Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

(Skkn 2023) một số giải pháp để dạy kiểu bài tác gia văn học trong chương trình ngữ văn thpt theo mô hình lớp học đảo ngược nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho người học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.66 MB, 87 trang )



MỤC LỤC
Nội dung trình bày

TT
PHẦN I

Trang

ĐẶT VẤN ĐỀ

1

1

Lý do chọn đề tài

1

2

Mục đích nghiên cứu

2

3

Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3



4

Giả thuyết khoa học

3

5

Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

4

6

Phương pháp nghiên cứu

5

7

Những luận điểm cần bảo vệ của đề tài

5

8

Đóng góp mới của đề tài

6


PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1

Những nghiên cứu về “Lớp học đảo ngược”.

9
9
9

2

Dạy học theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất cho
người học.

11

3

Kiểu bài tác gia trong nhà trường phổ thông.

13

CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

15

1


Khảo sát thực trạng về dạy và học kiểu bài tác gia và việc sử
dụng mơ hình để dạy kiểu bài tác gia ở trong nhà trường THPT.

15

2

Đánh giá về thực trạng của việc vận dụng mơ hình “ Lớp học đảo
ngược” để dạy kiểu bài tác gia ở trường THPT qua khảo sát.

16

CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ DẠY KIỂU BÀI
TÁC GIA VĂN HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ
VĂN THPT THEO MƠ HÌNH “ LỚP HỌC ĐẢO NGƯỢC”
NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ PHẨM CHẤT CHO
NGƯỜI HỌC.

19

Một số giải pháp để dạy kiểu bài tác gia văn học trong chương
trình Ngữ văn THPT theo mơ hình “ Lớp học đảo ngược” nhằm
phát triển năng lực và phẩm chất cho người học.

19

1


1.1


Giải pháp 1: Xây dựng hồ sơ học tập điện tử cho học sinh để dạy
học kiểu bài tác gia theo mơ hình “ Lớp học đảo ngược”

19

1.2

Giải pháp 2: Xây dựng hệ thống câu hỏi theo các cấp độ tư duy
trong thang đo Bloom để dạy học kiểu bài tác gia theo mơ hình

24

“ Lớp học đảo ngược”
1.3

Giải pháp 3: Kiểm tra, đánh giá, nhận xét hoạt động tự học của
học sinh khi dạy học kiểu bài tác gia theo mơ hình “ Lớp học đảo
ngược”

32

1.4

Giải pháp 4: Tổ chức hoạt động tìm hiểu kiến thức nâng cao cho
học sinh bằng phương pháp thảo luận nhóm khi dạy học kiểu bài
tác gia theo mơ hình “ Lớp học đảo ngược”

35


2

Mối quan hệ giữa các giải pháp đề xuất

38

3

Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất.

38

3.1

Mục đích, yêu cầu khảo sát sự cấp thiết, tính khả thi

38

3.2

Đối tượng, địa bàn, thời gian và quy trình khảo sát

39

3.3

Khảo sát sự cấp thiết, tính khả thi

40


3.4

Đánh giá mối tương quan giữa sự cấp thiết và tính khả thi của
các giải pháp đã đề xuất.

44

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

47

1

Kết luận

47

2

Khuyến nghị

48

TÀI LIỆU THAM KHẢO

50

PHẦN III

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN

TT

Cụm từ đầy đủ

Chữ viết tắt/ Kí hiệu

1

CNTT

Cơng nghệ thơng tin

2

GD

Giáo dục

3

GD - ĐT

Giáo dục - Đào tạo

4

GDPT

Giáo dục phổ thông


5

GV

Giáo viên


6

HS

Học sinh

7

HSHT

Hồ sơ học tập

8

LHĐN

Lớp học đảo ngược

9

NCKH

Nghiên cứu khoa học


10

NL

Năng lực

11

PC

Phẩm chất

12

PP

Phương pháp

13

PPDH

Phương pháp dạy học

14

PPGD

Phương pháp giáo dục


15

PT

Phổ thông

16

SGK

Sách giáo khoa

17

THPT

Trung học phổ thông


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
William Arthur Ward - nhà GD người Mỹ - từng khẳng định: “Người thầy
trung bình chỉ biết nói. Người thầy giỏi chỉ biết giải thích. Người thầy xuất chúng
biết minh họa. Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng…” Quả thật, từ bao
đời nay, dù nền GD cũ hay mới, dù truyền thống hay hiện đại, người thầy ln
đóng vai trò quyết định đến chất lượng đào tạo của một cơ sở GD. Là GV, ai cũng
đều mong muốn mình sẽ trở thành người thầy truyền lửa, truyền cảm hứng cho bao
thế hệ học trò. Muốn vậy, mỗi chúng ta, những người GV của thời đại mới, thời
đại công nghệ tri thức 4.0, luôn phải đổi mới PPDH, đổi mới hình thức đánh giá

người học, tạo cơ hội cho HS được học tập chủ động, sáng tạo; giúp HS hình thành
những NL và PC cần thiết của con người thời đại hơm nay.
Chương trình GDPT 2018 với u cầu đổi mới căn bản toàn diện GD
và định hướng đổi mới PPGD và đánh giá kết quả GD theo định hướng PC, NL đã
yêu cầu GV phải áp dụng các PP tích cực hố hoạt động của HS trong đó người
thầy đóng vai trị tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho HS, tạo mơi trường học tập
thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích HS tích cực tham gia
vào các hoạt động học tập, tự phát hiện NL, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện
thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kĩ năng đã
tích luỹ được để phát triển. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của các nhà trường, đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay, ngành giáo dục đang đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ bồi
dưỡng cán bộ quản lí và đội ngũ GV thực hiện Chương trình GDPT 2018.
Môn Ngữ Văn trong nhà trường PT là môn học thuộc lĩnh vực GD ngôn ngữ
và văn học, kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật, thông qua các văn bản ngơn từ và
những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt
động đọc, viết, nói và nghe. Đây là một mơn học vừa có tính cơng cụ, vừa có tính
thẩm mĩ - nhân văn, mơn học giúp HS hình thành, phát triển các năng lực chung và
năng lực môn học. Để làm được điều đó, mỗi GV Ngữ Văn cần trang bị cho mình
những PPDH phù hợp. Trong bài viết “Chương trình Ngữ văn trong nhà trường
phổ thông Việt Nam và hướng phát triển sau năm 2015”, PGS.TS Đỗ Ngọc Thống
cũng đã từng đưa ra quan điểm: “Dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng
cần tập trung hình thành cho học sinh PPDH và học PP học. PPDH dạy học phải
tạo cho học sinh tính hiếu kỳ, tị mị (curiosity) và sự đam mê (passion) để tự họ đi
tìm và tự lý giải, qua đó mà hình thành NL”. Chương trình GDPT 2018 cũng đã đặt
ra yêu cầu đối với GV Ngữ Văn là cần “sử dụng đa dạng các PP, hình thức và
phương tiện dạy học, trong đó cần khuyến khích HS tự tìm đọc, biết cách thu thập,
chọn lọc tài liệu trong thư viện và trên Internet để thực hiện các nghiên cứu cá
nhân hay theo nhóm, sau đó trình bày, thảo luận kết quả nghiên cứu trước lớp, rèn
luyện kĩ năng sử dụng các phương tiện CNTT để hỗ trợ cho việc trình bày.”


