Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Buổi thảo luận thứ 2 luật sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.47 KB, 13 trang )

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Khoa Luật Quốc tế
Lớp Quốc tế 44.1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI
QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN TÁC GIẢ

Bộ môn:

Luật Sở Hữu Trí Tuệ

Giảng viên: Th.s Nguyễn Trọng Luận

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 16, tháng 03, năm 2022


PHẦN A
A.1. Lý thuyết:
1. Phân tích mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả.
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 quy định như sau: “Quyền
tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Như
vậy, khi cá nhân sáng tác ra một tác phẩm và thể hiện tác phẩm dưới dạng hình thức nhất định.
Thơng qua q trình lao động sáng tạo hoặc một tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền tác giả
thì những tổ chức, cá nhân đó được xem là chủ thể của quyền tác giả.
Theo khoản 3 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 quy định như sau: “Quyền
liên quan đến quyền tác giả (gọi là quyền liên quan) là quyền của cá nhân, tổ chức đối với cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, tín hiệu vệ tinh, chương trình phát sóng mang chương trình được mã
hóa”. Có thể được hiểu, những chủ thể được sở hữu quyền liên quan này khi họ thực hiện một cuộc
biểu diễn, hoặc tổ chức một buổi ghi hình, ghi âm, buổi biểu diễn…
Mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan:


Quyền tác giả bảo hộ tác phẩm của tác giả đó, trong khi quyền liên quan là quyền được trao cho
một nhóm người vì vai trị quan trọng của họ đối với việc truyền bá, và làm phổ biến một số loại
hình tác phẩm đến với cơng chúng.
Ví dụ: Đối với một bài hát, quyền tác giả bảo hộ phần nhạc của nhạc sĩ, cũng như phần ca từ của
người viết lời và quyền liên quan sẽ được áp dụng đối với: Phần biểu diễn của nhạc cơng, ca sỹ trình
bày bài hát đó; Bản ghi âm/ghi hình bài hát đó của nhà sản xuất; Chương trình phát sóng của nhà
sản xuất chương trình chứa bài hát đó.
Để có được quyền liên quan, các chủ thể như: người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hình… phải biểu diễn, thể hiện, phát sóng, tổ chức dựa trên tác phẩm gốc của chủ sở hữu quyền tác
giả. Tức là người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, người phát sóng có vai trị trung
gian, truyền đạt, thơng tin, nội dung, giá trị của tác phẩm gốc đến với cơng chúng. Đó chính là lý do
tại sao quyền trung gian này được gọi tên là: quyền liên quan đến quyền tác giả.
Như vậy, mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan được hiểu như sau: Một tác phẩm
được khi ra đời, được thể hiện dưới hình thức nhất định, được cơng bố nhưng chưa chắc được cộng
đồng đón nhận, tiếp thu hết thơng tin, giá trị mà tác phẩm đó mang lại. Thơng qua các chủ thể trung
gian của quyền liên quan, tác phẩm đó có thể đi vào lịng người hơn, được cơng chúng đánh giá cao
hơn bởi khả năng truyền đạt hấp dẫn và kỹ xảo của người biểu diễn, cũng như tổ chức phát sóng, ghi
âm, ghi hình…
2. Cho ví dụ để chứng minh rằng chủ sở hữu quyền tác giả có thể đồng thời là tác giả, cũng có
thể khơng đồng thời là tác giả.
Trả lời:

1


A là người sáng tác ra bộ truyện B. Nếu A là sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất – kỹ
thuật của mình để sáng tạo ra bộ truyện thì trong trường hợp này quyền sở hữu quyền tác giả có
đồng thời là tác giả. Nếu A là người được nhà sản xuất C thuê để sáng tác ra bộ truyện thì chủ sở
hữu quyền tác giả khơng đồng thời là tác giả, khi đó chủ sở hữu quyền tác giả là nhà sản xuất C và
tác giả là A.

