Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

Sự phát triển của khoa học kĩ thuật như một biểu hiện nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhật bản qua các thời kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656 KB, 117 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển, con người không ngừng lao động, khát khao
khám phá thế giới tự nhiên và xã hội để hoàn thiện bản thân, xây dựng cuộc
sống ngày một tốt đẹp hơn. Đã có những thời mà sự màu mỡ của đất đai, sự
giàu có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự thuận lợi về vị trí địa lý
hay sự đông đúc về dân cư cũng làm nên sự giàu có của các quốc gia và đơi
khi trở thành nhân tố quyết định đến sự phát triển. Trong thời đại ngày nay,
các yếu tố thuận lợi tự nhiên đó cũng vẫn rất quan trọng nhưng không phải
là duy nhất và quyết định đến sự phát triển của các quốc gia.
Thực tế, sự phát triển của lịch sử cho thấy, có những quốc gia, khơng
có, có rất ít tài ngun thiên nhiên, khơng được thiên nhiên ưu đãi nhưng vẫn
có thể phát triển giàu mạnh. Nguyên nhân cơ bản đưa tới những thành tựu
phát triển đó chính là nhờ khoa học - kĩ thuật cùng với những tiến bộ do
chúng tạo nên. Trong nửa sau thế kỷ XX, nhân loại đang trải qua một cuộc
cách mạng khoa học - kĩ thuật hay cịn gọi là cuộc cách mạng cơng nghệ với
quy mơ to lớn, nội dung sâu sắc và tồn diện trên tất cả mọi lĩnh vực. Những
thành tựu và ứng dụng của khoa học – công nghệ đã làm thay đổi cơ bản các
nhân tố của sản xuất, đưa tới sự phát triển mạnh mẽ cho nhiều quốc gia. Ở
những quốc gia, phát huy tối đa được sức mạnh của khoa học - kĩ thuật, nền
kinh tế có sự phát triển vượt bậc, thậm chí là “thần kỳ” như Nhật Bản.
Nhật Bản là một quốc gia hải đảo, nằm trải hình cánh cung ở sườn
phía đơng của lục địa châu Á, gồm khoảng 3000 hịn đảo, trong đó có bốn
hịn đảo lớn nhất là: Hokkaido, Hoshu, Shikoku, Kyushu. Nhật Bản có một
diện tích khơng lớn,tồn bộ diện tích đất liền tính đến tháng 10 năm 1989 là
377.688 km2, chỉ lớn hơn Phần Lan hoặc Ý một chút và bằng diện tích bang

1


lớn thứ năm của nước Mĩ – bang Montana [3,15]. Phần lớn đảo của Nhật


Bản có núi và núi lửa, tiêu biểu là núi Phú Sĩ, cao nhất ở Nhật Bản. Với dân
số 123.612.000 người (năm 1990 ), Nhật Bản là một trong mười quốc gia có
dân số lớn nhất thế giới - đứng hàng thứ bảy [3,15]. Vùng Tokyô, bao gồm
thủ đơ Tơk và các tỉnh xung quanh có khoảng 30 triệu dân sinh sống đã
trở thành vùng đô thị tập trung dân đông nhất thế giới.
Nằm trong vành đai lửa Thái Bình Dương, Nhật Bản ln phải hứng
chịu những trận động đất, nhiều núi lửa vẫn đang hoạt động đe doạ cuộc
sống của người dân. Ngồi ra, sóng thần, bão nhiệt đới cũng thường xuyên
sảy ra ở Nhật Bản. Khơng được thiên nhiên ưu đãi, Nhật Bản cịn là một
quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, hầu như khơng có dầu lửa, sắt, than
hoặc các tài ngun khống sản khác. Nhật Bản phải phụ thuộc vào nhập
khẩu tới 85% các tài nguyên năng lượng.“Thiên nhiên Nhật Bản đẹp, nhưng
quả thật khắc nghiệt đối với con người ....con người Nhật Bản như càng
được tôi luyện trong thiên nhiên nghiệt ngã họ đã vươn lên một cách độc
đáo, trở thành một trong những dân tộc đứng đầu thế giới về sự phát triển
kinh tế kĩ thuật.” [17, 25]
Lịch sử đất nước Nhật Bản, có thể nói, là lịch sử của q trình đấu
tranh khơng biết mệt mỏi, vươn lên, vượt qua những khó khăn thử thách
nhiều khi tưởng chừng khơng thể vượt qua nổi.
Năm 1868, với cuộc Duy Tân Minh Trị, đất nước Nhật Bản phong
kiến nghèo đói và lạc hậu đã vượt qua khủng hoảng, sự đe doạ xâm lược của
các nước thực dân phương Tây vươn lên phát triển theo con đường tư bản
chủ nghĩa. Nhật Bản nhanh chóng trở thành nước đế quốc phát triển nhất
châu Á vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
Tham gia vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, thuộc phe Trục Phát
xít, Nhật Bản gây nên cuộc chiến tranh ở châu Á – Thái Bình Dương. Cùng
với sự thất bại của chủ nghĩa phát xít, tháng 8 năm 1945, Nhật Bản buộc

