặng Vũ Hoạt - Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình có định hướng,
quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm
đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới
của hệ thống mà người quản lý mong muốn” ;
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của
chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể quản lý) nhằm thực hiện
những mục tiêu dự kiến”;
Các định nghĩa trên tuy nhấn mạnh mặt này hay mặt khác, nhưng điểm chung
thống nhất đều coi quản lý là hoạt động có tổ chức, có mục đích nhằm đạt tới mục tiêu
xác định. Trong quản lý bao giờ cũng có chủ thể quản lý, khách thể quản lý quan hệ
với nhau bằng những tác động quản lý. Từ những ý chung của các định nghĩa và xét
quản lý với tư cách là một hành động, có thể định nghĩa: Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề
ra. Hay nói cách khác, Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm định
hướng, tổ chức, sử dụng các nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người
hay một cộng đồng người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
1.2.2. Đào tạo
Trong giáo dục và đào tạo có các quá trình tiếp nối và xen kẽ: ĐT, bồi dưỡng
và ĐT lại. Các quá trình này gắn liền với sự hình thành và phát triển nghề nghiệp của
người giáo viên theo xu thế học tập thường xuyên, suốt đời.

Theo quan niệm phổ biến, ĐT là một quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo, thái độ phẩm chất đạo đức cho người học để vào đời, họ có thể trở thành những
người lao động có kỹ thuật, có năng suất lao động cao. Quá trình ĐT diễn ra theo kế
hoạch, chương trình ứng với từng thời gian quy định, trong các cơ sở ĐT.
12
Trong Từ điển bách khoa Việt Nam: "Đào tạo là quá trình tác động đến một
con người, làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách
có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và có khả năng
nhận được sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào sự phát triển xã
hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người" (Từ điển Bách Khoa Việt Nam
- Hà Nội, 1995). [18, tr.11-13]
Đào tạo có nhiều dạng: ĐT cấp tốc; ĐT chuyên sâu; ĐT cơ bản; ĐT ngắn hạn;
ĐT từ xa và ĐT lại (tương đương với bồi dưỡng) Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho
cuộc sống và cho lao động, người ta phân loại ĐT gồm ĐT chuyên môn và ĐT nghề
nghiệp, và chỉ khi nào quá trình ĐT được biến thành quá trình tự ĐT một cách tích
cực, tự giác thì việc ĐT mới thực sự có kết quả cao. Tác giả Hồ Ngọc Đại (Giải pháp
về giáo dục - H, 1991) định nghĩa: "Đào tạo được hiểu là quá trình hoạt động có mục
đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống những tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và thái độ của người lao động nhằm xây dựng nhân cách
cơ bản cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho họ có thể tham gia lao động nghề nghiệp
trong cuộc sống xã hội".
Tác giả Nguyễn Minh Đường trong đề tài KX07 - 14 quan niệm: "Đào tạo là
quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, nhằm hình thành và phát triển hệ thống
các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo
tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách năng suất và hiệu quả"
Như vậy, có thể hiểu: Đào tạo là quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng ban
đầu cùng với những phẩm chất, thái độ cần thiết để người được ĐT có thể hành nghề
và trở thành người lao động có năng lực và phẩm chất nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu
của xã hội. Còn ĐT lại cũng chính là một dạng của ĐT, là quá trình tạo cho người lao
động (đã được đào tạo) có cơ hội được học tập, được ĐT chuyên sâu hay một lĩnh