A.2. Bài tập:
1. Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng Đất Việt
(thông qua các phương tiện thông tin đại chúng) và đánh giá các vấn đề pháp lý sau (trên cơ
sở các thơng tin này):
Tóm tắt vụ việc:
Năm 2001, họa sĩ Lê Linh bắt đầu làm việc tại Công ty Phan Thị và được giao thực hiện bộ
truyện tranh TĐĐV từ năm 2002 - 2005, bộ truyện Thần đồng đất Việt được tung ra thị trường bởi
tác giả Lê Linh và Cơng ty Phan Thị. Theo đó, tác giả Lê Linh đã cùng với bà Phan Thị Mỹ Hạnh
(Giám đốc Công ty Phan Thị) đứng tên đăng ký quyền tác giả. Từ tháng 5.2002, Cục Bản quyền cấp
giấy chứng nhận bản quyền tác giả, ghi nhận quyền tác giả thuộc về đồng tác giả là ông Lê Linh và
bà Phan Thị Mỹ Hạnh, quyền tài sản (các quyền khai thác, sử dụng tác phẩm…) thuộc về Công ty
Phan Thị.. Tranh chấp quyền tác giả xảy ra khi đến tập 78, Lê Linh chấm dứt cộng tác với Phan Thị
nhưng sau đó Phan Thị vẫn thuê họa sĩ làm tiếp và xuất bản từ tập 79 trở đi mà khơng có sự đồng ý
của Lê. Phía họa sĩ Lê Linh cho rằng mình là tác giả nên có quyền bảo vệ sự tồn vẹn đối với tác
phẩm, khơng ai có quyền sáng tác các tập tiếp theo dựa trên các nhân vật trong truyện của mình, họa
sĩ Lê Linh đã dừng vẽ và đưa vụ việc nhờ tới pháp luật để giải quyết.Tháng 4.2007, họa sĩ Lê Linh
đã chính thức khởi kiện Cơng ty Phan Thị lên Tịa án Kinh tế TP.HCM.Năm 2008, Lê Linh nhiều
lần thay đổi yêu cầu khởi kiện, rồi cuối cùng rút đơn tại TAND TP.HCM và sau đó chuyển đơn khởi
kiện trở lại TAND Q.1.Năm 2017, Lê Linh yêu cầu tòa án trưng cầu giám định của Trung tâm giám
định quyền tác giả.Từ 18.5 – 11.10.2018, TAND Q.1 triệu tập 4 lần nhưng không đủ mặt hai
bên.Ngày 28.12.2018, TAND Q.1 đưa vụ án ra xét xử nhưng hỗn vì bị đơn vắng mặt.Ngày
24.1.2019, phiên tịa sơ thẩm diễn ra; ngày 18.2, TAND Q.1 tuyên án sơ thẩm.Ngày 16.7.2019,
TAND TP.HCM mở phiên phúc thẩm theo kháng cáo của bị đơn; sáng 3.9, TAND TP.HCM tuyên y
án sơ thẩm.
a) Theo Luật SHTT, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền tác giả không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 LSHTT, tác phẩm chính là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực
văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Căn cứ theo
quy định tại Điều 14 LSHTT thì các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao
gồm:

a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới
dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
2


d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là
tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, cơng trình khoa học;
l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
Tại khoản 1 Điều 6 LSHTT quy định về căn cứ xác lập quyền tác giả như sau: “Quyền tác giả
phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định,
không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngơn ngữ, đã cơng bố hay chưa công
bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.” Từ quy định trên, ta thấy có hai căn cứ để phát sinh quyền tác
giả:
- Phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo.
- Được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định.
Từ các quy định của Luật SHTT nêu trên, “Thần đồng đất Việt”, tác phẩm là hình ảnh các nhân
vật trong truyện (Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng), là cốt truyện (tác phẩm viết) và truyện (tác phẩm
truyện tranh được thể hiện dưới dạng chữ viết và hình ảnh) được thể hiện bằng hình ảnh được vẽ ra
và câu truyện được sáng tác bởi tác giả, khơng phải hình ảnh hay câu truyện mới chỉ xuất hiện trong
tưởng tượng, trong tâm trí tác giả mà chưa được thể hiện ra bên ngồi bằng một hình thức nào đó.
Và truyện tranh Thần đồng đất Việt được bảo hộ quyền tác giả theo quy định Luật SHTT.

b) Ai là chủ sở hữu bộ truyện tranh này?
Trả lời:
Căn cứ theo Điều 25 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 28/2/2018 quy định chi tiết và
hướngdẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền
liên quan thì chủ sở hữu quyền tác giả bao gồm:
“1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam.
2. Tổ chức, cá nhân nước ngồi có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức vật chất
nhất định tại Việt Nam.
3. Tổ chức, cá nhân nước ngồi có tác phẩm được cơng bố lần đầu tiên tại Việt Nam.
4. Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Trong trường hợp này “Thần đồng đất Việt”, tác giả không đồng thời là chủ sở hữu. Cụ thể hơn,
tác giả (ông Lê Linh) sáng tạo dựa trên Hợp đồng lao động với chủ sở hữu (Phan Thị).”
3


Tác giả trong tác phẩm “Thần đồng đất Việt”, theo như Phan Thị đăng ký quyền tác giả với Cục
bản quyền là đồng tác giả (tập thể tác giả), cụ thể là Phan Thị Mỹ Hạnh cùng là đồng tác giả với Lê
Linh.
Chủ sở hữu trong đăng ký quyền tác giả của tác phẩm Thần đồng đất Việt là Phan Thị.
c) Ai là tác giả bộ truyện tranh này?
Trả lời:
Tại khoản 1 Điều 6 LSHTT quy định về căn cứ xác lập quyền tác giả như sau: “Quyền tác giả
phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định,
khơng phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công
bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.” Từ quy định trên, ta thấy có hai căn cứ để phát sinh quyền tác
giả:
- Phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo.
- Được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định.
Trong vụ việc này, về phía luật sư bên Phan Thị cho rằng “bà Phan Thị Mỹ Hạnh đã hình dung