1


Một trong những PPDH vừa giúp môn Ngữ Văn đạt được những yêu cầu của
môn học vừa giúp HS đạt được những yêu cầu về PC và NL của người học theo
chương trình GDPT 2018 là sử dụng mơ hình LHĐN. Đây là mơ hình dạy học kết
hợp sử dụng cơng nghệ thơng tin nhằm thúc đẩy q trình học tập bên ngoài lớp
học. Đây là một xu thế dạy học đã và đang ngày càng phổ biến trong giáo dục trên
thế giới. Thế giới ngày càng phẳng, người học có nhiều lựa chọn và cơ hội để tự
học hiệu quả với sự hỗ trợ của các tài liệu học phong phú trên Internet. Với mơ
hình này, GV có thể đưa ra các hình thức như đọc và tóm tắt tài liệu về bài học
mới, trả lời câu hỏi, hoặc hoàn thành phiếu bài tập để kiểm tra sự hiểu biết của
người học. Mơ hình này khơng chỉ hướng tới sự chủ động tích cực của người học
mà cịn chú trọng sự tương tác giữa người học và GV, người học tham gia phát
biểu, thảo luận, xây dựng bài giảng, chốt kiến thức cùng GV. Như vậy, mọi hoạt
động học trên LHĐN đều xoay quanh người học, lấy người học làm trung tâm,
thúc đẩy học trị tích cực và năng nổ hơn. Để phát huy tính tích cực, chủ động học
tập của HS, mở rộng hình thức học tập với sự linh hoạt về thời gian, không gian, sự
phong phú, hấp dẫn trong những học liệu đa phương tiện, mô hình “LHĐN” là một
cách thức hữu hiệu để dạy học đạt hiệu quả.
Trong chương trình Ngữ Văn THPT, chúng tơi nhận thấy kiểu bài về tác gia
văn học cũng chiếm một thời lượng lớn, lớp 10 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc
sống) tác gia Nguyễn Trãi ( 2 tiết), lớp 11- ban cơ bản - Tác gia Nguyễn Đình
Chiểu ( 2 tiết), Tác giả Nam Cao ( 2 tiết), lớp 12- ban cơ bản, Tác gia Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh ( 2 tiết); Tác giả Tố Hữu ( 2 tiết). Tổng thời lượng kiểu bài
tác gia là 10 tiết.
Có thể thấy đây là kiểu bài có khối lượng kiến thức rất rộng. HS vốn kiến
thức chưa nhiều, nếu khơng tự học, tự tìm hiểu kiến thức trước, HS rất khó để nắm
vững bài học. Ở trong kiểu bài này, có những kiến thức HS có thể tự đọc hiểu,
nhưng cũng có nhiều đơn vị kiến thức khó tiếp nhận. GV rất khó để hồn thành

mục tiêu bài học, nhất là khó phát huy hết NL, PC người học trong thời gian lên
lớp nếu dạy theo cách học truyền thống. Vì vậy nếu sử dụng mơ hình LHĐN
(Flipped classroom), quỹ thời gian dành cho bài học sẽ rộng hơn, linh hoạt hơn –
thời gian trước trong và sau khi lên lớp. HS có nhiều thời gian hiểu, suy ngẫm, vận
dụng kiến thức. Để sử dụng hiệu quả mơ hình LHĐN này trong việc dạy kiểu bài
tác gia ở chương trình GDPT, GV cần có những giải pháp cụ thể, những giải pháp
có sơ sở khoa học và có tính khả thi.
Với những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài Một số giải pháp để dạy kiểu
bài tác gia văn học trong chương trình Ngữ văn THPT theo mơ hình “Lớp học
đảo ngược” nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho người học làm đối
tượng nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng dạy học của bản thân, đồng thời mong
muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào cơng cuộc đổi mới căn bản, tồn diện của
ngành giáo dục nước nhà trong giai đoạn hiện nay.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

2


- Đối với HS:
+ Giúp HS hứng thú với việc tự tìm hiểu kiến thức về các bài tác gia văn học
trong nền văn học dân tộc và thế giới. Từ đó hình thành ở các em NL tự học, tự
nghiên cứu tìm hiểu và NL giải quyết vấn đề trên hành trình khám phá và đúc kết
tri thức cho chính mình.
+ HS tự hình thành và bồi dưỡng những PC, NL cần thiết để nhằm góp phần
hồn thiện bản thân, đáp ứng yêu cầu con người thời đại mới.
- Đối với GV:
+ Tìm được PPDH tích cực tạo hiệu quả học tập cao khi dạy kiểu bài tác gia
theo mơ hình LHĐN, đồng thời nắm được thực trạng của việc hình thành, phát
triển những PC, NL cần thiết cho HS khi GV dạy kiểu bài tác gia trong nhà trường
PT.

+ Giúp bản thân nâng cao trình độ chun mơn; thực hiện đổi mới PPDH.
+ Mong muốn sẽ có những đóng góp hữu ích cho việc đổi mới hình thức dạy
học đối với kiểu bài tác gia nói riêng và hoạt động đổi mới dạy học Ngữ văn trong
nhà trường PT nói chung.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể:
- HS 3 khối (Khối 10,11,12) trong trường THPT Phan Đăng Lưu
- 31 GV trong các trường THPT ở huyện Yên Thành và 1 số trường huyện lân cận.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: là một số giải pháp để dạy kiểu bài tác gia văn
học trong chương trình Ngữ văn THPT theo mơ hình LHĐN nhằm phát triển PC,
NL cho người học trong kế hoạch bài dạy các bài tác gia trong SGK Ngữ văn
chương trình 10,11,12. Những giải pháp ấy được chúng tôi thực hiện trong các bài
về tác gia trong chương trình Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay, cụ thể
như sau:
+ Chương trình lớp 10 ( Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống): Văn bản 1 - Tác
gia Nguyễn Trãi ( Bài 6: Nguyễn Trãi “ Dành còn để trợ dân này”) ( 2 tiết)
+ Chương trình lớp 11 - Ban cơ bản - (4 tiết):
Bài Tác gia Nguyễn Đình Chiểu (2 tiết)
Bài Tác giả Nam Cao (2 tiết)
+ Chương trình lớp 12 - Ban cơ bản - (4 tiết): Bài Tác gia Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh (2 tiết); Bài Tác giả Tố Hữu. (2 tiết)
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
- Nếu khơng sử dụng các giải pháp có cơ sở khoa học mà chúng tôi đề ra trong
đề tài NCKH này thì giờ học kiểu bài tác gia vẫn rất khó có thể giúp HS đạt được

3


những mục tiêu mà bài dạy tác gia muốn hướng đến người học. Học sinh khó
cảm thấy hào hứng đối với bài học, vì lượng kiến thức của bài dạy quá phong phú

mà HS lại chưa được trải nghiệm. HS vốn dĩ đã lười học nay càng lười hơn, rất
khó để hình thành tinh thần tự giác cho các em.
- Nếu trong kế hoạch bài dạy tác gia trong nhà trường PT đều thực hiện đồng bộ
các giải pháp có sơ sở khoa học, có tính khả thi mà chúng tơi đề ra trong cơng
trình NCKH này thì hiệu quả học tập sẽ đạt được những mục tiêu mong muốn của
kiểu bài này. Đầu tiên HS sẽ tự tiếp cận được với những kiến thức bài học ở 2
mức độ nhận biết, thông hiểu một cách tự giác. Khi các em tự nắm được kiến
thức cơ bản, các em sẽ nhớ kiến thức lâu hơn. Tiếp đến, giờ học trên lớp bây giờ
chỉ là giúp các em khắc sâu kiến thức, nâng cao kiến thức thơng qua q trình
tương tác giữa GV-HS; HS-GV; HS-HS; Khi đó chúng ta sẽ tạo điều kiện cho các
em nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của mình về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
của các tác gia mà mình đang tìm hiểu và tranh luận. Quá trình ấy, GV rất dễ hình
thành cho HS những NL, PC cần thiết từ bài học tác gia. Tóm lại, nếu khơng có
những giải pháp mà chúng tơi đề xuất thì giờ dạy học bài tác gia rất khó để thành
cơng.
5. NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đề tài chúng tôi tập trung đi vào nghiên cứu lý luận về mơ hình LHĐN,
dạy học theo NL, PC của người học và kiểu bài tác gia trong nhà trường PT.
- Khảo sát đánh giá thực trạng dạy học kiểu bài tác gia, và sử dụng mơ hình
“LHĐN” để dạy kiểu bài này trong nhà trường PT.
- Từ cơ sở lý luận và khảo sát thực trạng ấy, chúng tôi đã đề xuất những giải
pháp NCKH cho đề tài SKKN của mình.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Đề tài NCKH của chúng tôi tập trung nghiên cứu 4 giải
pháp trên khi dạy học kiểu bài tác gia theo mơ hình LHĐN. Chúng tôi đi sâu
nghiên cứu 4 giải pháp sau:
+ Giải pháp 1: Xây dựng hồ sơ học tập điện tử cho học sinh để dạy học kiểu
bài tác gia theo mơ hình “LHĐN”
+ Giải pháp 2: Xây dựng hệ thống câu hỏi theo các cấp độ tư duy trong

thang đo Bloom để dạy học kiểu bài tác gia theo mô hình LHĐN
+ Giải pháp 3: Kiểm tra, đánh giá, nhận xét hoạt động tự học của học sinh
khi dạy học kiểu bài tác gia theo mơ hình “LHĐN”
+ Giải pháp 4: Tổ chức hoạt động tìm hiểu kiến thức nâng cao cho học sinh
bằng phương pháp thảo luận nhóm khi dạy học kiểu bài tác gia theo mơ hình
“LHĐN”.

