BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI
Vấn đề 1: Im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết
hợp đồng?
Trả lời:
Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết hợp
đồng:
BLDS 2005 có quy định tại khoản 2 Điều 404 với nội dung “hợp đồng dân sự cũng xem
như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả
thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”
Ở đây, BLDS 2005 đã ghi nhận vai trị của im lặng nhưng khơng nêu trong phần giao kết
hợp đồng mà nêu trong phần xác định thời điểm hợp đồng được giao kết.
Trong quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, Điều 393 BLDS 2015 có bổ
sung thêm quy định mới mà trước đó chưa tồn tại trong BLDS 2005 với nội dung “Sự im lặng
của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp
các bên có thoả thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên”. BLDS 2015 theo
hướng thông thường im lặng không là chấp nhận đề nghị giao kết nhưng có ngoại lệ, khi theo
thoả thuận hay theo thói quen của các bên, khi đó im lặng vẫn là chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy anh Đạt đã chuyển nhượng tài sản cho ông
Nâu?
Trả lời:
Đoạn của Quyết định cho thấy anh Đạt đã chuyển nhượng tài sản cho ông Nâu là:
“Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì ngày 30-3-2004, anh Nguyễn Phát Đạt lập hợp
đồng chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Nâu (là chú ruột của anh Đạt) 670m 2 đất theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng số 02164/QSDĐ/B2 ngày 16-4-1995 do Uỷ ban nhân dân huyện Lai
Vung, tỉnh Đồng Tháp cấp đứng tên anh Đạt với giá 250.000.000 đồng”.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản của anh Đạt chuyển nhượng là tài sản
chung của anh Đạt và chị Linh (vợ anh Đạt)?
Trả lời:
Đoạn của quyết định cho thấy tài sản anh Đạt chuyển nhượng là tài sản chung của anh
Đạt và chị Linh (vợ anh Đạt) là:
“Tuy nhiên, khối tài sản anh Đạt thế chấp cho Ngân hàng là tài sản chung của anh Đạt và chị
Linh (vợ của anh Đạt), nhưng các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất… cần phải căn
cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết.”
Câu 4: Việc chuyển nhượng trên có cần sự đồng ý của chị Linh khơng? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?
Trả lời:
Việc chuyển nhượng trên cần có sự đồng ý của chị Linh. Vì khối tài sản anh Đạt thế chấp
cho Ngân hàng là tài sản chung của anh Đạt và chị Linh (vợ của anh Đạt), do đó anh Đạt và chị
Linh có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung này.
Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 213 BLDS 2015
Câu 5: Theo thực tiễn xét xử Việt Nam khi nào im lặng được coi là chấp nhận (đồng ý)
hợp đồng?
Trả lời:
Theo quy định của BLDS 2015 im lặng được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
khi: các bên có thoả thuận hoặc thói quen.
Tuy nhiên, theo thực tiễn xét xử Việt Nam “Bản án số 1171/2006/DS-PT ngày
16/11/2006 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh” im lặng được coi là chấp nhận hợp
đồng khi đề nghị giao kết hợp đồng đưa ra hoàn tồn vì lợi ích của bên được đề nghị. Với
hướng giải quyết trên toà án phúc thẩm đã làm cho pháp luật Việt Nam gần gũi hơn với pháp
luật nước ngoài về giá trị của sự im lặng khi đề nghị của giao kết hợp đồng hồn tồn có lợi cho
bên được giao kết.
Câu 6: Chị Linh có biết, có phản đối việc chuyển nhượng trên khơng?
Trả lời:
Trong q trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm và Tồ án cấp phúc thẩm khơng đưa
chị Linh vào tham gia tố tụng, vì thế bản án chưa đề cập đến chi tiết chị Linh có phản đối việc
chuyển nhượng trên hay không.
Câu 7: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc được bình luận, nếu chị
Linh biết và khơng phản đối việc chuyển nhượng thì có được coi chị Linh đồng ý không?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:
Theo Toà án nhân dân tối cao trong vụ việc được bình luận, nếu chị Linh biết và khơng
phản đối việc chuyển nhượng thì phải coi chị Linh cũng đồng ý việc chuyển nhượng.