ra nhân vật trong đầu, trong tưởng tượng, trong thế giới tinh thần của bà Phan Thị Mỹ Hạnh” và ơng
Lê Linh là người thể hiện các hình dung đó và do đó bà Phan Thị Mỹ Hạnh là đồng tác giả với ông
Lê Linh. Tuy nhiên, bà Phan Thị Mỹ Hạnh không thể chứng minh được các tưởng tượng trong đầu
bà là có thật bằng cách nào và có giống với những gì ơng Lê Linh thể hiện ra hay khơng. Do đó, bà
Hạnh cho rằng mình với ông Lê Linh là đồng tác giả truyện tranh “Thần đồng đất Việt” là hồn tồn
khơng có căn cứ và khơng phù hợp. Cho nên, ơng Lê Linh chính là tác giả duy nhất của các tác
phẩm này, sáng tạo và được trả nhuận bút từ Phan Thị, là có căn cứ và lập luận rất rõ ràng.
d) Công ty Phan Thị có quyền gì đối với bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt?
Trả lời:
- Công ty Phan Thị được quyền làm tác phẩm phái sinh (là tác phẩm dịch từ ngơn ngữ này sang
ngơn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn theo quy
định tại khoản 8 Điều 4 LSHTT) nhưng không được sửa chữa tác phẩm gốc đối với bộ truyện tranh
Thần Đồng Đất Việt. Vì:
+ Ông Lê Phong Linh là tác giả của bộ truyện này nên có quyền nhân thân là được bảo vệ sự
toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất
kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả theo quy định tại khoản 4 Điều
19 (LSHTT).
+ Và công ty Phan Thị được làm tác phẩm phái sinh nhưng phải xin phép chủ sở hữu quyền tác
giả là ông Lê Phong Linh. Nếu thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 25 LSHTT thì khơng
phải xin phép.
e) Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi có phù hợp với quy định
pháp luật không?
Trả lời:
4


- Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi là trái với quy định của pháp
luật. Vì:
+ Vụ việc này đã được Tịa án xét xử là buộc công ty Phan Thị chấm dứt xuất bản bộ truyện từ
tập 79 trở đi, cũng như khơng được sử dụng hình tượng 04 nhân vật của chủ sở hữu quyền tác giả là

ông Lê Phong Linh bao gồm: Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo để xuất bản các tập tiếp theo. Và
cũng chưa có sự cho phép của tác giả là ơng Lê Linh, trừ trường hợp được quy định tại Điều 25
(LSHTT).
+ Việc xuất bản này còn xâm phạm đến quyền nhân thân của tác giả được quy định tại khoản 4
Điều 19 (LSHTT) làm ảnh hưởng đến sự toàn vẹn của tác phẩm, danh dự và uy tín của tác giả.
2. ghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình ngày 14/8/2014
và trả lời các câu hỏi sau:
a) Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm này có được
bảo hộ quyền tác giả khơng? Vì sao?
Trả lời:
Ông Nguyễn Văn Lộc là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”.
Tác phẩm này được bảo hộ quyền tác giả. Bởi tác phẩm này đã được Cục bản quyền cấp giấy
chứng nhận đăng ký bản quyền số 169/2013/QTG ngày 07/01/2013 và ơng Lộc có kèm theo bản
photo hình ảnh đăng ký bản quyền chứng minh điều này.
b) Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” có được
bảo hộ quyền tác giả khơng? Vì sao?
Trả lời:
Từng “cụm hình ảnh trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” khơng được bảo hộ
quyền tác giả.
Về nguồn gốc, các cụm hình ảnh được thể hiện trong tác phẩm của ông Nguyễn Văn Lộc là
những hình ảnh đã được lưu truyền trong văn hóa dân gian từ lâu đời (hình ảnh múa lân, ông địa,
liễn chúc tết, ông đồ viết chữ...) các tác giả chỉ thay đổi một số đường nét và sắp xếp theo một bố
cục và hình thức thể hiện để tạo nên tác phẩm riêng của mình. Do đó, quyền tác giả của các hình ảnh
riêng rẽ đã được lưu truyền lâu đời trong văn hóa dân gian khơng thể xác định là của ai. Quyền tác
giả đối với tác phẩm ở đây được xác định chính là bố cục sắp xếp, hình thức thể hiện trong một tổng
thể thống nhất không thể tách rời ra theo từng bộ phận để xác định quyền tác giả.
Mặt khác, ông Lộc đã gộp chung cả 05 cụm hình vào trong một tác phẩm để đăng ký quyền tác
giả. Bởi lẽ, theo trình tự đăng ký quyền tác giả nếu muốn bảo hộ cho từng cụm hình ảnh thì ơng phải
lập từng hồ sơ tương ứng với từng cụm hình ảnh (ở đây là 05 cụm hình ảnh tương ứng với 05 hồ sơ)
để đăng ký quyền tác giả. Điều này sẽ mất nhiều thời gian nên ông đã gộp chung cả 05 cụm hình

vào trong một tác phẩm để đăng ký quyền tác giả.
Từ đó, có thể nhận thấy, quyền tác giả của ơng Lộc đối với từng cụm hình
5


