Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Thực trạng về hàng tiêu dùng Việt nam, người tiêu dùng Việt nam, cơ chế chính sách đối với người tiêu dùng và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.64 KB, 40 trang )














THựC TRạNG Về HàNG VIệT NAM,
THựC TRạNG Về HàNG VIệT NAM, THựC TRạNG Về HàNG VIệT NAM,
THựC TRạNG Về HàNG VIệT NAM,


NGƯời tiêu dùng việt nam,
NGƯời tiêu dùng việt nam, NGƯời tiêu dùng việt nam,
NGƯời tiêu dùng việt nam,


cơ chế, chính sách đối với
cơ chế, chính sách đối với cơ chế, chính sách đối với
cơ chế, chính sách đối với


ngời tiêu dùng và những vấn đề đặt ra
ngời tiêu dùng và những vấn đề đặt rangời tiêu dùng và những vấn đề đặt ra
ngời tiêu dùng và những vấn đề đặt ra
















TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

1

THỰC TRẠNG VỀ HÀNG VIỆT NAM, NGƯỜI TIÊU DÙNG
VIỆT NAM, CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong
vòng 80 năm gần đây; nhiều phân tích đã xác định, những năm tới sẽ còn vô
cùng khó khăn. Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Tổ chức Hợp tác
của các nước Phát triển (OECD) đều đưa ra những dự báo bi quan về triển vọng
và cho rằng tình trạng suy thoái sẽ còn tiếp tục ở những nền kinh tế lớn như Mỹ,
Tây Âu và Nhật Bản, còn những nền kinh tế mới nổi Trung Quốc và Ấn Độ tăng
trưởng kinh tế cũng đều giảm sút.
Suy thoái kinh tế thế giới đã và đang làm cho thị trường xuất khẩu hàng

hóa của các doanh nghiệp Việt Nam bị thu hẹp trên thị trường quốc tế. Nhiều
doanh nghiệp phải hạn chế sản xuất và hàng hóa tồn đọng. Điều này kéo theo
những biến động tiêu cực trong nước, dẫn đến hoạt động sản xuất-kinh doanh
trong nước bị đình trệ, thất nghiệp gia tăng, gây hậu quả khôn lường đến đời
sống kinh tế chính trị xã hội ở Việt Nam. Trước yêu cầu đưa nền kinh tế đất
nước vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển nhanh, bền vững, giải quyết tốt
an sinh xã hội, việc hỗ trợ kinh tế và kích cầu tiêu dùng, làm thay đổi nhận thức,
định hướng kinh doanh cho doanh nghiệp trong nước, tạo đà và duy trì tốc độ
tăng trưởng là những vấn đề hết sức quan trọng hiện nay. Tuy nhiên, thị trường
trong nước hiện gặp nhiều khó khăn do lâu nay nhiều doanh nghiệp ít quan tâm
đến thị trường tiêu dùng trong nước và tâm lý "sính ngoại" của người tiêu dùng
Việt Nam hiện vẫn đang ở mức "quá đáng". Nhiều mặt hàng của Việt Nam chất
lượng và giá cả bằng hoặc hơn hàng ngoại, nhưng vẫn không bán chạy bằng
hàng ngoại.
Trước tình hình đó, ngày 31/7/2009, Bộ Chính trị đã ban hành văn bản số
264-TB/TƯ thông báo Kết luận về việc tổ chức cuộc vận động "Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Mục đích của cuộc vận động là nhằm phát
huy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, xây dựng
văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam và sản xuất nhiều hàng Việt Nam có chất
lượng, sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
1. Đặc điểm về hàng Việt Nam và người tiêu dùng Việt Nam
1.1. Đặc điểm về hàng Việt Nam
Cho đến nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau về thế nào là hàng Việt
Nam. Trước cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” của
Bộ chính trị, nhiều nơi đã đưa tiêu chí hàng Việt là hàng: phải sản xuất tại Việt
Nam, xuất xứ tại Việt Nam; chủ doanh nghiệp là người Việt,…Hàm lượng giá
trị gia tăng trong sản phẩm phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đánh giá.
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

2


Hàm lượng này bao nhiêu tùy theo ngành hàng mà xác định. Tuy nhiên, chỉ tiêu
này hiện nay chưa có cơ quan nào hoặc đối tượng nào thẩm định cả.
Sản xuất là gốc của phân phối, của bán buôn, bán lẻ và tiêu dùng xã hội.
Trải qua hơn 20 năm đổi mới được sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các cơ chế
chính sách nhằm phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, cộng với sự nỗ lực của các
doanh nghiệp, hàng Việt Nam đã có nhiều tiến bộ so với thời kỳ bao cấp. Một số
ngành hàng chủ yếu như: Lương thực, thực phẩm, dệt may, tạp phẩm, dụng cụ
gia đình của Việt Nam sản xuất đã có mặt hầu hết ở thị trường nội địa, hàng
hoá có chất lượng khá hơn trước, mẫu mã có cải tiến và đa dạng, một số mặt
hàng đã xuất khẩu sang các nước. Tại các trung tâm thương mại, siêu thị, hàng
Việt chiếm lĩnh từ 80-90%
1
. Hàng loạt các thương hiệu đã được xây dựng, tín
nhiệm với người tiêu dùng Việt Nam như: May 10, Việt Tiến, lụa Thái Tuấn,
bóng đèn phích nước Rạng Đông, màn Tuyn 10-10 Cho dù có nhiều cố gắng,
song trong bối cảnh đất nước đã hội nhập vào khu vực và quốc tế, hàng hoá các
nước đã, đang và sẽ thâm nhập mạnh vào thị trường Việt thì sức cạnh tranh của
hàng Việt phải được nâng cao hơn rất nhiều mới có thế đáp ứng tiêu dùng của xã
hội và chiếm lĩnh được thị trường nội địa.
Tuy nhiên, theo đánh giá chung, hàng hoá do các doanh nghiệp Việt Nam
sản xuất còn có nhiều nhược điểm như: Hàng hoá kém đa dạng phong phú, ít
thay đổi kiểu dáng mẫu mã bao bì, nhãn mác xấu, sản xuất chưa thật sự bám sát
nhu cầu của thị trường. Việc doanh nghiệp bỏ ra kinh phí để nghiên cứu sâu về
sản phẩm còn rất ít, sự sáng tạo trong sản xuất còn khiêm tốn. Chất lượng hàng
hoá của Việt Nam chưa cao, nếu không nói là thấp, độ ổn định kém, các quy
chuẩn mang tính quốc gia, khu vực và quốc tế chưa có nhiều. Do vậy, hàng Việt
Nam dễ bị hàng nhái, hàng giả tấn công làm thiệt hại cho doanh nghiệp sản xuất,
làm mất uy tín của nhà phân phối và gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Hàng hoá sản xuất trong nước ở một số nhóm hàng như: Dệt may, da dày,

đồ nhựa, dụng cụ gia đình phụ thuộc rất lớn vào nguyên phụ liệu nhập ngoại,
do vậy giá cả bấp bênh, không chủ động.
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất trên thiết bị và công nghệ lạc
hậu từ những năm 50-60, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn từ 2-15 lần
so với khu vực và thế giới, do đó chất lượng hàng hoá không cao, dẫn tới khó
cạnh tranh với hàng hoá nhập ngoại của các nước có nền công nghiệp phát triển
tiên tiến. Đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật phục vụ cho sản xuất được đào tạo
chưa đầy đủ, chưa chuyên nghiệp, do vậy ảnh hưởng đến năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm.
Việc xây dựng thương hiệu đăng ký sở hữu trí tuệ các sản phẩm Việt chưa
được coi trọng. Số thương hiệu nổi tiếng ở trong nước còn rất ít, còn lại đa phần

1
Theo báo cáo của Hội Siêu thị thành phố Hà Nội năm 2009
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

3

không có thương hiệu. Trong số các doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam 96% là
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, vốn rất ít.
Một khía cạnh khác cần được đề cập, đó là tính cộng đồng, sự liên kết, hợp
tác giữa các doanh nghiệp Việt với nhau. Đa phần mạnh ai người đó làm, nhiều
khi còn cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp Việt với nhau. Sự
kém liên kết còn thế hiện giữa sản xuất và phân phối bán buôn, bán lẻ để tiêu thụ
sản phẩm. Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam thiếu chiến lược sản
xuất lâu dài và những phương thức tiếp cận thị trường tiêu thụ một cách khoa
học bài bản.
1.2. Đặc điểm về người tiêu dùng Việt Nam
Người tiêu dùng Việt Nam thường có 3 đặc điểm căn bản
2

trong tiêu dùng.
Đó là: Tiêu dùng dựa trên Giá trị; Tiêu dùng Thông minh; và Tiêu dùng có
Trách nhiệm. Hành vi tiêu dùng được phản ánh thông qua văn hoá tiêu dùng của
người tiêu dùng.
1.2.1.Tiêu dùng dựa trên giá trị
Trong nền văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới, người tiêu dùng sẽ không còn
bị động chờ đợi, tìm kiếm những giá trị trong hàng hóa – dịch vụ, mà người tiêu
dùng trở nên chủ động “đặt hàng” với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những
sản phẩm phù hợp những chuẩn mực về giá trị mà mình yêu cầu.
Để chứng minh giá trị một thương hiệu hàng hóa, doanh nghiệp phải làm rõ
đồng thời 3 nội dung mà cộng đồng tiêu dùng có thể chấp nhận và nhận diện
được, Đó là: Chất lượng sản phẩm; Trách nhiệm xã hội; và Văn hóa kinh doanh.
Tiêu dùng dựa trên giá trị là hành vi lựa chọn những sản phẩm, dịch vụ tốt,
bền, giá cả phù hợp, thỏa mãn cao nhất nhu cầu cá nhân của người tiêu dùng.
Nghĩa là tiêu dùng là hoạt động sử dụng giá trị của sản phẩm hay dịch vụ nào đó
để thỏa mãn nhu cầu nhất định của mình.
Khi người tiêu dùng chọn mua “Giá trị trong hàng hóa” cũng đồng nghĩa họ
thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra các giá trị khác. Như vậy, chọn mua sản phẩm tức
là chọn mua doanh nghiệp, vì vậy người tiêu dùng cũng tìm hiểu kỹ doanh
nghiệp trước khi chọn mua sản phẩm.
Một nền văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới theo chủ nghĩa giá trị không chỉ
mang lại lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng, mà còn là động lực mạnh mẽ thúc
đẩy doanh nghiệp không ngừng sáng tạo ra giá trị phục vụ cộng đồng.
Nói cách khác, tiêu dùng có thể tác động đến doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
hàng hóa phù hợp với yêu cầu về giá trị mà tiêu dùng đặt ra. Đồng thời, thông
qua các nội dung cốt lõi của văn hóa tiêu dùng doanh nghiệp tìm thấy con đường

