LỜINÓIĐẦU
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội
và tư duy con người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế,chẳng hạn như cung
cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, từng công
ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá….Mâu thuẫn tồ
tại khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn
hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong
cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn nay mất đi thì mâu thuẫn
khác lại hình thanh….
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do đảng khởi xướng và lãnh đạo đã
dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong
việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những
chuyển biến đóđãđạt nhiều thành công to lớn nhưng trong những thành công
đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển của công cuộc
đổi mới. đỏi hỏi phải được giải quyết và nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của nền kinh tế, quan
điểm lý luận cũng những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn
đề chính trị – xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc
chuyển nền kinh tế nên em chọn “Mối quan hệ xây dựng Mâu thuẫn biện
chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở việt nam” làm đề tài cho tiểu luận triết học Mác – Lê
nin
1
LÝLUẬNCHUNG
Tất cả các sự vật , hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt
trái ngược nhau. Trong nguyên tử cóđiện tử và hạt nhân, trong sinh vật
cóđồng hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầuhàng và tiền…
những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối
lập: ởđây tôi chia làm 4 phần.
+Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
+Sự thống nhất vàđấu tranh của các mặt đối lập.
+Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
+Các mặt mâu thuẫn.
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
Đối lập với các quan điểm của triết học cũ , phép biện chứng duy vật
khẳng định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách
quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn .sự hình thành và phát triển của
mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật ,hiện tượng
quy định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất cứ hiện tượng siêu
nhiên nào, kể cảý chí của con người. Mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều
là một thể thống nhất các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược
chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá,
bài trừ và phủđịn lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình
vận động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã
hội và tư duy của con người. Khoa học tự nhiên hiện đại chứng minh rằng
thế giới vi mô là sự thống nhất giữa những thực thể cóđiện tích trái dấu, hạt
và trường, hạt và phản hạt. Trong sinh học có hấp thụ và bài tiết, di truyền
và biến dị. Xã hội loài người có những mâu thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng; giữa các giai cấp đối kháng giữa chủ nô và nô lệ, nông dân
vàđịa chủ, tư sản và vô sản. Hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng mang tính
2
phổ biến, chẳng hạn như cung và cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch
hoá của từng xí nghiệp, Công ty với tính vô chính phủ của nền kinh tế hàng
hoá,…Trong tư duy của con người cũng có những mâu thuẫn như chân lý và
sai lầm,…
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật mới xuất hiện cho tới khi sự vật kết
thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có
thể có nhiều mâu thuẫn, vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối
lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành. Ăngghen chính sự
vận động đơn giản nhất của vật chất cũng là một mâu thuẫn. Vật chất tồn tại
ở hình thức vận động cao hơn, mâu thuẫn càng rõ nét hơn. Nó gắn liền với
sự vật, xuyên suốt quá trình phát sinh phát triển và diệt vong của sự vật. Đó
chính là những thuộc tính quy định tính khách quan và phổ biến của mâu
thuẫn.
2. Sựđấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất:
Trong phép biện chứng duy vật, khái niêmk mặt đối lập là sự khái
quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau cùng tồn tại
trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Do đó cần
phân biệt rằng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng thành mâu thuẫn.
Bởi vì trong cùng một sự vật hiện tượng khách quan không chỉ tồn tại hai
mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm cùng tồn tại nhiều mặt đỗi lập. Chỉ
có mặt đối lập là cùng tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một
chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, phủđịnh và
chuyển hoá lẫn nhau(sự chuỷen hoá này trở thành nguồn gốc động lực, đồng
thời quy định bản chất khuynh hướng phát triển của sự vật) thì có hai mặt
đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn. “ Thống nhất” của hai
mặt đối lập được hiểu không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào
nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng
buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại
của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành
3
sự vật thị nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất
của các mặt đối lập làđiều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất
kỳ sự vật hiện tượng nào.
Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo
nên.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất- quan hệ sản xuất trong phương thức sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phát triển.
Hai điểu kiện này chính làđiểu kiện tiền đề cho sự phát triển của phương
thức sản xuất. Nhưng trong quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau.
- Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ
các mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Thứ hai: Đó phải là một khái niệm “ động” phản ánh được trạng thái
biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ của quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
- Thứ ba: Đó phải là một khái niệm cóý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý
nghĩa nhận thực, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất được coi là thoảđáng phải có tác dụng định hướng, chỉđạo cho việc
xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù
hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tượng đối. Bản
thân nội dung khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất
của các đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sựđối
lập.
Đấu tranh các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật hiện tượng
không tách rời đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập
cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng
4
không nằm yên bên nhau màđiểu chỉnh chuyển hoá, bài trừ, phủđịnh lẫn
nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sựđấu tranh chuyển
hoá, bài trừ, phủđịnh lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp cóđối
kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc
hậu kìm hãm nó diễn ra quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các cuộc cách
mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết nó một
cách căn bản.
Sựđấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiểu giai đoạn.