vực chuyên môn mới một cách cơ bản, có hệ thống cả tri thức, kỹ năng, kỹ xảo lẫn
thái độ nhằm mục đích có trình độ tay nghề cao hơn hoặc có thể chuyển đổi nghề
(hay công việc mới). Đây chính là quá trình hoạt động nhằm phát triển nhân cách một
cách hài hoà, toàn diện cho mọi người, giúp họ trở thành người lao động có năng lực
và phẩm chất nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu xã hội.
13
1.2.3. Quản lý đào tạo
Theo thuật ngữ đào tạo (Glossary of training terms) của Bộ Lao động nước
Anh: “Đào tạo là phát triển có hệ thống về thái độ/ kiến thức/ kỹ năng/ mẫu hành vi
theo yêu cầu cá nhân nhằm thực hiện thích đáng một công việc hay một nghề”. Và
quan điểm ở Mỹ, J.R. Hinrich: “Mọi quy trình tổ chức nhằm bồi dưỡng việc học tập
trong số những thành viên của tổ chức theo hướng góp phần nâng cao tính hiệu quả
của tổ chức” thì Peter Bramley (trong tác phẩm “Evaluating training effectiveness”)
đã rút ra 3 đặc trưng:
- Đào tạo phải là một quá trình có hệ thống được kế hoạch và kiểm soát hơn là
học tập ngẫu nhiên từ kinh nghiệm.
- Đào tạo phải làm thay đổi kiến thức, kỹ năng, thái độ của người học (cá nhân
và tập thể)
- Đào tạo nhằm hoàn thiện việc thực hiện nghề và thông qua đó nâng cao tính
hiệu quả một phần của tổ chức mà trong đó cá nhân và tập thể hoạt động.
Như vậy, đào tạo là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm
hình thành và phát triển có hệ thống các kiến thức, kỹ năng, thái độ để hoàn thiện
nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo năng lực cho họ vào đời hành nghề có năng suất và
hiệu quả cao.
Hoạt động đào tạo trong trường ĐH, CĐ có đặc trưng nổi bật nhất là quá trình
đào tạo. Quá trình đào tạo bao gồm các nhân tố chủ yếu sau:
- Mục tiêu đào tạo - Nội dung đào tạo
- Phương pháp đào tạo - Điều kiện đào tạo
- Lực tượng đào tạo (Thày-người dạy) - Tổ chức đào tạo
- Đối tượng đào tạo (Trò-người học) - Môi trường đào tạo

- Quy chế đào tạo - Bộ máy tổ chức đào tạo.
Các yếu tố này hoạt động trong mối quan hệ tương tác với nhau, đảm bảo cho
quá trình đào tạo diễn ra hài hoà, cân đối và toàn vẹn.
Trong đó ba nhân tố mục tiêu ĐT, nội dung ĐT, phương pháp ĐT liên kết chặt
chẽ với nhau, quy định nhau và hỗ trợ nhau. Chúng có mối quan hệ với mục tiêu phát
triển KT-XH, trạng thái tiến bộ về văn hoá khoa học của đất nước. Chúng tạo ra cái
14
cốt lõi của quá trình ĐT. Còn các nhân tố khác là các lực lượng vật chất, để hiện thực
hoá được mục tiêu ĐT, tái tạo, sáng tạo nội dung ĐT và phương pháp ĐT.
Chính vì vậy có thể hiểu quản lý đào tạo là quá trình tổ chức điều khiển, kiểm
tra, đánh giá các hoạt động đào tạo của toàn bộ hệ thống theo kế hoạch và chương
trình nhất định nhằm đạt được mục tiêu của toàn bộ hệ thống.
1.3. LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ
TÍN CHỈ
1.3.1. Mục tiêu, nguyên tắc và phương pháp quản lý đào tạo
1.3.1.1. Mục tiêu quản lý đào tạo
Mục tiêu quản lý là trạng thái được xác định trong tương lai của đối tượng
quản lý hay các thành tố của nó. Nói một cách khác, mục tiêu quản lý là những kết
quả mà chủ thể quản lý dự kiến sẽ đạt được do quá trình vận động của đối tượng quản
lý dưới sự điều khiển của chủ thể quản lý.
Mục tiêu quản lý ĐT là chất lượng ĐT toàn diện người học với các tiêu chuẩn
về chính trị, tư tưởng- đạo đức, văn hoá-khoa học, kỹ thuật-công nghệ, kỹ năng hành
nghề và thể chất được quy định trong mục tiêu đào tạo. Chất lượng đó là kết quả tổng
hợp nhiều hoạt động của quá trình đào tạo và của các hoạt động đảm bảo cho quá
trình đó.
Mục tiêu đào tạo trình độ Cao đẳng là:
-“Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân
dân; có khả năng tự học, kỹ năng giao tiếp và làm việc theo nhóm; có sức khoẻ đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
-“Đào tạo người học có kiến thức chuyên môn vững vàng, kỹ năng thực hành

