Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Kiến thức lí luận văn học trọng tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.58 KB, 10 trang )

LÍ LUẬN VĂN HỌC TRỌNG TÂM
I. BẢN CHẤT CỦA VĂN CHƯƠNG
1. Văn chương bao giờ cũng phải bắt nguồn từ cuộc sống
- Cuộc sống là nơi bắt đầu và là nơi đi tới của văn chương
- Hiện thực xã hội làm nên tính chân thực, tính tự nhiên, tính đúng đắn, tính thực tế của tác phẩm văn học.
- Nếu văn chương tách rời khỏi dòng chảy cuộc đời sẽ không thể vươn tới giá trị đích thực của nó, khơng
cịn là nghệ thuật vị nhân sinh được nữa.
- Tác phẩm văn học là tấm gương soi chiếu hiện thực cuộc sống nhưng phải qua lăng kính chủ quan của
nhà văn. Hiện thực trong tác phẩm được nhào nặn qua bàn tay nghệ thuật của người nghệ sĩ, được thổi vào
đó không chỉ hơi thở của thời đại mà cả sức sống tư tưởng và tâm hồn người viết.
- Hiện thực đời sống không phải chỉ là những hiện tượng, những sự kiện nằm thẳng đơ trên trang giấy mà
phải hòa tan vào trong câu chữ, trở thành máu thịt của tác phẩm. Chất hiện thực làm nên sức sống cho tác
phẩm và chính tài năng người nghệ sĩ đã bất tử hóa sức sống ấy.
- “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu)
- Standal viết: “ Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội”
2. Văn chương cần phải có sự sáng tạo
- Mỗi tác phẩm văn học, mỗi nhân vật, mỗi câu chữ trong tác phẩm phải tạo được sự bất ngờ, lý thú đối với
người đọc.
- Những khám phá riêng đầy giá trị trên nền hiện thực xã hội giúp nhà văn khẳng định được tài năng,
phong cách của mình.
- Nghệ thuật khơng chấp nhận sự lặp lại của người khác cũng như lặp lại chính bản thân mình, khơng chấp
nhận sự sao chép đời sống.
- Nam Cao viết: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa
cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và
sáng tạo những cái gì chưa có".
3. Đối tượng trung tâm của văn học là con người
- Theo M. Gorki, “văn học là nhân học” có nghĩa là: văn học là khoa học về con người.
- Các Mác: “Lấy con người làm đối tượng miêu tả chủ yếu, văn học có được một điểm tựa để nhìn ra tồn
thế giới”.
- Những phương diện phản ánh con người trong văn học
+ Con người tính cách


Ta bắt gặp một Lão Hạc tưởng như gàn dở nhưng lại sâu sắc biết bao; một Chí Phèo mất trí nhưng lại tỉnh
táo nhất làng Vũ Đại; một anh Tràng ngật ngưỡng “thỉnh thoảng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch” nhưng
đầy nhân hậu, yêu thương, quên sự sống đang bên bờ vực thẳm để đón nhận một con người...
+ Con người tâm trạng
Tiếng thở dài chua chát của nhân vật trữ tình trong bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương được cất lên là
từ sự thấu cảm trước thân phận làm lẽ của kiếp người phụ nữ trong xã hội phong kiến; Tiếng thét đớn đau
của Chí Phèo cuối truyện “Chí Phèo” là kết quả của bao đắng cay, bao uất hận ở người nông dân trước
cách mạng bị tước đi quyền làm người.
4. Văn chương phản ánh đời sống qua hình tượng văn học (hình tượng NT)
- Hình tượng văn học là thế giới đời sống được lựa chọn và phản ánh nhưng không phải là sự sao chép nô
lệ của nhà văn mà thực sự đã được chắt lọc, lựa chọn, thấm đẫm suy ngẫm của người đọc. Cho nên cái hiện
thực ngoài đời bước vào văn học trở thành một thế giới mới.
- Mỗi hình tượng văn học được dệt nên bởi rất nhiều các chi tiết nghệ thuật, là những mảnh phần của bài
văn, liên kết với nhau taọ thành 1 hình tượng văn học.
- Hình tượng văn học thể hiện một cách tập trung, rõ nét tài năng nghệ thuật của tác giả.
1