4


Chúng tôi tin rằng những giải pháp mà chúng tôi đưa ra trong cơng trình
NCKH của mình hồn tồn có cơ sở khoa học, có cơ sở lí luận từ việc đổi mới
PPDH trong chương trình Ngữ Văn và định hướng phát triển NL, PC cho HS theo
chương trình GDPT 2018, và hồn tồn có tính khả thi trong thực tiễn dạy học khi
dạy kiểu bài tác gia.
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài NCKH của chúng tôi được nghiên cứu trong thời
gian 2 năm, sau khi chúng tôi thực hiện thí điểm dạy học ở những lớp mà bản thân
và đồng nghiệp trường mình dạy học trong các năm học 2021-2022 và năm học
2022-2023.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này NCKH này, chúng tôi đã sử dụng phối hợp nhiều PP
thuộc hai nhóm: nghiên cứu lý thuyết (tài liệu) và nghiên cứu thực tiễn. Những PP
chính sẽ được chúng tôi sử dụng là:
- PP so sánh
- PP thực nghiệm khoa học
- PP phân tích, bình luận
- PP điều tra, khảo sát
- PP kiểm tra
7. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CẦN BẢO VỆ CỦA ĐỀ TÀI
- Trong phạm vi đề tài NCKH này, như tên gọi của nó, chúng tơi tập trung bảo vệ

cơng trình nghiên cứu của mình đó là: một số giải pháp để dạy kiểu bài tác gia văn
học trong chương trình Ngữ văn THPT theo mơ hình LHĐN nhằm phát triển PC,
NL cho người học.
- Đề tài của chúng tôi đi vào khẳng định các vấn đề sau:
+ Xây dựng hồ sơ học tập điện tử cho học sinh là điều cần thiết khi dạy học kiểu
bài tác gia theo mơ hình “LHĐN”.
+ Xây dựng hệ thống câu hỏi theo các cấp độ tư duy trong thang đo Bloom để đánh
giá mục tiêu học tập và kỹ năng của HS trong quá trình học kiểu bài tác gia theo
mơ hình “LHĐN” .
+ Kiểm tra, đánh giá, nhận xét hoạt động tự học của học sinh là điều cần thiết để
nắm bắt quá trình học tập của các em khi học bài tác gia theo mô hình “LHĐN”,
đồng thời giúp các em sớm hình thành NL tự học.
+ Tổ chức hoạt động tìm hiểu kiến thức nâng cao cho học sinh bằng PP thảo luận
nhóm khi dạy học kiểu bài tác gia theo mơ hình LHĐN là điều cần thiết để giúp
các em vừa nâng cao kiến thức, vừa vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề
được đặt ra từ bài học. Trên cơ sở đó, GV hình thành cho các em những NL, PC
cần thiết của người học.

5


- Những giải pháp mà chúng tôi đề xuất đã được đúc rút từ thực tiễn quá trình thực
nghiệm giảng dạy của bản thân và đã được đánh giá cao trong quá trình khảo sát
GV ở các trường THPT trong huyện Yên Thành, trong tỉnh Nghệ An, đều nhận
được kết quả về tính khả thi rất cao.
Có thể thấy đề tài NCKH này của chúng tôi chưa được cá nhân, tập thể và
cơng trình khoa học nào cơng bố trên sách báo và diễn đàn giáo dục hiện nay. Đây
cũng là đề tài được tổ chuyên môn và hội đồng khoa học trườngTHPT Phan Đăng
Lưu ghi nhận và đánh giá cao, đề xuất xét sáng kiến dạy học cấp Ngành năm học
2022-2023.

8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài Một số giải pháp để dạy kiểu bài tác gia văn học trong chương
trình Ngữ văn THPT theo mơ hình “Lớp học đảo ngược” nhằm phát triển
năng lực và phẩm chất cho người học là đề tài hoàn toàn mới của chúng tôi. Qua
nguồn tài liệu trên Internet và Cổng thông tin điện tử của Sở GD-ĐT Nghệ An,
chúng tôi nhận thấy có một đề tài NCKH về kiểu bài tác gia “Một số giải pháp
nâng cao hiệu quả dạy học phần tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT” của
tác giả Lương Thị Kim Khánh, Trường THPT Hướng Hóa, Quảng Trị. Hồn tồn
chưa có đề tài NCKH như chúng tơi đang nghiên cứu. Vì vậy chúng tơi có thể
khẳng định đây là vấn đề mới. Chúng tôi tin rằng đề tài của mình vẫn có những
đóng góp mới mẻ cho việc dạy học Ngữ Văn trong nhà trường PT. Sau đây tơi xin
điểm qua 4 điểm đóng góp mới trong đề tài NCKH của chúng tơi:
- Thứ nhất, tính mới thể hiện ở việc những giải pháp mà chúng tôi đặt ra trong
đề tài của mình sẽ chú trọng phát triển cho HS 4 kỹ năng đọc, viết, nói, nghe ở
những bài học về tác gia. Đặc biệt là kĩ năng đọc, 1 kĩ năng mà người HS bây giờ
ngại nhất, khơng chỉ trong q trình học mơn Ngữ văn mà cịn với rất nhiều mơn
học khác. Với việc thực hiện dạy học theo lớp học đảo ngược, bắt buộc HS phải
đọc, nghe, xem bài giảng trước ở nhà. Khi các em đọc ở nhà, nghĩa là các em có
thời gian, các em sẽ tìm thấy nhiều điểm thú vị ở bài tác gia văn học, nhất là về
cuộc đời và những sáng tác đặc sắc của họ, những sáng tác có giá trị tư tưởng và
nghệ thuật lớn đối với thời đại. Khi đó GV sẽ kích thích tinh thần ham học, ham
đọc của HS. Chỉ khi các em đã đọc rồi, các em mới rèn luyện và phát triển cho
mình các kĩ năng nghe, nói, viết trong q trình học tập trên lớp.
- Thứ 2, một điểm mới không thể không nhắc tới trong đề tài của chúng tơi
đó là góp phần chú trọng hình thành, phát triển cho HS những NL, PC tối quan
trọng hiện nay cho người học. Như đã nói ở tính mới thứ nhất của đề tài, khi HS
phát huy và phát triển được các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe thì HS sẽ hình thành
được các NL cần có của mình, những NL chung và NL chuyên biệt của phân môn.
Khi các NL cốt lõi của học sinh được phát huy và phát triển thì những PC tốt đẹp
trong các em cũng được khơi gợi, sống dậy và phát triển mạnh mẽ. Đó cũng chính

là mục đích đổi mới mà giáo dục nước nhà đang hướng đến. Với đề tài này, ngoài
NL chuyên biệt, chúng tơi muốn chú tâm hình thành rõ nhất cho HS 3 năng lực
6