Đoạn của quyết định cho thấy câu trả lời là: “Tuy nhiên, khối tài sản anh Đạt thế chấp
cho Ngân hàng là tài sản chung của anh Đạt và chị Linh (vợ của anh Đạt), nhưng các hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên mới chỉ có chủ ý của anh Đạt nên cũng cần phải
xem xét chị Linh có biết việc chuyển nhượng hay không? Nếu chị Linh biết mà khơng phản đối
thì phải coi chị Linh cũng đồng ý việc chuyển nhượng. Nếu chị Linh không biết và khơng đồng ý
chuyển nhượng thì cần phải căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết.”
Câu 8: Hướng giải quyết trên của Tịa dân sự có tiền lệ chưa? Cho biết tiền lệ mà anh/chị
biết.
Trả lời: Hướng giải quyết của Tịa dân sự đã có tiền lệ.
Cụ thể như sau: vợ chồng cụ Đạo và cụ Mùi sinh được 5 người con là các ông bà Lành, Khởi,
Chiến, Quang và Sâm. Sinh thời, hai cụ tạo lập được một nhà cấp 4 trên diện tích hơn 500m 2đất
và một ngơi nhà mái bằng trên diện tích hơn 300m 2 đất. Ngày 13/05/1991, ông Sâm ký hợp
đồng bán cho ông Phong ngôi nhà cấp bốn trên diện tích 237,4m 2. Hợp đồng có chữ ký làm
chứng của cụ Mùi, ông Quang và được UBND xác nhận. Năm 2000 các bên xảy ra tranh chấp.
Ông Phong đã trả đủ tiền, nay khởi kiện yêu cầu giao trả nhà đất đã mua, cịn ơng Quang u
cầu hủy bỏ hợp đồng. Tại Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm lần hai: bà Lành, bà Khởi, ông
Chiến cho rằng đây là di sản thừa kế của anh, chị, em nên đề nghị hủy hợp đồng vì ơng bà
khơng biết gì về việc mua bán.
Về vấn đề này, Hội đồng thẩm phán xét rằng: Do nhà, đất ông Sâm bán cho ông Phong là một
phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng cụ Đạo, cụ Mùi. Cụ Đạo chết năm 1990 không
để lại di chúc, nên tài sản này là một phần di sản thừa kế của cụ Đạo chưa chia. Theo lời khai
của bà Lành, bà Khởi, ơng Chiến thì tại thời điểm cụ Mùi cùng ông Quang, ông Sâm bán nhà,
đất các ơng, bà này có biết nhưng vì lý do tình cảm gia đình nên các ơng, bà này khơng có ý
kiến gì. Việc khơng có ý kiến của các ơng, bà này chưa có cơ sở để xác định các ông, bà này
đồng ý hay không đồng ý với việc mua bán. Vì vậy, xét thấy cần phải hủy Bản án dân sự phúc
thẩm để xét xử phúc thẩm lại theo hướng: tại thời điểm cụ Mùi, ông Quang, ông Sâm bán nhà,
đất cho ơng Phong thì bà Lành, bà Khởi và ông Chiến đồng ý hay không đồng ý với việc cụ
Mùi, ông Quang và ông Sâm bán nhà, đất cho ông Phong. Nếu có cơ sở xác định những người
này đồng ý với việc mua bán, nhưng do khó khăn khách quan nên khơng thể hiện bằng văn bản
thì cơng nhận hợp đồng.
Câu 9: Suy nghĩ của anh/chị về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng ở Việt Nam.