- Hình tượng văn học là một thơng điệp giao tiếp đặc biệt của nhà văn. Nhà văn kí thác vào trong hình
tượng tâm tư, tình cảm, suy ngẫm của mình về cuộc đời và con người. Những hình tượng lớn bao giờ cũng
chứa đựng những tình cảm lớn, những tư tưởng lớn.
VD:
+ Hình tượng Chí Phèo là điển hình cho nỗi thống khổ của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám;
+ Hình tượng nhân vật Mị (trong Vợ chồng A Phủ) là điển hình cho người lao động miền núi từ trong đau
thương đã nhận thức, đấu tranh, giải phóng để đưa cuộc đời đến cánh đồng hoa,...
- Hình tượng lơi cuốn người đọc trước hết phải đẹp, phải mang tính thẩm mĩ. Và nó phải chứa đựng nhiều
nội dung đời sống và ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
- Ý nghĩa mà hình tượng mang lại cho người đọc bao giờ cũng vượt ra ngồi những gì mà nó mô tả trực
tiếp, vượt qua không gian, thời gian, thời đại,...
5. Văn học phản ánh đời sống và tư tưởng của nhà văn bằng chất liệu ngôn từ

- Văn học sử dụng ngôn từ làm công cụ và chất liệu để phản ánh và xây dựng hình tượng. Đây là một nét
riêng so với các môn nghệ thuật khác.
- Ngôn ngữ văn học chính là ngôn ngữ đời sống nhưng được nhà văn sàng lọc, lựa chọn. Đó là 1 thứ ngơn
ngữ có tình tở chức cao.
- Ngơn ngữ văn học có tính chính xác cao: diễn tả 1 cách đúng nhất, phù hợp nhất đến mức khó có thể thay
thế được.
- Ngôn ngữ văn học có tính nghệ thuật (giàu tình hình tượng) có khả năng gợi ra , đánh thức khả năng
tưởng tượng.
- Tính biểu cảm, được tắm đẫm cảm xúc, suy nghĩ của người viết. Con chữ mang tư tưởng, hằn đậm trong
đó những nhân tố có khả năng bùng nổ cảm xúc trong người đọc.
- Ngôn ngữ văn học có tính đa nghĩa:
+ Lao động ngôn ngữ của nhà văn là lao động khổ công, đầy hào hứng say mê, cịn phải tìm tịi ngơn ngữ.
+ Vì sử dụng ngơn từ làm chất liệu nên văn học có 1 sức mạnh đặc biệt, khả năng tác động của hình tượng
ngơn ngữ trong tác phẩm văn học là khơng giới hạn vì hình tượng được xây dựng bằng ngơn ngữ nghệ
thuật là một hình tượng phi vật thể => có khả năng vượt các giới hạn về khơng gian, thời gian.
II. NHÀ VĂN VÀ Q TRÌNH SÁNG TẠO
1. Người nghệ sĩ phải ln sáng tạo, tìm tịi những đề tài mới, hình thức mới
- Mỗi bài thơ, câu văn đều là kết quả quá trình sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ sau khi đã công phu
chọn lựa và nhào nặn chất liệu hiện thực.
- sáng tạo là yếu tố then chốt quyết định sự sống còn của nhà văn trong quy luật phát triển chung của văn
học.
- "Nếu nhà văn khơng có một lối đi riêng của mình thì người đó chẳng bao giờ là nhà văn"
- "Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới"
2. Người nghệ sĩ phải biết rung cảm trước cuộc đời
- Tâm hồn nhạy cảm là sự thể hiện trái tim giàu tình cảm của nhà văn.
- Khi sáng tác, nhà văn phải thâm nhập vào đời sống với một con tim nóng hổi, họ dùng trái tim, cảm xúc
của mình để cảm nhận cuộc đời.
- Tình cảm là yếu tố quyết định sự sinh thành, giá trị và tầm cỡ của tác phẩm nghệ thuật.
- Lê Q Đơn: “Thơ khởi phát từ trong lịng người” ( tình cảm quyết định đến sự sinh thành của thơ).
- Ngơ Thì Nhậm “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần” (tình cảm quyết định đến chất lượng thơ).

- Nguyễn Đình Thi : “Hình ảnh trong thơ phải là hình ảnh thực, nảy sinh trong tâm hồn ta khi ta đứng
trước trước cảnh huống, một trạng thái nào đó”.
=> Người nghệ sĩ phải biết rung cảm trước hiện thực của đời sống thì mới sáng tạo nên nghệ thuật.
2