quan trọng nhất của thời đại hôm nay, NL tự học và NL sáng tạo và NL sử
dụng CNTT. Tại sao chúng tôi lại quan tâm điều này? Bởi trong xu thế thời đại
hôm nay, thời đại mà HS dễ dàng được khám phá thế giới đa dạng của thông tin và
kiến thức qua chiếc điện thoại thông minh mà bất cứ em nào cũng có nên các em
rất dễ lười học và lười suy nghĩ. Khi cần giải quyết bất cứ vấn đề kiến thức nào,
lúc nào việc đầu tiên các em làm là tra google hoặc search các trang mạng xã hội
để tìm lời giải. Chính điều đó đã khiến các em ngày càng thiếu tính tự học và tính
sáng tạo. Với việc dạy học bài tác gia theo mơ hình “LHĐN”, buộc HS phải tự học
trước ở nhà, lên lớp các em phải vận dụng NL sáng tạo của mình để giải quyết vấn
đề được GV đặt ra. Khi đó NL sáng tạo tất yếu hình thành. Chúng tôi thiết nghĩ
đây cũng là điều mà bất cứ bố mẹ HS nào, thầy cô nào cũng mong muốn tìm thấy ở
các em. Hay với đề tài này của chúng tơi, HS buộc phải phát triển cho mình NL
Tin học, NL Công nghệ khi khám phá kiến thức bài học. Đây cũng là NL mà thời
đại của chúng ta đang rất cần. Bên cạnh việc giúp HS hình thành những NL ấy, đề
tài này của chúng tôi đã thể hiện rất rõ 5 PC mà HS cần hướng đến ( Yêu nước,
chăm chỉ, nhân ái, trung thực, sống có trách nhiệm), đặc biệt là nó đã phát huy rõ
nhất các PC quan trọng như phẩm chất chăm chỉ, yêu nước và nhân ái, những
phẩm chất mà với những bài học bình thường khi chưa có thực hiện các giải pháp
đề tài đưa ra ta rất khó hình thành được cho người học. Tại sao chúng tôi lại trăn
trở điều này? Bởi trong thời đại hôm nay, rất nhiều HS được bố mẹ bao bọc, chở
che trong một cuộc sống đầy đủ nên các em thiên về lối sống hưởng thụ, dễ lười
biếng; hơn nữa sống trong cuộc sống thanh bình các em dễ qn đi những đóng
góp lớn của thế hệ cha anh trong việc sáng tạo ra di sản văn hóa tinh thần dân tộc,
các em thiếu quan tâm tới những giá trị văn hóa của dân tộc, những yếu tố được
xem là nền tảng để giúp các em lựa chọn cho mình cách ứng xử phù hợp trong xu

thế hội nhập. Nếu các em học bài tác gia theo PPDH truyền thống, các em sẽ khó
nắm bắt hết những tác động của xã hội với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác
gia nên các em khó tìm thấy sức hấp dẫn của mỗi bài học. Thế nhưng với việc dạy
học theo mơ hình “LHĐN” này, HS buộc phải chăm chỉ để tự học, hay việc HS
được xem những vi deo, tư liệu về tác gia trước khi đến lớp, HS sẽ hiểu sâu hơn
những dấu ấn trong cuộc đời và sáng tác của họ, sẽ thấy được những tác động tích
cực, to lớn của mỗi tác gia đối với con người và dân tộc mình. Từ đó, GV dễ
hướng HS đến với lịng biết ơn, kính trọng, ngưỡng mộ đối với những con người
có những đóng góp lớn cho văn hóa dân tộc, tự hào hơn về những đóng góp văn
hóa của thế hệ tiền bối. Đây cũng là vấn đề khiến chúng tôi quan tâm nhất khi
quyết định lựa chọn đề tài này để nghiên cứu.
- Điểm mới thứ ba chính là đề tài NCKH của chúng tơi sẽ góp phần giúp HS tinh
thần học tập tích cực, chủ động, sáng tạo và hứng khởi. Bởi ở lớp học đảo ngược
này, HS có nhiều quyền kiểm soát việc học của bản thân nên các em có thể tự tìm
hiểu thêm những đơn vị kiến thức mà mình hồn tồn chưa hiểu để khám phá kiến
thức sâu sắc hơn. HS không hề bị động khi tiếp nhận kiến thức, ngược lại các em
hoàn toàn thoải mái tự tìm hiểu, tiếp thu, trao đổi kiến thức, hình thành ý tưởng

7


học tập theo sở thích khám phá của mình. Ngồi ra, nếu cách dạy quen thuộc của
chúng ta hiện nay mỗi khi dạy bài tác gia văn học là GV thường chỉ sử dụng
phương tiện SGK hoặc giáo án PowerPoint để tương tác với HS; HS chỉ tiếp nhận
tri thức chủ yếu qua kênh chữ cung cấp thông tin, kênh hình ảnh về tác giả ở mỗi
bài thì với mơ hình LHĐN, HS có điều kiện tích hợp những nội dung của bài học
với kiến thức địa lí ( quê hương tác gia, không gian tác gia sống, sáng tác tác
phẩm), âm nhạc ( những bài hát gợi cảm hứng từ cuộc đời tác gia, hay bài hát phổ
nhạc từ thơ của các tác gia), điện ảnh ( HS xem trước phim tư liệu, vở kịch về tác
gia, phim chuyển thể từ tác phẩm văn học của mỗi tác giả, phim về thời đại tác gia

sống; hay HS tự diễn xuất về cuộc đời tác gia...)...Qua đó, HS cũng nhận thức được
NL vượt trội của mình khi khám phá kiến thức bài học; đồng thời HS có cơ hội trải
nghiệm những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác gia văn học một
cách sâu nhất. Đây chính là điều mà bất cứ HS nào cũng thích thú.
- Điểm mới thứ 4 và cũng là điểm mới cuối mà đề tài chúng tơi hướng đến đó là
với việc sử dụng các giải pháp ấy trong quá trình dạy kiểu bài tác gia sẽ giúp giáo
viên điều tiết giờ dạy linh hoạt, dễ định hướng được trọng tâm bài học trên nền
thông tin kiến thức phong phú, đa dạng của bài tác gia, dễ có thời gian để tương tác
với học sinh về những vùng kiến thức này. Khi đó bài dạy của chúng ta khơng cịn
sợ “cháy”, hay “lụt” nữa. Khi đã rõ trọng tâm bài dạy, HS sẽ dễ nắm kiến thức
trọng tâm của bài một cách sâu sắc, các em sẽ nhớ kiến thức lâu hơn, sâu sắc hơn,
và dễ dàng hình thành cho mình nhiều kĩ năng sống từ cuộc đời và sự nghiệp sáng
tác của tác gia. Một giờ học như thế chắc chắn là đã thành công.
Như vậy, với những điểm mới trên, đề tài của chúng tôi đã đáp ứng được
yêu cầu về đổi mới PPDH và mục tiêu giáo dục của chương trình GDPT 2018. Đề
tài NCKH của chúng tơi đã xây dựng được hệ thống giải pháp khoa học, mạch lạc
có tính khả thi cao, dễ áp dụng trong dạy học kiểu bài tác gia nói riêng và chương
trình Ngữ văn trong nhà trường THPT nói chung.

8


PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ LHĐN.
1.1. Khái niệm LHĐN.
“LHĐN”(Flipped classroom) là một phương pháp đào tạo mới trong đó cung
cấp nội dung học tập cho người học học tập trước khi vào lớp. Đây là một mơ hình
dạy học mới ra đời khoảng trong khoảng 10 – 15 năm nay ở Mỹ, được áp dụng
rộng rãi trong nhiều trường học, từ tiểu học, trung học đến đại học, đã đảo ngược