Trả lời:
Theo nhóm em, vai trị của im lặng trong giao kết hợp đồng ở Việt Nam không đủ yếu tố
để thuyết phục im lặng là đồng ý hay không đồng ý chấp nhận hợp đồng. Tại Khoản 2 Điều 393
BLDS 2015 quy định: “Im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các
bên.” chỉ thừa nhận việc im lặng là một lời đồng ý giao kết hợp đồng khi các bên đã có thỏa
thuận trước đó là im lặng là đồng ý hoặc theo một thói quen đã có từ trước rằng im lặng là đồng
ý chấp nhận giao kết hợp đồng. Trên thực tế, có rất nhiều giao dịch mà khơng phải các bên đều
chấp nhận giá trị của im lặng là đồng ý giao kết hợp đồng. Vì vậy trên cở sở pháp lý của pháp
luật Việt Nam, sự im lặng không đủ để khẳng định việc chấp nhận hợp đồng. Trong một số
trường hợp nhất định, nếu bên được đề nghị giao kết hợp đồng nhận được những lợi ích thực tế
nhưng giữ im lặng, chúng ta cũng có thể xem hành vi im lặng là một lời giao kết hợp đồng vì nó
thể hiện được giá trị của sự im lặng khi đề nghị giao kết hợp đồng hoàn toàn có lợi cho bên
được đề nghị (Theo Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, trang
219).
Vấn đề 2: Đối tượng của hợp đồn g không thể thực hiện được
Câu 1: Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và
BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.
Trả lời:
•
Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu là:
- Theo khoản 1 Điều 411 BLDS 2015: “ Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng
có đối tượng khơng thể thực hiện được vì lí do khách quan thì hợp đồng này bị vơ hiệu”.
BLDS 2015 vẫn duy trì tinh thầng của BLDS 2005 với một số thay đổi tại khoản 1 Điều 408
“Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng khơng thể thực hiện được thì hợp
đồng này bị vô hiệu”. Sự thay đổi ở đây chủ yếu là về thuật ngữ pháp lý.
- Về nguyên nhân: BLDS 2005 chỉ quan tâm tới nguyên nhân “khách quan” là cứng
nhắc. BLDS 2015 đã có sự thay đổi ngun nhân khách quan đã khơng cịn được giữ lại nên
khi hợp đồng có đói tượng ngay từ đầu khơng thể thực hiện được thì hợp đồng thuộc trường
hợp vơ hiệu cho dù có hay khơng có ngun nhân khách quan. Đây là hướng sửa đổi thuyết
phục, phù hợp với thực tiễn xét xử tại Tịa án.
-Về thời điểm khơng thể thực hiện được: BLDS 2005 quy định vấn đề này là “ nay từ khi
ký kết” cho thấy phạm vi điều chỉnh hẹp vì ký kết chỉ phù hợp áp dụng với hợp đồng được
xác lập bằng văn bản. Mà thực tiễn quy định này được áp dụng cho hợp đồng xác lập bằng
văn bản hay nhiều hình thức khác nên đã được thay đổi bằng “kể từ khi giao kết” trong
BLDS 2015
(Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận án, Nxb, Hồng Đức-hội Luật
gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ sáu), Bản án số 97-98)
•
Suy nghĩ của nhóm em về sự thay đổi trên:
Sự thay đổi trên giữa BLDS 2015 so với BLDS 2005 đối với chế định hợp đồng vơ hiệu do
có đối tượng không thể thực hiện được là phù hợp với thực tiễn xét xử ở Việt Nam.
Khi áp dụng quy định tại Điều 411 BLDS 2005 thì phát sinh một số nhược điểm sau:
- Tại khoản 1 Điều này quy định trường hợp hợp đồng vô hiệu do không thể thực hiện được
nhưng chỉ khoanh vùng ở trường hợp “vì lý do khách quan” nhưng trong thực tiễn vận dụng
điều này cho trường hợp không thể thực hiện được “vì lý do chủ quan”. Thực ra, việc khoanh
vùng như hiện nay là khơng thuyết phục vì nếu áp dụng đúng luật thì khơng thể thực hiện được
do lý do chủ quan không làm cho hợp đồng vô hiệu, nhưng nếu hợp đồng khơng vơ hiệu thì hợp
đồng cũng khơng thể thực hiện được và trong trường hợp này phải làm gì? Câu hỏi khơng có
câu trả lời thuyết phục.