3. Nhà văn phải có phong cách riêng
- Phong cách : nhà văn phải đem lại một tiếng nói mới cho văn học, đó là sự độc đáo mà đa dạng, bền vững
mà luôn đổi mới.
- Biểu hiện của phong cách riêng của nhà văn:
+ Qua cái nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật, đối với cuộc đời.
+ Qua giọng điệu riêng, gắn liền với cảm hứng sáng tác.
+ Nét riêng trong sự lựa chọn, xử lý đề tài, xác định chủ đề, xác định đối tượng miêu tả...
+ Tính thống nhất, ởn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật.
- Nhà văn phải đem đến cho người đọc một cách nhìn mới mẻ, mang tính khám phá về cuộc đời và con
người.
- Nhà văn Tuocghenhev : “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng
biệt của chính mình khơng thể tìm thấy trong cở họng của bất kì một người nào khác”.
- Nguyễn Tuân : “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy, nó địi hỏi phải có phong cách, tức là
phải có nét gì đó rất mới, rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình”
- Nhà văn Lê-ơ-nốp viết: “Khơng có tiếng nói riêng, khơng mang lại những điều mới mẻ cho văn chương
mà chỉ biết dẫm theo đường mịn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết ”
- Lê Đạt:
“Mỗi cơng dân có một dạng vân tay
Mỗi nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Khơng trộn lẫn”
- "Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người đọc bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, nhưng
việc ai cũng biết cả rồi".
III. GIÁ TRỊ VĂN HỌC
1. Khái quát chung

Giá trị văn học là sản phẩm kết tinh từ quá trình văn học, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cuộc sống
con người, tác động sâu sắc tới con người và cuộc sống.
2. Giá trị nhận thức
- Cơ sở:
+ Khả năng phản ánh và lí giải hiện thực của văn học. (Văn học phản ánh và lí giải hiện thực cuộc sống,
văn học phá vỡ giới hạn tồn tại trong không gian, thời gian thực tế của con người).
+ Nhu cầu nhận thức của con người (Con người có nhu cầu hiểu biết về cuộc sống, con người cần có mặt ở
những nơi ta không thể có mặt, con người cần được cảm nhận).
- Quá trình nhận thức cuộc sống của văn học:
+ Hiểu biết về thời gian từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
+ Hiểu biết về những không gian khác nhau: vùng miền, dân tộc, phong tục, tập quán.
=> Văn học đem lại cho người đọc khả năng sống cuộc sống của nhiều người, nhiều thời, nhiều nơi.
- Nội dung giá trị nhận thức:
+ VH giúp ta hiểu được nhiều mặt của cuộc sống với hiện thực phong phú.
+ VH giúp ta hiểu được bản chất của con người: sứ mệnh, khát vọng, mục đích tồn tại...
+ VH giúp ta hiểu được chính mình: Đến với VH, con người soi mình vào đó để hiểu được chính mình để
phấn đấu, sáng tạo...
=> Giá trị nhận thức của văn học là khả năng của văn học có thể đáp ứng được yêu cầu của con người
muốn hiểu biết cuộc sống và hiểu chính bản thân, từ đó tác động vào cuộc sống một cách có hiệu quả.
3. Giá trị giáo dục
- Cơ sở:
3


+ Con người luôn có nhu cầu hướng thiện, khao khát cuộc sống tốt lành, chan hịa tình u thương.
+ Nhà văn ln bộc lộ tư tưởng- tình cảm, nhận xét, đánh giá, … của mình trong tác phẩm.
- Nội dung:
+ VH giúp mỗi người rèn luyện, hoàn thiện bản thân, hình thành lí tưởng tiến bộ, lẽ sống đúng đắn.
+ VH nâng đỡ nhân cách con người, hình thành những tư tưởng, thái độ, và quan điểm sống tiến bộ, đúng
đắn.

+ VH giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, tâm hồn lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn.
=> VH giáo dục bằng con đường: cảm xúc đến nhận thức → Thấm thía, lâu bền, gợi những cảm nghĩ sâu
xa, gián tiếp đưa ra những bài học, những đề nghị về lẽ sống.
=> Thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng tình cảm của con người theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp, tiến bộ và
hồn thiện mình.
- Mợt số nhận định:
+ Sô - lô - khốp: Tôi muốn các tác phẩm của tôi giúp mọi người trở nên tốt, có tâm hồn thuần khiết, tơi
muốn chúng góp phần gợi dậy tình yêu con người, đồng loại và ý muốn đấu tranh mãnh liệt cho những lí
tưởng của chủ nghĩa nhân đạo và sự tiến bộ của loài người.
+ Thạch Lam: văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay
đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn
4. Giá trị thẩm mĩ
- Cơ sở:
+ Nhu cầu cảm thụ, thưởng thức cái đẹp của con người.
+ Đặc trưng của văn học: phản ánh c/s theo quy luật của cái đẹp.
+ Bằng tài năng và tấm lịng của mình, nhà văn đã thể hiện cái đẹp của cuộc sống, của con người, giúp
người đọc cảm nhận và rung động.
- Nội dung:
+ VH đem đến những vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống.
+ VH đi sâu miêu tả vẻ đẹp con người thông qua nghệ thuật xây dựng hình tượng sinh động, giàu sức gợi.
+ VH còn tác động tới những rung động của người đọc qua vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
=> Văn học giúp con người biết yêu quý, khám phá thưởng thức cái đẹp trong cuộc sống
5. Mối quan hệ giữa các giá trị văn học
- Giá trị nhận thức luôn là tiền đề của giá trị giáo dục.
- Giá trị giáo dục làm sâu sắc thêm giá trị nhận thức.
- Giá trị nhận thức và giá trị giáo dục được phát huy tích cực nhất qua giá trị thẩm mĩ.
=> Mật thiết, không tách rời, tác động cùng một lúc đến người đọc.
Ba giá trị có nét tương đồng với ba khái niệm truyền thống: Chân - Thiện - Mĩ
IV. TIẾP NHẬN VĂN HỌC
1. Khái niệm:

Tiếp nhận văn học:
+ là q trình người đọc hịa mình vào tác phẩm, rung động , đắm chìm trong thế giới nghệ thuật ngôn từ.
+ lắng tai nghe tiếng nói của tác giả.
+ thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo.
2. Quá trình tiếp nhận:
- Người đọc phát hiện kiến tạo ý nghĩa của tác phẩm.
- Thưởng thức những giá trị tư tưởng, nghệ thuật.
- Ghi nhớ những điều hay, tâm đắc.
3. Vai trò của người đọc:
4


3.1. Vai trò đồng sáng tạo với nhà văn của người đọc:
- Nhà văn sáng tạo văn bản. Sau đó, văn bản được chuyển đến người đọc, được người đọc tiếp nhận, bình
giá thì nó mới trở thành tác phẩm.
- Tác phẩm văn học liên tục được làm đầy những giá trị chỉnh thể của chúng từ những tầm đón nhận và tầm
đón đợi của nhiều thế hệ người đọc. Có nghĩa là người đọc đồng sáng tạo từ nhiều góc nhìn, nhiều phương
pháp tiếp cận khác nhau và từ bản chất tự trị vốn có của tác phẩm, họ có thể cung cấp nhiều ý nghĩa và giá
trị mới khác cho tác phẩm. Những ý nghĩa và giá trị mới ấy, quả thật trong khi sáng tác, tác giả chưa nghĩ
đến hoặc chưa tin rằng, chúng lại được người đọc phát hiện thú vị như vậy. Song nó chỉ đúng và có giá trị
trong giới hạn cho phép mà tác phẩm gợi mở, vẫy gọi. Điều đó có nghĩa là những phát hiện chủ quan, võ
đốn ngồi văn bản hay rất xa với nghĩa gốc của văn bản mà người tiếp nhận gán cho sẽ không được thừa
nhận.
- Bạn đọc là người đánh giá tác phẩm và đồng sáng tạo với tác giả. Nếu tác giả tồn tại nhờ tác phẩm thì
người đọc chính là người cấp “chứng minh thư” cho tác phẩm để tác phẩm và tác giả trở nên bất tử với
cuộc đời.
3.2. Sự tiếp nhận của người đọc đặt ra những yêu cầu đối với nhà văn:
- Khi tiếp nhận một tác phẩm, người đọc chỉ hứng thú khi tác phẩm đó thể hiện được cách nhìn mới, thể
hiện được nét phong cách độc đáo của nhà văn. Những cái nhìn giống nhau, cách cảm nhận tương tự nhau
sẽ bị người đọc quên lãng, đào thải.