riêng rẽ chưa được xác lập. Theo đó từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh
tết dân gian” sẽ không được bảo hộ quyền tác giả.
c) Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của ngun đơn khơng? Nêu cơ sở
pháp lý.
Trả lời:
Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn.
Bởi lẽ:
Thứ nhất, khi xét các chứng cứ cung cấp, tác phẩm của ông Lộc và hình ảnh trang trí tại
showroom của Cơng ty Mặt Trời Mọc có bố cục và hình thức thể hiện là khác nhau, những hình ảnh
này do ơng chụp bằng điện thoại và khơng có gì chứng minh là các bức tranh được trang trí tại cửa
hàng trưng bày 18 Cộng Hịa, phường 4, Tân Bình đúng với ngun bản là các bức tranh của ông.
Thứ hai, quyền tác giả đối với tác phẩm ở đây được xác định chính là bố cục sắp xếp, hình thức
thể hiện trong một tổng thể thống nhất không thể tách rời ra theo từng bộ phận để xác định quyền
tác giả. Công ty Đăng Viễn không sử dụng tác phẩm của ông Lộc để trang trí tại showroom của
cơng ty Mặt Trời Mọc, mà công ty Đăng Viễn sưu tầm, mua lại các hình ảnh riêng rẽ tại các
websites (vectordep.vn, nguyenthehien.com) từ đó thiết kế, sắp xếp, bố cục hình thành hình thức thể
hiện khơng khí Tết dân gian cho tác phẩm trang trí của mình. Mặt khác, quyền tác giả của ông
Nguyễn Văn Lộc đối với từng cụm hình riêng rẽ chưa được xác lập. Do vậy, việc các sử dụng biểu
tượng văn hóa dân gian được lưu truyền lâu đời của bị đơn mặc dù có nét tương đồng với ngun
đơn nhưng cách sắp xếp, bố trí khác nhau thì sẽ tạo ra một chỉnh thể khác nhau, mang thông điệp và
nội dung cụ thể khác nhau.
Thứ ba, bị đơn có kí Hợp đồng số 241212/DV-MTM ngày 24/12/2012 thuế Cơng ty TNHH dịch
vụ quảng cáo Đăng Viễn thi công, lắp đặt, trang trí tại cửa hàng trưng bày 18 Cộng Hịa, phường 4,
Tân Bình, Cơng ty TNHH dịch vụ quảng cáo Đăng Viễn đã hoàn thành và hai bên đã nhiệm thu,
thanh lý ngày 05/12/2012 ; trước ngày ông Lộc được cấp Giấy chứng nhận đăng ký bản quyền số

169/2013/QTG ngày 07/01/2013, có kèm theo hình ảnh đăng ký bản quyền.
Từ những phân tích trên cho thấy, hành vi của bị đơn không thuộc bất kỳ trường hợp nào được
quy định tại Điều 28, Luật Sở hữu trí tuệ về Hành vi xâm phạm quyền tác giả. Do vậy, bị đơn không
xâm phạm quyền tác giả của nguyên đơn.
d) Việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian có những điểm khác biệt nào so với
các loại hình tác phẩm khác?
Trả lời: Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là loại tác phẩm có các đặc điểm đặc biệt so với
các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học khác. Do đó, việc bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian cũng sẽ có những điểm khác biệt so với loại hình tác phẩm khác như sau:

6


Tiêu chí

Điều kiện bảo hộ

Tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian.

Tác phẩm khác

- Tác phẩm được bảo hộ mang - Tác phẩm được bảo hộ mang tính
tính sáng tạo tập thể.
sáng tạo cá nhân/tập thể.
- Không bắt buộc thể hiện dưới - Phải được thể hiện dưới dạng vật chất
hình thức nhất định. Chẳng hạn: nhất định.
Điệu múa, điệu hát, làn điệu âm
nhạc, truyện, thơ.


Nội dung bảo hộ

Bảo hộ quyền nhân thân và quyền Chỉ bảo hộ quyền nhân thân (khoản 2
tài sản (Điều 19, 20 Luật SHTT Điều 23 Luật SHTT 2005), đó là quyền
2005)
được người sử dụng dẫn chiếu xuất xứ
(Khoản 2 Điều 19 Luật SHTT 2005)

Chủ
sở
hữu Cá nhân, nhóm tập thể trực tiếp
quyền tác giả
sáng tạo hoặc cá nhân, tổ chức sở
hữu tác phẩm. (Điều 13 Luật
SHTT 2005)

Toàn thể cộng đồng. Tuy nhiên, những
thực thể và cá thể sau có thể được xem
là chủ sở hữu để bảo tồn và phát huy
giá trị của tác phẩm đó (khai thác lợi
ích từ tác phẩm):
- Cộng đồng cơng xã (chủ sở hữu công
xã/làng của họ)
- Những người được cộng đồng công
nhận là người hàng đầu trong việc nắm
giữ và thực hành, truyền dạy vốn văn
học nghệ thuật dân gian của cộng đồng
- Người sưu tầm, nghiên cứu