2



phải ký Tuyên bố Potsdam đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Một
nước chiến bại sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã bị đè bẹp về
quân sự, suy sụp về tinh thần, bị kiệt quệ về kinh tế. Nhật Bản đã phải gánh
chịu những thiệt hại nặng nề nhất từ trước tới giờ. Số người chết và bị
thương và mất tích lên tới khoảng 3 triệu người. Nền kinh tế lâm vào tình
trạng kiệt quệ, 40% đơ thị, 80% tầu bè, 34% máy móc cơng nghiệp bị phá
huỷ, 13 triệu người thất nghiệp. Thảm hoạ đói rét đe doạ toàn nước Nhật.
[40,292].
Trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn tưởng chừng khơng thể vượt
qua nổi ấy, một lần nữa, ý chí quật cường của người dân Nhật Bản lại được
thể hiện và chứng minh bằng thực tiễn.
Từ đống tro tàn đổ nát của chiến tranh, sau một thời gian ngắn phục
hồi, phát triển, đến đầu thập niên Nhật Bản đã vươn lên, trở thành một trong
ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới (cùng với Mĩ và Tây Âu). Có
nhiều quan điểm đánh giá khác nhau về sự phát triển kinh tế của Nhật Bản
trong giai đoạn này nhưng tất cả đều thống nhất, trên phương diện kinh tế,
sự phát triển của Nhật Bản trong những năm 1951 đến năm 1973 là một hiện
tượng nổi bật, “thần kỳ”.
Sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản (1951 – 1973) là rõ ràng,
không thể phủ nhận và để có được sự phát triển đó là đóng góp của nhiều
nhân tố hợp thành. Đưa tới sự phát triển “thần kỳ” của kinh tế Nhật Bản
trong giai đoạn lịch sử này có nhiều nguyên nhân, trong đó khơng thể khơng
nhắc đến vai trị của nhân tố khoa học - kĩ thuật hiện đại. Những thành tựu
của khoa học - kĩ thuật hiện đại đã được Nhật Bản ứng dụng thường xuyên
và hiệu quả tạo nên tính cạnh tranh hơn hẳn cho hàng hoá Nhật bởi sự phong
phú, đa dạng, tiện ích, giá cả cạnh tranh và tiết kiệm năng lượng.

3



Như vậy, trong những nguyên nhân phát triển, khoa học - kĩ thuật là
một nhân tố quan trọng hàng đầu không thể thiếu, tạo động lực phát triển
“thần kỳ” cho nền kinh tế Nhật Bản.
Sau hàng thập kỷ đấu tranh giành và giữ nền độc lập dân tộc, bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, nền kinh tế ở xuất phát điểm thấp kém hơn so với các
nước phương Tây, đất nước Việt Nam ta cũng đang trong q trình khơi
phục và phát triển đi lên. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế hiện
nay, tìm hiểu về sự phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản là một vấn
đề hết sức thiết thực, được nhiều nhà khoa học nghiên cứu tìm hiểu. Các
cơng trình nghiên cứu đã thấy được sự phát triển “thần kỳ” của Nhật Bản,
đánh giá một cách khách quan về những nguyên nhân phát triển của giai
đoạn phát triển này. Nghiên cứu riêng về nhân tố khoa học - kĩ thuật sẽ góp
phần làm sâu sắc thêm một trong những nguyên nhân tạo nên sự phát triển
“thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản. Qua đó, có thể rút ra một số kinh
nghiệm cho sự phát triển kinh tế của một số nước đang phát triển, trong đó
có Việt Nam.
Đặc biệt, hiểu rõ vai trò của nhân tố khoa học - kĩ thuật trong phát
triển kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1951 – 1973, khi giảng dạy ở các trường
THPT sẽ có tác dụng giáo dục to lớn cho các em học sinh về ý thức học tập,
tiếp thu những kiến thức khoa học - kĩ thuật cơ bản. Trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước hiện nay, trách nhiệm của các em học sinh, chủ
nhân tương lai của đất nước là học tập, trau dồi kiến thức, tích cực thu nhận
kiến thức ở nhà trường phổ thông để mai này lập nghiệp, đóng góp cơng sức
vào cơng cuộc phát triển đi lên của đất nước. Với tất cả những lý do khoa
học và thực tiễn trên, tôi quyết định chọn vấn đề “Nhân tố khoa học - kĩ
thuật trong sự phát triển kinh tế ở Nhật Bản giai đoạn 1951 – 1973” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề


4


Nhật Bản, một quốc gia phong kiến với nền văn hố truyền thống độc
đáo, sớm tiếp thu cơng nghệ phương Tây, vươn lên trở thành một cường
quốc ở châu Á, ngang hàng với các nước tư bản phương Tây vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX. Nửa sau thế kỷ XX, thế giới lại một lần nữa nhắc đến
Nhật Bản như là một hiện tượng “thần kỳ” trong phát triển kinh tế.
Nghiên cứu lịch sử Nhật Bản nói chung, nghiên cứu sự phát triển
“thần kỳ” của Nhật Bản nói riêng là những vấn đề lịch sử hấp dẫn, thu hút
nhiều nhà khoa học, lịch sử trong và ngoài nước nghiên cứu.
Giới thiệu về đất nước Nhật Bản, lý giải sự phát triển mạnh mẽ của
mình, phải kể đến rất nhiều những cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa
học Nhật Bản.
Eiichi Aoki làm chủ biên, đã giới thiệu một cách khái quát nhất về đất
nước Nhật Bản trong cuốn sách Nhật Bản - đất nước và con người. Sách
do Nguyễn Kiên Trường dịch, nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2008.
Trong tác phẩm gần 500 trang, tác giả đã giới thiệu một cánh khái quát, đầy
đủ nhất về đất nước, con người Nhật Bản. Trong phần lịch sử và kinh tế, tác
giả đã nêu lên những nét khái quát về đặc điểm, quá trình phát triển của
khoa học, công nghệ Nhật Bản.
Takafusa Nakamura là một nhà nghiên cứu kinh tế Nhật Bản cho xuất
bản nhiều cuốn sách có giá trị khoa học, lịch sử. Trong 3 tập của cuốn Kinh
tế Nhật Bản sau chiến tranh: sự phát triển và cơ cấu, Takafusa đã tìm hiểu
một cánh hệ thống, toàn diện về nền kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế
giới thứ hai đến những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX. Tác giả tập
trung nghiên cứu sự thay đổi về cơ cấu, tốc độ phát triển của nền kinh tế
Nhật Bản qua các thời kỳ: kết thúc chiến tranh, tăng trưởng nhanh và kết
thúc tăng trưởng nhanh. Trong các cuốn sách, nhất là ở tập 2, nhân tố khoa
học - kĩ thuật cũng được đề cập đến trong sự thay đổi về cơ cấu, phát triển