cơ bản, có thái độ và đạo đức nghề nghiệp đúng đắn, chú trọng rèn luyện kỹ năng và
năng lực thực hiện công tác chuyên môn, có khả năng tìm kiếm và tham gia sáng tạo
việc làm”.
Theo thông tư số 14/2009/TT-BGDĐT, ngày 28 tháng 5 năm 2009 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành Điều lệ trường Cao đẳng (Điều 15).
Như vậy, mục tiêu ĐT trình độ Cao đẳng nhằm tạo ra nguồn nhân lực có phẩm
chất chính trị, đạo đức tốt, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tưng xứng
15
với trình độ ĐT Cao đẳng; có sức khoẻ, có năng lực thích ứng với việc làm trong xã
hội, tự tạo việc làm cho mình và cho những người khác, có khả năng hợp tác bình
đẳng trong quan hệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3.1.2. Nguyên tắc quản lý đào tạo
Quản lý ĐT phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc quản lý giáo dục nói chung
và áp dụng các nguyên tắc đó vào quản lý ĐT ở phạm vi trong một nhà trường, các
nguyên tắc đó bao gồm:
- Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị
Nguyên tắc này xuất phát từ cơ sở khách quan là giáo dục nói chung bao giờ
cũng gắn liền với mục tiêu chính trị.
Nguyên tắc đảm bảo tính chính trị đòi hỏi mọi chủ trương, chính sách giáo dục
cũng như những quy định đề ra phải phục vụ đường lối và nhiệm vụ cách mạng trong
từng giai đoạn. Nội dung, phương pháp và việc tổ chức quản lý đào tạo phải bảo đảm
những nguyên lý giáo dục và đường lối chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc này xuất phát từ cơ sở khách quan là bản chất chính trị của Nhà
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
Trong phạm vi nhà trường, nguyên tắc này đòi hỏi một mặt phải tăng cường
quản lý tập trung (Khi quyết định những vấn đề trọng yếu), thống nhất của người lãnh
đạo quản lý; mặt khác phải phát huy, mở rộng tối đa quyền chủ động của các đơn vị,
cá nhân, đảm bảo sự phù hợp của các quy định chung với các điều kiện cụ thể ở trong

nhà trường.
- Nguyên tắc kết hợp nhà nước và xã hội
Nguyên tắc này có vai trò quan trọng trong quản lý giáo dục, nó đòi hỏi phải
kết hợp việc quản lý giáo dục mang tính chất nhà nước với việc quản lý giáo dục
mang tính xã hội, phải lôi cuốn được xã hội, các tổ chức đoàn thể xã hội tham gia tích
cực vào sự nghiệp quản lý giáo dục nói chung và quản lý ĐT nói riêng trên cơ sở cơ
chế giáo dục phù hợp.
- Nguyên tắc tính khoa học
16
Quản lý ĐT phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, đặc biệt là lý luận khoa
học quản lý, vận dụng những thành tựu của nhiều khoa học khác nhau như tâm lý
học, giáo dục học, điều khiển học, tổ chức lao động khoa học Nguyên tắc này đòi
hỏi trong quản lý quá trình ĐT phải bảo đảm tính hệ thống và tính tổng hợp.
- Nguyên tắc tính kế hoạch
Bất cứ hoạt động nào cũng đều cần đến kế hoạch, hoạt động quản lý nói
chung, quản lý ĐT nói riêng luôn đòi hỏi phải đảm bảo tính kế hoạch, bởi vì kế hoạch
là cơ sở để quản lý quá trình ĐT. Nguyên tắc này đòi hỏi quản lý ĐT phải có kế
hoạch chính xác, phù hợp với yêu cầu và trình độ quản lý thực tế, phải có dự kiến
việc giám sát kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đó.
- Nguyên tắc đảm bảo tính cụ thể, thiết thực và hiệu quả
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình quản lý ĐT, chủ thể quản lý phải nắm
thông tin chính xác, cụ thể, kịp thời đề ra các biện pháp xử lý, giải quyết phù hợp,
thiết thực các tình huống phát sinh trong quá trình quản lý.
- Nguyên tắc trách nhiệm và phân công trách nhiệm
Trách nhiệm thể hiện ở sự thống nhất giữa hai mặt: mặt tích cực, ý thức trách
nhiệm của chủ thể quản lý; mặt tiêu cực là khi buộc phải áp dụng các chế tài đối với
người vi phạm pháp luật nhà nước. Trách nhiệm hình thành trên cơ sở của sự tác
động qua lại giữa ba thành tố:
+ ý thức về nghĩa vụ được quy định trong các quy phạm đạo đức và pháp luật.
+ Sự đánh giá hành vi bao gồm sự tự đánh giá của chủ thể và sự đánh giá của