2
Theo báo cáo của Viện Nghiên Cứu Tư Vấn Phát Triển Xã Hội (Trường ĐH Quốc Gia
TP.HCM), năm 2010

TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

4

để định hướng doanh nghiệp phát triển phù hợp kỳ vọng và lợi ích cộng đồng.
Triết lý “Tiêu dùng tạo ra Giá trị” cũng đặt ra vấn đề rất mới về mối tương
quan giữa tiêu dùng và sản xuất kinh doanh: mỗi hành vi tiêu dùng thông qua
doanh nghiệp đều gián tiếp đóng góp giá trị cá nhân vào hệ thống giá trị chung
của xã hội.
1.2.2. Tiêu dùng thông minh
Tiêu dùng thông minh là hành vi tiêu dùng dựa trên tư duy nhận thức, tiêu
dùng những gì mình biết, mình hiểu rõ, tập hợp những thông tin đầy đủ của sản
phẩm, của doanh nghiệp để đưa ra quyết định đúng đắn, không bị tác động của
những người tiêu dùng khác để bảo vệ lợi ích bản thân, cộng đồng và xã hội.
1.2.3. Tiêu dùng có trách nhiệm
Tiêu dùng có trách nhiệm là hành vi tiêu dùng mang tính xã hội cao. Người
tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là biết tiêu dùng những hàng hóa, dịch vụ
thỏa mãn nhu cầu đời sống cá nhân, biết lựa chọn những hàng hóa trong nước
sản xuất mà còn biết lựa chọn hàng hóa của những doanh nghiệp có trách nhiệm
với xã hội, đóng góp cho sự phát triển kinh tế cùng với việc nâng cao chất lượng
cuộc sống của cộng đồng và xã hội. Bên cạnh đó, người tiêu dùng còn biết thể
hiện quyền lực tối thượng của mình đối với những doanh nghiệp có hành vi xâm
phạm đến quyền lợi tiêu dùng, vi phạm pháp luật.
Tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là hưởng thụ. Việc tiêu dùng có trách
nhiệm là một phần không thể tách rời của kinh doanh có trách nhiệm. Chính
khách hàng là nhân tố thúc đẩy các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ thay đổi
quan niệm về thương mại. Chính người tiêu dùng là động lực ủng hộ, định
hướng sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường. Cộng đồng tiêu dùng sẽ
cổ súy tinh thần và phong trào sử dụng sản phẩm sinh thái, thân thiện môi
trường sống của doanh nghiệp và sẽ liên kết lại, chia sẻ thông tin và trừng phạt

những doanh nghiệp làm ăn gian dối, thiếu đạo đức.
Ngoài ra, sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng còn được phản ánh
thông qua các đặc điểm sau:
Tiêu dùng được phân loại theo thu nhập: Đối tượng có thu nhập cao chủ
yếu ở thành thị, mua sắm khá mạnh dạn, nhằm vào hàng hoá có thương hiệu,
chất lượng cao, khối lượng mua sắm lớn, mua nhiều hàng hoá có giá trị cao,
nhiều hàng hoá là hàng nhập khẩu chủ yếu mua tại các siêu thị, trung tâm
thương mại. Đối tượng còn lại có thu nhập trung bình và thấp chủ yếu ở nông
thôn tập trung vào mua sắm hàng lương thực thực phẩm thiết yếu hàng ngày,
nếu có dư dật mới mua sắm thêm các hàng hoá khác, chủ yếu là hàng Việt Nam
và hàng Trung Quốc nhập khẩu tại các cửa hàng lẻ và các chợ.
Tiêu dùng được phân loại theo lứa tuổi: Thanh thiếu niên dưới 35 tuổi mua
sắm nhiều hàng hoá có thương hiệu thường xuyên đổi mới, chạy theo mốt của
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

5

thời đại, nhất là ở thành thị, chuộng hàng ngoại ít quan tâm đến hàng nội địa.
Lứa tuổi trung và cao niên mua sắm khiêm tốn theo khả năng ăn chắc mặc bền,
ít thay đổi, chủ yếu là các hàng may mặc sẵn, hàng nội địa có giá cả vừa phải.
Tiêu dùng được phân loại theo vùng miền: Miền đồng bằng thu nhập khá
hơn mua sắm mạnh dạn hơn. Miền núi chủ yếu tự cung tự cấp, chỉ mua những
sản phẩm không sản xuất được là các nhu yếu phẩm hàng ngày cho gia đình và
cá nhân do thu nhập còn rất thấp và chủ yếu mua bán tại chợ quê, chợ phiên ở
đồng bằng và miền núi.
1.2.4. Người tiêu dùng Việt Nam khó tính
Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam thấp và hơn 70% dân
số sống ở khu vực nông thôn. Nhiều doanh nghiệp cho rằng Việt Nam là một thị
trường dễ tính trong con mắt của các nhà sản xuất. Thực tế, theo tâm lý chung ai
cũng muốn đồ tốt và rẻ. Hiện tại, Việt Nam có 3 xu thế chính. Xu thế phổ biến

nhất ở các vùng nông thôn, xa các trung tâm đô thị, là thích đồ rẻ, không quan
tâm tới thương hiệu cũng như các vấn đề khác. Xu thế thứ 2 là chỉ thích hàng có
thương hiệu, mà phải là thương hiệu ngoại và đắt mấy cũng mua. Còn xu thế thứ
3 là tìm đến các thương hiệu trong nước có tên tuổi, có uy tín và có trách nhiệm
với người tiêu dùng. Chẳng hạn, liên quan đến ngày may mặc, từ năm 1996,
Công ty May 10 đã làm hàng sơ mi cho Pierre Cardin, nhưng phải mất nhiều
năm sau người tiêu dùng trong nước mới biết tới và thích dùng hàng Pierre
Cardin. Từ thực tế, cho thấy rằng người tiêu dùng Việt Nam là những người tiêu
dùng khó tính và khi mua hàng thì đòi hỏi giá sản phẩm không được cao mà chất
lượng lại phải tốt nhất.
1.3. Tình hình tiêu thụ hàng Việt Nam tại thị trường nội địa
Phát triển thị trường nội địa là một trong những giải pháp chiến lược hướng
vào mục tiêu phát triển bền vững, vừa nâng cao mức sống và đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng các tầng lớp dân cư, vừa thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Chính vì vậy mà trong khi hoạch định các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
trong từng thời kỳ, Chính phủ đều rất quan tâm đến mục tiêu nâng cao mức sống
các tầng lớp dân cư và phát triển thị trường nội địa.
Trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề
án "Tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại
nông thôn đến năm 2010" và đã triển khai thực hiện có kết quả. Bước vào kế
hoạch 5 năm 2006-2010, cùng với mục tiêu phát triển rộng và đều khắp thị
trường nội địa, tạo cơ sở cho phát triển xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của các tầng lớp dân cư, Thủ tướng
Chính phủ đã chỉ đạo nhiều Bộ, ngành xây dựng Đề án phát triển thị trường nội
địa đến năm 2010 với tầm nhìn đến năm 2020.
Việc thực hiện các đề án nêu trên với những cơ chế chính sách khuyến
khích và thúc đẩy đồng bộ đã mang lại những kết quả khích lệ. Thị trường nội
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

6


địa đã trở nên sôi động, tổng khối lượng hàng hóa bán buôn và bán lẻ trên thị
trường nội địa tăng đáng kể thời gian qua.
Trong những năm cuối của thời kỳ kế hoạch 2006-2010, cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã làm cho dòng lưu thông hàng hóa trên
thị trường quốc tế thu hẹp, cầu tiêu dùng trên thị trường ngoại thương giảm
mạnh. Các quốc gia đã và đang hạn chế nhập khẩu hàng hóa và hướng mạnh vào
việc phát triển thị trường nội địa, nhằm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra
của nền kinh tế mỗi nước để bù đắp lại sự giảm sút thị trường và sản phẩm xuất
khẩu. Nền kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động mạnh bởi những chính sách này.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ một lần nữa đã chú trọng phát triển thị
trường nội địa, coi đây là giải pháp quan trọng, vừa để tiêu thụ sản phẩm hàng
hóa và dịch vụ, tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, vừa đáp ứng
mục tiêu nâng cao mức sống các tầng lớp dân cư. Chính phủ đã đưa ra nhiều
chính sách, giải pháp để hỗ trợ phát triển thị trường thương mại trong nước, kích
thích tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. Năm 2009, Bộ Công thương đã triển
khai đề án đầu tư 51.000 tỷ đồng để xây dựng và phát triển mạng lưới thị trường
nội địa.
1.3.1. Thực trạng phát triển của thị trường nội địa Việt Nam
Thị trường nội địa luôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát
triển của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, một nước có dân số hơn 90 triệu
người và đang trong giai đoạn tiến tới việc hình thành đầy đủ và đồng bộ thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc phát triển thị trường nội
địa càng có ý nghĩa to lớn.
Thị trường nội địa bao gồm mạng lưới bán buôn và bán lẻ. Hệ thống này
ngày càng phát triển và đa dạng do có sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế bao
gồm: các doanh nghiệp; các tập đoàn kinh tế; các hiệp hội; các công ty đa quốc
gia; hệ thống các cửa hàng bán lẻ, siêu thị, các trung tâm thương mại; người tiêu
dùng,…Hiện nay, cả nước có trên 8.500 chợ các loại; 480 siêu thị và trung tâm
thương mại lớn (trong đó, doanh nghiệp nước ngoài có 26 siêu thị).

