PHẦN MỞ ĐẦU
I.
Lí do chọn đề tài
1. Trong q trình hình thành và phát triển của quốc gia – dân tộc ta, trải qua
mấy ngàn năm lịch sử. Mỗi một thời kì lịch sử là một mảnh ghép hết sức quan trọng
tạo nên một bước phát triển mới trong lịch sử nước nhà. Trong đó phải kể đến cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ những năm 40 – 43 TCN.
2. Nói đến văn học dân gian Việt Nam thì truyền thuyết được coi là một
trong những thể loại văn học độc đáo của dân tộc và nó có một vị trí hết sức đặc
biệt. Với đặc trưng thể loại của mình truyền thuyết đã cho ta thấy được những giá tr
to ln trong vic lu truyền lịch sử văn hoá cđa d©n téc.
Trong kho tàng truyền thuyết giàu có và phong phú của dân tộc ta thì mảng
truyền thuyết về các anh hùng đặc biệt là các anh hùng chống ngoại xâm vẫn nổi
trội hơn cả, tiêu biểu lµ truyền thuyết cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng có một vị trí hết sức quan
trọng trong lịch sử dân tộc, thấm sâu vào đời sống tinh thần của nhân dân Việt Nam.
Lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của những người phụ nữ, nhân dân ta nhất tề đứng
dậy, đoàn kết một lòng, dũng cảm chống giặc ngoại xâm, giành độc lập dân tộc.
Nghiên cứu truyền thuyết Hai Bà Trưng nói chung khơng chỉ có ý nghĩa về
mặt lịch sử mà còn đem lại giá trị to lớn về tư tưởng, chính trị, văn hóa, đặc biệt với
chun ngành văn học dân gian
3. Qua truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chúng ta càng thấy
tự hào hơn về ý thức độc lập dân tộc, khát khao về quyền tự chủ, khát khao ý thức
bảo vệ chủ quyền tổ quốc cã ý nghÜa to lớn biết nhường nào. Từ ý thức cộng đồng đã
phát triển thành ý thức giống nòi, tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Cũng qua những câu
chuyện đó, chúng ta thấy được những trang sử thi hào hùng của ông cha ta trong việc
đấu tranh chống ngoại xâm. Chỉ có khoảng gần ba năm thơi những gì mà Hai Bà
Trưng và các tướng lĩnh của Hai Bà càng làm cho chúng ta tự hào và nhớ ơn về
những người anh hùng dân tộc, những người phụ nữ luôn “anh hùng, bất khuất, trung
hậu, đảm đang” mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã trân trọng trao tặng.
1
4. Hiện nay nhân dân tỉnh Hưng Yên vẫn còn lưu lại một kho tàng truyền
thuyết quý báu về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Hệ thống truyền thuyết này đã
phản ánh khá đầy đủ và chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của các tướng lĩnh víi
những câu chuyện đầy thú vị vµ ý nghĩa trong những ngày cả dân tộc ta đang sục sôi
chống quân Nam Hán để bảo vệ bờ cõi. Những câu chuyện về cuộc đời và sự
nghiệp của hai Bà và các tướng lĩnh mang một ý nghĩa to lớn trong việc tạo nên hệ
thống truyền thuyết về Hai Bà Trưng nói chung. Vì vậy hệ thống truyền thuyết này
cần phải được khảo sát và quan tâm, mơ tả một cách kh¸ch quan khoa häc, không
những sẽ giúp cho việc giảng dạy tốt hơn cỏc tiết học truyn thuyt ph thụng,
mà còn giỳp ích cho việc học tập m«n tự chọn Ngữ văn trong chng trỡnh một
cách hiệu quả. Bờn cnh ú cũn khơi dậy tinh thần yêu nước, yêu dân tộc của nhân
dân Hưng Yên nói riêng và con người Việt Nam nói chung.
Nh chóng ta ®· biÕt, trước đây việc nghiên cứu truyền thuyết về cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng vµ các tớng lĩnh của Hai Bà ó c mt s nhà nghiên cứư
quan tâm đến nhưng việc nghiên cứu đó chưa được xem xét một cách đầy đủ và hệ
thống.Đây cũng là một điểm rất thiệt thòi cho chuỗi truyền thuyết này.