của ngành cơng nghiệp hố chất, cơng nghiệp nặng thời kỳ tăng trưởng

5


nhanh. Sách do Viện kinh tế thế giới, Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam ấn
hành năm 1988. Năm 1998, nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã xuất bản
cuốn sách của Nakamura: Những bài giảng về lịch sử kinh tế Nhật Bản
hiện đại 1926 - 1994, Lưu Ngọc Trịnh dịch. Cuốn sách đã tập trung trình
bày những biến đổi lớn của nền kinh tế Nhật Bản từ năm 1926 đến năm
1994. Qua việc trình bày các chính sách của Chính phủ Nhật Bản nhằm thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng qua các thời kỳ, độc giả sẽ nhận thấy các chính
sách về khoa học - kĩ thuật và tác động của các chính sách này đối với sự
tăng trưởng kinh tế.
Nhà sử học Seki Mitsuhiro khi trình bày khái quát về sự phát triển của
kinh tế Nhật Bản trong bối cảnh phát triển chung của kinh tế thế giới, đặc
biệt là nền kinh tế Đông Nam Á đã trình bày khoa học - kĩ thuật như một
nguyên nhân thúc đẩy phát triển kinh tế Nhật Bản và là công cụ để Nhật Bản
kết nối với kinh tế Đông Nam Á trong kỷ ngun mới. Cơng trình Kinh tế
Nhật Bản trong kỷ nguyên Đông Nam Á mới do Phạm Bích Thu và Thang
Bích Liên dịch, nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1998.
Hai nhà nghiên cứu Kazushi Ohkawa và Hirohisa Komaha trong cơng
trình Kinh nghiệm cơng nghiệp hố của Nhật Bản và tác dụng của nó đối
với các nền kinh tế đang phát triển đã cung cấp cho các độc giả một cách
toàn diện về điều kiện, q trình cơng nghiệp hố của kinh tế Nhật Bản từ
thời Minh Trị Duy Tân đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Từ đó tác giả
đã nêu ra một số kinh nghiệm thiết thực cho quá trình cơng nghiệp hố của
các nước đang phát triển. Tất nhiên, một trong những yếu tố hàng đầu của q
trình cơng nghiệp hoá là sự phát triển khoa học - kĩ thuật của Nhật Bản. Sách
do Bùi Tất Thắng dịch, nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 2004.

Saburo Okita, trong cơng trình Các nền kinh tế đang phát triển và
Nhật Bản: Những bài học về tăng trưởng, đã tìm hiểu khoa học - kĩ thuật
như một biện pháp thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản qua các thời kỳ

6


phát triển. Sách do Viện kinh tế thế giới, Uỷ ban khoa học - xã hội Việt Nam
phát hành năm 1988.
Tìm hiểu một cách tồn diện nền kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh
thế giới thứ hai tới những năm 80 của thế kỷ XX, không thể không nhắc đến
công trình nghiên cứu của tập thể các tác giả thuộc Viện nghiên cứu Đại học
Chuo: Kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sách được nhà
nghiên cứu Phạm Hưng Long dịch, nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành
năm 1992. Khi trình bày sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản các tác giả
cũng đã đề cập đến sự phát triển của khoa học - kĩ thuật như một biểu hiện,
nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế Nhật Bản qua các thời kỳ.
Cùng các cơng trình nghiên cứu của Nhật Bản, tìm hiểu về lịch sử,
kinh tế và khoa học - kĩ thuật Nhật Bản phải kể đến nhiều cơng trình nghiên
cứu của các nhà khoa học Mĩ, Anh, Trung Quốc.
Ezraf Vogel, với kinh nghiệm của một nhà ngoại giao, một nhà sử học
đã có thời gian sống ở Nhật Bản khá dài, trong cuốn sách Hoa kỳ học gì ở
Nhật Bản, đã cho thấy một cách khách quan sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối thập niên 80
của thế kỷ XX. Từ những nghiên cứu của mình, Ezraf đã rút ra những bài
học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế nước Mĩ mà trong đó nhân tố khoa
học - kĩ thuật rất được chú trọng. Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản
cuốn sách này bằng cả hai thứ tiếng Anh và Việt năm 1990.
Martin Wolf, trong cuốn sách Những bài học từ sự thành công của
kinh tế Nhật Bản (Nguyên Vũ biên soạn), đã cung cấp cho bạn đọc những

bài học kinh nghiệm bổ ích rút ra từ sự thành công trong phát triển kinh tế
Nhật Bản. Trong những bài học đó, đương nhiên có bài học về sự vận dụng
và sáng tạo khoa học - kĩ thuật của Nhật Bản trong phát triển kinh tế.
Nhà sử học Geoge Samson trong trình bày khái quát tiến trình lịch sử
Nhật Bản từ khởi thuỷ đến hiện đại, khi trình bày sự phát triển kinh tế Nhật