cách tổ chức dạy học theo lớp học truyền thống. "LHĐN là một mơ hình truyền đạt
trong đó các yếu tố bài giảng điển hình và bài tập về nhà được đảo ngược cho
nhau. HS (ví dụ như ở nhà) xem các bài giảng video ngắn trước buổi học. Trong
khi đó, thời gian trên lớp dành cho các bài tập, đồ án, HS hỏi sâu hơn về nội dung
bài giảng đã xem và tham gia vào các hoạt động thực hành, đồng thời giảng viên
kiểm tra khả năng áp dụng kiến thức của HS."
- Nếu ở lớp học truyền thống người học đến lớp nghe thầy cô giảng bài rồi trở về
nhà làm bài tập thì ở LHĐN lại hồn toàn đảo ngược lại. Tại đây, người học phải
xem các tài liệu học tập ( hồ sơ môn học, slide bài giảng, video, giáo trình, các bài
hướng dẫn…) ở nhà thông qua hệ thống quản lý học tập (classroom, messenger,
zalo, …). Giờ học trên lớp bây giờ chỉ giành cho các hoạt động tương tác giữa thầy
và trò, giữa trò và trò để củng cố thêm các đơn vị kiến thức HS đã tìm hiểu. Với
LHĐN này, người dạy và người học thảo luận, nghiên cứu sâu hơn về các vấn đề
trong nội dung bài học.
- Đây là mơ hình dạy học rất linh hoạt, sáng tạo, người học có thể tự mình lựa chọn
cách thức, thời gian, nơi học tập phù hợp với điều kiện cá nhân. Với không gian
cho HS năng động, tiếp thu lĩnh hội tri thức và tự đánh giá kết quả học tập của bản
thân. Đối với GV thì có thể quan sát, hướng dẫn, giúp đỡ HS chưa hiểu rõ bài
giảng và đánh giá từng HS theo nhiều phương diện. Với nguyên tắc dạy học lấy
HS làm trung tâm ở mơ hình LHĐN ln được đảm bảo thời gian học ở lớp; giúp
HS chia sẻ, khám phá và tạo ra những cơ hội học tập thú vị, bổ ích về các tri thức
khoa học về chủ đề học tập của mình. Việc truyền tải nội dung bài học thông qua
nhiều kênh như những bài giảng giáo dục trực tuyến hoặc do GV thiết kế. Ứng
dụng CNTT trong dạy học là điều kiện quan trọng để triển khai LHĐN.
1.2. So sánh mơ hình Lớp học truyền thống với Lớp học đảo ngược

9


Trong mơ hình dạy học này, GV có nhiều cơ hội trong quan sát, tiếp xúc để hướng

dẫn, đánh giá từng HS, tạo không gian để HS năng động hơn trong việc thu nhận
kiến thức, hợp tác bạn bè và đánh giá được kết quả học tập của bản thân, nâng cao
năng lực tự học, tự đánh giá. Cơ sở khoa học của LHĐN là dựa trên 6 bậc thang đo
nhận thức của Bloom, từ thấp đến cao, gồm ghi nhớ, thơng hiểu, vận dụng, phân
tích, tổng hợp và đánh giá.
Trong lớp học truyền thống, thời gian bị giới hạn, GV chỉ hướng dẫn HS nội
dung bài học để đạt đước 3 mức độ đầu là ghi nhớ, thông hiểu và vận dụng. Để đạt
đến các mức độ nhận thức cao hơn, HS phải nỗ lực tự học tập và nghiên cứu ở nhà.
Đây chính là trở ngại lớn với đa số HS.
Mơ hình mới đã “đảo ngược” mơ hình truyền thống, cụ thể ba mức độ đầu
được HS thực hiện ở nhà, nhờ những video hướng dẫn, bài giảng ngắn của GV, bài
giảng trong kho tư liệu của trường hoặc trên mạng Internet. Còn thời gian ở lớp,
GV và HS sẽ cùng làm việc nhằm đạt được ba bậc cao hơn là phân tích, tổng hợp
và đánh giá.

1.3. Thiết kế các bài học theo LHĐN.
1.3.1. Trước giờ lên lớp:
GV xây dựng một lớp học ảo trên mạng, HS được cung cấp tài khoản tham gia,
thực hiện các nhiệm vụ học tập theo yêu cầu của GV. HS được cung cấp các học
liệu trên mạng (video bài giảng, tài liệu tham khảo…), tự tìm hiểu và hình thành
các kiến thức cơ bản của bài học.
1.3.2. Trong giờ học trên lớp:
GV tổ chức thảo luận các vấn đề theo nhiều hình thức khác nhau. Từ những
vấn đề lớn, nhỏ, HS phải tự tìm ra hướng tiếp cận, sau đó, GV mới kết luận và đưa
ra các luận điểm chung, ghi nhận những luận điểm mới do HS thảo luận. GV nhận
xét, đánh giá, giải đáp, chốt lại kiến thức, giao bài tập và nhiệm vụ mới cho bài học
sau.
1.3.3. Sau giờ lên lớp:

10



HS có thể tiếp tục phát triển năng lực tự học, tự khám phá bằng việc thực hiện
nghiên cứu nhỏ, đăng công khai trên group học tập để chia sẻ với mọi người, tạo
hứng thú tự học, nuôi dưỡng đam mê, thích thú với mơn học cho HS.
2. DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN PC, NL CHO NGƯỜI HỌC.
2.1. Những NL, PC học sinh cần hướng đến
2.1.1. Khái niệm
2.1.1.1. Năng lực
Theo Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên) “NL là khả năng, điều kiện chủ
quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hành động nào đó. NL là PC tâm lý và
sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất
lượng cao”.
Theo Chương trình GDPT, NL được quan niệm là thuộc tính cá nhân được hình
thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và q trình học tập, rèn luyện, cho phép con
người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác
như hứng thú, niềm tin, ý chí... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định,
đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể; PC là những tính tốt thể hiện
ở thái độ, hành vi ứng xử của con người; cùng với NL tạo nên nhân cách con
người.
Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng
phát triển NL của học sinh do Bộ GD-ĐT phát hành năm 2014 thì “NL được quan
niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiên thức, kỹ năng với thái độ
tình cảm, giá trị, động cư cá nhân nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp
của hoạt động trong bối cảnh nhất định”.
Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn NL là khả năng vận dụng tất cả
những yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học tập) để
giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.
2.1.1.2. Phẩm chất
Theo Từ điển Tiếng Việt: “PC là cái làm nên giá trị của người hay vật”. Hoặc:

“PC là những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, niềm tin, tình cảm, giá trị cuộc
sống; ý thức pháp luật của con người được hình thành sau một quá trình giáo
dục”.
Chương trình GDPT, “PC là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của
con người; cùng với NL tạo nên nhân cách con người”
Như vậy, PC là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con người;
cùng với NL tạo nên nhân cách con người.
2.1.2. Những NL, PC học sinh cần hướng đến

11


Chương trình GDPT 2018 đã định hướng cần hình thành cho học sinh 10 NL cốt
lõi và 5 PC cần thiết.
2.1.2.1.10 NL cốt lõi:
Chia thành 2 nhóm cơ bản: NL chung và NL chuyên môn.
- NL chung: gồm 3 loại như sau:
+ NL tự chủ và tự học.
+ NL giao tiếp và hợp tác nhóm với những thành viên khác.
+ NL giải quyết một vấn đề nhiều cách khác nhau sao cho triệt để và sáng tạo.
-NL chuyên môn: Được hiểu là những NL được hình thành trên cơ sở của NL
chung theo định hướng riêng biệt và chuyên sâu trong mọi hoạt động công việc,
môi trường đặc thù phù hợp với yêu cầu của một hoạt động. Trong chương trình
GDPT, NL chun mơn bao gồm 7 loại NL cơ bản như sau:
+ NL ngơn ngữ
+ NL tính tốn
+ NL Tin học
+ NL thể chất
+ NL thẩm mỹ
+ NL công nghệ

+ NL tìm hiểu tự nhiên và xã hội.
2.1.2.2.5 PC cần thiết:
-Yêu nước
-Nhân ái
- Chăm chỉ
- Trung thực
- Trách nhiệm
2.1.3. Các năng lực đặc thù của môn Ngữ văn cần hình thành:
-NL ngơn ngữ: Sử dụng tiếng Việt để giao tiếp một cách phù hợp và hiệu quả
trong tình huống giao tiếp…
-NL thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mĩ: biết nhận diện, thưởng thức và đánh
giá cái đẹp trong văn học và cuộc sống…
2.2. Dạy học theo định hướng phát triển PC, NL.
2.2.1. Thế nào là dạy học theo định hướng phát triển PC, NL?