Thời gian bảo hộ


Có thời hạn cụ thể (Điều 27 Luật Pháp luật không quy định
SHTT 2005)

PHẦN B
Đọc, nghiên cứu Bản án số 5 “Tác phẩm phái sinh” Chương 2 (gồm cả phần tình huống và
bình luận) trong Sách tình huống Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam và trả lời các câu hỏi sau đây:
7


1. Theo quy định của pháp luật SHTT, tác phẩm phái sinh là gì? Đặc điểm của tác phẩm
phái sinh?
Trả lời:
- Căn cứ theo khoản 8 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ thì tác phẩm tái sinh được hiểu là tác phẩm
dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú
giải, tuyển chọn.
Ví dụ:
+ Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch: Cuốn sách nổi tiếng của tác giả Dale Carnegie – “HOW
TO WIN FRIENDS & INFLUENCE PEOPLE” được Công ty First News dịch sang tiếng Việt
thành “Đắc nhân tâm”.
+ Tác phẩm phái sinh là tác phẩm được cải biên: Bộ phim hoạt hình “Người đẹp và quái vật” đã
được cải biên từ tác phẩm gốc cùng tên là “Gabrielle- Suzanne Barbot de Villeneuve” của tác giả
Jeanne Marie Leprince Beaumont.
- Đặc điểm của tác phẩm phái sinh:
+ Thứ nhất, tác phẩm phái sinh chỉ được hình thành trên cơ sở một hoặc những tác phẩm đã tồn
tại.
+ Thứ hai, tác phẩm phái sinh mang dấu ấn riêng của tác giả.
+ Thứ ba, tác phẩm phái sinh có thể khác biệt hoàn toàn hoặc khác biệt từng phần so với tác
phẩm gốc.
+ Thứ tư, về dấu ấn của tác phẩm gốc trong tác phẩm phái sinh, mặc dù tác phẩm phái sinh phải

đảm bảo tính nguyên gốc như vừa phân tích, nhưng dấu ấn của tác phẩm gốc phải được thể hiện
trong tác phẩm phái sinh, có nghĩa là khi nhận biết tác phẩm phái sinh thì cơng chúng phải liên
tưởng đến tác phẩm gốc, sự liên tưởng này được thể hiện qua nội dung của tác phẩm gốc.
2. Với hướng lập luận của Tòa án, hành vi của Hãng phim truyện I và đạo diễn Lộc có xâm
phạm quyền tác giả của ông Ánh không? Đoạn nào trong bản án thể hiện điều này?
Trả lời:
Với hướng lập luận của Tòa án, hành vi của Hãng phim truyện I và đạo diễn Lộc khơng có xâm
phạm quyền tác giả của ông Ánh.
Đoạn trong bản án đã thể hiện điều này:
“Như vậy, khi làm phim truyện I (mà người được giao nhiệm vụ làm đạo diễn là ơng Phạm Lộc)
có sữ chữa, bổ sung kịch bản như đánh giá của ông Ánh. Do đó, Hãng phim truyện I và ơng Phạm
Lộc không vượt quá quyền đã xác định tại Điều 4 của hợp số 174/PT1 – HĐ ngày 11/8/1997” và các
quy định của pháp luật về quyền tác giả. Án sơ thẩm đã bác yêu cầu của Ánh là có cơ sở, đúng pháp
luật.”
3. Pháp luật nước ngồi có quy định nào về việc bảo hộ tác phẩm phái sinh?
8


Trả lời:
- Pháp luật Hòa Kỳ:
+ Về định nghĩa: Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã định nghĩa về tác phẩm phái
sinh tại Điều 101 Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ như sau: "Tác phẩm phái sinh" là tác
phẩm được hình thành trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có như là các tác phẩm dịch, các tác
phẩm được phổ nhạc, được chuyển thể thành kịch, được tiểu thuyết hóa, được điện ảnh hố, âm
nhạc hố, mỹ nghệ hố, tóm tắt, tóm lược, hoặc bất kỳ hình thức nào khác mà trong đó tác phẩm có
thể được cải biên, chuyển thể hoặc bổ sung. Một tác phẩm bao hàm các bản thảo đã được biên tập
lại, các lời bình chú, phân tích hoặc các sửa chữa khác một về tổng thể là một tác phẩm nguyên thuỷ
độc đáo hoàn chỉnh của tác giả là "tác phẩm phái sinh".
Như vậy, điều kiện để có một tác phẩm phái sinh là trước hết phải tồn tại “một hoặc nhiều tác
phẩm”, thuật ngữ “một hoặc nhiều tác phẩm” vừa nêu có thể thuộc một loại hình hay nhiều loại hình