7


Bản thời hiện đại cũng đã đề cập đến sự phát triển của khoa học - kĩ thuật
Nhật Bản. Ba tập cuốn sách Lịch sử Nhật Bản do Lê Năng An dịch, nhà
xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1994 và 1995.
Nghiên cứu về nền kinh tế Nhật Bản cũng là vấn đề học giả G.C
Allen tìm hiểu qua cuốn sách Chính sách kinh tế của Nhật Bản. Nền kinh
tế Nhật Bản được tác giả đề cập đến dưới góc độ tác động của các chính
sách của Nhà nước, qua các thời kỳ lịch sử Nhật Bản. Trong các chính sách
của nhà nước, một phần quan trọng là các chính sách phát triển khoa học - kĩ
thuật. Sách được Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện kinh tế thế giới
xuất bản năm 1988.
Hai nhà nghiên cứu Trần Bình Phú và Lâm Trác Sử (Trung Quốc),
trong cuốn sách Phát triển công nghệ và chuyển giao công nghệ ở châu Á,
Phạm Quang Huy và Trần Đức Long dịch, nhà xuất bản Khoa học xã hội
xuất bản năm 2000, cũng đã nêu ra một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn
trong phát triển công nghệ và chuyển giao cơng nghệ châu Á. Các tác giả đã
phân tích những vấn đề lý thuyết chuyển giao công nghệ ở Nhật Bản, hệ
thống chuyển giao công nghệ ở Nhật Bản và kinh nghiệm áp dụng cho các
nước châu Á.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế sau chiến tranh với nhiều khó khăn,
trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, các nhà khoa học Việt Nam đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu có giá trị về lịch sử và kinh tế Nhật Bản qua các

thời kỳ.
Nhóm các tác giả Phan Ngọc Liên (chủ biên), Đinh Ngọc Bảo, Đỗ thanh
Bình, Trần Thị Vinh, đã tìm hiểu khái quát về lịch sử đất nước Nhật Bản từ
thời tiền sử tới thời hiện đại qua cuốn sách Lịch sử đất nước Nhật Bản. Các
tác giả đã cung cấp cho độc giả những kiến thức khái quát nhất về tự nhiên,
lịch sử, đất nước và con người Nhật Bản qua các thời kỳ lịch sử, trong đó có sự
phát triển “thần kỳ” của kinh tế Nhật Bản những năm 1951 - 1973.

8


Tiến sĩ Nguyễn Đăng Doanh, năm 1998 đã chủ biên cuốn sách Nâng
cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước: Kinh nghiệm
của Nhật Bản và ý nghĩa áp dụng với Việt Nam. Khi tìm hiểu những chính
sách nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, các tác giả đã chỉ ra được
những biện pháp thúc đẩy khoa học - kĩ thuật của Nhật Bản qua các giai
đoạn phát triển.
Tìm hiểu về kinh tế Nhật Bản, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai đến nay phải kể đến những cơng trình nghiên cứu của nhà khoa học Lê
Văn Sang. Năm 1988, Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện kinh tế thế
giới xuất bản cuốn sách Kinh tế Nhật Bản giai đoạn “thần kỳ” của Ông.
Cuốn sách nghiên cứu sự phát triển kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1951 - 1973.
Tác giả tìm hiểu nguyên nhân phát triển, sự phát triển của nền kinh tế Nhật
Bản, hậu quả của sự phát triển đó và yếu tố khoa học - kĩ thuật được tác giả
tìm hiểu như một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản.
Tương tự cuốn sách trên, năm 1991, cùng tiến sĩ Lưu Ngọc Trịnh, tiến
sĩ Lê Văn Sang đồng chủ biên cuốn sách Nhật Bản đường đi tới một siêu
cường kinh tế dày 342 trang, nhà xuất bản Khoa học xã hội. Trong cuốn
sách, các tác giả đã trình bày những bước phát triển của nền kinh tế Nhật
Bản một cách có hệ thống từ thời Minh Trị (1868) đến nửa đầu những năm

80 của thế kỷ XX. Trình bày về sự phát triển kinh tế, yếu tố khoa học kĩ
thuật được các tác giả tìm hiểu như một yếu tố cấu thành, biểu hiện phát
triển của nền kinh tế Nhật Bản qua các thời kỳ nói chung.
Tiếp theo, phải kể đến các cơng trình nghiên cứu của Tiến sĩ Lưu Ngọc
Trịnh. Tìm hiểu về Nhật Bản, nhất là sự phát triển kinh tế, các nhân tố tác động
đến sự phát triển kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho tới nay,
Lưu Ngọc Trịnh có các cơng trình Chiến lược con người trong “thần kỳ”
kinh tế Nhật Bản, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1996; Kinh tế Nhật Bản:
những thăng trầm trong lịch sử, nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1998.

9


Tìm hiểu riêng về sự phát triển của khoa học - kĩ thuật từ thời cổ đại
cho đến nay là nội dung cuốn sách Lịch sử kĩ thuật và cách mạng cơng
nghệ đương đại. Tác giả Hồng Đại Phu, nhà xuất bản Khoa học - kĩ thuật
xuất bản năm 1997. Trong cuốn sách này, khoa học - kĩ thuật đã được tìm
hiểu một cách khái quát, từ nguyên nhân ra đời, nguồn gốc phát triển đến
những thành tựu, tác động của những thành tựu đó đến cuộc sống của con
người. Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hay còn gọi là cuộc cách mạng
công nghệ đang diễn ra được tác giả nghiên cứu một cách toàn diện, nêu rõ
những thành tựu cũng như những hạn chế, thách thức mà cuộc cách mạng
này đang đặt ra cho nhân loại phải giải quyết. Đặc biệt, tác giả đã dành hẳn
một chương – chương XI, Công nghệ và sự phát triển tại một số nước (hơn
30 trang) để trình bày về chính sách của các quốc gia, trong đó có Nhật Bản,
về phát triển khoa học công nghệ; về những thành tựu, tác động của cuộc
cách mạng công nghệ đương đại đối với nền kinh tế và đời sống của các
quốc gia này.
Như vậy, rõ ràng đề tài mà chúng tôi nghiên cứu chưa được khai thác
một cách hệ thống, riêng biệt mà mới chỉ nằm rải rác trong những cuốn