Là một người con của quê hương giàu truyền thống cách mạng, nơi đã sản
sinh biết bao anh hùng dân tộc, đồng thời cũng là nơi sản sinh ra y p cỏc truyền
thuyết về thời Hai Bà Trng đánh giặc giữ nớc gi nc. Vỡ vy bn thõn tôi cũng
muốn góp thêm một chút sức nhỏ của mình trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và khảo
sát một hệ thống truyền thuyết quý giá của địa phương mà hiện nay vẫn chưa được
quan tâm một cách đúng mức, còn bỏ ng. c bit các di sán đó cũn liờn quan tới
cả việc thờ cúng, tín ngưỡng và bảo vệ các di tích lịch sử q báu cịn tồn tại ở tỉnh
Hưng n.
Với những lí do trên, tơi đã lựa chọn đề tài “khảo sát truyền thuyết và lễ hội
về cuộc khi ngha Hai B Trng Hng Yờn để khảo sát và nghiên cứu.
II. Lch s vn
Cuc khi ngha của Hai Bà Trưng cho đến nay đã trải qua được gần 2000
năm trong lịch sử dân tộc. Tuy chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn nhưng ý
nghĩa lịch sử của nó thất là to lớn. Sử sách trong nước và nước ngồi đã nói rất
nhiều cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và các nữ tướng của hai Bà.
2
1. Việc nghiên cứu truyền thuyết Hai Bà Trng ở níc ngoµi.
Biên niên sử Trung Hoa như “Hậu Hán Thư” hay “Thuỷ Kinh Chu”đã dành
những trang rất quan trọng ghi lại cuộc khởi nghĩa này. Tác giả cũng đã dành những
lời đánh giá, bình luận rất sâu sắc về cuộc khởi nghĩa.
Tiếp đó là bộ lịch sử của Lịch Đạo Nguyên viết thời Bắc Nguỵ (515 –
516 SCN) đã dẫn lời Giao Châu Ngoại Vực thế kỉ IV – V là “Trưng Trắc là con gái
lạc tướng huyện Mê Linh và Thi Sách là con của lạc tướng huyện Chu Diên đời
Hán. Hai dòng lạc tướng này đã kết mối thông gia và bà Trưng Trắc đã cùng con
(Trưng Nhị) và chồng khởi nghĩa, công phá các châu, quận thuộc quyền cai trị của
đế chế Hán ở phương Nam”.
Như vậy cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng tuy ngắn ngủi những những gì
sử sách nước ngồi viết về cuộc khởi nghĩa thì chúng ta có thể khẳng định đây là
cuộc khởi nghĩa hồn tồn có thật chứ khơng phải là huyền thoại.
2. Ở trong nước.
Trải qua các triều đại Lý - Trần – Lê - Nguyễn cũng đã có nhiều văn bản
được tuyển chọn và giới thiệu về các truyền thuyết này như:
Cuốn “Việt Điên U Linh” của Lí Tế Xuyên biên soạn khoảng thế kỉ XIV đời
nhà Trần, chép lại những chuyện vốn lưu hành về các vị thần thiêng ở nước ta có
chép chuyện Hai Bà Trưng. Trong cuốn sách này ta biết rằng: “sau khi Hai Bà
Trưng tử trận, dân địa phương thương xót, lập đền thờ, nhiều lần hiển linh, nay đền
ở huyện An Hát”. Như vậy dưới nhà Trần việc thờ phụng các vị thần linh thiêng đã
rất được coi trọng, trong đó có Hai Bà Trưng, bởi lẽ theo sách này thì vùng An Hát
chính là vùng đất mà Hai Bà cai quản khi xưa và dưới triều vua Lý Anh Tông, đền
thờ Hai Bà Trưng đã được lập và nhà vua hay đến vùng đất này cầu mưa mỗi khi
trời gặp đại hạn.
Cuốn “Lĩnh Nam chích quái”, cuốn sách tập hợp các ý kiến của các tác giả
đời Lý - Trần – Lê sưu tập và sau cùng là do Trần Thế Pháp biên soạn và hồn
thành vào cuối thế kỉ XV thì trong 23 truyện cơ bản của sách “đã cố định hoá” Vũ
Quỳnh viết lời tựa năm 1493 đã đánh giá: “Hai Bà Trưng trọng nghĩa, khi chết
thành thần minh, treo cờ mà biểu dương, ai dám nói khơng được”. Cịn truyện “Hai
Bà Trinh linh phu nhân họ Trưng” trong “Lĩnh Nam chính quái” đã xác định rõ sau
3
khi Hai Bà tử trận “người trong châu thương cảm, lập miếu ở sông Hán Giang để
thờ phụng”.
