Tải bản đầy đủ (.pptx) (16 trang)

PPT Hoàng Lê nhất thống chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.62 KB, 16 trang )

Phân tích hình ảnh Quang Trung trong Hồng Lê nhất thống chí qua
hồi thứ 14
Dàn ý
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái qt về Hồng Lê nhất thống chí của Ngơ Gia Văn
Phái
- Giới thiệu chung về hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ ở hồi 14.
b. Thân bài:
- Con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán.
+ Nghe tin giặc chiếm thành Thăng Long, Quang Trung định thân chinh
cầm quân đi ngay.
+ Chỉ trong vịng hơn một tháng lên ngơi Hồng đế, đốc xuất đại binh ra
Bắc gặp gỡ người Cống Sỹ ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân lính và mở cuộc
duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sỹ, định kế hoạch hành quân, đánh
giặc và cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
- Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén.
+ Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan
chiến lược giữa ta và địch.
+ Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đốn và dùng người thể hiện qua
cách xử trí với các tướng sỹ ở Tam Điệp …
- Ý chí quyết chiến, quyết thắng và tầm nhìn xa trơng rộng.
- Tài dùng binh như thần.
+ Cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung làm cho giặc phải kinh
ngạc…
+ Vừa hành quân vừa đánh giặc
- Hình ảnh lẫm liệt trong chiến trận.


Hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung qua
hồi thứ 14 của tác phẩm“Hồng Lê nhất thống chí của
Ngơ Gia Văn Phái.


Bài làm
Quang Trung - Nguyễn Huệ là một người anh hùng rất tài
giỏi, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Với thiên tài quân sự
của mình Người đã đánh tan ba mươi vạn quân Thanh xâm lược,
khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã, góp phần đem
lại những mốc son vàng chói lại cho lịch sử Việt Nam. Hình tượng
vua Quang Trung đã được miêu tả với đầy đủ những phẩm chất
của một vị anh hùng, mang vẻ đẹp oai phong lẫm liệt . Qua hồi
thứ mười bốn trong tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí"
của nhóm Ngơ gia văn phái hiện lên với khí phách hào
hùng, trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người mãi mãi
là hình ảnh đẹp trong những trang lịch sử chói ngời của
dân tộc.


Trước tiên, chúng ta bắt gặp ở Quang Trung Nguyễn Huệ: một con người có hành động mạnh mẽ,
quyết đốn và có trí tuệ sáng suốt, sâu xa, nhạy bén.
Khi nghe tin giặc đánh chiếm đến tận Thăng Long, không hề
nao núng mà quyết định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng
Người đã nghe theo lời khuyên của tướng sĩ, cho lập đàn ở núi
Bân tế cáo trời đất cùng các thần sơng, thần núi lên ngơi
hồng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Việc vua tế cáo trời đất,
lên ngôi hồng đế nhằm thu phục lịng dân và có danh nghĩa
ra Bắc dẹp giặc. Tiếp đó, nhà vua đốc xuất đại binh ra Bắc,
trên đường đi Người làm biết bao việc: vừa gặp gỡ Nguyễn
Thiếp, người cống sĩ ở huyện La Sơn hỏi ý kiến vừa tuyển
quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An phủ dụ tướng
sĩ, định kế hoạch hành quân đánh giặc. Lời phủ dụ quân lính
của Ngài thật sâu sắc và thấm thía:
“Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để đen răng
Đánh cho chúng chích luân bất phản


Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ...”
Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn, ý tứ phong phú, sâu
xa có tác động kích thích lịng u nước và truyền thống quật
cường của dân tộc. Ngay sau đó vua họp với tướng sĩ để lên kế
hoạch đối phó quân Thanh. Bằng những cách khéo léo của
mình, Ngài đã khơi dậy được lịng căm thù giặc và sự kính trọng
của những người lính mong muốn được chiến đấu cho tổ quốc.
Sự sáng suốt của Ngài còn được thể hiện trong việc biết nhìn
nhận và đánh giá khả năng của từng tướng lĩnh, xem xét họ là
những người như thế nào, để họ có cơ hội giúp sức cho tổ
quốc. Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang
Trung với Sở và Lân ta thấy rõ: Vua rất hiểu việc rút quân của
hai vị tướng giỏi này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng”
nhưng vua hiểu họ, sức mình ít không địch nổi đội quân hùng
tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về
Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vì vậy Sở và Lân không bị


được ngợi khen. Đó chính là cái tài của một nhà lãnh đạo
quân sự, một nhà mưu lược tài ba.
Bên cạnh đó, Quang Trung - Nguyễn Huệ cịn là
người có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trơng rộng.
Mới khởi binh nhưng Người đã lường trước những khả năng có
thể xảy ra. Hẹn mồng 7 tháng giêng vào Thăng Long ăn mừng:
"Phương lược đã tính sẵn... mười ngày sẽ đuổi được người