Thông thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung
khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải
bất kỳ sự khác nhau nào cũng được coi là mâu thuẫn, chỉ có những khác
nhau cùng tồn tại trong cùng một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát
triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì
hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối
lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến
thành độc lập, sự vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Sau khi giải quyết
được mâu thuẫn sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới
đấu tranh chuyển hoá thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật
mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật
biến đổi không ngừng từ thấp lên cao. Chính vì vậy, Lênin khẳng định “sự
phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất vàđấu tranh của các mặt
đối lập, Lênin chỉ ra rằng: “ mặc dù thống nhất chỉ làđiều kiện để sự vật tồn
tại với ý nghĩa là chính nó- nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà
chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan.
Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh
giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục
5
trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định ,
cũng như chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết “ sự thống nhất ( phù hợp,
đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là cóđiều kiện, tạm
thời, thoáng qua trong tương đối. Sựđấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động tuyệt đối”.
3. Chuyển hoá của các mặt đối lập:
Không phải bất kỳ sựđấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sựđấu tranh của các mặt đối lập phát triển
đến một trình độ nhất định, hội đủ các điểu kiện cần thiết mới dẫn đến
chuyển hoá giữa chúng, bài trừ và phủđịnh lẫn nhau. Trong giới tự nhiên,
chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong
xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động
cóý thức của con người.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập
chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách dơn giản máy móc. Thông thường thì mâu
thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối
lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu
tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để
thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ
sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những
thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sựđấu tranh
6
chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến trên thế giới. Mâu thuẫn
được giải quyết, sự vật cũng mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại
nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủđịnh lẫn nhau để
tạo thành sự vật mới hơn. cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan thường xuyên và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn
là nguồn gốc vàđộng lực của mọi quá trình phát triển.
II.
TÍNHTẤTYẾUCỦAQUÁTRÌNHXÂYDỰNGNỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNGỞVIỆTN
AM .
1.Kinh tế thị trường và những đặc điểm :
*Khái niệm “kinh tế thị trường” Có hai ý kiến khác nhau về kinh tế
thị trường :
Một là xem “kinh tế thị trường “ là phương thức vận hành kinh tế lấy
thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người phân
phối các nguồn lực chủ yếu ;lấy lợi ích ,cung cầu thị trường và mua bán
giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. nó là phương thức
tổ chức vận hành kinh tế –xã hội .kinh tế thị trường là phương thức ,phương
tiện ,công cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả .tự nó không mang tính giai
cấp –xã hội , không tốt mà cũng không xấu .tốt hay xấu là do người sử dụng
nó. Quan niệm này kinh tế thị trường là vật “trung tính “;là công nghệ sản
xuất ai sử dụng cũđược .
Hai là xem “kinh tế thị trường “là một quan hệ kinh tế- xã hội-chính
trị ,nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ trị trường .kinh tế thị
trường là một phạm trù kinh tế hoạt động ,có chủ thể của quá trình hoạt
động đó ,có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động .trong xã hội có
giai cấp ,chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không phải là cái nhân
riêng lẻ ,đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự tác động qua
7
lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay
giai cấp này; có hại cho tầng lớp hay giai cấp khác. Cho nên, kinh tế thị
trường có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định. Không thể nhấn mạnh chỉ
một mặt trong hai mặt đó.
Kinh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao, đỉnh cao nhất
trong sự phát triển của nóở giai đoạn đã qua đạt được trong chủ nghĩa tư
bản, được xã hội đó sử dụng triệt để. Đó là cơ sởđể trước đây nhiều người
đồng nhất nền kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đóđược
củng cố thêm còn do quáư trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, hầu
hết các nước Xã hội chủ nghĩa đều kỳ thị với kinh tế thị trường, tuyệt đối
hoá nền kinh tế kế hoạch mang tính tập trung quan liêu. Do vậy có sựđối lập
giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội. Kết quả nghiên cứu lý luận và
hoạt động thực tiễn trong những năm gần đây đã cho phép khẳng định rằng,
nền kinh tế của thời kỳ quáđộ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế thị
trường. Sự ra đời và tồn tại của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quáđộ
trước hết và chủ yếu do trong thời kỳ này còn tồn tại nhiều thành phần kinh
tế, do có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh ngay trong một
thành phần kinh tế, do còn có sự phân công lao động… làm cho các đơn vị
kinh tế trở thành những người sản xuất hàng hoá và những người kinh doanh
hàng hoáđộc lập( hoặc tương đối độc lập). Vì th, trong nền kinh tế nhất định
sẽ hình thành quan hệ hàng hoá và trao đổi hàng hoá, làm cho nền kinh tếđó
vận hành trong môi trường kinh tế thị trường.
2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
trong quá trình phát triển của nền kinh tếđất nước.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho
thấy, mô hình phát triển nền kinh tế thị trường có sựđiều tiết vĩ mô từ trung
tâm, trong bối cảnh ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, vềđại
thể có thểđáp ứng những thách thức của sự phát triển.
8
Nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là
nội dụng của công cuộc đổi mới mà hơn thế nưa còn là công cụ, là phương
thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH.