các cấp có thẩm quyền theo tiêu chuẩn pháp lý, đạo đức.
+ Sự áp dụng các chế tài đối với những hành vi lệch lạc
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi người phải trả lời được các câu hỏi: Công việc
mình phải làm là gì? Giới hạn hành động và quyền hành của mình là gì? Phải thuộc
quyền ai?
Phân công trách nhiệm là tổ chức sự uỷ quyền, cho phép tự chủ trong hành động
và quyết định. Phân công trách nhiệm không làm giảm bớt trách nhiệm của người đứng
đầu. Phân công trách nhiệm đòi hỏi phải tổ chức sự phối hợp và kết hợp chặt chẽ.
1.3.1.3. Phương pháp quản lý đào tạo
17
Quản lý ĐT nói chung và quản lý ĐT ở trường Cao đẳng nói riêng sử dụng
hợp lý và có hiệu quả các phương pháp cơ bản như:
- Phương pháp hành chính- tổ chức
Phương pháp hành chính-tổ chức là phương pháp có tính pháp lệnh, bắt buộc
và có tính kế hoạch rõ ràng, là sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý đến đối tượng
quản lý bằng quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh.
- Phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là phương pháp mà chủ thể quản lý tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp (vào đối tượng quản lý) đến thái độ, nhận thức và hành vi nhằm tạo ra
hiệu quả hoạt động của tổ chức, của các cá nhân.
- Phương pháp tâm lý-xã hội
Phương pháp tâm lý-xã hội là cách thức tạo ra những tác động vào đối tượng
quản lý bằng các biện pháp lôgic và tâm lý xã hội, nhằm biến những yêu cầu do
người lãnh đạo, quản lý đề ra thành nhu cầu tự giác bên trong của người thực hiện.
- Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế là cách thức tác động gián tiếp lên đối tượng quản lý
bằng cơ chế kích thích tạo ra sự quan tâm nhất định tới lợi ích vật chất để con người
tự mình điều chỉnh hành động nhằm hoàn thành nhiệm vụ, hoặc tạo ra những điều
kiện để lợi ích các nhân, tập thể phù hợp với lợi ích chung.
1.3.2. Tổ chức quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ

1.3.2.1. Học chế tín chỉ và đào tạo theo HCTC
* Thế giới hiện đại luôn công nhận tầm quan trọng của giáo dục Đại học, nơi
sinh viên tiếp thu kiến thức và kỹ năng thông qua các chương trình học được sắp xếp
có hệ thống. Thế giới đang trong tiến trình tìm tiếng nói chung ở các chương trình
học, nơi SV có thể chuyển đổi từ hệ thống giáo dục này sang hệ thống giáo dục khác
mà không gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, các nhà giáo dục, khoa học, chuyên
môn và quản lý nhà nước lẫn giáo dục Đại học đang cố gắng lập ra một không gian
giáo dục thống nhất để SV có thể tiếp thu càng nhiều kiến thức càng tốt. Với mục
đích đó, một hệ thống được gọi là ‘hệ thống chuyên đổi tín chỉ' được xây dựng và
phát triển ở nhiều nước trên thế giới.
18
Việc chuyển đổi ĐT theo HTTC là xu hướng của đổi mới giáo dục Đại học
tiên tiến. Người học với vai trò trung tâm của mình hoàn toàn chủ động việc học,
người dạy cần phải nâng cao năng lực chuyên môn theo phổ rộng để đáp ứng việc
khối lượng kiến thức ngày càng phong phú khi lên lớp. Quan trọng hơn cả là cách
làm này sẽ đem lại hiệu quả tích cực, đó là nâng cao chất lượng ĐT nguồn nhân lực.
* Đào tạo theo HCTC là một hình thức ĐT hướng đến tính năng động và
quyền lợi của người học, được cụ thể hóa bằng quy chế 43 của Bộ GD-ĐT và Thông
tư Số: 57/2012/TT-BGDĐT ngày 27 tháng 12 năm 2012 “Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Quy chế ĐT Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo HCTC ban hành kèm
theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo” triển khai ở một số trường ĐH trong thời gian gần đây.
Hiện nay đã có nhiều trường trường áp dụng việc ĐT theo HCTC. Việc chuyển đổi
này là một bước chuyển quan trọng và mang tính tất yếu trong ĐT Cao đẳng, Đại
học, phù hợp xu thế hội nhập khu vực và quốc tế.
Việc áp dụng hệ thống ĐT theo tín chỉ phản ánh quan điểm lấy người học làm
trung tâm, người học là người tiếp nhận kiến thức nhưng đồng thời cũng là người chủ
động tạo dựng kiến thức, hướng tới đáp ứng những nhu cầu của thị trường lao động
ngoài xã hội. Nó cho phép người học chọn trong số những môn học được thiết kế
trong chương trình, nhiều trong số những môn học đó có thể thay thế được với nhau