Thanh". Sau đó, vua Quang Trung cịn tính kế hoạch ngoại giao
sau chiến tranh đối với một nước "lớn gấp mười lần mình” để
có thể dẹp binh đao để cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực
lượng. Qua việc phân tích tình hình ta, địch, việc chuẩn bị kế
hoạch có thể khẳng định Quang Trung là con người có tài trí
sáng suốt. Đó là điều cần thiết ở một đấng minh qn mà
khơng phải ai cũng có được.
Khơng những thế Người cịn là bậc kỳ tài trong việc
dùng binh. Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy
đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Vừa hành quân, vừa
đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch: ngày 25


tháng chạp xuất quân ở Phú Xuân (Huế). Ngày 29 tháng chạp ra
đến Nghệ An: duyệt binh, phủ dụ quân lính. Ngày 30 tháng chạp
đã ra đến Tam Điệp cách Huế 500 km. Tối 30 tháng chạp lập tức
lên đường ra Thăng Long. Ngày 03 tháng giêng tới làng Hà Hồi,
hạ đồn Hà Hồi. Chiều mùng 5 tháng giêng năm Kỉ Dậu, đoàn quân
đã tiến vào kinh thành Thăng Long (trước đó, Quang Trung đã
định liệu là ngày mùng 7, như vậy là vượt kế hoạch hai ngày).
Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề cũng
là do tài tổ chức của người cầm quân. Quang Trung cùng với đội
quân của mình đánh dấu thêm mốc son chói lọi trong những trang
lịch sử hào hùng của dân tộc.
Ngịi bút trần thuật như thần làm hình ảnh vị vua xung trận
giữa làn đạn, cưỡi voi tả đột hữu xung, áo bào đỏ đã sạm đen
khói súng thực là oai phong, lẫm liệt.Nhà vua thân chinh cầm
quân, đóng vai trò là tổng chi huy chiến dịch thực sự, hoạch định,
phương lược tiến đánh, tổ chức quân sự từ thống lĩnh một mũi
quân tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xơng pha tên đạn. Dưới sự

lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy áo vải, quân Tây Sơn đã đánh


trận thật lẫy lừng: Bắt sống quân do thám ở Phú Xuyên để giữ bí
mật, tạo bất ngờ; vây kín làng Hà Hồi, quân lính vây quanh dạ
ran làm cho lính trong đồn sợ hãi đều xin hàng; cơng phá đồn
Ngọc Hồi lấy ván ghép quấn rơm ướt để tránh tên lửa của
địch”... Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù khiếp vía.
Tóm lại, qua hồi thứ 14 của tác phẩm“Hồng Lê nhất
thống chí” của Ngơ Gia Văn Phái hình tượng người anh
hùng áo vải Quang Trung được xây dựng chân thực, sinh
động. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của
người anh hùng áo vải không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất
quỷ, nhập thần” mà còn là một vị tướng giàu lòng yêu nước, có ý
thức dân tộc hết sức sâu sắc. Dù có cảm tình với nhà Lê các tác
giả vẫn thể hiện sự tôn trọng sự thật lịch sử và ý thức dân tộc.
Chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao
của cả dân tộc. Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ mãi mãi được
kính phục, yêu mến trong lòng người Việt Nam.


1. MỞ BÀI:
Giới thiệu khái quát về Ngô Gia văn phái và “ Hồng Lê nhất thống chí”: Tác phẩm đã tái hiện
một lịch sử hào hùng và oanh liệt của dân tộc Việt Nam xưa.
-Sự thảm hại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
2. THÂN BÀI

a. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh.
- Đối lập với hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn là chân dung của kẻ thù xâm lược. Kéo quân vào
Thăng Long rất dễ dàng, như “đi trên đất bằng” khơng đề phịng gì. Mấy ngày tết chỉ chăm chú