12


PC và NL là hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách nói chung và là
yếu tố nền tảng tạo nên nhân cách của một con người.
Theo xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nền giáo dục nước ta
cũng đang trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nếu như
trước đây giáo dục chú trọng mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh và giúp
người học hình thành hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái độ thì ngày nay, điều đó
vẫn cịn đúng, cịn cần nhưng chưa đủ. Ngày nay giáo dục cần phải giúp người học
hình thành một hệ thống PC, NL đáp ứng được với yêu cầu mới. Hệ thống PC, NL
đó được cụ thể hóa phù hợp với sự phát triển tâm lý, sinh lý của người học, phù
hợp với đặc điểm môn học và cấp học, lớp học. Theo đó, những phát triển của PC,
NL người học trong quá trình giáo dục cũng sẽ là q trình hình thành, phát triển,
hồn thiện nhân cách con người.

Việc dạy học phát triển PC, NL là PP tích tụ dần dần các yếu tố của PC, NL
người học để chuyển hóa và góp phần cho việc hình thành, phát triển nhân cách.
Có thể thấy, dạy học phát triển PC, NL vừa là mục tiêu giáo dục (xét về mục
đích, ý nghĩa của dạy học), vừa là một nội dung GD (xét về các tiêu chuẩn, tiêu chí
cần đạt của người học) đồng thời cũng là một PPGD (xét về cách thức thực hiện).
2.2.2. Mơ hình thực tiễn dạy học phát triển PC, NL
Hiện nay, mô hình 4 trụ cột giáo dục của UNESCO có thể xem như một triết lý
giáo dục của thế kỷ XXI. Đây là mơ hình có sự đan xen hịa quyện giữa PC và NL
trong nội dung của từng trụ cột.
Bảng đối chiếu 4 trụ cột giáo dục với cácPC, NL tương ứng
TT

Bốn trụ cột giáo dục của UNESCO (The
four pillars of education)

Các nhóm PC, NL tương ứng

1

Học để biết (Learning to know)

Phẩm chất trí tuệ
NL nhận thức

2

Học để làm việc (Learing to do)

PC nghề nghiệp
NL chuyên môn


3

Học để sống chung (Learning to live
together)

PC xã hội
NL xã hội hóa

4

Học để làm người (Learning to be)

PC ứng xử
NL chủ thể hóa

3. KIỂU BÀI TÁC GIA TRONG NHÀ TRƯỜNG PT
- Từ xưa đến nay các nhà lí luận văn học và những người cầm bút với sự trải
nghiệm thấm thía của mình đã khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa nhà
văn với tác phẩm, giữa chủ thể sáng tạo với sản phẩm sáng tạo.

13


Từ đó, có thể rõ chân lí về mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng, tâm hồn nhà
văn với linh hồn tác phẩm. Vì thế người đọc văn và hơn nữa đối với người dạy văn
phải làm thế nào để học sinh thấy được mối quan hệ đó, hay nói cách khác học
sinh muốn hiểu đúng, muốn cảm nhận được tư tưởng của tác phẩm cần có sự liên
hệ với tư tưởng tác giả, ngược lại từ sự tìm hiểu tác phẩm người đọc có cái nhìn
đầy đủ, đúng đắn hơn về nhà văn. Để giúp học sinh khám phá được thế giới diệu

kỳ của tác phẩm văn học, hiểu được những triết lí nhân sinh hay cảm được những
cung bậc cảm xúc tinh tế trong tác phẩm văn học bên cạnh việc khám phá nhiều
tầng bậc, lớp lang của tác phẩm với tư cách là một chỉnh thể cũng cần suy luận,
liên hệ từ cuộc đời, con người, tư tưởng của nhà văn.
- Tác gia văn học là một trong các đối tượng của văn học sử. Kiến thức về các bài
tác gia thường là về tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn học của một nhà
văn, nhà thơ nào đó; vị trí của nhà văn ấy trong nền văn học dân tộc, phong cách
sáng tác và những đặc điểm lớn về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của họ.
Những kiến thức này hầu như đã có sẵn, HS có thể tự đọc hiểu, sưu tầm tài liệu để
hiểu thêm. Điều quan trọng của giáo viên là phải có phương pháp cho HS chủ động
tiếp thu lượng kiến thức ấy. Những bài kiến thức về tác gia, thường có bối cảnh
thời gian và không gian rộng lớn, gắn với những giá trị nội dung tư tưởng và nghệ
thuật mang tầm văn hóa sâu rộng. Vì vậy HS có thể sử dụng tối đa công nghệ
thông tin trong việc kết hợp những kiến thức xã hội, lịch sử, địa lí, âm nhạc, hội
họa, điện ảnh để giới thiệu chân dung tác gia, quê hương tác gia, ảnh hưởng sáng
tác của tác gia đối với thời đại….
- Văn học là nghệ thuật ngôn từ, nhà văn dùng ngơn từ để xây dựng những hình
tượng nghệ thuật. Học văn không chỉ bồi dưỡng cho học sinh kiến thức như mơn
khoa học thơng thường mà cịn có vai trị hết sức quan trọng trong việc hình thành
và phát triển nhân cách. Để đạt được điều đó, khi khám phá một tác phẩm văn học,
người giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ về tác giả, đặc biệt là một tác
gia văn học, điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Do vậy, khi nghiên cứu về
một tác gia, dù người giáo viên có hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá đi theo
hướng nào thì cũng phải dựa trên hai phương diện cơ bản: cuộc đời và sự nghiệp
sáng tác, từ đó giúp học sinh hiểu sâu sắc về cuộc đời và những đóng góp lớn của
tác gia đối với nền văn học dân tộc để định hướng cách đọc hiểu tác phẩm của mỗi
tác gia và rút ra những bài học bổ ích.

14



CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VỀ DẠY VÀ HỌC KIỂU BÀI TÁC GIA VÀ
VIỆC SỬ DỤNG MƠ HÌNH “LHĐN” ĐỂ DẠY KIỂU BÀI TÁC GIA Ở TRONG
NHÀ TRƯỜNG THPT
Để có được những kết luận khách quan, khoa học cho đề tài NCKH của mình,
chúng tơi đã tiến hành khảo sát thực trạng của việc dạy và học, thực trạng việc sử
dụng mơ hình LHĐN về kiểu bài tác gia ở cả GV và HS trong nhà trường THPT.
Trên cơ sở đó, chúng tơi sẽ đưa ra những giải pháp hợp lí cho đề tài của mình.
- Thời gian khảo sát: trong hai năm học 2021-2022; 2022-2023
- Đối tượng khảo sát: Chúng tôi đã tiến hành khảo sát ở 31 GV gồm 10 GV trưởng
sở tại; 21 GV ở các trường THPT Phan Thúc Trực, Yên Thành 2, Bắc Yên Thành;
Khảo sát 425 HS ở Trường THPT Phan Đăng Lưu trong 2 năm: năm học 20212022 gồm 171 em ở các lớp 12A6 45 HS); 11A5 (45 HS); 11 A13(42 HS); 10A9
(42) ; năm học 2022-2023 gồm 254 em ở các lớp 10 C1 (45 HS); 10 D2 (44HS);
11A10 (40 HS); 11A6 (45HS); 12A6 (42HS); 12A2 (38 HS).
- Hình thức khảo sát: Sử dụng phiếu điều tra, xây dựng hệ thống câu hỏi về thực
trạng dạy và học về bài tác gia ở nhà trường THPT gắn với mơ hình LHĐN; Khảo
sát GV và HS trong thời gian 15 phút rồi thu phiếu.
- Phiếu khảo sát: (Phụ lục 1).
Kết quả khảo sát thu được như sau:
Số lượng/ tỉ lệ %
TT

Nội dung khảo sát
A

GV

HS


Các mức độ

Các mức độ

B

C

D

A

B

C

D

02/

10/

12/

07/

55/

87/


68/

215/

6,4

32,2 38,8 22,6

12,9

20,5 16,1

50,5

6/

2

Việc giao nhiệm vụ 23/
học tập trên thiết bị 74,2
số ( Messenger ;
Gmail ; Zalo; Azota;
hệ thống I.MS …)
trước khi học bài
mới