Thị trường nội địa giữ vai trò liên kết giữa nhà sản xuất và tiêu dùng, nó tác
động trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng.
Sự phát triển của thị trường nội địa làm cho quá trình chuyển dịch hàng hóa gắn
liền với nhu cầu thực tế của thị trường, giúp cho nhà sản xuất có những điều
chỉnh thích hợp. Việc xây dựng và phát triển thị trường nội địa đã và đang trở
thành nhu cầu bức thiết trong việc ổn định kinh tế.
Từ vai trò và ý nghĩa quan trọng đó, Đảng và Nhà nước đã xác định: “Phát
triển thị trường nội địa là một giải pháp chiến lược hàng đầu hướng vào mục tiêu
phát triển bền vững có tác động nhiều mặt đến thúc đầy sản xuất kinh doanh,
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn dân, nâng cao mức sống và góp phần bảo
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

7

đảm an sinh xã hội”
3
. Trong thời gian qua, chủ trương phát triển thị trường trong
nước để kích thích tiêu dùng nội địa đã được triển khai khá rộng lớn trên cả
nước với sự chỉ đạo điều hành của nhiều bộ, ngành và các cấp từ trung ương đến
địa phương, sự tham gia của các doanh nghiệp và sự đồng thuận của các tầng lớp
nhân dân, nên đã tạo được những kết quả quan trọng.
Nhìn chung, thị trường nội địa đã đạt được những tiến bộ nhất định, được
thể hiện ở các mặt sau đây:
- Thị trường đã được hình thành, từ chỗ bị cắt khúc theo địa giới hành
chính đến nay đã hình thành thị trường tương đối thống nhất, thông suốt trong cả
nước, từ thành thị, nông thôn tới miền núi, hải đảo,… Từ chỗ chỉ có 2 chủ
thể chính tham gia vào thị trường là thương nghiệp quốc doanh và hợp tác
xã buôn bán đến nay thị trường đã có nhiều chủ thể cùng tham gia. Trong đó,
khu vực ngoài nhà nước ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của mình. Giá
cả nhiều mặt hàng đã được hình thành theo quy luật giá trị và cung - cầu hàng

hóa trên thị trường.
- Các chủ thể kinh tế đã được tự chủ trong sản xuất kinh doanh, từ chỗ các
chủ thể tham gia thị trường không có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh
mà chỉ làm theo kế hoạch tập trung và mệnh lệnh của cấp quản lý nhà nước có
thẩm quyền về thương mại đến nay đã dần dần phân định rõ chức năng quản lý
nhà nước về thương mại với chức năng quản lý kinh doanh của các chủ thể tham
gia thị trường. Từ đó, sắp xếp lại các doanh nghiệp thương mại nhà nước theo
hướng tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Còn các cơ quan
quản lý nhà nước chỉ làm chức năng quản lý hành chính về lĩnh vực
thương mại và thị trường.
- Hàng hoá đã đáp ứng được một phần nhu cầu thị trường. Từ chỗ khan
hiếm hàng hóa đến nay trên thị trường nội địa hàng hóa đã dồi dào, phong phú
với giá cả tương đối ổn định, đáp ứng các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong cả
nước cũng như xuất khẩu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã
hội không ngừng tăng cao, cơ cấu lưu chuyển hàng hóa theo các chủ thể tham
gia thị trường có sự thay đổi đáng kể. Cơ cấu lưu chuyển hàng hóa và doanh thu
dịch vụ xã hội của kinh tế nhà nước tuy tăng không mạnh, nhưng kinh tế nhà
nước vẫn giữ vai trò chủ chốt trong lưu chuyển buôn bán, nhất là đối với thị
trường nông thôn và miền núi. Các DNNN vẫn là lực lượng chủ lực thực hiện
các chính sách xã hội về lưu thông hàng hóa, như cung ứng các mặt hàng thiết
yếu thuộc diện chính sách cho đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa và tổ chức
thu mua hàng hóa nông sản cho nhân dân ở vùng đặc biệt khó khăn.
Từ những kết quả đã đạt được, có thể nói rằng, thị trường nội địa Việt Nam
đang khá hấp dẫn. Các doanh nghiệp nước ngoài coi đây là cơ hội kinh doanh
lớn và đang chuẩn bị cho cuộc đổ bộ vào thị trường Việt Nam. Một trong những

3
Thông báo số 264-TB/TƯ ngày 31/7/2009 của của Bộ Chính trị
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013


8

nhân tố chính khiến thị trường nội địa được coi là thị trường có nhiều tiềm năng,
đó là cơ cấu dân số của Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam với dân số trên 90 triệu
người sống trong nước, trong đó khoảng 70% là dân số trẻ. Thu nhập bình quân
đầu người tại Việt Nam hiện nay đã đạt trên mức 1300 USD/người/1 năm. Bên
cạnh đó, sức mua của các tầng lớp dân cư liên tục tăng. Chính sức mua của nhân
dân được kích thích nên đã thúc đẩy thị trường nội địa hoạt động tích cực và sôi
nổi, hiệu quả hơn.
Tại Việt Nam đang hình thành thế hệ khách hàng có sở thích “mua sắm”
ngày càng “sành điệu”. Tỷ lệ tiêu dùng so với GDP của Việt Nam cũng thuộc
loại cao so với các nước trong khu vực. Tỷ lệ này ở Việt Nam hiện nay là trên
70%, trong khi đó Singapore là 55,9%, Malaysia 58,2%, Thái Lan 67,7%. Hơn
nữa, Việt Nam cũng là cửa ngõ để dẫn vào các thị trường Đông Nam Á.
Chính phủ có nhiều chính sách và hành động cụ thể nhằm khuyến khích sự
phát triển của thị trường nội địa. Các gói kích thích kinh tế nhằm tháo gỡ những
khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã
tạo một cú hích và định hướng tiêu dùng nội địa, thúc đẩy mạnh mẽ hơn các
hoạt động kinh doanh, mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường trong nước, kể
cả khu vực nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Năm 2009, Bộ Công thương triển
khai Đề án đầu tư 51 nghìn tỷ đồng để xây dựng và phát triển thị trường nội địa
đã có bước tiến mạnh mẽ. Cùng với đó, thì cuộc vận động “Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam” do Bộ Chính trị phát động, đã tạo nên những động
lực mới cho tiêu dùng nội địa.
Các doanh nghiệp đã tiếp cận và nắm bắt nhu cầu thị trường trong từng
vùng, từng nhóm dân cư, kể cả vùng sâu, vùng xa, vùng có khó khăn về giao
thông và triển khai vận chuyển hàng hóa, mở rộng mạng lưới bán buôn, bán lẻ,
nên tổng mức tiêu thụ hàng hóa tăng lên đáng kể. Đây là một tín hiệu tốt cho
việc tiếp tục phát triển thị trường nội địa khi thị trường xuất khẩu bị thu hẹp do
tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy chưa có con số đánh giá chính thức,

nhưng có thể khẳng định rằng, Chương trình xúc tiến thương mại thị trường năm
2009 cơ bản là thành công. Chưa năm nào nhận thức của cộng đồng về dùng
hàng Việt lại nhiều như thời gian qua. Thực tế cho thấy, hàng trăm lượt
doanh nghiệp đưa hàng về nông thôn, doanh số bán hàng đều ngoài dự kiến
của doanh nghiệp. Qua đó cho thấy đây là thị trường tiềm năng, bảo đảm khả
năng tăng trưởng dài hạn của các doanh nghiệp.
Đến nay, sau hơn 4 năm thực hiện cuộc vận động, thị trường nông thôn
được nhìn nhận chính là nơi tiêu thụ hàng hóa lớn nhất. Bộ Công thương đã phối
hợp cùng Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ Doanh nghiệp (BSA)
chọn thị trường nông thôn làm điểm nhấn nhằm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa.
Những đánh giá của các tổ chức quốc tế về chính sách phát triển thị trường
nội địa Việt Nam cho thấy niềm tin tiêu dùng của dân cư Việt Nam đang rất khả
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

9

quan. Theo đánh giá của Tập đoàn quốc tế Master Card thực hiện khảo sát trong
tháng 10 và tháng 11 năm 2009, trên cơ sở ý kiến phản hồi của 10.623 người
tiêu dùng tiến hành ở 24 nền kinh tế toàn cầu: Chỉ số niềm tin tiêu dùng của Việt
Nam có mức phục hồi cao nhất, dẫn đầu ở mức 90% bằng mức trước khi xảy ra
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tổ chức Nielsen đánh giá về chỉ số niềm tin của người tiêu dùng
công bố tháng 4 năm 2009 thì người tiêu dùng Việt Nam có độ tin tưởng rất lớn
vào thị trường nội địa và việc phát triển thị trường này sẽ giúp Việt Nam thoát
khỏi thời kỳ tuột dốc.
Hãng tư vấn A. T Kearney đánh giá, Việt Nam luôn nằm trong nhóm đầu
các nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất. Đặc biệt trong năm 2008,
Việt Nam đã vượt qua Trung Quốc và Ấn Độ để trở thành thị trường bán lẻ hấp
dẫn nhất thế giới
4

.
Bảng 3: Điểm số và thứ hạng của thị trường bán lẻ Việt Nam
2007 2008 2009 Quốc gia
Điểm số

Thứ hạng Điểm số Thứ hạng Điểm số Thứ hạng
Việt Nam 74/100 4/185 88/100 1/185 55/100 6/185
Nguồn: A.T Kearney
Trước tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới, các doanh nghiệp xuất khẩu
là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất và gặp nhiều khó khăn. Một số
doanh nghiệp đứng trước nguy cơ bị phá sản do thị trường xuất khẩu bị thu hẹp,
số lượng khách hàng và hợp đồng bị giảm sút và chắc chắn sẽ không thể
phục hồi nhanh được. Vì vậy, thị trường nội địa chính là cứu cánh, là lối thoát
cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong lúc này. Thực tế cho thấy xu hướng quay
về thị trường nội địa của các doanh nghiệp xuất khẩu ngày càng rõ nét. Tuy
nhiên, để chiếm được thị phần và đứng vững tại thị trường này là một thách
thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp.
1.3.2. Những thuận lợi khi phát triển thị trường nội địa
- Chính phủ chủ trương duy trì sự ổn định của thị trường nội địa, làm nền
tảng vững chắc cho phát triển kinh tế, xã hội và cho hội nhập quốc tế. Việc xây
dựng mục tiêu phát triển thị trường nội địa từ nay đến 2015 đã và đang được
Chính phủ theo đuổi. Theo đó: Chính phủ sẽ duy trì nhịp độ tăng trưởng tổng

4
Tập đoàn Tư vấn AT Kearney nghiên cứu và công bố xếp hạng thị trường bán lẻ (TTBL)
hấp dẫn nhất thế giới của 30 trong số 185 quốc gia được xem xét. Trong đó, GRDI là chỉ số
được Tập đoàn Tư vấn AT Kearney xây dựng dựa trên thang điểm 100. Thị trường nào có
GRDI càng cao có nghĩa là triển vọng phát triển càng lớn. Trong đó, các tiêu chí hình thành
GRDI được chia thành 4 nhóm lớn gồm: Độ rủi ro quốc gia và rủi ro kinh doanh; Độ hấp dẫn
của thị trường; Độ bão hoà của thị trường; Áp lực thời gian.


TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

10
mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ từ 11-15%/năm; Chỉ số giá hàng tiêu dùng
tăng khoảng 5%/năm; Hình thành một thị trường hàng hóa ổn định, tạo ra
các mạng lưới kinh doanh, kênh lưu thông, phân phối hài hòa và hợp lý; Đưa
công tác xây dựng, củng cố kết cấu hạ tầng của ngành thương mại thành chương
trình phát triển quốc gia; Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường.
- Chiến lược phát triển thị trường nội địa mang tính dài hơi đã được khẩn
trương tiến hành. Bộ Công Thương đang phối hợp với các bộ, ngành, hiệp hội
xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình: tổ chức hệ thống phân phối một
số mặt hàng trọng điểm; phát triển thương mại nông thôn, chính sách phát triển
hạ tầng thương mại Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp khai thác thị trường
nội địa bằng các công cụ quản lý thị trường hiệu quả hơn, để nó vận hành lành
mạnh hơn và qua đó giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và thời gian tiếp cận thị
trường. Chính phủ có những hỗ trợ mạnh mẽ cả về vốn và chính sách vĩ mô
thông qua việc triển khai các gói kích thích kinh tế, các chương trình xúc
tiến thương mại, mặt bằng kinh doanh … với những ưu đãi lớn và cụ thể cho
các doanh nghiệp. Có thể nói đây là những thuận lợi rất lớn cho các doanh
nghiệp trong việc tiếp cận thị trường nội địa Việt Nam.
- Các doanh nghiệp có nhiều cơ hội hơn khi tiếp cận thị trường nội địa.
Không chỉ thuận lợi về đường lối và chính sách phát triển của Nhà nước,
mà các doanh nghiệp Việt Nam còn có ưu thế hơn các doanh nghiệp nước ngoài
ở chỗ hiểu thị trường, hiểu thị hiếu, thói quen, văn hóa tiêu dùng của người Việt
Nam, nên có cơ hội để cạnh tranh. Từ chỗ hiểu thị trường, doanh nghiệp sẽ trả
lời các câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất bao nhiêu? Và phân
phối như thế nào? Từ đó sẽ dễ dàng trong việc lựa chọn hàng hóa, đối tượng
khách hàng và phương thức thỏa mãn những nhu cầu của khách hàng một cách
tốt nhất.

- Người tiêu dùng vẫn có xu hướng chọn kênh phân phối truyền thống. Có
tới 85% người Việt Nam vẫn lựa chọn kênh phân phối truyền thống trong khi
các nhà phân phối nước ngoài vào Việt Nam vẫn chủ yếu là phát triển kênh phân
phối hiện đại. Xu hướng mua sắm ở các siêu thị và trung tâm thương mại tăng
lên nhưng chỉ chủ yếu tập trung ở các thành phố và các đô thị lớn. Hơn nữa, theo
đánh giá của các chuyên gia, trong vòng ít nhất là 5 năm tới thì hình thức phân
phối nhỏ lẻ thông qua hệ thống chợ, cửa hàng bán buôn, bán lẻ vẫn giữ được vai
trò của mình ngay cả trong các thành phố lớn do tập quán tiêu dùng của người
Việt Nam và vị trí nắm sát khu vực có nhiều dân cư sinh sống.
Ngoài ra, khi tiếp cận thị trường nội địa, chi phí của các doanh nghiệp trong
nước sẽ thấp hơn về vận chuyển, phân phối tiếp thị, quản lý. Nhờ đó, các doanh
nghiệp có thêm nhiều lợi thế cạnh tranh về giá so với các doanh nghiệp nước
ngoài. Thêm vào đó, thị trường Việt Nam còn rất giàu tiềm năng với quy
mô dân số trên 86 triệu

người sống trong nước, dân số trẻ, tiêu dùng tăng
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

11
trưởng mạnh
5
trong những năm qua với mức tăng trưởng trên 20%. Bên cạnh
đó, khu vực thị trường nông thôn và miền núi chiếm tới 70% doanh số hàng tiêu
dùng nhưng chưa được khai thác nhiều trong khi chí phí cho việc bán hàng ở
nông thôn chỉ bằng 1/10 ở các đô thị.
1.3.3. Những hạn chế của thị trường nội địa
Mặc dù, thị trường nội địa đạt được một số kết quả đáng khích lệ, nhưng
nhìn nhận một cách khách quan thì khả năng tiêu dùng hàng hóa ở thị trường nội
địa của các tầng lớp dân cư, nhất là ở nông thôn nước ta còn rất thấp. Nguyên
nhân có nhiều nhưng có thể thấy rõ là do kinh tế của nước ta còn nghèo, thu

nhập bình quân đầu người mới vượt ngưỡng 1.000 USD, phân hóa giàu nghèo
ngày càng lớn, nhu cầu mua sắm hàng hóa có khả năng thanh toán hằng năm
không cao. Đồng thời, đa số dân cư có tâm lý để dành tiền còn nặng, quỹ tiết
kiệm trong dân chưa được khai thác phục vụ tiêu dùng và các hoạt động dịch vụ
tối thiểu khác.
Ngoài ra, một số bộ phận không nhỏ cư dân ở nông thôn, nhất là vùng sâu,
vùng xa thuộc diện phải xóa đói, giảm nghèo có thu nhập cực thấp lại đang thiếu
những nhu yếu phẩm thiết yếu, trong khi năng lực sản xuất của các doanh
nghiệp trong nước lại dư thừa đang là nghịch lý phải xử lý. Do vậy, việc phát
triển thị trường nội địa Việt Nam đang gặp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại.
Nguyên nhân của các khó khăn này đến từ nhiều phía, trong đó có cả chủ quan
và khách quan. Đó là:
- Thị trường nội địa chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của Nhà
nước cũng như doanh nghiệp. Chính phủ chưa chú trọng phát triển thị trường
nội địa do sức ép của xuất khẩu để thu ngoại tệ. Bên cạnh đó, hầu hết các doanh
nghiệp Việt Nam đều chú trọng phát triển thị trường xuất khẩu mà bỏ quên thị
trường nội địa. Chính bản thân doanh nghiệp cũng chưa nhận thức được vai trò
quan trọng nền tảng của thị trường nội địa. Hầu hết, các doanh nghiệp đang
kinh doanh theo kiểu cơ hội, ăn sẵn, thiếu một chiến lược và tư duy tổ chức kinh
doanh. Vì vậy, hiện nay thị trường nông thôn, một phân khúc đầy tiềm năng, gần
như bị “bỏ hoang”, việc phân phối hàng hóa ở đây còn hết sức sơ khai.
Có thể nói, với thị trường nội địa, doanh nghiệp Việt Nam ít bị phụ thuộc
vào biến động của thị trường thế giới. Thị trường nội địa là nơi để doanh nghiệp
“tập dượt” trong cạnh tranh, là điểm tựa để vươn ra thị trường thế giới. Vì muốn
cạnh tranh được trên thị trường quốc tế, trước hết phải cạnh tranh được trên thị
trường nội địa. Tuy vậy, thay vì sản xuất, kinh doanh các mặt hàng phục vụ nội
địa, doanh nghiệp thường chọn xuất khẩu vì vừa có lãi nhanh, lại ít phải bỏ ra
các khoản chi phí theo quy định của Nhà nước.

5

Theo báo cáo đánh giá của hãng tư vấn AT Keaney về thị trường bán lẻ Việt Nam, năm
2008

TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

12
- Hệ thống phân phối chưa được đầu tư đúng mức. Kênh phân phối của các
doanh nghiệp Việt Nam còn quá yếu, không chuyên nghiệp như các nước trên
thế giới, trong khi đó hạ tầng còn chưa đồng bộ. Các doanh nghiệp gặp nhiều
khó khăn trong việc xây dựng hệ thống phân phối riêng cho mình. Ngoài ra, do
đã bỏ quên thị trường nội địa quá lâu nên các doanh nghiệp phải bắt tay lại từ
đầu. Đây là việc làm rất tốn kém cả về thời gian và chi phí.
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã
đẹp là hết sức cần thiết nhưng còn phải qua phân phối thật tốt, thật hợp lý thì
hàng hóa mới tiêu thụ được. Các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều nhỏ bé,
non trẻ nên một phần là chưa có nhận thức đúng về tầm quan trọng của hệ thống
phân phối, một phần là tài lực quá yếu không đủ sức gây dựng. Nhiều ý kiến cho
rằng, hệ thống phân phối ở Việt Nam còn đang ở bước khởi đầu, còn rất sơ khai;
không gian thị trường, hệ thống kết nối giữa sản xuất – phân phối – tiêu
dùng chưa được hình thành, thậm chí chưa có mô hình một cách hoàn chỉnh và
bền vững. Điều này đã tạo ra những lỗ hổng lớn làm thị trường Việt Nam không
ổn định, các nhà bán lẻ Việt Nam vì thế khó vạch ra chiến lược kinh doanh của
mình.
Ở nhiều nước, hệ thống phân phối sản phẩm được chuyên môn hoá để giảm
chi phí bán hàng và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Đồng thời, đây
cũng là nơi phản ảnh thông tin tốt nhất cho nhà sản xuất những yêu cầu của
người tiêu dùng về mẫu mã, chất lượng của sản phẩm. Về mặt này, đây chính
là điểm yếu kém trong hệ thống phân phối của các doanh nghiệp Việt Nam vì
tính chuyên môn hoá trong việc phân phối sản phẩm thấp và mới chỉ có quy mô
nhỏ.