- Muốn tác phẩm có giá trị, được bạn đọc đón nhận, nhà văn cần tạo ra những tác phẩm có giá trị lay động
được tới trái tim bạn đọc. Muốn vậy, nhà văn cần một trái tim nóng bỏng, một tâm hồn nhạy cảm tinh tế;
những gì viết ra cần phải xuất phát từ tình cảm chân thật sâu sắc. Trái tim người nghệ sĩ phải để ở giữa
cuộc đời và vì cuộc đời.
3.3. Yêu cầu đối với độc giả:
- Phải đi sâu tìm ra được cái mạch nguồn cảm xúc dạt dào mà sâu kín của người nghệ sĩ.
IV. ĐẶC TRƯNG CỦA THỂ LOẠI THƠ
1. Đặc trưng cơ bản:
- Thơ ca là tiếng nói của tâm hồn, tình cảm của con người.
- Thơ bộc lộ những rung động mãnh liệt của trái tim nghệ sĩ trước cuộc đời.
- Thơ phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Hình tượng thơ gắn với cảm xúc, với tâm hồn.
- Một tác phẩm thơ có giá trị phải đảm bảo các yêu cầu:
+ Lời thơ phải đẹp (giàu hình ảnh, tinh tuý, hàm súc, có âm thanh nhịp điệu rõ rệt...)
+ Lời thơ phải chứa đựng cảm xúc mãnh liệt, cao đẹp, những suy ngẫm sâu sắc về con người cuộc đời.
2. Tình cảm trong thơ:
- Nói đến Thơ, người đọc không quên thơ là cảm xúc, là tâm hồn.
- Đồng thời, cảm xúc trong thơ ở dạng tính chất chọn lọc.
- Thơ ca là sản phẩm của cảm xúc con người, chính vì thế mà tâm hồn người viết có trong, có sáng, có
phong phú dạt dào thì mới tạo nên được những bài thơ hay.
- Tâm hồn con người không đơn thuần chỉ là những cảm xúc yêu, ghét, giận hờn, nó cịn là cảm quan, cách
đánh giá và cái nhìn của mỗi người vào cuộc sống. Thơ ca đòi hỏi một nền tảng vững chắc bắt rễ từ cảm
xúc chân thực, khách quan nhất của người làm thơ.
- Nhà thơ làm thơ là để tìm sự đồng cảm giữa những người tri âm tri ngộ. TÂM SÁNG - TÌNH SÂU chính
là mạch ngầm gắn kết một trái tim với triệu tâm hồn.
- Nhận định:
“Thơ là người thư kí trung thành của những trái tim” (Đuybrlay).
3. Thơ trong mối quan hệ hiện thực
5



- Thơ ca phải gắn mình vào nguồn mạch cuộc sống và nhịp nối giữa thơ với cuộc đời chính là tâm hồn, trí
tuệ nhà thơ.
- Cuộc sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca nói
riêng và nghệ thuật nói chung bao giờ cũng đi ra từ cuộc đời, cũng lớn lên từ hiện thực và rồi từ đó cánh
diều nghệ thuật sẽ nhờ gió đời mà cất cánh bay cao.
- Cuộc sống mênh mông vô tận sẽ là nơi cung cấp chất liệu cho Thơ. Cuộc sống với hơi thở ấm nóng sẽ tô
điểm cho những câu thơ, cho nghệ thuật: “Hãy nhặt lấy chữ đời mà góp nên trang” (Chế Lan Viên).
- Thơ ca khơi nguồn từ cuộc sống nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc đời, bóng dáng con
người. Thơ mang trong mình những buồn vui đau khở, rạo rực đắm say.
4. Ngôn ngữ thơ:
- Tính chính xác:
+ Ngôn ngữ thơ biểu hiện đúng điều thi nhân muốn nói, miêu tả đúng cái mà tác giả cần tái hiện.
+ Trong ngôn ngữ thơ ca, việc dùng từ trong sáng, chính xác cũng là sự sáng tạo, sự phát hiện độc đáo của
tác giả.
+ Sử dụng từ thích hợp.
- Mai-a-cop-xki đã từng viết:
“Phải phí tởn ngàn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Sử dụng từ thích hợp với đối tượng được miêu tả hoặc tạo ra ngữ cảnh thích hợp để từ ngữ lộ đúng nghĩa
của nó là bản chất của tính chính xác.
- Tính cô đọng, hàm súc (ý tại ngôn ngoại):
Người nghệ sĩ không phải là cái loa phát thanh cho ý tưởng của mình mà nói lên bằng ngôn từ có nhiều
sức gợi. Lời chật mà ý rộng, lời đã hết mà ý khôn cùng. Đây là cách dùng từ sao cho “ đắt” nhất, phù hợp
nhất.
- Tính đa nghĩa: Một tác phẩm văn chương vượt qua sự băng hoại của thời gian là tác phẩm luôn làm nảy
sinh nhiều cách hiểu.
- Ngôn ngữ thơ giàu nhịp điệu
5. Tính nhạc, họa trong thơ: (Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc)

- Tính nhạc:
+ “Thơ ca là nhạc của tâm hồn” (Vôn - te)
+ Thể hiện ở ngôn ngữ thơ giàu nhịp điệu.
- Tính họa:
+ Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng, nó địi hỏi phải tái hiện được bức tranh đời sống giàu có
và sinh động.
+ Muốn tác động trực quan đến người đọc, thơ phải giàu có về hình ảnh, phong phú về màu sắc, đường nét
nhằm làm hiển hiện trước mắt người đọc bức tranh tươi đẹp về cuộc sống.
5. Bài học:
- Đối với nhà văn:
+ Để sáng tạo nên những vần thơ đích thực, để vươn tới đỉnh cao của nghệ thuật chân chính, người nghệ
sĩ không những phải có tài mà cần phải có tâm, có tình cảm mãnh liệt, sống hết mình với cuộc đời, biết
xúc động nhạy cảm trước mọi niềm vui nỗi buồn của con người. Đồng thời, nhà văn cũng phải biết làm
lây lan tình cảm, gửi đến bạn đọc những thông điệp sâu sắc qua các phương tiện, hình thức nghệ thuật
đẹp đẽ.
+ gọt giũa, nhào luyện để tạo nên giá trị về nghệ thuật ngôn từ.
6