tác phẩm, bởi vậy khơng loại trừ trường hợp, một tác phẩm phái sinh được hình thành từ một tác
phẩm văn học và một tác phẩm kịch.
+ Về vấn đề bảo hộ tác phẩm phái sinh, Pháp luật Hoa Kỳ Điều 103 Luật Quyền tác giả Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ quy định:
“(a). Đối tượng bảo hộ quyền tác giả được quy định tại Điều 102 bao gồm cả các tác phẩm biên
soạn và tác phẩm phái sinh, nhưng việc bảo hộ đối với một tác phẩm dựa trên sự khai thác các tư
liệu đã có mà đối với chúng quyền tác giả đang tồn tại sẽ không được mở rộng đến bất kỳ phần nào
của tác phẩm đó nếu trong tác phẩm này các tư liệu đã được sử dụng bất hợp pháp.
(b). Quyền tác giả đối với các tác phẩm biên soạn hoặc tác phẩm phái sinh chỉ mở rộng đến các
phần đóng góp của tác giả của tác phẩm đó như là một phần độc lập với các tư liệu đã được khai
thác trong tác phẩm đó, và khơng ảnh hưởng tới bất kỳ một quyền độc quyền nào đối với các tư liệu
đã có. Quyền tác giả đối với các tác phẩm này là độc lập, không bị ảnh hưởng hoặc chi phối về
phạm vi, thời hạn bảo hộ, chủ sở hữu, hoặc sự tồn tại của nó với bất kỳ sự bảo hộ quyền tác giả nào
đối với các tư liệu đã có.”
- Pháp luật Nhật Bản:
Luật quyền tác giả Nhật Bản cũng có đưa ra định nghĩa về tác phẩm phái sinh tại Điều 2 Luật
Quyền tác giả Nhật Bản như sau: “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm biên dịch, hịa âm phối khí, hoặc
cải biên, viết thành kịch, điện ảnh hóa, hoặc là một sáng tác chuyển thể từ một tác phẩm đã có.” Ta
thấy, nhìn chung khái niệm về tác phẩm phái sinh trong pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc
gia về cơ bản không quá khác biệt.
Luật quyền tác giả của Nhật Bản có sử dụng thuật ngữ tác phẩm phái sinh, trong đó có quy định
rõ việc bảo hộ tác phẩm phái sinh không làm phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm đã tồn tại.
Điều 11 Luật Quyền tác giả Nhật Bản quy định “Việc bảo hộ tác phẩm phái sinh của Luật này
không gây ảnh hưởng đến quyền tác giả của tác phẩm gốc.”
Về quyền tác giả bản gốc đối với khai thác tác phẩm phái sinh, pháp luật Nhật Bản tại Điều 28
Luật Quyền tác giả Nhật Bản quy định “tác giả bản gốc của tác phẩm phái sinh có quyền giống như
9


quyền tác giả tác phẩm phái sinh” đối với tác phẩm điện ảnh khi sử dụng khai thác tác phẩm phái

sinh đó.
- Pháp luật của Pháp:
Pháp luật của Pháp có dùng thuật ngữ tác phẩm phái sinh. So với pháp luật của Hoa Kỳ và Anh
quốc, thì pháp luật của Pháp quy định về tác phẩm phái sinh có phần chi tiết và cụ thể hơn. Điều
L.112-3 Bộ luật SHTT của Pháp quy định: “Tác giả của tác phẩm dịch, tác phẩm phóng tác, chuyển
thể hoặc cải biên sẽ được hưởng sự bảo hộ theo Luật này, miễn là không phương hại đến quyền tác
giả của các tác phẩm gốc. Điều này cũng áp dụng tương tự đối với tác giả của tác phẩm hợp tuyển,
tuyển tập hay sưu tập dữ liệu mà sự lựa chọn hay sắp xếp nội dung của chúng tạo thành nững tác
phẩm có tính sáng tạo”.
Điều L.113-2 Bộ luật SHTT của Pháp quy định về tác phẩm tuyển chọn, tác phẩm hợp tuyển và
tác phẩm hợp tác. Pháp luật về SHTT của Pháp không định nghĩa cụ thể thế nào là tác phẩm phái
sinh mà chỉ liệt kê các loại hình tác phẩm thuộc tác phẩm phái sinh. Pháp luật về quyền tác giả của
Pháp tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân tác giả, do đó khơng coi pháp nhân là tác giả, đồng thời
cũng không coi bên giao nhiệm vụ (dù là cá nhân hay pháp nhân) cho người khác sáng tạo nên tác
phẩm là tác giả.
4. Quan điểm của tác giả bình luận về tranh chấp này như thế nào?
Trả lời:
- Về khái niệm tác phẩm phái sinh:
Tranh chấp trên giữa ông Ánh và ông Lộc cùng Hãng phim truyện xoay quanh vấn đề pháp lý là
liệu rằng bộ phim “Hôn nhân khơng giả thú” có được xem là tác phẩm chuyển thể từ kịch bản cùng
tên hay khơng, bị đơn có vi phạm hợp đồng số 174/PT1-HĐ ngày 11/08/1997 hay không. Ông Anh
là tác giả kịch bản phim truyện “Hôn nhân không giá thú”, đã được Cục Bản quyền tác giả cấp giấy
chứng nhận bản quyền số 1591VH/BQ ngày 11/11/1997. Đây là tác phẩm đã được bảo hộ theo quy
định của pháp luật về quyền tác giả. Theo quy định tại Nghị định 76/1996, bộ phim “Hôn nhân
không giá thú” là một loại tác phẩm được bảo hộ tại Điều 4, với tư cách là tác phẩm chuyển thể.
Điểm d khoản 13 Điều 4 văn bản này xác định tác phẩm chuyển là tác phẩm được chuyển từ loại
hình này sang loại hình khác. Ở đây đã có sự thay đổi loại hình thể hiện tác phẩm từ kịch bản phim
sang một bộ phim hoàn chỉnh. Tương tự như vậy, theo pháp luật hiện hành, bộ phim này cũng thỏa
mãn điều kiện tác phẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 4 và khoản 1 Điều 6 Luật SHTT cũng như
quy định cụ thể về “quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh” tại Điều 12 Nghị định 22/2018.