vào yến tiệc, vui chơi, khơng đề phịng cảnh giác.
- Khi quân Tây Sơn tiến công bất ngờ
+ Tướng: Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng n, người khơng kịp mặc áo
giáp…chuồn trước qua cầu phao bỏ trốn, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử
+ Quân: Tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống chết rất nhiều,
sông Nhị Hà tắc nghẽn.
Kể, xen kẽ với tả thực thật cụ thể, chi tiết, sống động, nhịp điệu nhanh, dồn dập, gấp gáp gợi
sự hoảng hốt của kẻ thù. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứng tâm trạng hả hê, sung
sướng của người viết cũng như của dân tộc trước thắng lợi của Sơn Tây.
 Chủ quan khinh địch, kiêu căng, khinh địch và tham sống sợ chết. Một đội quân ô hợp, vô
kỉ luật, yếu hèn trong chiến đấu.
 thất bại thảm hại là điều tất yếu.
b. Số phận thảm hại của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống .
Vì mưu lợi riêng của dịng họ mà đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược.
Chịu đựng nỗi nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin, khơng cịn tư cách của bậc qn vương,
Khi quân Tây Sơn tới , quân Thanh tan rã
- Vội vã rời bỏ cung điện đem mẹ chạy bán sống bán chết theo Tôn Sĩ Nghị, cướp cả thuyền
của dân để qua sông.
- Bị Tôn Sĩ Nghị bỏ rơi. Khi đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ cịn biết “nhìn nhau than
thở, ốn giận chảy nước mắt”.
- Thu nhặt tàn quân sang nhà Thanh.
Thê thảm nhục nhã nhất là vua Lê phải lê thân sang đất Bắc để rồi chịu cái chết băng giá nơi
đất khách quê người
- Đoạn miêu tả vua Lê Chiêu Thống: nhịp điệu chậm hơn, âm hưởng có phần ngậm ngùi, chua
xót.
 thụ động, hèn mạt, từ bỏ dân tộc, gắn vận mệnh mình với kẻ thù, chịu số phận bi thảm của
kẻ vong quốc.
Cuộc tháo chạy của quân Thanh:
- Nhịp điệu nhanh, mạnh, hối hả.
- Ngòi bút miêu tả khách quan, hàm chứa sự hả hê,sung sướng của người thắng trận trước sự

thảm bại của bè lũ cướp nước.
Cuộc tháo chạy của vua Lê
- Nhịp điệu chậm hơn, tác giả dừng lại miêu tả tỉ mỉ những giọt nước mắt thương cảm của
người thổ hào, nước mắt tủi hổ của vua Lê, cuộc tiếp đãi thịnh tình của kẻ bề tơi.
- Âm hưởng có phần ngậm ngùi, chua xót.
3. KẾT BÀI: nêu cảm nghĩ của em về Sự thảm hại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của
vua tôi Lê Chiêu Thống.


Dựa vào đoạn trích hồi thứ 14 của Hồng Lê
nhất thống chí để phân tích hình ảnh bọn giặc
cướp nước, bè lũ bán nước.
Bài làm
Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm "Hồng Lê nhất
thống chí" của nhóm Ngơ gia văn phái của anh hùng
Nguyễn Huệ hiện lên với khí phách hào hùng, trí tuệ
sáng suốt, tài thao lược hơn người mãi mãi là hình
ảnh đẹp trong những trang lịch sử chói ngời của dân
tộc. Bên cạnh đó tác phẩm cịn tái hiện sự thất
bại thảm hại của quân Thanh xâm lược và số
phận nhục nhã, bi đát của bọn vua tơi Lê Chiêu
Thống.
Đối lập với hình ảnh nghĩa qn Tây Sơn là chân
dung của kẻ thù xâm lược. Quân Thanh kéo
sang nước ta cầm đầu là Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh 29


vạn quân vượt núi băng rừng ngày đi đêm nghỉ thẳng
tiến về Thăng Long trong thế thừa thắng dễ dàng như
“đi trên đất bằng”, không hề gặp một sự chống cự

nào của nghĩa quân. Sau khi chiếm được Thăng Long
"không mất một mũi tên, như vào chỗ khơng người".
Chính vì thế Tôn Sĩ Nghị và tướng sĩ vô cùng kiêu
căng, tự mãn, chủ quan: "kiêu căng buông tuồng", là
vô sự, khơng đề phịng gì, chỉ lảng vảng ở bên bờ
sơng, lấy thanh thế suông để doạ dẫm. Bọn tướng tá
chỉ biết "chơi bời tiệc tùng, khơng hề để ý gì đến việc
quân". Hơn nữa y còn là một tên tướng bất tài, cầm
qn mà khơng biết tình hình thực hư ra sao. Dù
được vua tôi Lê Chiêu Thống báo trước, y vẫn khơng
chút đề phịng suốt mấy ngày Tết “chỉ chăm chú vào
việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất
chắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi. Chúng huênh


hoang tuyên bố đầu xuân sẽ kéo quân thẳng đến sào
huyệt của Tây Sơn để "bắt sống không một tên nào
lọt lưới!". Chính người cung nhân cũ của Thái hậu
cũng nhận thấy thái độ chủ quan khinh địch của Tôn
Sĩ Nghị.
Thế nhưng, khi quân Tây Sơn đánh đến nơi. Trước
sức tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ quân
tướng nhà Thanh không kịp trở tay và thất bại thảm
hại, bao đồn giặc bị đánh tơi bời. Khi chạm trán với
quân Tây Sơn, qn Thanh “trơng thấy bóng đã bỏ
chạy”, nhưng chúng vẫn bị quân Tây Sơn “bắt sống
hết, không tên nào trốn thoát”, ởlàng Hà Hồi, bị bao
vây, quân Thanh “ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra
hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết”.
Đồn Ngọc Hồi, trước sức tấn công như vũ bão của