- Doanh nghiệp Việt Nam tuy đông về số lượng, nhưng còn yếu kém, năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như của sản phẩm thấp. Hơn 90% doanh
nghiệp hiện nay là doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhiều hạn chế về tài chính, trình
độ lao động, năng lực quản lý, kinh nghiệm kinh doanh,… và nhiều hạn chế
khác, như khả năng nắm bắt cơ hội, linh hoạt trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh đều xuất phát từ bản thân các doanh nghiệp. Trong khi đó, sự hỗ trợ
của Nhà nước chưa có hiệu quả.
Về quản lý giá, do thị trường nội địa còn manh mún, chắp vá, với rất nhiều
tầng lớp trung gian, chưa tạo thành chuỗi khép kín từ sản xuất đến lưu thông,
nên giá cả hàng hóa khó có thể kiểm soát. Có những luật, nghị định, quy định,
chỉ thị đã ban hành nhưng vẫn chưa thực hiện hoặc thực hiện không tốt. Chẳng
hạn, theo Luật Cạnh tranh, hàng hóa của một doanh nghiệp chiếm từ 30% thị
phần trở lên thì giá phải được nhà nước quản lý, nhưng có một số doanh nghiệp
kinh doanh hàng hóa chiếm hơn 30% thị phần mà giá cả không ai quan tâm.
- Thị trường nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa chưa được chú
trọng, quan tâm đúng mức. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam có quan niệm nông
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

13
dân thu nhập thấp nên sức mua kém, lại có phong cách sống tằn tiện nên thường
chỉ mua sắm hàng hóa cấp thấp, rẻ tiền. Thậm chí, khi tham gia Chương trình
“Đưa hàng về nông thôn” quan niệm này vẫn chi phối một số doanh nghiệp, nên
họ đưa hàng kém phẩm chất, lỗi mốt, hàng xuất khẩu bị loại, hàng thùng về cho
nông thôn, khiến người tiêu dùng bất bình, do đó gây mất lòng tin về hàng hóa
của các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo Viện Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp thì nông thôn
Việt Nam chiếm đến 70% lượng tiêu thụ hàng hóa, 70% số hộ cũng ở nông thôn,
số lượng các cửa hàng bán lẻ cũng tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn
(97%). Nghiên cứu tiếp thị của Công ty Truyền thông Tiếp thị Việt Nam
cho biết nông thôn nước ta có số lượng khách hàng sẵn sàng mua sắm gấp 3 lần

thành thị. Nhiều hộ gia đình ở nông thôn đã tiêu thụ một số mặt hàng cao cấp
như tivi, đài, xe máy, điện thoại…. Tuy nhiên, hàng hóa của các doanh nghiệp
Việt Nam lại chưa được phủ kín ở thị trường này.
- Hàng hóa của Việt Nam chưa có vị trí vững chắc trong nhận thức của
người dân và phải cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa nhập khẩu. Mặc
dù đã có những cải tiến về chất lượng, mẫu mã nhưng nhìn chung hàng hóa của
các doanh nghiệp trong nước vẫn còn đơn điệu, chất lượng hạn chế, giá thành
cao. Giá của một loại hàng hóa có cùng mẫu mã nhưng hàng Việt Nam thường
có giá cao hơn từ 10–20%, về mẫu mã thì mỗi tuần Trung Quốc tung ra 1-3 mẫu
mới, bình quân hàng tháng có thể đưa ra hàng chục mẫu lạ và có thể cho thu hồi
lại các hàng đã lỗi mốt, còn hàng Việt Nam lại ít thay đổi. Chế độ bảo hành
thường không được thực hiện nghiêm túc, chỉ làm qua loa, chiếu lệ. Điều này
cũng góp phần làm cho người tiêu dùng mất lòng tin.
Việc quảng bá sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước rất kém, bao bì
sản phẩm không bắt mắt, nên khó thu hút khách hàng. Thiếu thông tin khiến
nhiều mặt hàng có thương hiệu uy tín nhưng khách hành không biết mua ở
đâu. Nhiều mặt hàng khác có chất lượng không thua hàng ngoại, nhưng
thiếu hướng dẫn, hệ thống phân phối chưa phù hợp, chưa bao phủ được thị
trường nên vẫn không bán được hàng.
- Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao cho hệ thống phân phối. Trong hệ
thống phân phối, nhân viên trình độ cao rất khan hiếm, nhân viên bậc trung cũng
thiếu trầm trọng, đến nhân viên bậc sơ cấp cũng khó tuyển dụng, ít ổn định.
Số nhân viên này cũng chỉ 4–5 % được đào tạo có bài bản, còn nói chung đều
chưa qua đào tạo. Người lao động vẫn coi bán hàng là một công việc tạm bợ,
không lâu dài, nên không gắn bó với công việc.
Các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế am hiểu văn hóa của người Việt
Nam, ít nhiều sẽ có cách ứng xử gần gũi tạo sự thân thiện trong giao dịch bán
hàng, song đa số nhân viên lại ít chú ý đến phục vụ khách hàng một cách chu
đáo. Trên thực tế, nhân viên không hiểu rõ nguồn gốc xuất xứ sản phẩm của cửa
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013


14
hàng, không nắm được tính năng, công dụng, tính ưu việt của sản phẩm mình
đang bán nên không giải đáp nổi thắc mắc của khách hàng, không đủ sức
hướng dẫn tiêu dùng, bảo quản, bảo vệ, chứng minh chất lượng, tiện ích của
sản phẩm. Nhiều nhân viên còn có thái độ thờ ơ, ít chịu lắng nghe khách hàng,
không biết cách thương lượng với khách hàng, có nhân viên còn có thái độ
không lịch sự. Do đó, Nhà nước cần có sự hỗ trợ tích cực việc đào tạo nhân viên
ngành phân phối mang tính chuyên nghiệp và biết lấy khách hàng là trung tâm.
Đào tạo đội ngũ bán hàng không chỉ cần chú ý kỹ năng cơ bản (kiến thức sản
phẩm, kỹ năng bán hàng, quản trị khách hàng, hoạch định phân tích số
liệu,…) mà còn cần cả những kỹ năng như vi tính, trình bày, ngoại ngữ
v.v.
- Kết cấu hạ tầng không theo kịp sự phát triển của thị trường. Mặt bằng của
các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh khó khăn và khan hiếm, đặc biệt là ở
các thành phố và các khu đô thị lớn. Giá thuê diện tích mặt bằng ngày càng tăng
vọt. Trong khi đó, ở nhiều địa phương còn thiếu chợ, có nơi để chợ mọc tự phát,
trong khi nhiều nơi xây dựng chợ nhưng lại bỏ hoang không ai vào mua bán.
- Sự lỏng lẻo trong liên kết giữa các doanh nghiệp và hiệp hội. Ngành
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, đóng gói, hệ thống bán lẻ Việt Nam
hoàn toàn chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau như chuỗi liên hoàn cung ứng
khép kín từ khâu nguyên vật liệu cho đến khâu thành phẩm để đưa đến tay và
thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay chưa có sự
liên kết: giữa các doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong từng vùng,
từng miền; giữa các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp phân phối; giữa
các doanh nghiệp sản xuất, phân phối với các hiệp hội, ngành hàng. Do đó, siêu
thị, trung tâm, cửa hàng thương mại muốn có hàng phải đi thu mua khi tăng khi
giảm thất thường; không đồng bộ. Còn doanh nghiệp sản xuất thường gặp khó
khăn trong tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm làm ra tự đem bán được khoảng 3%, các
cửa hàng phân phối tiêu thụ khoảng 12%, 80-85% phải bán cho thương lái và

chịu bị ép giá, khiến nhiều khi bán hàng rồi không thu hồi lại đủ vốn.
- Tâm lý sính ngoại, thích tiêu dùng hàng ngoại đang trở nên phổ biến, là
cản trở không nhỏ đối với Nhà nước và các doanh nghiệp trong việc phát triển
thị trường nội địa. Tại thị trường Việt Nam, một thực tế được các chuyên gia chỉ
ra là phần lớn người tiêu dùng Việt Nam phải mua hàng ngoại chỉ vì hàng Việt
Nam chất lượng thấp, quá đắt so với giá trị của nó hoặc không có cùng
chủng loại. Người tiêu dùng Việt sẵn sàng ủng hộ hàng Việt nhưng không phải
ủng hộ bằng bất cứ giá nào. Chúng ta không thể kêu gọi Người Việt ưu tiên
dùng hàng Việt một cách chung chung, buộc mọi người phải chấp nhận mua
hàng nội kém chất lượng, mẫu mã xấu, giá cao hơn hàng ngoại cùng loại được.
Trong khi hàng hóa có chất lượng cao, mẫu mã đẹp thì lại đem xuất khẩu, còn
hàng xấu, hàng không đạt tiêu chuẩn lại điều về thị trường nội địa.
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

15
2. Phân tích và đánh giá thực trạng về cơ chế, chính sách đối với người
tiêu dùng Việt Nam
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, hệ thống phân phối hàng hóa, kể cả
bán buôn và bán lẻ, ở Việt Nam đã đạt được sự phát triển rõ ràng, nhất là trong
việc phát triển các loại hình phân phối văn minh, hiện đại, và đang dần thích ứng
với nền kinh tế thị trường mở của. Cơ cấu hệ thống phân phối hàng hóa Việt
Nam đã và đang có những biến đổi sâu sắc, từ chỗ chủ yếu do Nhà nước, các
hợp tác xã (HTX) chiếm độc quyền và đơn loại hình (cửa hàng bách hóa bán
hàng theo phương thức truyền thống do thương nghiệp nhà nước nắm giữ, và
cửa hàng HTX do HTX mua bán đảm nhận) với số lượng cơ sở (cửa hàng, điểm
bán lẻ) rất hạn chế đã chuyển sang ngành bán lẻ đa loại hình với nhiều thành
phần kinh tế tham gia và số lượng cơ sở ngày một tăng. Nhờ đó, đã từng bước
tạo ra một thị trường bán lẻ ngày càng cạnh tranh và có nhiều cơ hội lựa chọn
cho người tiêu dùng trong một môi trường mua sắm ngày càng thuận tiện, văn
minh.