Để được xem là một tác phẩm phái sinh cần thỏa mãn hai điều kiện: là sự thể hiện tác phẩm
gốc dưới hình thức khác.
+ Thứ nhất, tác phẩm phái sinh được sáng tạo trên nền tác phẩm gốc: Bộ phim và kịch bản văn
học đều có chung một nội dung là “ca ngợi tình yêu tình đồng đội và sự hi sinh của người lính
khơng qn”, kịch bản văn học cịn có những chủ đề khác nhưng bộ phim tập trung chủ yếu vào chủ
đề chính của kịch bản. Theo đó, bộ phim đã lược bỏ một số ý tưởng và nội dung của kịch bản nhưng
không làm sai lệch chủ đề chính và nội dung của kịch bản văn học. Bộ phim đã sáng tạo dựa trên tác
phẩm gốc và thoả mãn điều kiện này để trở thành tác phẩm phái sinh.
10


+ Thứ hai, đó phải là sự thể hiện tác phẩm góc dưới dạng hình thức khác.
Để được xem là “chuyển thể” của một tác phẩm đã tồn tại đòi hỏi phải có sự thay đổi “loại hình
nghệ thuật của tác phẩm mới tạo ra so với tác phẩm gốc. Khái niệm thế nào là “loại hình nghệ thuật”
thực chất vẫn còn mơ hồ theo quy định của pháp luật, bởi khơng có quy định cụ thể nào trong lĩnh
vực quyền tác giả cho biết vấn đề này. Mặt khác, nhiều loại hình tác phẩm phái sinh khác được ghi
nhận nhưng không làm rõ nội hàm khái niệm dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá tác phẩm phái
sinh.
Theo quan điểm của tác giả, “chuyển thể” là tác làm tác phẩm phái sinh phù hợp nhất trong
trường hợp này, bởi lẽ cách thức xây dựng tác phẩm mới dựa trên tác phẩm gốc là thức chuyển đổi
loại hình nghệ thuật của tác phẩm, đó là những bản chất nội dung cũng như chủ đề mà tác phẩm gốc
nêu lên. Từ kịch bản văn học, bộ phim đã được thực hiện dưới một hình thức biểu đạt khác. Điểm
khác biệt lớn nhất giữa hai tác phẩm là loại nghệ thuật dùng để thể hiện tác phẩm, cách thức truyền
đạt đến công chúng. Do đó, có thể thấy đây là hình thức chuyển thể tác phẩm từ kịch bản văn học
thành bộ phim, thoả mãn khái niệm tác phẩm phái sinh được bảo hộ theo quy định của pháp luật.
Về vấn đề “khơng làm sai lệch chủ đề chính và nội dung của văn bản văn học” và lấy đó để làm
căn cứ xác định có vi phạm hay khơng thì pháp luật hiện hành khơng có quy định rõ và có lẽ các vụ
việc diễn ra trên thực tế sẽ được giải quyết thông qua cơ sở thẩm định nội dung của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Theo quan điểm của tác giả, cần có quy định về phạm vi làm tác phẩm phái
sinh, mức độ thay đổi, sửa chữa tác phẩm phái sinh so với tác phẩm gốc theo hướng đảm bảo tồn