quân ta “quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn,
giày xéo lên nhau mà chết”. Sầm Nghi Đống phải tự tử;
hàng vạn quân giặc phải bỏ mạng ở đầm Mực, Tơn Sĩ Nghị
"sợ mất mật, ngựa khơng kịp đóng yên, người không kịp
mặc giáp chuồng trước qua cầu phao; quân lúc lâm trận ai
nấy đều rụng rời, sợ hãi, xin ra hàng hoặc : "hoảng hồn,
tan tác bỏ chạy tranh nhau chạy, xô đẩy nhau rơi xuống
sông mà chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn
không chảy được”. ”. Cả đội binh hùng, tướng mạnh, chỉ
quen diễu võ dương oai bây giờ chỉ còn biết tháo chạy,
mạnh ai nấy chạy, “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ
ngơi”. Với những chi tiết tả thực thật cụ thể, sống
động, nhịp điệu nhanh, dồn dập, gấp gáp gợi sự
hoảng hốt của kẻ thù, cũng như tâm trạng hả hê,
sung sướng của người viết, của dân tộc trước thắng
lợi của Tây Sơn, và sự thảm bại của lũ cướp nước.


Nhưng khơng dừng lại ở đó, tác giả cịn miêu
tả hình ảnh thê thảm hại của nhục nhã của Lê
Chiêu Thống cùng bè lũ bán nước. Lê Chiêu Thống
và những bề tơi trung thành của ơng ta đã vì lợi ích
riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của cả dân tộc
đặt vào tay kẻ thù xâm lược. Chúng rước quân Thanh
sang tiêu diệt Tây Sơn, nhưng chúng không ngờ quân
Thanh sang xâm lược nước ta, bắt chúng “đương lấy”
việc dẹp quân Tây Sơn, còn quân Thanh chỉ “lảng vảng
ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để mà doạ dẫm

mà thôi”. Lê Chiêu Thống đã thân hành đến doanh trại
để cầu xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân. Đến khi quân tướng
nhà Thanh tháo chạy, Lê Chiêu Thống cùng bè lũ bán
nước cũng chạy lên phía bắc hịng theo gót bọn ngoại
bang, cầu xin sự che chở, trên đường tháo chạy trở


Nghi Tàm, thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá,
vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc". May gặp người thổ
hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy
trốn. Cuộc “hội ngộ” của Thông và Nghị ở cửa ải phía
Bắc càng thể hiện rõ sự thất bại thảm hại của thầy lẫn
tớ. Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần "than
thở, oán giận chảy nước mắt" trông thật bi đát, nhục
nhã. Chết nhưng nết không chừa! Lê Chiêu Thống hứa
“xin sang hầu tướng quân". Trong lời từ biệt, chủ tớ
cũng cịn nói lời sĩ diện hảo, Thống: “xin ở lại đất nước
thu nhặt dân binh, để tính việc nổi lên chuyến khác”.
Nghị thì hứa: “Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc
này cịn chưa thơi”. Nhưng khi sang đến Trung Quốc
không thực hiện được ước vọng lại phải cạo đầu, tết
tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh và cuối cùng gửi
nắm xương tàn nơi đất khách quê người.


Ở đoạn này nhịp điệu chậm hơn đoạn miêu tả bọn cướp
nước, tác giả dừng lại miêu tả tỉ mỉ những giọt nước
mắt thương cảm của người thổ hào, nước mắt tủi hổ
của vua tôi Lê Chiêu Thống, cuộc thiết đãi thịnh tình
“giết gà, làm cơm” của kẻ bề tơi… âm hưởng có phần

ngậm ngùi, chua xót. Là những cựu thần của nhà Lê,
các tác giả không thể không mủi lịng, chua xót trước
sự sụp đổ của một vương triều mà mình từng phụng
thờ, tuy vẫn hiểu đó là kết cục khơng thể tránh khỏi.
Tóm lại, qua hồi thứ 14 của tác phẩm“Hồng Lê
nhất thống chí” của Ngơ Gia Văn Phái, các tác giả
đã xây dựng thước phim tư liệu cụ thể, sinh
động, gây được ấn tượng mạnh tạo nên những
trang văn hào hùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn
chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc ca ngợi sự
chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Tây Sơn,


đồng thời cho thấy được sự thất bại thảm hại
của quân Thanh xâm lược và số phận nhục nhã,
bi đát của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống. Điều đáng
quý của đoạn trích cịn nằm ở sự lan tỏa niềm cảm
hứng với lịch sử nước nhà và những nhân vật lịch sử
cụ thể để thế hệ trẻ quan tâm hơn, tự hào hơn quá
khứ của dân tộc mình.



×