Các loại hình tổ chức bán lẻ hiện đại theo mô hình của các nước tiên tiến
như: siêu thị tổng hợp, siêu thị chuyên doanh, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng
tiện lợi, cửa hàng hội viên dạng nhà kho, các loại chuỗi cửa hàng và trung tâm
thương mại đã lần lượt xuất hiện ngày càng nhiều ở các địa phương, nhất là khu
vực đô thị để đáp ứng nhu cầu mua sắm đa dạng và ngày càng cao của các đối
tượng tiêu dùng ở Việt Nam. Không ít nhà sản xuất trong nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đã thiết lập được hệ thống cửa hàng theo mô hình hiện
đại chuyên bán hàng hóa mang thương hiệu của mình.
Bên cạnh việc bán hàng qua cửa hàng (hiện hữu) các doanh nghiệp bán lẻ
còn sử dụng hình thức bán hàng không qua cửa hàng, như bán hàng qua ti-vi.
bán hàng trực tuyến, Các hình thức này đang được áp dụng và đang phát triển
mạnh ở Việt Nam, nhất là hình thức bán hàng trực tuyến (với việc hình thành
các "siêu thị ảo", “cửa hàng ảo" trên mạng). Ngoài ra, hình thức bán lẻ hàng hóa
qua máy bán hàng tự động cũng đã và đang được một số doanh nghiệp nghiên
cứu, áp dụng vào Việt Nam.
Tuy nhiên, có thể nói hệ thống phân phối hàng hóa trong nước chưa có khả
năng phản ứng thích hợp đế hạn chế các tiêu cực trước sự biến động của thị
trường thế giới, chưa tạo được tiền đề để "tiếp nhận’’ nhanh sự can thịệp của
Nhà nước vào thị trường. Quá ít những doanh nghiệp và những hệ thống phân
phổi đủ mạnh, có khả năng tài chính, có mạng lưới kinh doanh, có lực lượng con
người, có công nghệ quản lý và điều hành phù hợp với xu thế hiện đại hóa và
chuyên nghiệp hóa, tương xứng với các đối tác quốc tế trong quá trình hội nhập
và mở cửa thị trường trong nước với bên ngoài. Nói cách khác, trên thị trường
thiếu những doanh nghiệp và hệ thống phân phối rường cột và nòng cốt, bảo
đảm kiểm soát và chi phối được thị trường xã hội, nhất là trong những tình
huống căng thẳng, gay gắt
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

16
Quá nhiều loại hình tổ chức mua bán và thương nhân nhỏ lẻ (chợ, cửa hàng

độc lập, hộ kinh doanh cá thể) không được định hình phát triển, không được tổ
chức thành đối tượng của quản lý nhà nước. Đa số các chủ thể này hoạt động tự
do và độc lập "ngoài vòng kiểm soát”, làm cho thị trường trở nên manh mún, tản
mạn, lộn xộn và rối loạn, pháp luật của nhà nước và lợi ích của người tiêu dùng
không được tôn trọng.
Xét trên nhiều khía cạnh, cả quy mô doanh số và diện tích bán lẻ hàng tiêu
dùng trên đầu người, nhất là bán lẻ qua các loại hình bán lẻ hiện đại vẫn còn rất
thấp và nhỏ bé so với các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển ở châu
Á.
2.1.Thực trạng về cơ chế chính sách bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
Trong những năm qua, Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách
nhằm bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Ba văn bản cơ bản
để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng do UBTVQH ban hành, Luật Cạnh tranh (2004) và Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng (2010).
Để Pháp lệnh và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thực hiện
hiệu quả, với mục đích phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước giải quyết, tham
vấn, bảo đảm, bênh vực lợi ích chính đáng cho người tiêu dùng, còn có hệ thống
hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng gồm: Hội tiêu chuẩn bảo vệ người tiêu
dùng Việt Nam ở cấp trung ương và 26 hội ở các tỉnh và thành phố. Khi bị thiệt
hại, người tiêu dùng có quyền gửi khiếu nại đến nhà sản xuất, kinh doanh, văn
phòng khiếu nại, hội bảo vệ người tiêu dùng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc khởi kiện ra toà án có thẩm quyền. Trong đó, cơ quan nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng chính là: Bộ Công thương và các Sở Công thương ở
địa phương.
Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam nguyên là Hội Khoa
học kỹ thuật về tiêu chuẩn hoá đo lường chất lượng, được thành lập năm 1988.
Năm 1990, hội đã đưa nội dung bảo vệ người tiêu dùng vào tôn chỉ mục đích
của hội và đổi tên thành Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam.
Tuy nhiên, hoạt động của hội còn mang tính hình thức vì ban lãnh đạo thường là

cán bộ ngành đo lường, kiểm nghiệm đã về hưu. Hội chưa liên kết với các tổ
chức quần chúng khác để mở rộng sự giám sát. Việc xử lý các khiếu nại thường
chỉ bằng cách thương lượng đòi bồi thường.
Với các cách hoạt động chưa có luật pháp bảo vệ như hiện nay, quyền lợi
của người tiêu dùng, dù họ có được nhà kinh doanh gọi là “Thượng đế”, vẫn liên
tục bị xâm hại và đến khi người tiêu dùng thực hiện quyền khiếu nại, quyền đòi
bồi thường của mình thì không biết “chạy đâu cho đúng cửa”.
2.2.Trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng của doanh nghiệp
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

17
Theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải:
- Đăng ký, công bố tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo quy định
của pháp luật và thực hiện đúng cam kết với người tiêu dùng; thường xuyên
kiểm tra về an toàn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, thực hiện việc cân, đong, đo,
đếm chính xác.
- Thông tin, quảng cáo chính xác và trung thực về hàng hoá, dịch vụ; niêm
yết giá hàng hoá, dịch vụ; công bố điều kiện, thời hạn, địa điểm bảo hành và
hướng dẫn sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình cho người tiêu dùng.
- Giải quyết kịp thời mọi khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hoá, dịch
vụ của mình không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố
hoặc hợp đồng đã giao kết; thực hiện trách nhiệm bảo hành hàng hoá, dịch vụ
đối với khách hàng.
- Có trách nhiệm thu thập, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp của người
tiêu dùng; bồi hoàn, bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng theo quy định của
pháp luật.
Ngoài ra, Điều 10 của Luật còn quy định các hành vi bị nghiêm cấm. Đó là
cấm:
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lừa dối hoặc gây nhầm

lẫn cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp
thông tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác về một trong các nội dung sau
đây:
a) Hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
cung cấp;
b) Uy tín, khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ của
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
c) Nội dung, đặc điểm giao dịch giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quấy rối người tiêu dùng
thông qua tiếp thị hàng hóa, dịch vụ trái với ý muốn của người tiêu dùng từ 02
lần trở lên hoặc có hành vi khác gây cản trở, ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt
bình thường của người tiêu dùng.
3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ép buộc người tiêu dùng
thông qua việc thực hiện một trong các hành vi sau đây:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các biện pháp khác gây thiệt hại
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của người tiêu
dùng;
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

18
b) Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên
tai, dịch bệnh để ép buộc giao dịch.
4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện hoạt động xúc
tiến thương mại, đề nghị giao dịch trực tiếp với đối tượng là người không có
năng lực hành vi dân sự hoặc người mất năng lực hành vi dân sự.
5. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ yêu cầu người tiêu dùng
thanh toán hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp mà không có thỏa thuận trước với
người tiêu dùng.
6. Người tiêu dùng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng việc bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân khác.
7. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng hoàn cảnh khó
khăn của người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để cung cấp hàng
hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng.
8. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất
lượng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng.
2.3. Người tiêu dùng Việt Nam đang sống trong môi trường thiếu an toàn
Người tiêu dùng Việt Nam hiện phải sống trong môi trường mà mức độ
không an toàn ngày càng gia tăng, quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm ngày
càng nhiều. Theo Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, thực trạng công tác
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam cho thấy, các vụ vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ.
Hàng loạt các vụ vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của người tiêu dùng
được phát hiện như vụ xăng pha aceton, vụ nước tương nhiễm chất 3-MCPD, vụ
gian lận xăng dầu. Gần đây nhất là việc phát hiện hàng loạt các cơ sở kinh doanh
mỡ động vật không rõ nguồn gốc xuất xứ… Những vụ việc này đã gây thiệt hại
không chỉ về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí là tính mạng của
người tiêu dùng.
6

Theo thống kê của Bệnh viện K, mỗi năm Việt Nam có khoảng 77.000 ca
mới mắc bệnh ung thư trong đó 80% là do môi trường sống và chỉ có khoảng
5% là do gen di truyền. Còn theo khảo sát của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người
tiêu dùng Việt Nam, tại một số điểm bán xăng dầu, sai số đo lường bình quân
khoảng 5% (với mức tiêu thụ xăng dầu hiện nay số tiền mà người tiêu dùng bị
thiệt hại lên tới hàng ngàn tỷ đồng). Kết quả tổng kiểm tra mới đây của Bộ Khoa
học và Công nghệ cũng cho thấy khoảng 28% cơ sở kinh doanh sai phạm về đo
lường (có nơi sai số gần 10%), 17% vi phạm về chất lượng. Cùng với đó, nhiều


6
Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng trước Quốc hội về Dự án luật bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, ngày 3/6/2010
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