- Cũng tại khoản 1 Điều này nói về “kí kết” hợp đồng và thuật ngữ này khơng có tính bao qt
vì kí kết chỉ đúng cho hợp đồng bằng văn bản có chữ kí. Trong khi đó, hợp đồng có thể được
hình thành mà khơng có chữ kí (như hợp đồng miệng, hợp đồng được giao kết trong im lặng,
…). Vì vậy, tại khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 thay từ “kí kết” bằng từ “giao kết” là phù hợp và
có tính bao qt hơn.
Câu 2: Một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu trên cơ sở Điều 408 BLDS
2015 khơng? Vì sao?
Trả lời:
Một bên có thể u cầu tun bố hợp đồng trên vơ hiệu trên cơ sở Điều 408 BLDS 2015
vì:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 thì trong trường hợp này có đối tượng khơng
thể thực hiện được (cụ thể là máy đào hiệu Hitachi). Trong vụ này, đối tượng của hợp đồng giữa
ơng An và ơng Bình là khơng thể thực hiện được. Đối tượng của hợp đồng này là tài sản phải
giao – máy đào hiệu Hitachi, nhưng trong quá trình giao kết hợp đồng các bên đã khơng có thoả
thuận rõ ràng chi tiết các đặc điểm của đối tượng, như không nêu rõ số hiệu, không nêu rõ tình
trạng của máy dẫn đến khơng thể xác định đúng vật cần giao nhận. Do đó, theo khoản 1 Điều
408 BLDS 2015 thì hợp đồng này có đối tượng khơng thể thực hiện được nên trong vụ này ơng
Bình hoặc ông An cũng có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng giữa hai người là vô hiệu.
Vấn đề 3: Xác lập hợp đồng giả tạo và nhằm tẩu tán tài sản
*Đối với vụ việc thứ nhất
Câu 1: Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Trả lời:
Giả tạo trong xác lập giao dịch là hợp đồng được lập ra nhưng khơng phản ánh đúng bản
chất của quan hệ đích thực giữa các bên, thể hiện ở việc các bên xác lập hợp đồng để che đậy
một giao dịch khác hay một hành vi trái pháp luật của một hoặc các bên. Nói cách khác, hợp
đồng giả tạo là hợp đồng mà trong đó, việc thể hiện ý chí ra bên ngồi khác với ý chí nội tâm và
kết quả thực hiện của các bên tham gia.
Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng? Các bên
xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
Trả lời:
Đoạn của bản án cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng là: “Nguyên đơn và
bị đơn thống nhất ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bị đơn có thiết lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Nội dung giấy thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất số AP
154638, số vào sổ H53166 do UBND thị xã (nay là thành phố) Thủ Dầu Một cấp ngày
30/7/2009, tọa lạc tại phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, giá
chuyển nhượng 2000.000.000 đồng. Hai bên đều thừa nhận đây là giao dịch giả tạo để che giấu
cho việc nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền 100.000.000 đồng”
Các bên xác lập giao dịch có giả tạo nhằm mục đích là: để che giấu cho việc nguyên đơn
cho bị đơn vay số tiền 100.000.000 đồng.
Câu 3: Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu
Trả lời:
Hướng giải quyết của Toà án đối với hai hợp đồng:
- Hợp đồng giả tạo: Toà án đã tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác
lập ngày 23/11/2013 giữa bà Thuý và bà Trang là vô hiệu, căn cứ theo quy định tại Khoản 1
Điều 124 BLDS 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. Đồng thời xử lý hậu quả do hợp
đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 131 BLDS 2015 và xác định hai bà có lỗi ngang nhau trong
việc làm hợp đồng vơ hiệu do vậy các bên hồn trả cho nhau những gì đã nhận và khơng cần
phải bồi thường.