Nền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nóđang trong giai đoạn quáđô,
chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do
vậy, những đặc điểm của giai đoạn quáđộ trong nền kinh tế nước ta, đương
nhiên là một vấn đề rất cóý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận
thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quáđộ, chi phối những
đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan nóng vội, duy ý
chí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc,sao chép, chấp nhận
nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào.
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung , bao cấp, mọi chức
năng kinh tế- xã hội của nền kinh tếđều được triển khai trong quá trình kế
hoạch hoáở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt
động của sản xuất lưu thông, phân phối… khá nặng nề, ở nước ta trước đây,
chếđộ hạch toán, trên thực tế còn nặng về hình thức. Lợi ích kinh tế, đặc biệt
là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã
hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của nền kinh tế nhìn
chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từđại hội Đảng lần thú VI (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi
mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định
hướng Xã hội chủ nghĩa. Vàđiều đó cóý nghĩa là chúng ta đãđạt được những
thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta “ điều
chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan nịêm về chủ nghĩa xã hội ngày
càng cụ thể: đường lối chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ
khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định
cũng gián tiếp khả năng của nền kinh tế thị trường trong việc năng động
hoá nền kinh tếđất nước.
9
Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết là một quan hệ kinh tế – xã
hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất gắn liền với thị trường, tức là gắn
chặt với quan hệ hàng hoá- tiền tệ, với quan hệ cung- cầu … Trong nền kinh
tế thị trường , nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội quan hệ
hàng hoá.
Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương
đối thuần nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì nay, cùng với
thành phần sở hữu chủđạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức
sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận hành của nền
kinh tế, không hẳn đãđồng bộ với nhau, đôi khi chúng còn có mâu thuẫn với
nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế,
có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế
thị trường.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước
đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tếđãđem
lại những kết quả tích cực cả về phượng thức, trên thực tếđãđem lại những
kết quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và phương diện nhận thức.
Mỗi hành trang cóý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta
sản xuất hàng hoá cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, hiện đãđược chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH. Với
tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để các cộng đồng
mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan
và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường là căn
cứ, vừa làđối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ môđối với
thị thường, một mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị
trường thống nhất- thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường
thếgiới- mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng
định khả năng và vai trò của mình trong thị trường.
10
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng
ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nóđối với sự vận động của đởi
sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tếđương nhiên là một mục tiêu của phát
triển xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội.
Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với xã hội. Do vây,
những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng CNXH với
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế thị
trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa.
3. Định hướng xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay.
Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đạt trình độ kinh tế thị trường phát triển với đặc
trưng:
- Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ :thị trường hàng hoá và
dịch vụ ;thị trường công nghệ , các dịch vụ thông tin ,tư vấn ,tiếp thị , pháp
lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, bảo lãnh; thị trường sức lao
động; thị trường lao động, thị trường khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thị
trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán …. Tất cả các
loại thị trường đó liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ.
Hệ thống này trở thành đầu mối mọi tác động qua lại của hoạt động kinh tế-
xã hội.
- Mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng (bao gồm xí nghiệp, tập đoàn
xã hội và cá nhân) và là chủ thể của thị trường, tham gia hoạt động của thị
trường và cạnh tranh với nhau.
- Việc vận hành kinh tế-xã hội được thực hiên trong sự kết hợp giữa
đường lối chủ trương, chính sách, kế hoạch …. Với việc sử dụng các loại
tín hiệu kinh tế mà thị trường cung cấp, việc lưu thông tài nguyên được điều
tiết bởi thông tin thị trường và kế hoạch cân đối sản xuất.
11
- Dựa trên quy luật thị trường thống nhất mà hình thành một trật tự
thị trường, sản xuất xã hội lưu thông, phân phối và tiêu dùng với sự liên hệ
vàđiều tiết của đầu mối thị trường, hình thành mạng lưới sản xuất xã hội có
trật tự.
- Dựa vào đường lối, hiến pháp, pháp luật và quy luật vận hành của
kinh tế thị trường, chính phủ thực hiện việc điều chỉnh và khống chế vĩ mô
cần thiết, hữu hiệu; vận hành chính sách kinh tế, pháp luật kinh tế,chỉđạo kế
hoạch và phương pháp hành chính cần thiết để hướng dẫn sự phát triển của
kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế –xã
hội ,không vì thế mà “kinh tế thị trường” là tất cả. thực tếđổi mới 12 năm
qua cho thấy ,bên cạnh tác động tích cực là cơ bản,những tác động tiêu cực
do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt
trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống. Không xem trọng cuộc đấu
tranh nhằm hạn chế; khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường, không làm rõ giới hạn cần có của lĩnh vực có thể “thị trường hoá”
cũng là chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
*Về nội dung dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh
tế và nội dung khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay,có thể suy ra đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: mọi thành phần kinh tếđều bình đẳng trước
pháp luật; nền kinh tếấy lấy các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và
sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế nhà nước làm chủđạo; lấy việc thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh làm mục
tiêu. Muốn vậy nền kinh tế
ấy phải đảm bảo:
- Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định
- Giải quyết vấn đề công bằng xã hội phù hợp từng bước với sự tăng
trưởng kinh tế;.
12