- Đối với người đọc: Để đánh giá một tác phẩm, khơng chỉ chú ý đến hình thức ngơn từ mà phải khám phá
ra chiều sâu tư tưởng, tình cảm mãnh liệt mà tác giả gửi gắm.
- Đối với lịch sử văn học: Để đánh giá giá trị một tác phẩm thơ ca đích thực phải xem xét tác phẩm có sự
hài hịa giữa nội dung và hình thức.
V. ĐẶC TRƯNG CỦA THỂ LOẠI TRUYỆN
1. Khái niệm:
Truyện ngắn (TN) là hình thức tự sự cỡ nhỏ, nội dung thể loại truyên ngắn bao gồm hầu hết các phương
diện của đời sống: đời tư, thế sự, sử thi… nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để
tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ.
2. Đặc điểm
2.1. Về dung lượng:

TN có dung lượng nhỏ, ngắn gọn mà cô đúc nên có sức ám ảnh lớn. Nó tập trung vào một hoặc một vài
biến cố trong một không gian, thời gian nhất định, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và sự liên tưởng cho người
đọc.
2.2. Về đề tài:
TN đề cập đến mọi đề tài phong phú, đa dạng, chạm đến mọi ngóc ngách đời sống con người. Trên cùng
một đề tài, mỗi nhà văn lại có cách khai thác khác nhau, đem lại sắc thái riêng cho tác phẩm của mình
2.3. Về kết cấu:
Tuy dung lượng nhỏ nhưng TN có thể có những kết cấu linh hoạt. Kết cấu TN không gồm không gian, thời
gian nhiều tầng bậc, nhiều tuyến, mà được tổ chức theo kiểu tương phản, liên tưởng. TN có thể có các kiểu
kết cấu sau đây:
– Kết cấu vòng tròn (đầu cuối tương ứng): CHÍ PHÈO (Nam Cao)
– Kết cấu theo trục thời gian: Truyện được kể theo thời gian, theo diễn biến của dòng sự kiện: Chữ người
tử tù (Nguyễn Tuân)
– Kết cấu tâm lý: Truyện được kể men theo dòng tâm lý nhân vật (NV), làm sáng rõ nội tâm NV và tạo sức
hấp dẫn cho câu chuyện: Đời thừa (Nam Cao)
– Kết cấu đồng hiện: Nhà văn miêu tả sự kiện, quan sát tình huống ở các địa điểm khác nhau trong cùng
một thời điểm. Kiểu kết cấu này đem lại khả năng mở rộng dung lượng cho tác phẩm: Bức tranh (Nguyễn
Minh Châu).
– Kết cấu trùng phức (kết cấu truyện lồng trong truyện): Người kể chuyện đứng ra ngoài, đóng vai trị là
đạo diễn để tở chức diễn biến câu chuyện qua lời kể, qua đó hoàn thiện chân dung NV: Mảnh trăng cuối
rừng (Nguyễn Minh Châu).
– Kết cấu mở: Truyện kết thúc nhưng cái kết còn để ngỏ, mở ra những khả năng liên tưởng rộng lớn: CHÍ
PHÈO (Nam Cao) Vợ nhặt (Kim Lân).
2.4. Về cốt truyện:
- Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự và tác phẩm
kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện
chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
– Dựa vào cốt truyện, có thể chia làm hai loại truyện:
+ Truyện không có cốt truyện (hoặc cốt truyện rất mờ nhạt): do chủ ý nghệ thuật của nhà văn chỉ nhằm thể
hiện diễn biến tâm trạng nhân vật trong mối liên hệ với hoàn cảnh. Truyện chỉ có những ý tưởng, không có

sự kiện gay cấn, thời gian cụ thể, thậm chí không có đầu đuôi (TN Thạch Lam).
+ TN có cốt truyện rất chú ý xây dựng những tình tiết, sự kiện bộc lộ tính cách của nhân vật và thúc đẩy
hướng phát triển, vận động của mạch truyện. Bản thân cốt truyện là hệ thống các sự kiện, được chia theo
lớp lang từ đầu đến cuối truyện. Các sự kiện càng gay cấn, nổi bật càng tạo kịch tính, sức hấp dẫn cho
truyện (CHÍ PHÈO – Nam Cao)
7