sách. Vì thế, trong quá trình tập hợp tư liệu luận văn, chúng tơi cố gắng trình
bày một cách có hệ thống, chuyên sâu về những chính sách phát triển,
những thành tựu mà Nhật Bản đạt được trong khoa học - kĩ thuật và tác
động, vai trò của nhân tố khoa học - kĩ thuật đến sự phát triển kinh tế Nhật
Bản giai đoạn 1951 - 1973 để từ đó rút ra những đặc điểm, kinh nghiệm cho
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
3. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhân tố khoa học - kĩ thuật trong sự phát triển kinh
tế Nhật Bản giai đoạn 1951 - 1973. Để làm rõ sự phát triển của khoa học - kĩ
thuật Nhật Bản giai đoạn này, chúng tơi tập trung nghiên cứu các chính sách

1
0


của nhà nước nhằm phát huy nhân tố khoa học - kĩ thuật; Tác động của các
chính sách này đối với sự phát triển của các ngành kinh tế Nhật Bản trong
giai đoạn này như thế nào.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khơng nhằm mục đích tìm hiểu tồn bộ nền kinh tế Nhật từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay mà tập trung chủ yếu vào nghiên cứu
nhân tố khoa học - kĩ thuật trong sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản giai
đoạn 1951 – 1973.
Sau một thời gian hàn gắn vết thương chiến tranh (1945 - 1950), đến
năm 1951, nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu phục hồi đạt mức trước chiến tranh
và phát triển “thần kỳ”. Trong sự phát triển đó, khoa học - kĩ thuật đóng một
vai trị quan trọng, như một lực lượng sản xuất trực tiếp. Đề tài tập trung
nghiên cứu những chính sách thúc đẩy khoa học - kĩ thuật phát triển của
Chính phủ, các cơng ty, xí nghiệp Nhật Bản; tác động của các chính sách

đến sự phát triển khoa học - kĩ thuật và nền kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1951
- 1973, giai đoạn tăng trưởng nhanh.
3.3. Nhiệm vụ đề tài
Trước hết, đề tài tập trung tìm hiểu về vai trị của nhân tố khoa học kĩ thuật đối với sự phát triển của kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới
thứ hai. Thấy được tính tất yếu, nhu cầu bức thiết của việc phát triển khoa
học - kĩ thuật của Nhật Bản.
Từ yêu cầu của thực tiễn, Nhật Bản có cơ sở và các chính sách gì để
phát triển khoa học - kĩ thuật. Tác dụng của các chính sách này chính là sự
ứng dụng khoa học - kĩ thuật đưa tới sự phát triển kinh tế Nhật Bản.
Trên cơ sở những vấn đề nghiên cứu, rút ra nhận xét, thấy được
những ưu điểm và hạn chế của sự phát triển khoa học - kĩ thuật cũng như
phát triển kinh tế Nhật Bản giai đoạn lịch sử này. Từ những đặc điểm, nhận

1
1


xét đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho sự phát triển khoa học - kĩ
thuật, phát triển kinh tế của các nước đang phát triển.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhận thấy có hai
nguồn tài liệu chính, đó là
Nguồn tư liệu gốc: Các văn bản của Nhà nước, Chính phủ Nhật Bản
có liên quan tới việc phát triển khoa học - kĩ thuật, định hướng phát triển
nền kinh tế giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1973.
Nguồn tư liệu tham khảo khác, bao gồm các tài liệu chuyên khảo, các bài
viết của các nhà nghiên cứu phương Tây, Nhật Bản và Việt Nam đăng trên các
tạp chí hoặc được dịch trong tư liệu của Thông tấn xã Việt Nam ..... Nguồn tài
liệu này khá phong phú và mang nhiều quan điểm đánh giá khác nhau.

Ngồi ra, chúng tơi cũng có tham khảo một số cuốn sách, tập tư liệu
chuyên đề được các nhà xuất bản phát hành trong những năm gần đây.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, theo đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta.
Tuân thủ theo phương pháp nghiên cứu đặc thù của bộ môn lịch sử,
đề tài được nghiên cứu trên cơ sở đánh giá khách quan, khoa học. Các vấn
đề đưa ra đều được đặt trong bối cảnh lịch sử, thời gian và không gian lịch
sử cụ thế để xem xét, đánh giá.
Trên cơ sở xem xét toàn diện, khách quan các vấn đề, có sự liên hệ so
sánh rồi rút ra nhận định, đánh giá và bài học kinh nghiệm cụ thể.
5. Đóng góp của luận văn
Đề tài đóng góp thêm những hiểu biết về nền kinh tế Nhật Bản trong
giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ sau Chiến tranh thế giới thứ hai dưới tác
động của một nhân tố sản xuất.