vẹn chủ đề và nội dung chính của tác phẩm gốc.
Tóm lại, liên quan đến khái niệm tác phẩm phái sinh, hướng giải quyết của tòa án về việc xác
định một tác phẩm có phải là tác phẩm phái sinh hay khơng thì pháp luật tại thời điểm có phán quyết
cũng như pháp luật hiện hành chưa giải quyết được. Đối với vấn đề so sánh nội dung giữa hai tác
phẩm, để đánh giá có phải là tác phẩm phải sinh hay khơng, khơng nhất thiết có sự tương thích hồn
tồn về nội dung của những đối tượng được mang ra so sánh. Về mặt hình thức tòa án, xác định rằng
chuyển thể từ kịch bản văn học sang loại hình phim là một hình thức chính thể được ghi nhận trong
các loại tác phẩm phát sinh theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa có văn bản pháp
luật nào điều chỉnh cụ thể và sự đánh giá của tòa án ở đây là sự vận dụng linh hoạt các quy định về
tác phẩm phái sinh.
- Về điều kiện bảo hộ tác phẩm phái sinh:
Khi xây dựng một tác phẩm phái sinh thì theo pháp luật hiện hành cần phải có sự đồng ý của tác
giả, chủ sở hữu. Trong trường hợp này, hãng phim truyện I làm phim từ kịch bản của ông Anh và
các bên đã thỏa thuận với nhau về việc này thông qua hợp đồng. Điều này là phù hợp với quy định
của pháp luật hiện hành.
Một tác phẩm phái sinh được bảo hộ quyền tác giả thì tác phẩm phái sinh không phương hại đến
quyền tác giả của tác phẩm gốc. Điều này là một vấn đề phức tạp, vì ranh giới giữa việc sáng tạo là
tác phẩm phái sinh với việc xâm phạm quyền tác giả của tác phẩm gốc rất khó xác định trong nhiều
trường hợp. Khi ký hợp đồng với hãng phim ông Anh biết là thực chất phim đang quay, không rõ về
những sửa chữa, bổ sung của đạo diễn nhưng ông tin rằng việc sửa chữa, bổ sung chỉ để kịch bản
11


phong phú hay hơn. Tuy nhiên, sau khi xem qua thì ơng nhận thấy nội dung phim hồn tồn khác
kịch bản.
Tịa án đã xác định, hãng phim truyện I có sửa chữa, bổ sung kịch bản văn học nhưng không đến
mức làm thay đổi hoàn toàn chủ đề nội dung của kịch bản, không vượt quá quyền đã được xác định
tại Điều 4 của hợp đồng và các quy định của pháp luật về quyền tác giả.
Từ đó kết luận rằng hành vi của hãng phim truyện I và ông Lộc không vi phạm quyền tác giả đối
với kịch bản “Hôn nhân không giá thú” cũng như không làm ảnh hưởng xấu đến quyền tác giả của

ơng Ánh. Phân tích quy định tại điểm a khoản 1 Điều 751 BLDS 1995, tác giả có quyền có về sự
tồn vẹn của tác phẩm cho phép và không cho phép người khác sửa đổi, bổ sung tác phẩm. Ở đây,
hãng phim truyện I đã sửa đổi một phần tác phẩm của mình nhưng vẫn được đã chấp nhận là không
xâm phạm quyền tác giả dựa trên thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Về vấn đề này, hướng giải
quyết của Toà án là phù hợp với quy định của pháp luật.
5. Theo quan điểm của bạn (nhóm bạn), bộ phim do Hãng phim truyện I và ơng Lộc sản xuất
có phải là tác phẩm phái sinh từ kịch bản của ông Ánh khơng? Giải thích vì sao.
Trả lời:
Theo nhóm, bộ phim do hãng phim truyện I và ông Lộc sản xuất là tác phẩm phái sinh.
Vì bộ phim thỏa mãn hai điều kiện sau: tác phẩm đó được sáng tạo trên nền tác phẩm gốc và đó
phải là sự thể hiện tác phẩm gốc dưới hình thức khác. Trong bản án số 5, bộ phim “Hơn nhân khơng
giá thú” hồn tồn được xem là một tác phẩm phái sinh:
Thứ nhất, tác phẩm phái sinh được sáng tạo trên nền tác phẩm gốc. Bản án số 5 đã chỉ rõ rằng:
theo kết luận của Hội đồng giám định Bộ Văn hóa – Thơng tin, chủ đề chính của kịch bản văn học
“Hơn nhân không giá thú” và bộ phim “Hôn nhân không giá thú” đều là “ca ngợi tình yêu, tình đồng
đội và sự hy sinh của người lính khơng qn”, kịch bản văn học cịn có những chủ đề khác, nhưng
bộ phim tập trung chủ yếu vào chủ đề chính của kịch bản văn học. Bộ phim được xây dựng đã được
lược bỏ một số nội dung của kịch bản nhưng khơng làm sai lệch chủ đề chính và nội dung của kịch
bản văn học. Do đó, bộ phim đã thỏa mãn điều kiện thứ nhất.
Thứ hai, sự thể hiện tác phẩm phái sinh phải được thể hiện dưới hình thức khác. Tác phẩm gốc
chính là kịch bản văn học “Hơn nhân khơng giá thú” với loại hình nghệ thuật là “kịch bản phim”.
Tác phẩm phái sinh cho kịch bản này là bộ phim cùng tên với loại hình nghệ thuật là “phim”. Khái
niệm “loại hình nghệ thuật” vẫn cịn mơ hồ theo quy định của pháp luật hiện hành do khơng có quy
định cụ thể. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm, hình thức thể hiện kịch bản phim là “chuyển thể”
với sự chuyển đổi hình thức mà vẫn giữ nguyên bản chất, nội dung cũng như chủ đề mà kịch bản
phim yêu cầu.
Từ hai lý do trên, nhóm cho rằng bộ phim “Hôn nhân không giá thú” là một tác phẩm phái sinh.

12




×