2.5. Về nhân vật:
– NV là linh hồn của tác phẩm, là người phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn.
– NV TN ít hơn tiểu thuyết và thường bắt buộc phải được xây dựng theo nguyên tắc điển hình hóa. NV
phải được đặt trong một hồn cảnh cụ thể, vừa mang tính chung phổ quát vừa mang tính riêng độc đáo.
Trong TN, NV là một mảnh nhỏ của thế giới, là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội
hoặc trạng thái tồn tại của con người, phát ngôn trực tiếp hoặc gián tiếp cho tư tưởng nhà văn.
– Ngồi ra, cịn có loại NV tư tưởng.
2.6. Về điểm nhìn và phương thức kể chuyện:
* Điểm nhìn:
- Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác
phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của người trần thuật với
những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng.
- Phân loại: điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn khơng gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn
tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, điểm nhìn tu từ…
* Phương thức kể chuyện:
– Trong TN, người ta thường dùng nhiều cách kể chuyện. Các nhà văn thường thay đổi cách kể và có thể
có các hình thức kể hỗn hợp. Có hai hình thức phở biến là:
+ Tường thuật lại q trình, diễn biến sự việc: Vợ nhặt (Kim Lân)
+ Miêu tả lại diễn biến sự kiện: Vi hành (Nguyễn Ái Quốc)
– Để nhận thức phương thức kể chuyện, người ta căn cứ vào các tình huống kể chuyện:
+ Tình huống khách quan: Tác giả đứng bên ngoài kể lại điều xảy ra: Chiếc lá cuối cùng (Ohenry)
+ Tình huống chủ quan: Tác giả hoặc người kể chuyện tự đóng vai trò là nhân vật chính của tác phẩm; kể

lại những sự kiện, hành động, việc làm, ý nghĩa hoặc mối quan hệ người – người, hoặc phân tích, bình luận
chung.
Cũng cần chú ý đến quan điểm của người trần thuật trong TN. Quan điểm đó thể hiện trong cách kể, nhưng
cũng có khi thái độ bề mặt qua ngôn ngữ lại đánh lừa ta (CHÍ PHÈO – Nam Cao). TN cũng thường có viễn
cảnh – khung cảnh được mở ra trong tương lai mà qua tác phẩm người đọc phát hiện hoặc cảm nhận được.
2.7. Về cách xây dựng tình huống:
– Tình huống truyện là “cái tình thế của câu chuyện”, là cảnh huống chứa đựng trong nó những mâu thuẫn,
xung đột hoặc những khả năng tiềm tàng để cốt truyện diễn tiến, phát triển, nhân vật bộc lộ tính cách.
– Vai trị của tình huống truyện trong tác phẩm.
Tình huống truyện có vai trò hết sức quan trọng, được ví như “cái chìa khóa vận hành cốt truyện”. Từ tình
huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Việc giải
quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và
dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám
phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn.
– Tình huống là thời điểm, khoảnh khắc nhất định trong tác phẩm, ở đó tập trung điểm nút chủ đạo trong
tác phẩm của nhà văn. Tạo tình huống là một đặc điểm thi pháp TN. Do dung lượng nhỏ, TN buộc phải tìm
đến một tình huống – tức là một khoảnh khắc đặc biệt trong đời sống – để thể hiện tập trung mối quan hệ
con người, bật sáng tư tưởng của bản thân tác giả. TN có thể có một hay nhiều tình huống, tạo thành một
hệ thống.
– Các kiểu tình huống truyện tiêu biểu là: tình huống nhận thức, tình huống tâm trạng, tình huống hành
động.
-> Tình huống TN thường rất độc đáo, ấn tượng, tạo hiệu quả thẩm mĩ cao.
8


2.8. Về chi tiết nghệ thuật:
– Theo Từ điển thuật ngữ văn học, chi tiết nghệ thuật là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về
cảm xúc và tư tưởng”. Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm
minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác
phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới con người, với truyền thống văn hoá