1
2


Đề tài đồng thời cũng cung cấp thêm những hiểu biết về sự phát triển
của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật sau chiến tranh thế giới hai, sự phát
triển của nhân tố này ở một quốc gia, một nền kinh tế cụ thể. Đề tài cũng
cho thấy rõ vai trò, tác động của khoa học - kĩ thuật, “lực lượng sản xuất
trực tiếp” thời hiện đai, đến sự phát triển của một nền kinh tế điển hình cho
sự tăng trưởng mạnh mẽ - Nhật Bản.
Từ sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Nhật Bản, dưới tác động
của khoa học - kĩ thuật, rút ra được những bài học kinh nghiệm thiết thực
cho các nước còn đang trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Trong thời đại
khoa học – công nghệ hiện nay, những bài học kinh nghiệm của Nhật Bản

có khả năng ứng dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đưa
các nước thốt khỏi đói nghèo và lạc hậu.

1
3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

TÍNH TẤT YẾU PHẢI PHÁT TRIỂN KHOA HỌC – KĨ THUẬT
CỦA NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
1.1. Khái niệm khoa học - kĩ thuật
Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, xã hội loài người cũng là một hệ
thống hết sức phức tạp, cấu thành bởi nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn hoá, tư
tưởng,....Tất cả những lĩnh vực đó đều tác động đến hoạt động của con người
và thông qua các hoạt động của con người, mà hoạt động của con người thì
bao giờ cũng có ý thức, do ý chí chỉ đạo. Trên quan điểm duy vật biện chứng,
xuất phát từ đời sống hiện thực của con người là sản xuất ra của cải vật chất,
C.Mác đã phát hiện ra hai mặt không tách rời nhau: một là quan hệ giữa
người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
“Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta
không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo cách nào đó để
hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau” [19,552]
Quan hệ giữa người với tự nhiên trong sản xuất chính là lực lượng sản
xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con
người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất là toàn
bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải
vật chất, bao gồm: người lao động (với thể lực, tri thức và kỹ năng lao động
nhất định) và tư liệu sản xuất (công cụ lao động).

Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể
của quá trình lao động sản xuất. Bằng thể lực, tri thức và kỹ năng lao động
của mình, người lao động sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao
động, tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất. Cùng với

1
4


quá trình phát triển của sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con
người nhất là trí tuệ ngày càng được nâng cao và dần dần lao động trí tuệ trở
thành nhân tố chính, “lực lượng sản xuất trực tiếp”.
Khoa học - kĩ thuật là sản phẩm của hoạt động nhận thức và phát triển
trí tuệ của con người. Con người sử dụng khoa học - kĩ thuật để cải tạo đối
tượng lao động, bảo vệ thiên nhiên làm ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ
nhu cầu cuộc sống. Khoa học - kĩ thuật đồng thời cũng là phương tiện để
con người hoàn thiện bản thân mình với tư cách là một lực lượng sản xuất
đặc biệt.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, ngay từ khi xuất hiện, con
người đã phải lao động, phải sản xuất ra của cải vật chất.
Khoa học là “Lĩnh vực hoạt động nghiên cứu nhằm mục đích sản xuất
ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy” [41,556]. Khoa học bao
gồm tất cả những điều kiện và những yếu tố của sự sản xuất này là: những
nhà khoa học với những tri thức và những nhân lực, trình độ và kinh nghiệm
của họ với sự phân công và hợp tác lao động khoa học; những cơ quan khoa
học, những trang bị thực nghiệm và thí nghiệm; những phương pháp của cơng
tác nghiên cứu khoa học, hệ thống khái niệm và phạm trù; hệ thống thơng tin
khoa học cũng như tồn bộ tổng số những tri thức hiện có với tư cách hoặc là
tiền đề, hoặc là phương tiện, hoặc là kết quả của sản xuất khoa học. Những
kết quả này cũng có thể là một trong những hình thái ý thức xã hội.

Theo quan điểm của những nhà tư tưởng theo chủ nghĩa thực chứng
nhận định thì khoa học chỉ bó hẹp vào những ngành khoa học tự nhiên hay
nói cách khác khoa học chỉ có ở những ngành “khoa học chính xác”. Thực
tế, trên quan điểm duy vật biện chứng, khoa học được coi là một hệ thống
hoàn chỉnh bao gồm một tương quan cơ động trong lịch sử giữa các bộ môn
khác nhau: tự nhiên học và khoa học nghiên cứu xã hội, giữa phương pháp
và lý luận và nghiên cứu ứng dụng. Khoa học là kết quả tất yếu của phân

1
5


cơng lao động xã hội; nó xuất hiện tiếp theo việc tách lao động trí óc khỏi
lao động chân tay, cùng với việc biến hoạt động nhận thức thành một loại
cơng việc đặc thù của một nhóm người đặc biệt, số người này ban đầu có số
lượng rất ít.
Các nhà nước phương Đông cổ đại (Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung
Quốc), đã tạo tiền đề cho sự ra đời của khoa học. Các quốc gia này đã tích
luỹ và lý giải được những tri thức kinh nghiệm về tự nhiên và xã hội, xuất
hiện những mầm mống của thiên văn học, tốn học, đạo đức học, logíc học.
Những thành tựu này của nền văn minh phương Đông đã được lĩnh hội và
xây dựng lại thành một hệ thống lý luận hoàn chỉnh ở Hy Lạp cổ đại, nơi mà
từ đầu thế kỷ IV TCN đã xuất hiện những nhà tư tưởng chuyên nghiên cứu
khoa học, đoạn tuyệt với hệ thống tơn giáo và thần thoại. Từ đó đến trước
cách mạng cơng nghiệp thế kỷ XVIII, XIX, chức năng chính của khoa học là
giải thích, nhiệm vụ cơ bản của khoa học là nhận thức nhằm mở rộng nhãn
quan về thế giới, về tự nhiên mà con người là một bộ phận trong đó. Chỉ khi
sản xuất bằng máy móc trên quy mơ lớn ra đời mới có điều kiện biến khoa
học từ chỗ là một nhân tố mang tính chất tư biện là chủ yếu thành một nhân
tố tích cực của bản thân sản xuất. Giờ đây, nhiệm vụ nhận thức với mục đích