19
hình thức bán hàng mới tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho người tiêu dùng như:
bán hàng đa cấp, bán hàng tận cửa, bán hàng trực tuyến… Thực tiễn công tác
bảo vệ người tiêu dùng cho thấy, trình độ, nhận thức của người tiêu dùng Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế.
Những con số trên đây chỉ là sự thống kê một phần rất nhỏ và mới chỉ
phản ánh được phần nào thực trạng xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng. Có thể nói rằng người tiêu dùng Việt Nam hiện đang phải sống
trong một môi trường mà mức độ không an toàn có xu hướng ngày càng gia
tăng, quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm ngày càng nhiều. Trong khi đó, các
quy định của pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập, không tạo thuận lợi cho quá
trình phát hiện và xử lý các vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
Theo thống kê của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
(Vinastas) trong 2 tháng (5 và 6 của năm 2010), việc tiếp nhận và tư vấn giải
quyết hàng trăm khiếu nại trực tiếp hoặc gián tiếp qua điện thoại và thư điện tử
của người tiêu dùng trên phạm vi cả nước cho thấy, người tiêu dùng khiếu nại về
tất cả các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của họ. "Chất lượng hàng hóa
dịch vụ được phản ánh không chỉ của trong nước sản xuất mà còn nhập khẩu,
thậm chí là cả các hãng tên tuổi". Hơn 95% "nguyên đơn" trong các vụ này là
người tiêu dùng (cá nhân hoặc thể nhân là tổ chức, doanh nghiệp) đã mua và sử
dụng sản phẩm dịch vụ, còn lại 5% “nguyên đơn” là tập thể khiếu nại về chất
lượng hàng hóa, dịch vụ, gian lận thương mại, ô nhiễm môi trường. Điểm đáng
chú ý "bị đơn"- người bị khiếu nại không phải luôn luôn là thương nhân mà còn
có cả đơn vị hành chính nhà nước, các đơn vị và tổ chức hoạt động phi lợi

nhuận. Theo đó, thương nhân, kinh doanh lợi nhuận chiếm tới hơn 93%, số còn
lại thuộc về tổ chức phi lợi nhuận và hành chính công.
Đến nay, Vinastas đã tiếp nhận khiếu nại của 95,5% người tiêu dùng là các
cá nhân mua và sử dụng sản phẩm dịch vụ; 93,3% người bị khiếu nại là thương
nhân, kinh doanh vì lợi nhuận; 100% các vụ khiếu nại liên quan đến chất lượng
sản phẩm, hàng hóa dịch vụ; 17,7% khiếu nại liên quan đến thông tin quảng cáo,
lừa dối, giả nhãn mác; 91% đòi quyền lợi chính đáng bị thiệt hại do chất lượng
hàng hóa không đạt yêu cầu, các vấn đề khiếu nại về vệ sinh, an toàn, ô nhiễm
môi trường và đóng góp ý kiến giúp các doanh nghiệp, tổ chức cải tiến và hoàn
thiện sản phẩm dịch vụ chiếm hơn 15%.
Điều này cho thấy, người tiêu dùng đã bắt đầu nhận thức được về quyền lợi
chính đáng của mình khi chất lượng hàng hóa không đạt yêu cầu, dịch vụ không
hoàn hảo như quảng cáo, bảo hành không đúng cam kết, lừa đảo, Người tiêu
dùng đã bắt đầu quan tâm đến chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, Báo cáo cũng
cho thấy, có 4,5% người tiêu dùng lợi dụng quyền khiếu kiện, gây áp lực với
doanh nghiệp, tổ chức để đòi quyền lợi quá mức.
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

20
Từ các cuộc điều tra, Vinastas cũng đã chỉ ra rất đông người tiêu dùng
không biết các quyền chính đáng của chính mình đã được quy định trong Pháp
lệnh Bảo vệ người tiêu dùng. Mặt khác, quan niệm của người Việt khi phát hiện
hàng hóa với giá trị nhỏ thì thường bỏ qua và không nghĩ đến chuyện khiếu nại.
Tuy nhiên, các cuộc điều tra cũng ghi nhận, thời gian đây người tiêu dùng đã có
xu hướng ngược lại. "Hàng hóa giá trị nhỏ như chai nước tương, hộp bánh, hay
thạch rau câu, đã được phản ánh, nhiều khi không vì đòi lại hàng hóa mà vì
mục đích chung vì vệ sinh an toàn, môi trường".
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường hàng hóa nội địa
Sự lưu thông vật tư hàng hóa và các dịch vụ tiêu dùng trên thị trường nội
địa là thước đo trình độ phát triển của mỗi một quốc gia. Ở Việt Nam, trong quá

trình đổi mới đất nước, chuyển sang nền kinh tế thị trường, mặc dù chưa thật
hoàn chỉnh, nhưng sức hút của cơ chế thị tướng đã làm cho thị trường nội địa
từng bước được phát triển đều khắp. Nhìn lại trong quá trình phát triển, những
yếu tố tác động đến hoạt động tiêu dùng nội địa bao gồm: (l) mặt bằng phát triển
kinh tế- xã hội thể hiện bằng mức tăng quỹ tiêu dùng bình quân đầu người giá cả
và chất lượng hàng hóa; (2) chính sách khuyến khích chi tiêu hiệu quả, nhất là
chi tiêu ngân sách Nhà nước; (3) các chính sách kích cầu của Chính phủ.
3.1. Mặt bằng phát triển và mức tiêu dùng bình quân đầu người có tác
động trực tiếp đến tiêu dùng và phát triển thị trường nội địa
Trên phương diện cầu, mặt bằng phát triển của mỗi quốc gia được đo bằng
mức độ hưởng thụ trong đời sống của các tầng lớp dân cư về vật chất và tinh
thần, bằng mức độ đáp ứng nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, vui chơi, giải
trí… Khi mặt bằng kinh tế phát triển, quỹ tiêu dùng bình quân đầu người sẽ cao
lên, sức mua các tầng lớp dân cư tăng và những yếu tố này đương nhiên sẽ tác
động trực tiếp vào thị trường nội địa làm cho thị trường hoạt động sôi nổi. Nhìn
về dài hạn, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập của người dân tăng, khả
năng tiêu dùng dân cư tăng thì quy mô thị trường nội địa cũng sẽ tăng lên.
Tổ chức cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do
Bộ chính trị phát động nhằm phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí tự lực tự
cường, tự tôn dân tộc, xây dựng văn hoá tiêu dùng của người Việt và sản xuất ra
nhiều hàng việt có chất lượng có sức cạnh tranh cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu.
3.2. Hội nhập kinh tế và sự xuất hiện của các tập đoàn kinh tế nước
ngoài đang thách thức sự phát triển của doanh nghiệp trong nước
Từ năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tồ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Chặng đường đã qua bước đầu mang lại một
số kết quả khích lệ. Các loại hình bán lẻ ở nước ta những năm gần đây đã văn
minh, hiện đại hơn . Theo xếp hạng của Công ty nghiên cứu Thị trường Nielsen,
Việt Nam đứng thứ 9 về chỉ số tự tin của người tiêu dùng toàn cầu và là một
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013


21
trong những thị trường bán lẻ đầy hứa hẹn.
Mặc dù đến thời điểm này, do khủng khoảng kinh tế nên sự “tràn vào” của
các hãng phân phối nước ngoài vẫn chưa xảy ra và đây là cơ hội tốt để chúng ta
có thêm thời gian cho sự chuẩn bị tốt hơn, song hiện ở Việt Nam đã có 15 tập
đoàn phân phối lớn có mặt từ 10 năm trước dưới các mô hình khác nhau tại các
thành phố, trung tâm kinh tế lớn, và họ đang kinh doanh thành đạt. Trong số đó,
có những tên tuổi lớn như Walmart (Hoa Kỳ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh),
Metro Cash (Đức) và nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu châu Á như Plaza (Nhật
Bản), Dary Farm (Hồng Kông), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Parkson
(Malaysia), South Asia Investment (Singapore).
Các phương thức phân phối cũng rất đa dạng. Tình hình đó tạo ra thị trường
cho phương thức kinh doanh hiện đại, nhưng đây lại là sức ép đối với các doanh
nghiệp phân phối Việt Nam trước sự đổ bộ của nhà phân phối nước ngoài. Điều
cần chú ý là dịch vụ phân phối hiện sử dụng khoảng 6 triệu lao động, chiếm
khoảng 12% lực lượng lao động xã hội và là ngành sử dụng lao động lớn, tương
đương với ngành công nghiệp chế biến, chủ yếu là những người buôn bán nhỏ.
3.3. Tâm lý ngờ vực của người tiêu dùng đối sản phẩm hàng hoá và dịch
vụ trong nước
Đứng từ góc nhìn của một người tiêu dùng, nhiều chuyên gia kinh tế cho
rằng mỗi người Việt Nam đều tràn đầy lòng yêu nước và tinh thần tự tôn dân
tộc, song họ không thể ủng hộ vô điều kiện doanh nghiệp Việt, sản phẩm Việt
mà sẽ giữ quyền lựa chọn của mình khi mua hàng. Có một thực tế là sự xâm lấn
đáng lo ngại của hàng Trung Quốc nhập lậu có sự tiếp tay của các doanh nghiệp
trong nước. Thậm chí, có doanh nghiệp đạt thương hiệu "Hàng Việt Nam chất
lượng cao", nhưng sản phẩm lại hoàn toàn được sản xuất ở bên kia biên giới.
Người tiêu dùng không thể “thông thái” được khi một số cơ quan đài, báo quảng
cáo toàn lời hay ý đẹp cho một số sản phẩm nhưng chẳng có bao nhiêu thông tin
đích thực cho người tiêu dùng. Khi có vấn đề gì về chất lượng hàng hoá thì các

cơ quan hữu trách lại tranh cãi “tùm lum”, không hề xác định nguyên nhân từ
đâu, không quy được trách nhiệm cho ai và vấn đề nóng lên xong lại nguội dần
bỏ mặc người tiêu dùng bơ vơ không biết tin vào đâu, dựa vào ai để bảo vệ
quyền “Thượng đế” của mình.
Tại các vùng nông thôn, hàng hoá thoạt đầu nhìn không kém phần “bắt
mắt”, nhưng nhìn kỹ mới thấy hàng chất lượng tốt thì ít, hàng kém phẩm cấp,
hàng rởm thì nhiều. Những nơi hàng Việt Nam còn lưa thưa thì phần lớn là
“hàng lạ”, nhãn mác “nhôm nhoam” chữ in loằng ngoằng, hiếm có người tiêu
dùng thông thái nào hiểu được người ta viết gì về sản phẩm đó, không ai thông
tin hướng dẫn và người tiêu dùng chỉ còn biết mua bằng cảm quan mách bảo.
Người tiêu dùng ở các vùng này bằng lòng với sự lựa chọn hẹp cho nhu cầu của
mình,trong khi doanh nghiệp trong nước ít quan tâm tới nhu cầu của họ. Điều
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