Sau nữa là cuốn “Tân Lĩnh Nam chính quái” – tác phẩm gồm 25 truyện do
Vũ Quỳnh (1453 – 1516) biên soạn trên cơ sở của cuốn “Lĩnh Nam chính quái” và
“Việt điện U Linh” cùng nhiều tài liệu khác, ông đã biên soạn thành một tác phẩm
mới. Ở đây, tác giả đã quan tâm nhiều đến phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam
thuỷ chung, son sắc, anh hùng, bất khuất,... nhưng truyện của ông vẫn mang phong
cách chép thần phả.
Khi ca ngợi khí phách anh hùng của Hai Bà Trưng, nhà sử học Ngơ Sĩ Liên
trong cuốn “Đại Việt sử kí toàn thư” biên soạn năm 1479 đã đưa những truyện dân
gian chép trong các sách vào quốc sử chủ yếu là những sự kiện chính và ca ngợi khí
phách của Hai Bà. Tiếp nữa trong cuốn sách diễn ca lịch sử khuyết danh “Thiên
Nam ngũ lục” viết bằng chữ Nôm, ra đời vào thế kỉ XVII, trong 8136 câu thơ lục
bát, tác giả dân gian đã dành hơn 455 câu thơ giới thiệu thân thế, sự nghiệp anh
hùng của Hai Bà Trưng. Nhưng trong tác phẩm này, tác giả đã dùng ngòi bút lãng
mạn bay bổng khi kết thúc truyện và kết thúc có hậu.
Như vậy, sử gia phong kiến khi nói về các vị thần linh thiêng cũng đã rất
quan tâm đến Hai Bà Trưng, đã đề cao Hai Bà như những vị thần linh thiêng khác
để thờ phụng. Điều đó chứng tỏ rằng Hai Bà Trưng dưới thời phong kiến đã được
đề cao và trân trọng.
Từ sau cách mạng tháng 8 – 1945 cho đến nay, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời đã đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Cã mét ®éi ngị
nhà nghiên cứu Văn học dân gian chun sâu như: Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng
Chi, Bùi Văn Nguyên, Cao Huy Đỉnh, Bùi Mạnh Nhị, Kiều Thu Hoạch, Trần Gia
Linh, Hoàng Tiến Tựu, Nguyễn Khắc Xương,... đã rất quan tâm và nghiên cứu về
truyền thuyết Hai Bà Trưng. Có thể nói đây là một đội ngũ chuyên gia rất giàu kinh
nghiệm và nghiên cứu một cách tỉ mỉ, khoa học. Vì vậy các cơng trình nghiên cứu
của các tác giả đã đem lại một giá trị khoa học to lớn cho ngành Văn học dân gian
nói riêng và ngành Văn học nước nhà nói chung, từ đó cịn thu hút khơng chỉ những
người nghiên cứu Văn học mà cịn thu hút cả những người thuộc các chuyên ngành
khác như Khảo cổ học, Dân tộc học, Kiến trúc, Hội hoạ.
4
Cơng trình nghiên cứu của Minh Khanh “Sơ khảo lịch sử Việt Nam” – NXB
Giáo dục 1954, đã nêu lên những nét khái quát một số sử liệu chính và từ đó tác giả
đi vào phân tích ngun nhân sâu sa và ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
trên quan điểm Macxit.
Tác giả Đào Duy Anh trong cuốn “Lịch sử Việt Nam đến cuối thế kỉ XIX
quyển thượng” - tập san Đại học Sư phạm 1956 trang 37 – 41 phần viết về cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng, tác giả đã phân tích nguyên nhân sâu sa và nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa và ý nghĩa của nó. Tác giả đã nhận dạng “biểu
hiện cái ý chí bất khuất của tồn thể nhân dân đối với ách áp bức của ngoại bang và
cái mầm mống tinh thần dân tộc tự cường”. Có lẽ đây là một lời nhận định rất hay,
rất sát thực với tinh thần chung của cuộc khởi nghĩa.
Giáo sư Minh Hà có cơng trình “Hai Bà Trưng và Bà Triệu” – NXB phụ nữ
ấn hành 1962, ông đã khái quát về thân thế, sự nghiệp của Hai Bà Trưng, Bà Triệu,
khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa đối với dân tộc trong cơng cuộc đấu
tranh giải phóng. Điều này ông đã dựa vào những văn bản đã có trước.