- Hợp đồng bị che giấu: Toà án xác định bị đơn khơng có chứng cứ để chứng minh việc trả tiền
cho nguyên đơn và cho rằng yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ tức bà Trang phải trả cho bà
Th 95.000.000 đồng, do đó Tồ buộc bà Trang phải trả lại cho bà Thuý 95.000.000 đồng đã
nhận mà khơng tính lãi suất theo u cầu của bà Thuý. Tuy nhiên, khi bản án có hiệu lực pháp
luật mà người phải thi hành án chậm thi hành thì cịn phải trả thêm tiền lãi theo mức lãi suất cơ
bản do Ngân hàng nhà nước công bố, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng
bị che giấu.
Trả lời:
Theo nhóm em, hướng giải quyết trên của Toà án là hoàn toàn hợp lý, phù hợp theo quy
định của pháp luật tại Khoản 1 Điều 124 BLDS 2015: “1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự
một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vơ hiệu,
cịn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo
quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.” Bởi vì theo quy định của pháp luật thì
hợp đồng dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực pháp luật và theo như bản án thì giao dịch vay tài
sản trên của hai bà vẫn có hiệu lực. Khi đó bên vay tài sản phải có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho
vay theo quy định của Điều 466 BLDS 2015 về nghĩa vụ của trả nợ của bên vay.
*Đối với vụ việc thứ hai
Câu 1: Vì sao Tịa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là
giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
Trả lời:
Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo
nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu vì:
- Thứ nhất là vợ chồng bà Anh có cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh chấp) để trả
nợ cho bà Thu, nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết với bà Thu mà làm thủ tục
chuyển nhượng nhà đất trên cho anh là vợ chồng ông Vượng.
- Thứ hai, thỏa thuận chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng
không phù hợp với thực tế vì giá thực tế của nhà đất là gần 5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên lại thỏa
thuận chuyển nhượng chỉ với giá 680 triệu đồng và thực tế các bên cũng chưa hoàn tất thủ tục
chuyển nhượng.
Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn tránh
nghĩa vụ)?
Trả lời:
Việc Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo
nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu là hồn tồn phù hợp và có căn cứ cụ thể, vì:
- Thứ nhất, phần nhà đất mà vợ chồng bà Anh dùng để giao dịch với vợ chồng ông Vượng là
phần nhà đất mà trước đó vợ chồng bà Anh đã cam kết sẽ chuyển nhượng để trả nợ cho bà Thu
nên vợ chồng bà Anh không thể dùng phần nhà đất này để chuyển nhượng cho người khác (mà
cụ thể ở đây là vợ chồng ông Vượng).
- Thứ hai, về giá trị thực tế của nhà và đất mà vợ chồng bà Anh chuyển nhượng cho vợ chồng
ông Vượng, giá trị thực tế của nhà đất được xác định lên đến gần 5,6 tỷ đồng so với giá mà vợ
chồng bà Anh thỏa thuận để chuyển nhượng cho vợ chồng ông Vượng (680 triệu đồng) là chênh
lệch quá lớn (giá trị thực tế gấp hơn 8 lần giá trị được thoả thuận) điều này hồn tồn khơng phù
hợp.
Câu 3: Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn
tránh nghĩa vụ.
Trả lời:
Việc Tòa án xác định giao dịch trên là giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ đã dẫn đến các
hệ quả sau:
- Thứ nhất, tuyên giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là vô hiệu.
- Thứ hai, buộc vợ chồng bà Anh trả nợ cả gốc và lãi cho bà Thu.
- Thứ ba, phong tỏa nhà đất của vợ chồng bà Anh để đảm bào thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng
bà Anh đối với bà Thu.
Vấn đề 4: Hình thức hợp đồng
Câu 1: Hợp đồng trong hai vụ việc trên có phải cơng chứng, chứng thực không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
- Hợp đồng trong Bản án số 03/2017/DSPT ngày 04/5/2017 của Tồ án nhân dân tỉnh
Phú n khơng phải cơng chứng, chứng thực vì các bên chủ thể đã thực hiện trên 2/3 nghĩa vụ
trong giao dịch nên hợp đồng này vẫn có hiệu lực, các bên khơng cần phải công chứng, chứng
thực.
Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 129 BLDS 2015
- Hợp đồng trong Bản án số 41/2011/DSPT ngày 25/4/2011 của Tồ án nhân dân tỉnh
Khánh Hồ khơng phải cơng chứng, chứng thực vì mặc dù khơng đảm bảo về hình thức do
khơng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận nhưng hợp đồng này đã hết thời hiệu
khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vơ hiệu về hình thức. Vì thế, hợp đồng này vẫn có
hiệu lực nên khơng cần phải cơng chứng, chứng thực.
Câu 2: Trong Bản án số 03, Tòa án công nhận hợp đồng không được công chứng, chứng
thực có thuyết phục khơng? Vì sao?
Trả lời:
Trong Bản án số 03, Tồ án cơng nhận hợp đồng khơng được cơng chứng, chứng thực là
thuyết phục. Bởi vì theo quy định tại khoản 2 Điều 129 BLDS 2015 “Giao dịch dân sự đã được
xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên
hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một
bên hoặc các bên, Toà án ra quyết định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp
này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.” Mà trong trường hợp này, các
bên đã thực hiện trên hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch, cụ thể là ơng Thìn đã đưa
30.000.000 đồng cho vợ chồng bà Yến và vợ chồng bà Yến đã giao đất cho ơng Thìn, ơng Thìn
đã xây dựng hàng rào gạch kiên cố và trồng trọt một số cây ăn quả. Vì thế Tồ án cơng nhận
hiệu lực của hợp đồng này là thuyết phục, theo đúng quy định của pháp luật.
Câu 3: Việc Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về hình thức và hết thời
hiệu u cầu Tịa án tun bố hợp đồng vơ hiệu trong bản án số 41 có thuyết phục khơng?
Vì sao?
Trả lời:
Việc Toà án xác định hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về hình thức và hết thời hiệu u
cầu Tồ án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong bản án số 41 là thuyết phục.
Thứ nhất, hợp đồng giữa ông Nguyễn Đức Diêu và ông Bùi Quang Ngọc là hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai
2013 thì cần phải công chứng, chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại
điểm b khoản này. Mà các bên ở đây khơng có ai làm kinh doanh bất động sản, hợp đồng này
cũng đã không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Vì thế, hợp đồng chuyển
nhượng này vi phạm về hình thức.
Thứ hai, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Đức Diêu và ông
Bùi Quang Ngọc được ký ngày 27/10/2007, vì hợp đồng vi phạm về hình thức nên thời hiệu yêu
cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác
lập, tức là ngày 28/10/2009 đã hết thời hiệu yêu cầu. Mà ngày 29/10/2009, ông Nguyễn Đức
Thành mới có đơn khởi kiện u cầu Tồ án tun bố hợp đồng vơ hiệu. Vì vậy, vào lúc có đơn
khởi kiện của ơng Thành, hợp đồng này đã hết thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu.
Câu 4: Theo BLDS, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp
đồng vơ hiệu về hình thức.
Trả lời:
Theo BLDS 2015, khi hết thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vơ hiệu về hình
thức mà khơng có u cầu tun bố hợp đồng vơ hiệu thì hợp đồng có hiệu lực.
Cơ sở pháp lý: điểm đ khoản 1, khoản 2 Điều 132 BLDS 2015
Câu 5: Việc Toà án cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng sau khi có vi phạm về hình thức
và hết thời hiệu u cầu Tồ án tun bố hợp đồng vơ hiệu có thuyết phục khơng? Vì sao?
Trả lời:
Việc Tồ án cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng sau khi có vi phạm về hình thức và hết
thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vơ hiệu là thuyết phục. Bởi vì theo quy định tại
khoản 2 Điều 132 BLDS 2015: “Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà khơng có u
cầu tun bố giao dịch dân sự vơ hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực”. Cụ thể là ở điểm đ
khoản 1 Điều 132 BLDS 2015 có quy định về thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân
sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức. Việc Tồ án cơng nhận hợp đồng này là có
cơ sở pháp lý.