sửa đổi cải tạo tự nhiên được nêu lên như là nhiệm vụ cơ bản của khoa học.
Kĩ thuật (hay kỹ thuật) được định nghĩa trong từ điển tiếng Việt thơng
dụng là Tổng thể nói chung những phương tiện và tư liệu hoạt động của con
người, được tạo ra để thực hiện quá trình sản xuất và phục vụ các nhu cầu
phi sản xuất của xã hội. [46,501]
Kĩ thuật, technology (tiếng Anh) hoặc technologie (tiếng Pháp) với ý
nghĩa khoa học về các kĩ thuật, hoặc sự nghiên cứu có hệ thống về các kĩ
thuật. Cịn thuật ngữ kĩ thuật (technic hoặc technique) thì đã có từ thời Hy
Lạp cổ đại (techne’ ). Thông thường, người ta sử dụng thuật ngữ technology
để chỉ các kĩ thuật cụ thể bắt nguồn từ những thành tựu khoa học như là một

1
6


sự phát triển của khoa học trong các ứng dụng thực tiễn, nhằm đưa lại hiệu
quả thực tế cho hoạt động của con người. Trong thời đại hiện nay tiến bộ kĩ
thuật còn được phát biểu một cách hết sức nhân văn là “chỗ gặp nhau giữa
cái có thể được thực hiện được về mặt kĩ thuật và cái đáng được mong
muốn về mặt xã hội” [31,190].
Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại,
khoa học với tư cách là một hệ thống đang được xây dựng lại một cách mới
về cơ bản. Muốn khoa học có thể đáp ứng được nhu cầu của sản xuất hiện
đại, các tri thức khoa học phải trở thành tài sản của một đội ngũ đông đảo
những chuyên gia, kỹ sư, những người tổ chức sản xuất và công nhân. Khoa
học thời hiện đại mang những nét đặc trưng mới. Nó khơng chỉ đơn thuần đi
theo sự phát triển của kĩ thuật mà còn vượt qua kĩ thuật, trở thành lực lượng
chủ chốt của tiến bộ sản xuất. Toàn bộ các lĩnh vực nghiên cứu khoa học
(trong khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội) đã có tác dụng thúc đẩy
sản xuất xã hội. Nếu như trước kia khoa học phát triển như một thể chế xã

hội bị cơ lập hố, thì ngày nay, khoa học xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tri thức khoa học và quan điểm khoa học là cần thiết trong sản
xuất vật chất, trong kinh tế, trong chính trị, trong lĩnh vực quản lý, trong hệ
thống giáo dục ... Cho nên, khoa học đang phát triển với một nhịp độ nhanh
hơn mọi lĩnh vực hoạt động khác.
Sự phát triển của khoa học - kĩ thuật đến một mức độ nhất định biến
thành cách mạng. Nửa sau thế kỷ XX được lịch sử ghi nhận là thời kỳ nhân
loại đang trải qua một cuộc cách mạng to lớn trong sản xuất: Cách mạng
khoa học - kĩ thuật. “Cách mạng khoa học kĩ thuật là sự biến đổi về chất
diễn ra trong hệ thống lực lượng sản xuất hiện đại, bảo quản mọi khía cạnh
của những quan hệ cơng nghệ và tiêu biểu ở chỗ kĩ thuật bước vào giai
đoạn phát triển mới của mình là giai đoạn tự động hố”.[41,134] Nếu như
trước kia, sản xuất bằng máy móc bắt buộc con người phải trực tiếp tham dự

1
7


vào quy trình cơng nghệ, phải thực hiện những chức năng cơ giới, kĩ thuật
thì nay sản xuất hồn tồn tự động hố. Ở đó, đối tượng lao động hồn tồn
là do chính hệ thống kĩ thuật gia cơng, hệ thống này hoạt động khơng cần có
sự tham gia trực tiếp của công nhân. Bản chất xã hội của cuộc cách mạng
khoa học - kĩ thuật là ở sự biến đổi vị trí vai trị của con người trong sản
xuất. Tự động hố, về ngun tắc khơng những khơng hạ thấp mà còn nâng
cao vai trò của con người trong q trình sản xuất. Con người, được giải
phóng khỏi việc thực hiện những chức năng máy móc, kĩ thuật, có khả năng
để tâm vào lao đơng sáng tạo, trình độ văn hố kĩ thuật của con người được
nâng cao. Chính sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kĩ thuật đã cho phép
lực lượng sản xuất tiến những bước khổng lồ. Với những tiến bộ vượt bậc,
sức mạnh to lớn của mình, khoa học - kĩ thuật giúp con người có điều kiện

tốt hơn để học tập, nghiên cứu phát triển trí tuệ và con người, với những
hoạt động của mình tác động ngược lại sự phát triển của khoa học - kĩ thuật,
thúc đẩy những tiến bộ xã hội.
1.2. Các yếu tố đòi hỏi Nhật Bản phải phát triển khoa học – kĩ thuật
1.2.1. Yếu tố khách quan
1.2.1.1. Vai trò của khoa học – kĩ thuật
Suốt hàng chục thế kỷ, trong lịch sử phát triển lâu dài của xã hội loài
người, tiến bộ kĩ thuật và tiến bộ cơng nghệ diễn ra theo kinh nghiệm, dựa
trên sự tích luỹ kinh nghiệm từ thực tiễn sản xuất của con người, khơng có
hoặc có rất ít sự tham gia của khoa học. Nhưng vào khoảng giữa thế kỷ XX,
từ những quá trình chuyên biệt trước đây, tiến bộ khoa học và tiến bộ kĩ
thuật phát triển mạnh mẽ, trở thành một quá trình thống nhất – quá trình tiến
bộ khoa học kĩ thuật.
Trở lại lịch sử xa xưa, có một thời kỳ dài trong lịch sử, để duy trì sự
tồn tại, con người đã phải tạo ra những kĩ thuật và cơng nghệ cần thiết mà
chưa có một luận chứng khoa học nào cả. Chẳng hạn, cuối thời nguyên thuỷ,