Trong cuốn “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” - tập I, NXB Giáo dục
1903 trong mục “Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng” Giáo sư Trần Quốc Vượng và
Giáo sư Hà Văn Tấn đã mô tả rất cụ thể và tỉ mỉ về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà, ông
đã mạnh dạn lên án những quan điểm sai lầm của học giả Nguyễn Tế Mỹ trong “Hai
Bà Trưng khởi nghĩa” – NXB Hàn Thuyên 1944 và khẳng định “Cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Lạc Việt chống lại ách áp bức,
bóc lột của bọn phong kiến Hán tộc, tính chất tiến bộ của cuộc khởi nghĩa là ở chỗ đó”.
Ngồi ra cịn có rất nhiều ấn phẩm đã được sưu tầm ở Hà Tây (cũ), Vĩnh
Phúc, Hà Nội, Hưng Yên,... thật phong phú và đa dạng, trong đó phải kể đến một số
ấn phẩm:
Cuốn “Truyền thuyết Trưng Vương” của chi hội văn nghệ dân gian Vĩnh
Phúc xuất bản năm 1975 đã giới thiệu được hai truyền thuyết.
Ấn phẩm của ty văn hoá Hà Tây (Hà Sơn Hồ Bình) “Một số truyền thuyết
về tướng lĩnh Hai Bà Trưng” - nhiều tác giả 1979. Các ấn phẩm này đã giới thiệu
được truyền thuyết về Hai Bà Trưng cùng các vị tướng lĩnh nổi tiếng của Hai Bà
trong cuộc khởi nghĩa chống quân Đông Hán đầu công nguyên.
5
Tác giả Bùi Thiết năm 1987 đã cho ra đời cuốn “Trảy hội non sông” giới
thiệu với độc giả gương mặt nữ tướng anh hùng Hai Bà trong đó có các nữ tướng ở
Hưng Yên.
Tác giả Phạm Ngọc Phụng có tác phẩm “Hai Bà Trưng” – NXB Phụ nữ
1975, với các số hiệu có trước, tác giả đã dựng lại cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
trong những năm 40 – 43 “một cuộc khởi nghĩa vũ trang của toàn dân như chớp
giật, bùng nổ trên cả nước, làm chấn động tồn bộ Phương Nam của miền Đơng Á.
Như nước vỡ bờ, dịng thác cách mạng giải phóng dân tộc phút chốc đập tan tành
ách thống trị của đế chế Hán trên đất nước ta. Sau 219 năm tủi nhục mất nước, lá cờ
độc lập tự do lại tung bay trước gió xuân, trên đỉnh thành Luy Lâu và 65 huyện
thành của non sơng gấm vóc Phương Nam” (trang 5).
Ngồi ra, chúng ta phải nói đến các bài viết của Tầm Vu, Phan Trần cũng đã
nói về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và các nữ tướng của Hai Bà trong bài viết
“Tư tưởng chủ yếu của người Việt cổ qua những chuyện đứng đầu thần thoại và
truyền thuyết” và bài “Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử”. Trong mỗi
bài viết của mình, hai ơng đã có những lời nhận xét rất sát đáng về cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng như “Hai Bà Trưng khởi nghĩa là một đoạn quốc sử vẻ vang.
Truyền thuyết về Hai Bà Trưng tô đậm thêm vẻ đẹp cho lịch sử, chứng tỏ một trình
độ chính trị cao của quần chúng và chứng tỏ một truyền thống yêu nước nồng nàn
của ông cha ta” và “đã có bao trang sách nói về sự nghiệp hiển hách của Hai Bà, hà
tất phải nhắc lại. Song cái hay là nếu sử sách chỉ ghi chép về bản thân sự nghiệp của
Hai Bà thì truyền thuyết lại lưu truyền đến ngày nay cho chúng ta rất nhiều tướng tá
anh hùng: nam có, nữ có... Nữ tướng của Hai Bà khơng phải là ít, họ đều làm những
chiến công hiển hách làm rạng rỡ truyền thống anh hùng bất khuất của người phụ
nữ nước nhà”. Tuy nhiên qua hai bài viết trên, ta nhìn thấy hai tác giả mới chỉ nhìn
nhận về truyền thuyết ở phương diện nghệ thuật (đặc điểm thi pháp) của các truyền
thuyết mà chưa đi sâu vào nội dung, sự phong phú của các truyền thuyết đó.Chưa
làm nổi bật được đặc trưng thể loại cũng như các đóng góp của nhóm truyền thuyết
này trong thể loại văn học dân gian nói riêng và văn học dân tộc nói chung.