3

Việc kiểm tra chuẩn
bị bài của HS/ HS


1

Hứng thú với giờ
dạy/
học tác gia

01/

01/

219/

105/ 85/

16/

19,4 3,2

3,2

51,5

24,7 20,0

3,8

08/

09/


08/

18/

92/

195/

120/

25,8

29,2 16,2 25,8

4,2

21,7 45,9

28,2

05/

15


thực hiện nhiệm vụ
học tập trước khi
đến lớp.
4


Sự đổi mới về
PPDH khi dạy bài
tác gia

5

Thái độ tích cực xây 03/
dựng bài của HS
9,7

06/

19,3 61,3 9,7

3,5

8,7

29,6

58,2

15/

42/

59/

298/


26/

6

Hoạt động tương tác 10/
giữa HS-HS; GV32,2
HS

9,9

13,8 70,1

6,1

6/

268/

112/

7

Việc sử dụng CNTT 23/
vào dạy học bài tác
74,2
gia

63,1


26,3

8

Hiểu về mơ hình
LHĐN

04 /

18/

12,9

58,1 16,2 12,9
6/

9

Có áp dụng mơ hình 4/
LHĐN trong dạy
12,9
học

Đánh giá về mơ hình 4/
10 LHĐN trong dạy
12,9
học

7/


03/

08/

9,7

15/

37/

88/

118/

182/

25,8 48,5 16,2

8,7

20,7 27,9

42,7

03 /

15/

37/


126/

247/

19/

06/

05/

00

48,5 19,3

19,4

1/

1/

3,2

3,2

5/

04/

10/


30/

15/

7,1

3,5

11/

19,4 32,3 35,4
9/

11/

22,7 29,0 35,4

2. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC VẬN DỤNG MÔ HÌNH LHĐN
ĐỂ DẠY KIỂU BÀI TÁC GIA Ở TRƯỜNG THPT QUA VIỆC KHẢO SÁT.
2.1. Thực trạng đến từ GV
- Qua kết quả khảo sát đã cho chúng tơi thấy có đến 74,2 % GV biết sử dụng
CNTT, áp dụng công nghệ số vào việc dạy học kiểu bài tác gia để phát triển NL,
PC cho người học. Hình thức GV giao nhiệm vụ học tập cho HS trên thiết bị số
vẫn diễn ra thường xuyên. Điều đó đã cho thấy gần như hầu hết các GV trực tiếp
giảng dạy bộ mơn Ngữ văn đều có sự đổi mới về PPDH khi dạy những bài tác gia.
Tuy nhiên kết quả khảo sát đã cho thấy việc đổi mới PPDH trong quá trình dạy học
khơng phải là điều dễ dàng, có đến 48,5% GV đều thừa nhận việc này. Rất nhiều
GV khó tạo hứng thú cho HS khi học kiểu bài văn học sử này. Có đến 61,7 % GV
nhận xét HS chỉ xây dựng bài một cách miễn cưỡng, khi GV yêu cầu trả lời tương
tác, các em hoàn toàn bị động, khơng quan tâm, thiếu tính tích cực trong việc tham

gia hoạt động học. Đây quả là một thực trạng đáng buồn.
16


- Việc giáo viên sử dụng CNTT vào dạy học đã cho thấy rất nhiều GV đang ngày
càng đến rất gần với việc dạy học theo mơ hình LHĐN, mơ hình học tập tiến bộ
của nền GD hiện nay. Số GV hiểu về mơ hình học tập LHĐN này cũng rất nhiều,
chiếm hơn 70% số GV được chúng tôi khảo sát. Thế nhưng việc GV sử dụng và sử
dụng thành cơng mơ hình LHĐN trong dạy học cịn rất ít. Họ cũng gặp phải nhiều
khó khăn trong q trình dạy học theo mơ hình này. Phải chăng GV chúng ta chưa
có được những giải pháp hợp lí khi thực hiện mơ hình LHĐN?
2.2. Thực trạng đến từ HS
- Từ thực tiễn số liệu khảo sát chúng tôi nhận thấy, HS cũng rất thích sử dụng
CNTT vào q trình dạy học, có đến 63,1 % HS u thích điều này. Thế nhưng từ
kết quả khảo sát, có một thực trạng đáng buồn đó là hơn 50 % HS khơng hứng thú,
khơng quan tâm nhiều đến những bài học về tác gia. Tâm lí chung của HS là khơng
nhận thức sự cần thiết của bài học về tác gia. Vì vậy thái độ học tập của các em
cũng rất hời hợt, các em hầu như thực hiện nhiệm vụ học tập trước khi đến lớp học
bài một cách đối phó, 45,9 % số HS thừa nhận việc này. Trong giờ học các em rất
lười để xây dựng bài, hơn 80% HS khẳng định trong giờ học bài tác gia hầu như
các em không tương tác hoặc chỉ tương tác khi GV yêu cầu. Thiết nghĩ với tình
trạng như vậy việc đổi mới dạy và học của chúng ta rất khó để thành công. Thực
trạng này cũng bắt nguồn từ việc GV chưa thật sự có giải pháp hợp lí để khơi dậy ở
HS đam mê học tập với kiểu bài tác gia, có đến 42,7% HS đã đánh giá khơng thật
sự ấn tượng với PPDH của thầy cô. Chúng tôi thiết nghĩ sở dĩ có thực trạng ấy
cũng khơng hồn tồn xuất phát từ phía người học. Hơn nữa GV của chúng ta cũng
thiếu tính liên tục, thường xuyên khi kiểm tra quá trình chuẩn bị bài của các em,
nhiều GV chỉ chú trọng kiểm tra quá trình chuẩn bị bài của HS khi có những tiết
dự giờ. Điều này sẽ hình thành cho các em thói quen lười tìm hiểu và chuẩn bị bài
mới trước khi đến lớp. Thực trạng sẽ rất khó khăn để chúng ta áp dụng mơ hình

LHĐN vào dạy học bài tác gia nói riêng và mơn Văn nói chung.
- Từ số liệu khảo sát cho thấy HS cũng thường xuyên được giao nhiệm vụ học tập
trên thiết bị số. Nghĩa là có nhiều HS đã có máy tính và có cả kết nối mạng
internet. Điều này rất có lợi cho việc áp dụng dạy học theo mơ hình LHĐN. Thế
nhưng làm sao để kích thích tinh thần học tập của các em đối với kiểu bài tác gia
khi sử dụng mơ hình này? Làm sao để các em học tập một cách tự nguyện, hào
hứng mà giáo viên không cần phải “đao to búa lớn”? Đây lại là vấn đề nan giải.
Thế những cũng chính vì thế mà chúng tơi nhận thấy cần phải tìm ra những giải
pháp phù hợp để việc sử dụng mơ hình “LHĐN” vào dạy bài tác gia đạt hiệu quả
cao nhất.
2.3. Thực trạng chung
Mặc dù kiến thức về tác gia văn học có ý nghĩa rất quan trọng trong dạy học văn
nói riêng và đời sống văn hóa, văn học nói chung nhưng trên thực tế việc dạy học
phần tác giả văn đang có nhiều vấn đề phải bàn luận. Các bài tác gia văn học
thường khô khan, lượng kiến thức lại rất lớn. Đặc biệt do chưa có 1 kì thi quan
17


trọng nào giành cho kiến thức riêng của bài tác gia nên từ trước đến nay tâm lí
người dạy và và tâm lí người học cũng hời hợt, sơ sài theo kiểu đối phó, rất nhiều
GV và HS khơng mấy hào hứng, thậm chí có cảm giác nặng nề, nhàm chán. Thầy
cô với quan niệm là truyền tải được kiến thức cơ bản về tác gia cho người học là
được nên chỉ chưa thật sự chú tâm đến việc tìm cách tạo ra hứng thú học tập cho
người học khi dạy kiểu bài này.
Thực trạng ấy buộc mỗi GV dạy Ngữ văn cần có PPDH phù hợp, tích cực để
phát huy tối đa NL, PC người học. Đặc biệt hiện nay một số GV đã biết đến mơ
hình dạy học LHĐN, nhiều GV thường xuyên sử dụng thiết bị số để dạy học, đa
phần HS đều yêu thích việc sử dụng CNTT trong học tập, đó là một lợi thế cho
việc chúng ta sử dụng mơ hình này vào việc dạy học kiểu bài tác gia nói riêng,
mơn Ngữ văn và nhiều mơn học khác trong nhà trường PT nói chung. Thế nhưng