1
8


cuộc cách mạng kĩ thuật đầu tiên thời đá mới với việc phát minh ra dùng
thừng, cung tên, kĩ thuật mài, khoan đồ đá, con người biết đến săn bắn, đánh
cá, trồng trọt và chăn nuôi; ở thời cổ đại, thế kỷ VII - VI TCN, cuộc cách
mạng mới bắt đầu bằng việc nấu chảy kim loại, chế tạo công cụ lao động
bằng kim loại thay thế cho công cụ đá; hay cuộc cách mạng kĩ thuật thế kỷ
X - XII với động cơ chạy bằng sức gió và sức nước. Những thành tựu trên
chứng thực rằng tất cả những tiến bộ kĩ thuật và cơng nghệ đó bắt nguồn từ
kinh nghiệm sản xuất tích luỹ qua nhiều thế hệ chứ khơng phải có căn cứ
khoa học, trải qua hàng triệu, vạn năm phát triển của lồi người. Chính bởi

vậy, ở giai đoạn phát triển này của xã hội loài người, độ màu mỡ của đất đai,
sự giàu có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên tái sinh và không tái sinh,
sự thuận lợi về vị trí địa lý, sự đông đúc của cư dân đã làm nên sự giàu có
của các quốc gia khác nhau. Trong thời đại của chúng ta, tất cả những yếu tố
đó cũng vẫn rất quan trọng và cũng cần phải tính đến, song chính tiềm năng
khoa học, kĩ thuật và công nghệ cùng với những tiến bộ do chúng tạo nên
mới thực sự là những chỉ số có ý nghĩa nhất nói lên trình độ thực tế và khả
năng tiềm tàng bảo đảm cho sự phát triển nhanh chóng của các lực lượng
sản xuất, của sức mạnh kinh tế và quân sự của mỗi quốc gia.
Cuộc cánh mạng khoa học - kĩ thuật đương đại (cách mạng cơng
nghệ) có nội dung phong phú và phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều so với
những đổi thay về khoa học kĩ thuật của những giai đoạn lịch sử trước đó.
Cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ ngày nay đang phát triển sâu rộng
và diễn ra hết sức sơi động, bao qt tồn bộ các lĩnh vực hoạt động của con
người với những thành tựu to lớn và kỳ diệu, vượt xa những trong đợi và dự
đoán của con người.
Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật sau Chiến tranh thế giới thứ hai
đến nay không chỉ là một hiện tượng thuần tuý về khoa học - kĩ thuật mà
còn là một hiện tượng lịch sử, một bộ phận quan trọng của sự phát triển của

1
9


xã hội, gây nên những tác động to lớn, làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời
sống xã hội loài người.
Khoa học - kĩ thuật trong giai đoạn lịch sử hiện nay đã kéo dài cánh
tay con người bằng việc thay đổi các hệ thống kĩ thuật trước đây, tạo ra các
công cụ sản xuất mới với hiệu quả rất cao. Khoa học kĩ thuật cịn mở rộng
bộ óc và khả năng tư duy, làm tăng lên vượt bậc năng lực nhận thức và cải

tạo thế giới của con người. Nó cho phép thực hiện những bước nhảy vọt
chưa từng có của lực lượng sản xuất và năng xuất lao động; làm thay đổi vị
trí, cơ cấu, các ngành sản xuất và các vùng kinh tế. Cuộc cách mạng khoa
học - kĩ thuật này cũng đã đưa tới sự xuất hiện nhiều ngành công nghiệp
mới, nhất là những ngành có liên quan đến những tiến bộ của khoa học - kĩ
thuật đương đại như: công nghiệp vũ trụ, tên lửa, công nghiệp điện tử, vật
liệu tổng hợp, công nghệ vi sinh .... Những sản phẩm khoa học - kĩ thuật đã
làm thay đổi phương thức sinh hoạt và tiêu dùng trong đời sống xã hội. Đời
sống thay đổi và mức sống con người ngày càng được nâng cao.
Với những tác động mà cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật đem lại
cho cuộc sống con người, các tiêu chí của sự phát triển cũng đã thay đổi cơ
bản. Thang giá trị phát triển của xã hội không được đánh giá bằng những giá
trị vật chất đơn thuần như trước kia mà được đánh giá bằng trí tuệ. Trí tuệ
như một yếu tố khởi động cho guồng máy sản xuất hoạt động theo dạng thức
mới: gia tăng các ngành có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao; là các thiết bị
máy móc tự động hố, hiệu suất cao; là cơng nghệ sản xuất hiệu quả, chất
lượng cao nhưng lại giảm chi phí sản xuất, tiêu hao năng lượng ít và thân
thiện với mơi trường ... Trí tuệ trở thành vật phẩm cao cấp, có giá trị sử dụng
vơ giá, có mối giao lưu đặc biệt trong thị trường hiện đại và bản thân nó cũng
tạo ra những thị trường riêng biệt có sức hút và cạnh tranh quyết liệt.
Với những thành tựu của mình, cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật
hiện nay đã làm đảo lộn nhiều giá trị, quan niệm truyền thống.

2
0



×