Nhóm tác giả Lê Trung Vũ (chủ biên) cùng với Nguyễn Xuân Kính, Lê Văn
cho ra đời cơng trình “Lễ hội cổ truyền” – NXBKH Xã hội và nhân văn 1992. Công
6
trình này đã có giá trị hết sức to lớn trong việc phân tích, đánh giá phân loại các lễ
hội cổ truyền của dân tộc, mối quan hệ lễ hội v truyn thuyt. Công trình ó to
iu kin rt tt trong việc nhìn nhận một cách sâu sắc hơn các truyền thuyết về
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà và tập tục thờ cúng ë địa phương và là nguồn tư liệu rất
tốt cho các nhà nghiên cứu Văn học dân gian, dân tộc học, văn hố học,...
Trên cơ sở đó, năm 1995 nhà nghiên cứu dân tộc học Lê Trung Vũ cùng với
Thạch Phương lại xuất bản tiếp cuốn “Sáu mươi lễ hội truyền thống Việt Nam”
NXB Khoa học xã hội 1995. Trong tác phẩm này tác giả đã đề cập đến lễ hội Hai
Bà Trưng ở Hát Môn (Hà Tây), Hạ Lôi (Vĩnh Phúc), Đồng Nhân (Hà Nội) và chỉ ra
nét đặc sắc của các lễ hội. Từ đó ta có thể đối chiếu với lễ hội ở Phụng Công (Văn
Giang Hưng Yên) để làm nổi bật những nét chung của mỗi lễ hội.
Cũng trong thời gian này, nhân kỉ niệm 1960 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng các nhà nghiên cứu cũng đã khẳng định “cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng
là có thật, một sự thật lịch sử, một bản anh hùng ca bất hủ của dân tộc Việt Nam”.
“Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ Mê Linh lan toả ra cả một khơng gian văn hố –
xã hội rộng lớn từ Giao Chỉ đến Cửu Chân, Nhật Nam Hợp Phố là có thật, và cái
làm nên giá trị vĩnh cửu của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là việc đặt nền tảng cho
tinh thần bất khuất Việt Nam” [49].
Tác giả Nguyễn Minh San năm 1996 đã xuất bản cuốn sách “Những thần nữ
danh tiếng trong văn hóa tín ngưỡng Việt Nam” – NXB Phụ nữ 1996, trong mục
“Hai Bà Trưng” từ trang 23 đến trang 33, tác giả đã khẳng định cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng oanh liệt, mãi mãi được ngợi ca và trong tâm linh người Việt, Hai Bà mãi
mãi là những “linh tướng” được thờ phụng. Trong niềm tơn kính thiêng liêng, nhân
dân đã sáng tạo quanh hình tượng Hai Bà nhiều truyền thuyết dân gian để hoàn
thiện linh tướng thờ phụng theo cảm quan và nhận thức của họ.
Đặc biệt gần đây đã có một số luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ, khoá luận
tốt nghiệp nghiên cứu nhãm truyền thuyết vÒ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và
các tướng lĩnh của Hai Bà tiêu biểu như:
Trong luận văn Thạc sĩ của Bùi Quang Thanh với đề tài “Sơ bộ thẩm định
một số giá trị của truyền thuyết dân gian về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng 1983”, tác giả đã khái quát quá trình nghiên cứu truyền thuyết Hai Bà Trưng từ
7
trước cho đến 1983, chỉ ra được điểm mạnh, điểm hạn chế trong các cơng trình và
tư liệu nghiên cứu, đưa ra một hướng tiếp cận mới về đề tài.
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thế Dũng với đề tài “truyền thuyết và lễ hội
về Hai Bà Trưng ở Hát Môn – Phúc Thọ - Hà Tây” năm 2004, tác giả cũng đã khảo
sát có đánh giá về chuỗi truyền thuyết và lễ hội về Hai Bà Trưng ở Hát Môn – Phúc
Thọ - Hà Tây. Tác giả đã nghiên cứu những truyền thuyết này ở góc độ thi pháp,
các mơtíp tiêu biểu. Tuy nhiên Nguyễn Thế Dũng mới chỉ quan tâm đến truyền
thuyết thể hiện xoay quanh Hai Bà Trưng ở Hát Mơn (Hà Tây cũ)mà chưa có sự
quan tâm đến những con người đã cùng sát cánh với Hai Bà làm nên thắng lợi vẻ
vang trong cuộc khởi nghĩa đó.