và có tác dụng tương đồng.
Trong phương thức ĐT theo tín chỉ, tự học, tự nghiên cứu của SV được coi
trọng được tính vào nội dung và thời lượng của chương trình. Đây là phương thức giúp
người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của người dạy, và do vậy
phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Bên cạnh đó, chương trình của
phương thức ĐT theo tín chỉ rất mềm dẻo và linh hoạt. Chương trình được thiết kế theo
phương thức đào tạo tín chỉ bao gồm một hệ thống những môn học thuộc khối kiến
thức chung, những môn học thuộc khối kiến thức chuyên ngành, những môn học thuộc
khối kiến thức cận chuyên ngành. Mỗi khối kiến thức đều có số lượng những môn học
lớn hơn số lượng các môn học hay số lượng tín chỉ được yêu cầu; SV có thể tham khảo
GV hoặc cố vấn học tập để chọn những môn học phù hợp với mình, để hoàn thành
19
những yêu cầu cho một văn bằng và để phục vụ cho nghề nghiệp tương lai của mình.
Ngoài ra, trong phương thức đào tạo theo tín chỉ SV được cấp bằng khi đã tích lũy
được đầy đủ số lượng tín chỉ do nhà trường quy định, do vậy họ có thể hoàn thành
những điều kiện để được cấp bằng tùy theo khả năng và điều kiện của bản thân…
Đào tạo theo HCTC có những đặc điểm cơ bản sau:
1. Kiến thức được cấu trúc từng học phần. Quá tình học tập là sự tích lũy kiến
thức của người học theo từng học phần;
2. Đào tạo theo HCTC mềm dẻo, có tính liên thông, tức là đảm bảo kết nối các
môn học theo các phương pháp được thừa nhận, còn có phần tự chọn để sinh viên có
điều kiện tích lũy thêm tín chỉ và định hướng chuyên môn nghề nghiệp cho bản thân;
3. Sinh viên chủ động xây dựng chương trình và kế hoạch học tập theo điều
kiện cá nhân của mình;
4. Lớp học được tổ chức theo từng học phần;
5. Hệ thống tín chỉ gắn liền với việc phân chia các loại môn học theo logic
khoa học;
6. Định kỳ, nhà trường có kế hoạch xem xét lại chương trình học theo hoàn
cảnh thực tế, môn học nào cần thiết, hữu dụng thì giữ lại, môn học nào lạc hậu, không
phù hợp thì sửa đổi hoặc loại bỏ;

7. Không thi tốt nghiệp, có thể không tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nghiệp với
các chương trình Cao đẳng và Đại học…
Từ những đặc điểm cơ bản, ĐT theo HCTC cho thấy:
- Có hiệu quả cao: HCTC cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích lũy kiến
thức và kỹ năng của SV để dẫn đến văn bằng, SV được chủ động thiết kế kế hoạch
học tập cho mình, tính liên thông giữa các cấp ĐT và giữa các ngành ĐT khác nhau,
khuyến khích SV từ nhiều nguồn khác nhau có thẻ tham gia học một cách thuận lợi;
- Có tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao: Với HCTC, sinh viên có thể
chủ động ghi tên học các học phần khác nhau đựa theo những quy định chung về
cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực kiến thức, SV dễ dàng thay đổi ngành
chuyên môn trong tiến trình học tập khi thấy cần thiết mà không phải học lại từ
đầu, các trường Đại học có thể mở thêm các ngành học mới một cách dẽ dàng khi
20
nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và tình hình lựa chọn
ngành nghề của SV.
- Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành ĐT: Có thể tổ chức những
môn học chung cho SV nhiều trường, nhiều khoa, tránh các môn học trùng lặp ở
nhiều nơi; ngoài ra SV có thể học các môn học lựa chọn ở các khoa khác nhau. Cách
tổ chức như vậy cho phép sử dụng được đội ngũ GV giỏi nhất và phương tiện tốt nhất
cho từng môn học, ngành học…
1.3.2.2. Những quy định trong tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ
Tổ chức đào tạo theo HCTC được quy định tại Quy chế 43 và Thông tư 57
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, nội dung cơ bản như sau:
a. Học phần và Tín chỉ
- Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh
viên tích luỹ trong quá trình học tập. Phần lớn học phần có khối lượng từ 2 đến 4 tín
chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều trong một học kỳ. Kiến
thức trong mỗi học phần gắn với một mức trình độ theo năm học thiết kế và được kết
cấu riêng như một phần của môn học hoặc được kết cấu dưới dạng tổ hợp từ nhiều
môn học. Từng học phần được ký hiệu bằng một mã số riêng do trường quy định. Có