22
này cho thấy vai trò kiểm soát của các cơ quan chức năng có vấn đề, đặc biệt là
chưa kiểm soát được chất lượng và cách kinh doanh của người kinh doanh và sự
thua thiệt người tiêu dùng phái gánh chịu.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng xu thế "sính ngoại" trong tiêu dùng ở nước
ta hiện vẫn đang ở mức "quá đáng". Nhiều mặt hàng của Việt Nam chất lượng
và giá cả bằng hoặc hơn hàng ngoại, nhưng vẫn không bán chạy bằng hàng
ngoại. Một thực tế cho thấy, quyền mua là của người mua, không ai có quyền
bắt ép. Vấn đề là phải làm sao để người mua hàng nhận biết và tự giác mua hàng
Việt.
Lòng yêu nước không chỉ có tự hào suông và người tiêu dùng cũng sẽ
không chấp nhận dùng đồ kém phẩm chất lại đắt giá để thể hiện nghĩa vụ tinh
thần đối với tổ quốc. Thực tế, thị trường nông thôn lâu nay thả nổi, nơi có sức
mua tuy không lớn nhưng lại có số lượng người tiêu dùng khổng lồ (chiếm hơn
70% của một quốc gia có dân số đứng thứ 13 thế giới), thì hàng Việt cũng chưa
hẳn có ưu thế khi tiếp cận, vì người nông dân có mức thu nhập thấp, họ càng

chắt chiu khi lựa chọn cho khoản chi tiêu của mình.
3.4. Khung pháp lý đối với phát triển thị trường
Đối với chính sách phát triển sản xuất hàng tiêu dùng: Cho tới nay, kinh
phí dành cho nghiên cứu và phát triển (R&D) quá ít ỏi trong các ngành sản xuất
của Việt Nam. Điều này, phần nào, là nguyên nhân sản phẩm làm ra không hấp
dẫn, không phù hợp với nhu cầu của cuộc sống hiện đại ngày càng nâng cao, giá
trị gia tăng đạt thấp và kém năng lực cạnh tranh ở ngay thị trường nội địa.
Đối với chính sách nguồn nhân lực: Còn rất thiếu chuyên gia giỏi về thiết
kế mẫu mã cho hàng hoá, thiếu công nhân kỹ thuật có trình độ cao để vận hành
các máy móc thiết bị hiện đại trong sản xuất. Thị trường lao động trong sản xuất
công nghiệp chưa được hoàn thiện, các chế độ đãi ngộ như tiền lương, bảo hiểm
xã hội cho người lao động còn chưa đạt yêu cầu dẫn tới không kích thích được
sức sản xuất trong doanh nghiệp, ảnh hưởng tới năng suất lao động và sự gắn bó
giữa lao động với doanh nghiệp.
Chính sách thị trường: Các doanh nghiệp trước đây sản xuất chủ yếu tập
trung dành cho xuất khẩu ít quan tâm đến thị trường nội địa, khi quay lại thị
trường nội địa sẽ bị lúng túng khó khăn, vì sự chuyển đổi cần kinh phí rất lớn,
thời gian thâm nhập lâu tại thị trường nội địa.
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất: Các chính sách về đất đai, chính
sách về tài chính, việc phát triển cơ sở hạ tầng, cải cách hành chính nhà nước
còn chưa đồng bộ và có chưa thuận lợi để phục vụ cho sự phát triển sản xuất
của các doanh nghiêp.
Chính sách quản lý thị trường còn bị buông lỏng: Buôn lậu, gian lận
thương mại sản xuất, kinh doanh hàng giả, trốn thuế đang gây rất nhiều khó
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

23
khăn, thậm chí làm phá sản không ít doanh nghiệp làm ăn chân chính. Đây chính
là hậu quả của việc buông lỏng quản lý thị trường.
Có thể thấy hệ thống phân phối nội địa còn bộc lộ một số nhược điểm như:

hàng hoá Việt Nam sản xuất ra được phân phối qua nhiều tầng nấc trung gian
dẫn tới chi phí cao, giá cả khó cạnh tranh; hạ tầng phân phối yếu kém như đường
giao thông, cảng biển, kho dự trữ… chất lượng thấp làm cho chi phí lưu thông
tăng cao; đội ngũ làm công tác phân phối chưa chuyên nghiệp; quản trị doanh
nghiệp chưa tốt; công tác quảng cáo tiếp thị chưa đựơc bài bản và hiệu quả;
phương thức phân phối hiện đại trong bán lẻ còn ít dẫn tới năng suất lao động
thấp; việc giao dịch giữa nhà sản xuất và thương mại bán buôn bán lẻ chưa
đựơc công khai minh bạch; tầng lớp trung gian trong giao dịch thương mại kiếm
lợi nhuận cao, trong khi người sản xuất và người tiêu dùng đều bị thiệt thòi.
4. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXHCDN) được “du nhập” vào
nước ta thông qua hoạt động của các công ty đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam.
Các công ty này thường xây dựng được các Bộ Quy tắc ứng xử và chuẩn mực
văn hoá kinh doanh có tính phổ quát để có thể áp dụng trên nhiều địa bàn thị
trường khác nhau. Do đó, các nội dung TNXHCDN được các công ty nước
ngoài thực hiện có bài bản và đạt hiệu quả cao. Có thể lấy một số ví dụ nổi bật
như Chương trình “Tôi yêu Việt Nam” của Công ty Honda-Việt Nam; Chương
trình giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ em tại các tỉnh miền núi của Công ty
Unilever; Chương trình đào tạo tin học Topic64 của Microsoft, Qualcomm và
HP; Chương trình hỗ trợ phẫu thuật dị tật bẩm sinh và ủng hộ nạn nhân vụ sập
cầu Cần Thơ của VinaCapital, Samsung; Chương trình khôi phục thị lực cho trẻ
em nghèo của Western Union…
Đối với khu vực doanh nghiệp trong nước, các công ty xuất khẩu có lẽ là
đối tượng đầu tiên tiếp cận với TNXHCDN. Hầu hết các đơn hàng từ Châu Âu-
Mỹ, Nhật đều đòi hỏi các xí nghiệp may mặc, giày dép phải áp dụng chế độ lao
động tốt (tiêu chuẩn SA8000) hay đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (đối với
các doanh nghiệp thủy sản)… Một số công ty chủ động thực hiện TNXHCDN
và tạo được hình ảnh tốt đối với công chúng như các doanh nghiệp Mai Linh,
Tân Tạo, Duy Lợi, ACB, Sacombank, Kinh Đô…
4.1. Chất lượng sản phẩm kém là vấn đề nghiêm trọng nhất

Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ nước Mỹ đã nhanh chóng lan
rộng ra toàn cầu và đang trở thành nỗi ám ảnh lớn của cộng đồng doanh nghiệp
trong nước. Nhưng với người dân bình thường, vẫn còn một nỗi ám ảnh khác
cũng nặng nề không kém, đó là mối đe dọa về hàng hóa kém chất lượng, nhất là
những sản phẩm liên quan trực tiếp đến sức khỏe, và tình trạng môi trường sống
bị hủy hoại nghiêm trọng.
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU – SỐ 3/2013

24
Những vụ nước tương nhiễm chất độc 3-MCPD, nước mắm chứa urê, hay
chất kích thích tăng trưởng ngấm vào thịt gia súc qua thức ăn chăn nuôi còn
chưa kịp lắng hẳn, thì lại bùng phát chuyện sữa nhiễm hóa chất melamine, rượu
được sản xuất bằng cồn công nghiệp gây chết người cùng với nạn phân bón giả,
kém chất lượng và các cây xăng buôn bán gian dối…
Tình trạng trên, cộng với hành động hủy hoại môi trường, phần nào cho
thấy đạo đức kinh doanh cũng như trách nhiệm xã hội trong một bộ phận doanh
nghiệp đang xuống cấp. Họ chạy theo lợi nhuận, bất chấp hậu quả gây ra cho
khách hàng, là những người mà doanh nghiệp nào cũng khẳng định là được đối
xử như “thượng đế”.
Trong kinh doanh, niềm tin là yếu tố quan trọng. Với thị trường có nhiều
cạnh tranh như hiện nay, chọn sản phẩm nào là quyền của người tiêu dùng và lẽ
đương nhiên ai cũng muốn mua được sản phẩm có chất lượng phù hợp với số
tiền bỏ ra. Nhưng người tiêu dùng hầu như không có cách nào để biết sản phẩm
mua có đạt chất lượng hay không, mà chủ yếu dựa vào lòng tin đối với nhà sản
xuất, tin vào những gì họ quảng cáo hay thông tin ghi trên bao bì. Chỉ đến khi
các cơ quan chức năng vào cuộc, lấy mẫu sản phẩm đi kiểm tra thì sự thật mới
được phơi bày.
Nhiều loại nước tương được làm từ bánh dầu, acid clohydric, nhưng
doanh nghiệp lại ghi trên bao bì là sản xuất từ đậu nành; không ít thức ăn gia súc
chứa chất kích thích tăng trưởng, sữa chứa melamine, phân bón làm từ đất sét và

kẹo chứa bột đá với hàm lượng đến hơn một phần ba, nhưng trên bao bì chẳng
có một chữ nào đề cập đến những hóa chất và chất độn này. Thậm chí trong
những trường hợp gian dối bị phát hiện, có không ít doanh nghiệp có tên tuổi,
được nhiều người biết đến.
Theo Bộ Y tế hàng năm Việt Nam có khoảng 200.000 người bị ung thư
trong đó con số tử vong lên đến 150.000 người. Có khoảng 35% số bệnh nhân
ung thư được chẩn đoán mắc bệnh do những nguyên nhân liên quan đến sử dụng
thực phẩm độc hại.
4.2. Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với khách hàng
Ở Việt Nam, TNXHCDN mới chỉ tập trung chủ yếu ở ngành da giầy và
may mặc do yêu cầu của các khách đặt hàng nước ngoài. Ngân hàng Thế giới đã
tiến hành nghiên cứu về việc áp dụng TNXHCDN trong ngành da giày và dệt
may Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy một số rào cản và khó khăn sau:
- Có sự khác biệt lớn trong nhận thức và hiểu biết về TNXHCDN trong và
giữa các doanh nghiệp Việt Nam.
- Việc một công ty áp dụng đồng thời nhiều Bộ Quy tắc ứng xử không
mang lại hiệu quả.

×