Và đáng chú ý với đề tài này là luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Lan Oanh –
chuyên ngành Văn hoá học. Tác giả đã khảo sát chi tiết được các điểm thờ cúng Hai
Bà và các tướng lĩnh của Hai Bà trên đất Hưng Yên, chỉ ra được nét chung và
những đặc điểm riêng trong nghi lễ thờ cúng Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh của
Hai Bà trên đất Hưng Yên. Với các tỉnh lân cận như Hà Tây (cũ), Vĩnh Phúc, Hải
Dương, Bắc Ninh,... Tuy nhiên với luận văn này, tác giả mới chỉ tập trung nghiªn
cøu việc thờ cúng nghi lễ mà chưa quan tâm đến nội dung, đặc điểm thi pháp của
truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà trên đất Hng Yờn. Đõy l t liệu hữu
ích chúng tôi tiếp cận với các truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà ở
vùng này.
Khoá luận tốt nghiệp của sinh viên Lê Thị Xa khóa 49 khoa Ngữ văn Đại
học Sư phạm Hà Nội với đề tài “Khảo sát đặc điểm nhóm truyền thuyết về các nữ
tướng của Hai Bà”. Với đề tài của mình, Lê Thị Xa đã khảo sát, giới thiệu khá tỉ mỉ
nhóm truyền thuyết về nữ tướng của Hai Bà đặt trong bối cảnh lịch sử và nêu những
phẩm chất cao quý, tốt đẹp về những nữ tướng của cuộc khởi nghĩa. Đáng chú ý là
tác giả đã quan tâm đến những đặc điểm thi pháp nổi bật mà nhóm truyền thuyết
này đã thể hiện. Qua đó ta có sự nhìn nhận một cách tồn diện hơn về nhóm truyền
thuyết tren. Tuy nhiên đặc điểm hạn chế của đề tài này mới chỉ quan tâm ở một cách
chung nhất, chưa có cái nhìn cụ thể, tỉ mỉ và sâu rộng của cả một kho tàng truyền
thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà hiện nay.
8
Tập hợp các cơng trình nghiên cứu, các bài viết, chun luận của các tác giả,
chúng tơi thấy đó là những tư liệu, kiến thức quý giá. Tuy nhiên cho ®Õn nay cha có
một cơng trình nµo khảo sát các truyền thuyết và lễ hội về cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng ở Hưng Yên. Vì Vậy, là một học viên cao học chuyên ngành Văn học dân
gian của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đặc biệt là người con ca Hng Yờn, tụi
ó mnh dn trin khai khảo sát vµ nghiên cứu đề tài một cách có hệ thống, chi tiết
và cụ thể với hi vọng sẽ góp thêm được phần vào kho kiến thức vô tận của ngành
Văn học nói chung và Văn học dân gian nói riêng.
3. Mc ớch nghiờn cu ca lun vn
- Luận văn là là bớc tổng hợp mới về những thành tựu nghiên cứu tìm hiểu truyền
thuyết về thời Hai Bà Trng ở tỉnh Hng Yên.
-Luận văn đà hệ thống hóa, khảo sát diện mạo truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa
của Hai Bà Trng và các tóng lĩnh của Hai Bà trong toàn tỉnh.
-Trong khuôn khổ của đề tài, ngời viết cũng đi vào phân tích, tổng hợp những đặc
điểm nội dung và nghệ thuật của nhóm truyền thuyết này.
-Qua đây những truyền thuyết về thời Hai Bà Trng ở tỉnh Hng Yên đợc xem xét
trong mối quan hệ với nghi lễ và lễ hội còn đợc tổ chức ở địa phơng.Cũng qua ®ã
ngêi viÕt ®· miªu tht mét sè lƠ héi tiªu biểu đẻ làm sáng tỏ mối quan hệ trên.
Trên cơ sở này, chúng tôi đa ra những đánh giá khoa học, khách quan chứ không
phải là suy diễn cảm tính vỊ trun thut vµ lƠ héi trong cc khëi nghÜa của Hai
Bà Trng ở tỉnh Hng Yên.
III. i tng v phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát là truyền thuyết và lễ hội về Hai Bà Trưng và tướng lĩnh
Hai Bà trên đất Hưng Yên.
2. Phạm vi nghiên cứu
Lấy phạm vi nghiên cứu ở nguồn thư tịch và truyền miệng. Hiện nay chúng
tôi đã khảo sát, điền dã tìm được khoảng trên 20 truyền thuyết về Hai Bà Trưng và
tướng lĩnh của Hai Bà trên đất Hưng Yên.