hai loại học phần: học phần bắt buộc và học phần tự chọn.
+ Học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính
yếu của mỗi chương trình và bắt buộc SV phải tích lũy;
+ Học phần tự chọn là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức cần
thiết, nhưng SV được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hoá hướng
chuyên môn hoặc được tự chọn tuỳ ý để tích luỹ đủ số tín chỉ qui định cho mỗi
chương trình.
- Tín chỉ được sử dụng để tính khối lượng học tập của sinh viên:
+ Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành,
thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận,
bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp.
+ Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu
được một tín chỉ SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
+ Nhà trường có quy định cụ thể số tiết, số giờ đối với từng học phần.
“Tín chỉ học tập” trong hình thức ĐT theo tín chỉ được xem là một đại lượng đo
toàn bộ thời gian bắt buộc của một SV bình thường để học một môn học cụ thể, bao
gồm thời gian lên lớp; thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc
21
khác đã được quy định ở thời khóa biểu và thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu,
giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài Đối với các môn học lí thuyết một tín chỉ là
một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị bài) trong một tuần và kéo dài trong một học kì
15 tuần; đối với các môn học ở phòng thí nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1
giờ chuẩn bị); đối với các môn tự học, ít nhất là 3 giờ làm việc trong một tuần. “Tín
chỉ” là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức, kĩ năng của một môn học mà người
học cần phải tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định thông qua các hình thức:
Học tập trên lớp; Học tập trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc
khác (có sự hướng dẫn của GV); và Tự học ngoài giờ lên lớp như đọc sách, nghiên
cứu, giải quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài v.v. Tín chỉ còn được hiểu là khối lượng lao
động của SV trong một khoảng thời gian nhất định trong những điều kiện học tập tiêu
chuẩn. Trên cơ sở đó, dạy - học theo tín chỉ được tổ chức bằng ba hình thức: lên lớp,

thực hành, và tự học. Trong ba hình thức tổ chức dạy - học này, hai hình thức đầu được
tổ chức có sự tiếp xúc trực tiếp giữa GV và SV (GV giảng bài, hướng dẫn, SV nghe
giảng, thực hành, thực tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên, v.v.), hình thức thứ ba
không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa GV và SV (GV giao nội dung để SV tự học, tự
nghiên cứu, tự thực hành). Ba hình thức tổ chức dạy - học này tương ứng với ba kiểu
giờ tín chỉ: giờ tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ tín chỉ tự học. Trong đó,
một giờ tín chỉ lên lớp bao gồm 1 tiết (50 phút) GV giảng bài và 2 tiết SV tự học, tự
nghiên cứu ở nhà; một giờ tín chỉ thực hành bao gồm 2 tiết GV hướng dẫn, điều khiển
và giúp đỡ SV thực hành, thực tập và và 1 tiết SV tự học, tự chuẩn bị; và một giờ tín
chỉ tự học bao gồm 3 tiết SV tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành theo những nội dung
GV giao và những gì SV thấy cần phải nghiên cứu hoặc thực hành thêm (tùy thuộc
điều kiện cụ thể). Trong ba hình thức tổ chức dạy - học ấy, cụ thể là trong ba kiểu giờ
tín chỉ ấy, lượng kiến thức SV thu được có thể khác nhau nhưng để thuận tiện cho việc
tính toán (giờ chuẩn cho GV, kinh phí cho từng môn học, điều kiện phương tiện phục
vụ cho dạy - học, v.v.), ba kiểu giờ tín chỉ này được coi là có giá trị ngang nhau. Ngoài
ra, khác với phương thức ĐT theo niên chế, phương thức ĐT theo tín chỉ xem tự học
như là một thành phần hợp pháp trong cơ cấu giờ học của SV, cụ thể: Ngoài việc nghe
giảng và thực hành trên lớp, SV được giao những nội dung để tự học, tự thực hành, tự
22

×