để dạy học có hiệu quả kiểu bài tác gia theo mơ hình LHĐN lại khơng phải là điều
dễ. Để áp dụng mơ hình này vào thực tế, các trường học cũng đã phải đối diện với
nhiều thách thức. Vì vậy chúng tơi thiết nghĩ để đạt được sự thành cơng khi sử
dụng mơ hình này buộc chúng ta cũng cần tìm ra những giải pháp thích hợp, có cơ
sở khoa học và có tính thực tiễn cao để giúp HS tham gia vào quá trình học một
cách tốt nhất. Chỉ có như thế GV mới phát huy được tối đa NL của người học trong
quá trình khám phá kiến thức, vừa giúp các em hình thành PC yêu nước và nhân ái,
biết yêu quý, trân trọng những nhân cách cao cả, những tài năng văn chương lớn
trong nền văn học dân tộc. Thiết nghĩ, một HS THPT học Ngữ văn không thể
không giới thiệu được một bài về tác gia văn học của đất nước. Nếu không làm
được điều đó, nghĩa là HS ấy quá nghèo về kiến thức văn học, quá nghèo về tâm
hồn, đặc biệt là thiếu tinh thần tự hào dân tộc. Đây ắt hẳn là điều khiến chúng ta,
những GV dạy Ngữ văn, phải rất đau lịng. Chính vì vậy chúng tơi đã nghiên cứu
về những giải pháp trong đề tài NCKH của bản thân với mong muốn đem đến một
cách dạy và học cho kiểu bài tác gia đạt hiệu quả tốt nhất.

18


CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ DẠY KIỂU BÀI TÁC GIA VĂN
HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT THEO MƠ HÌNH
“LHĐN” NHẰM PHÁT TRIỂN NL VÀ PC CHO NGƯỜI HỌC.
1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ DẠY KIỂU BÀI TÁC GIA VĂN HỌC TRONG
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPH THEO MƠ HÌNH “LHĐN” NHẰM PHÁT
TRIỂN NL VÀ PC CHO NGƯỜI HỌC.
1.1. Giải pháp 1: Xây dựng hồ sơ học tập điện tử cho học sinh để dạy học kiểu
bài tác gia theo mơ hình “LHĐN”
1.1.1. Khái lược về HSHT
Mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thơng 2018 là phát triển năng lực và
phẩm chất người học. Theo đó, việc đa dạng hóa các phương pháp, kĩ thuật dạy

học tích cực là một hướng đi phù hợp với tinh thần đổi mới của chương trình Ngữ
văn 2018. Tăng cường hoạt động học tập cho HS vì thế mà trở nên cần thiết. Thiết
kế HSHT trong dạy học môn Ngữ văn là một trong những phương cách khả dụng
để tăng cường hoạt động học tập cho HS, qua đó hình thành và phát triển năng lực,
phẩm chất cho HS.
1.1.1.1. Khái niệm:
- HSHT, theo định nghĩa của Paulson, Paulson và Mayer “là một bộ sưu tập có
mục đích các cơng việc của HS thể hiện những nỗ lực, tiến bộ và thành tích của HS
trong một hoặc nhiều lĩnh vực. HSHT phải bao gồm sự tham gia của HS trong việc
lựa chọn nội dung, tiêu chí lựa chọn, tiêu chí đánh giá sự nỗ lực và bằng chứng về
sự tự phản hồi của HS”.
- Birgin quan niệm HSHT là “tập tài liệu về kĩ năng của HS trong một hoặc nhiều
lĩnh vực trong một khoảng thời gian nhất định, thu thập thường xuyên các nghiên
cứu và hiệu suất của HS theo các tiêu chí đã định trước”.
Từ những quan niệm trên, chúng tơi có thể thấy HSHT là những tài liệu:
+ Lựa chọn có chủ đích.
+ Sắp xếp có hệ thống và theo trình tự nhất định
+ Thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định
Như vậy, thiết kế HSHT không chỉ đơn thuần là tập hợp tất cả các sản phẩm
học tập HS đã thực hiện mà cần lựa chọn cẩn thận các sản phẩm đó, sắp xếp chúng
theo một trình tự và công việc này phải được tiến hành trong một thời gian nhất
định để phục vụ cho mục đích cụ thể.
1.1.1.2. Mục đích sử dụng HSHT:
HSHT có thể được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, nhưng hai mục đích
chính của HSHT là trưng bày/ giới thiệu diễn tiến học tập của HS và chứng minh
sự tiến bộ của HS về một chủ đề/ lĩnh vực nào đó theo thời gian.

19



HSHT tập trung vào hỗ trợ và điều chỉnh việc học của HS. Nó cho phép HS cơ
hội để nhìn nhận lại và suy ngẫm về sản phẩm và quá trình mà HS đã thực hiện,
qua đó HS phát huy điểm mạnh và khắc phục hạn chế trong học tập “GV cũng có
thể sử dụng HSHT trong các cuộc họp phụ huynh cuối kì, cuối năm để thơng báo
cho cha mẹ HS về thành tích và sự tiến bộ của con em họ”
1.1.1.3. Phân loại HSHT
HSHT có thể được thiết kế dưới hai dạng: HS truyền thống và HS điện tử.
-Hồ sơ truyền thống “là công cụ hiệu quả cho việc đánh giá kết quả học tập của
người học”.
-Hồ sơ điện tử là hồ sơ “sử dụng công nghệ điện tử, giúp những người xây dựng hồ
sơ thu thập và tổ chức các sản phẩm dưới dạng nhiều loại phương tiện truyền
thông (âm thanh, video, đồ họa, văn bản)”.
1.1.2. Xây dựng hồ sơ học tập điện tử cho HS để dạy học kiểu bài tác gia theo
mơ hình “LHĐN”.
Trên cơ sở lí thuyết về hồ sơ học tập, chúng tơi đã xây dựng quy trình thiết kế,
mục đích thiết kế và cách sử dụng HSHT điện tử cho HS trong việc dạy học Kiểu
bài tác gia ở nhà trường THPT. hiện nay.
1.1.2.1. Đặc điểm HSHT điện tử khi dạy bài học tác gia.
Mơ hình LHĐN là mơ hình sử dụng ứng dụng CNTT vào dạy học. Vì vậy xây
dựng HSHT điện tử là yêu cầu tất yếu của mỗi giờ dạy. Đó là những tài liệu về bài
dạy được GV cung cấp và người học lựa chọn một cách có chủ đích trong q trình
học tập về mỗi tác gia. Vì đặc thù của mơ hình LHĐN nên HSHT GV sử dụng để
dạy kiểu bài tác gia chỉ có thể thực hiện ở hai quá trình: trước khi lên lớp và sau
giờ lên lớp.
- Trước khi lên lớp: GV cung cấp HSHT điện tử cho HS gồm: video bài giảng,
giáo án PowerPoint, video bài giảng, phim từ liệu về cuộc đời tác gia, phim điện
ảnh về cuộc đời tác gia, bài nghiên cứu về tác gia…Có thể thấy có rất nhiều HSHT
điện tử về mỗi bài tác gia. Vậy HS phải lựa chọn hồ sơ nào để học? Điều đó bắt
buộc GV phải có sự phân loại và sắp xếp HSHT theo 2 loại:
+ HSHT bắt buộc: video bài giảng; giáo án PowerPoint

+ HSHT mở rộng: phim tư liệu về cuộc đời tác gia; các tác phẩm văn học của tác
gia; các bài nghiên cứu về tác gia….
- Sau giờ lên lớp: GV cho HS trình bày sản phẩm thu hoạch của mình về tác gia
văn học bằng những video các em tạo dựng, rồi GV đưa lên đường linh học tập cho
bạn bè đánh giá...hoặc phụ huynh có thể vào tham khảo
Ví dụ: Khi dạy bài Tác gia Nguyễn Trãi (Bài 6: Nguyễn Trãi “Dành còn để trợ
dân này”) trong chương trình Ngữ văn 10 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống):

20


×