Trong cuốn “Thành Hoàng làng Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh – NXB
Khoa học xã hội 1997, cuốn “Thành Hoàng làng Việt Nam” của Phạm Minh Thảo
(chủ biên), cuốn “Tổng tập văn học dân gian người Việt” tập I của tác giả Kiều
Thu Hoạch (chủ biên). Đặc biệt nguồn tư liệu trong cuốn “Truyện cổ dân gian
Hưng Yên” của tác giả Vũ Tiến Kỳ - NXB Văn hố thơng tin. Đây là những nguồn
9
tư liệu khá phong phú và quý giá cùng với nguồn tư liệu trong q trình chúng tơi
sưu tầm được trong dân gian đã giúp cho việc hoàn thành luận văn được nhanh và
phong phú hơn. Tuy nhiên trong quá trình khảo sát và nghiên cứu những đóng góp
của mọi người sẽ là nguồn tư liệu tốt cho luận văn.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp điền dã.
2. Phương pháp phân tích, tổng hợp, mô tả.
3. Phương pháp thống kê – phân loại.
4. Phương pháp so sánh loại hình.
5. Phương pháp liên ngành.
V. Những đóng góp của luận văn.
Luận văn sẽ thống kê một cách khá phong phú các bản kể truyền thuyết dân
gian về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Đồng thời đây cũng là một bước tổng
hợp mới về những thành tựu nghiên cứu, tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội về cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng trên đất Hưng Yên.Đây cũng là lần đầu tiên các kiến
thức chuyên ngành Văn học dân gian được vận dụng vào việc khảo cứu truyền
thuyết và lễ hội về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Hưng Yên.
Trên cơ sở này, người viết tự đào sâu và hoàn thiện kiến thức cũng như kĩ
năng, phương pháp nghiên cứu khoa học, văn hố tạo điều kiện, tiền đề cho cơng
việc nghiên cứu sau này.
Luận văn cũng góp thêm một phần nào vào việc giáo dục cho thế hệ sau này
thêm tự hào về cha ơng mình đã từng chiến đấu hy sinh chống giặc ngoại xâm bảo
vệ bờ cõi, giang sơn giành lại độc lập cho tổ quốc.Cũng thơng qua đó, luận văn giúp
cho việc giảng dạy của giáo viên trong chương trình địa phương có thêm nguồn tư
liệu q về thể loại truyền thuyết trong chương trình giảng dạy của mình và học
sinh có những kiến thức về truyền thuyết của địa phương để phục vụ học tập được
tốt hơn.
IV. Cấu trúc của luận văn.
1
0
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung chính của luận văn được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Khảo sát diện mạo, nội dung, ý nghĩa truyền thuyết Hai Bà
Trng và các tớng lĩnh của Hai Bà ở tØnh Hng Yªn.
Chương 2. Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Hưng
Yên - Đặc điểm thi pháp.
Chương 3. Mét sè lƠ héi tiªu biĨu tëng niƯm Hai Bà Trng và các tớng
lĩnh của Hai Bà.
1
1
Phần nội dung
CHƯƠNG 1
khảo sát diện mạo, nội dung, ý nghÜa trun
thut hai bµ trng vµ tíng lÜnh
hai bµ ë tỉnh hng yên
1. Đôi nét về mảnh đất và con ngời Hng Yên.
Trải qua các thời đại, Hng Yên một vùng đất trung tâm của châu thổ Sông
Hồng, đợc hình thành vài ngàn năm trớc và là cái nôi của ngời Việt cổ (tộc Kinh).
Vì vậy nơi đây có một tầng văn hoá rất sâu và đậm, nét văn hoá ấy đà luôn đồng
hành cùng lịch sử dân tộc Việt Nam.
Ngay từ thời Hùng Vơng dựng nớc đà có bộ lạc Trâu (còn gọi
là bộ lạc câu lậu)
Sinh sống ổn định cùng với các dân tộc khác chung sức xây dựng Nhà nớc
Văn lang - Âu Lạc (nh bộ lạc chim ở Xứ Đoài, bộ lạc Rồng ở xứ Bắc, bộc lạc Dâu
ở hai bờ sông Đuống ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ ợc phù sa dòng sông
Nhị H bồi lắng tạo nên châu thổ sông Hồng phì nhiêu, c bồi lắng tạo nên châu thổ sông Hồng phì nhiêu, c dân các bộ lạc việt đều
phá rừng, khai thác đầm lầy, dùng phép thuỷ nậu trồng lúa, dựng làng trên những gò
cao để c trú và sinh sống.