nghệ thuật nhất định.
Như vậy, chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với
người đọc khi nhận biết được các chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa
của hình tượng nghệ thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn.
– Đây là một yếu tố giữ vai trò trọng yếu trong tác phẩm tự sự. TN có thể thiếu cốt truyện nhưng không thể
thiếu chi tiết nghệ thuật.
– Chi tiết trong TN hay tiểu thuyết đều nhằm bộc lộ tính cách, tâm tư NV, đan dệt nên các tình huống
truyện, đều cùng có hai loại chi tiết: Chi tiết trung tâm và chi tiết phụ trợ. Nhưng chi tiết ở TN thường ẩn
chứa dung lượng phản ánh rất lớn. Cũng có nghĩa là tính cô đọng, hàm súc và tượng trưng của chi tiết cao.
Một chi tiết nổi bật có thể gợi cho người đọc liên tưởng đến cả một trạng thái nhân sinh xã hội, suy rộng ra
bề sâu, bề xa của nội dung phản ánh.
2.9. Về ngôn ngữ:
– Ngôn ngữ TN rất chọn lọc, cô đúc.
– Ngơn ngữ TN hiện đại cịn có các tính chất: tính biểu cảm, tính chính xác, tính hình tượng, tính hệ thống,
tính đa thanh, tính đối thoại.
– Đặc điểm trần thuật của TN: Tính chấm phá. Do không phản ánh cả một q trình cuộc sống trong khơng
gian rộng, thời gian dài như ở tiểu thuyết nên TN thiên về lối hành văn khơi gợi hơn là miêu tả tỉ mỉ, câu
văn nhiều ẩn ý, tạo chiều sâu cho tác phẩm.
3. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
3.1. Giá trị hiện thực
- Là phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh.
- Tác phẩm nào cũng có giá trị hiện thực. (Vì văn học bắt nguồn từ cuộc sống: hiện thực đời sống sinh hoạt
hàng ngày, hiện thực tình cảm, tâm lí…)
- Biểu hiện:
+ Phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé
nhỏ, bất hạnh.
+ Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người.
+ Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người.
VD: Cùng phản ánh tình cảnh khốn quẫn của người nông dân Việt Nam trước cách mạng, Ngô Tất Tố
miêu tả nỗi chật vật về vật chất của chị Dậu vì nạn sưu cao thuế nặng, một cở nhiều trịng, Nguyễn Cơng

Hoan phơi bày chân thực sự cùng đường tuyệt lộ của người nông dân (“Bước đường cùng”), Nam Cao lại
đi vào mảng hiện thực sâu kín nhất, tăm tối nhất – địa hạt tâm lí để lột trần bi kịch bị tha hoá, nỗi đau tinh
thần khắc khoải của những con người dưới đáy của xã hội – Chí Phèo.
- Vai trò:
+ Thể hiện cái nhìn hiện thực sâu sắc hay hời hợt của nhà văn.
+ Dấu hiệu của một tác phẩm có giá trị.
3.2. Giá trị nhân đạo
- Hạt nhân: lòng yêu thương con người.
- Đối tượng: thường là nỗi khổ.
- Biểu hiện:
+ Cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh.
9


+ Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người.
+ Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh.
+ Chỉ ra con đường, lối thoát cho nhân vật: Đặc điểm này khơng hồn tồn có trong tất cả các TP. Nó phụ
thuộc vào nhận thức và khả năng dự đốn trước hiện thực của nhà văn, nhờ đó nhà văn chỉ ra được con
đường giải quyết những bế tắc của số phận nhân vật, hoặc tạo ra những chi tiết viễn tưởng, kỳ ảo như một
lối thoát cho nhân vật khi mà mọi nẻo đường ở thực tại hay ở chốn nhân gian đều khơng có khả năng thay
đởi được hoàn cảnh.
Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi phong phú, linh hoạt. Chẳng hạn, cùng viết về
người phụ nữ với cái nhìn trân trọng, yêu thương sâu sắc, Ngô Tất Tố khám phá ở Chị Dậu vẻ đẹp truyền
thống, thuỷ chung, khơng tì vết; Kim Lân phát hiện ra nét nữ tính và khát vọng hạnh phúc bất diệt trong
tâm hồn người vợ nhặt, cịn Tơ Hồi thì khơi tìm sức sống tiềm tàng, mãnh liệt nơi cô gái vùng cao - Mị…
- Vai trò:
+ Thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhà văn
“Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Biêlinxki)
+ Là một trong những dấu hiệu của một tác phẩm giàu giá trị (Văn học là nhân học. Nghệ thuật chỉ có
nghĩa khi hướng tới con người, yêu thương con người).

* Mối quan hệ giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo:
+ Gắn bó hài hoà trong một tác phẩm.
+ Các khía cạnh biểu hiện nhìn chung tương đồng chỉ khác biệt ở chỗ: nếu nói giá trị hiện thực là nhắc tới
sự trình bày, miêu tả hiện thực một cách tương đối khách quan thì nói tới gía trị nhân đạo tức là đã bao hàm
thái độ của nhà văn (cảm thông, thương xót, đồng tình, ngợi ca…)

10



×