Khi phong kiến phơng Bắc đô hộ, vùng đất Hng Yên luôn biến động về gianh
giới địa lí. Nhà Tần (214 - 204) TCN chia nớc ta làm hai quận, Hng Yên thuộc quận
Tợng.
Thời Hán (111 TCN - 39 SCN) cai trị, Hng Yên là vùng đất huyện Chu Diên,
thuộc quận Giao Chỉ. Thời Đông Ngô (226 - 265) đến thời vua Đờng Trung Tông - Lý
Tôn Húc (939 - 936) Hng Yên là đất huyện Vũ Bình thuộc An Nam hộ phủ.
Đến khi Khúc Thừa Dụ hạ thành Tống Bình, đuổi quân Đờng về nớc, khởi
đầu thời kỳ giành quyền độc lập, tự chủ, nhà Ngô (939 - 965) chia vùng Hng Yên
thuộc Đằng Châu, Nhà Đinh (908 - 980) lại chia nớc ta thành 10 đạo, Hng Yên
thuộc Đằng đạo. Đến đời Lê Long Đĩnh (con thứ 5 Lê Đại Hành), nhà Tiền Lê (980
- 1009) đổi Đằng đạo thành phủ Thái Bình. Trong triều Đại Lý - Trần, Hng Yên
thuộc lộ Khoái Châu (Khoái Lộ). Đến khi giặc Minh Xâm lợc nhà Hồ, chúng đổi níc ta thµnh qn Giao ChØ vµ lóc nµy Hng Yên lại thuộc phủ Kiến Xởng.
Sau khi Lê Lợi đánh thắng giặc Minh, lên ngôi Hoàng Đế, ông đà chia Đông
Đô ra làm 4 đạo, Hng Yên thuộc Nam Đạo. Sau này Vua Lê Thánh Tông đà tiến
hành cải cách hµnh chÝnh vµ chia níc ta thµnh 11 phđ, 42 huyện, Hng Yên thuộc
phủ Khoái Châu và thuộc trấn Sơn Nam Thợng.
Dới Triều Nguyễn, khi Nguyễn Phúc Đảm (1791 - 1840) lên nối ngôi. Gia
Long, hiệu Minh Mệnh (1820) đà chia các Trấn phía Bắc thành 18 tỉnh trong đó cã
1
2
Hng Yên và cũng trong thời Nguyễn này phố Hiến chính là cảng thị buôn bán sầm
uất ngoài Bắc Hà sau Thăng Long - Hà Nội. Lúc này cả nớc vẫn có câu: " Thứ nhất
kinh kì, thứ nhì Phố Hiến " nơi đây đợc chọn là nơi xây thành và là tỉnh lị của Hng
Yên.
Tháng 10 - 1831, Hng Yên mới chính thức đợc thành lập tỉnh và cho đến khi
Vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vơng, Hng Yên vẫn không có gì thay đổi. Nhng khi
nhận đợc lời kêu gọi nhân dân cả nớc đứng lên đánh Pháp của Vua (7/1885) thì Hng
Yên là một trong những tỉnh ở Bắc Kì có phong trào kháng chiến chống Pháp mạnh
mẽ. Tiêu biểu nh cuộc khởi nghĩa BÃi Sậy do §inh Gia Q (1825 - 1885) vµ
Ngun ThiƯn Tht l·nh đạo (1844 - 1926). Nghĩa quân BÃi Sậy ngày càng lớn
phát triển lớn mạnh buộc thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh thành lập đạo BÃi Sậy (một đơn vị
hành chính tơng đơng cấp tỉnh) và tháng 6/1889) để đặc trách việc đàn áp phong
trào kháng Pháp ở đây.
Cách mạng tháng 8 thành công, nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, từ
8/1945 đến tháng 11/1996, địa giới Hng Yên đà đợc chuyển rất nhiều lần. Đặc biệt
nhất là ngày 26/01/1968 ủ ban thêng vơ qc héi ra nghÞ qut số 544/NQ- TVQH
hợp nhất hai tỉnh Hải Dơng và Hng Yên thành tỉnh Hng Yên và sau 29 năm hợp
nhất, ngày 6/1/1996 quốc hội khoá IX đà phê chuẩn tách Hải Hng thành hai tỉnh Hng Yên và Hải Dơng.
Nh vậy, hiện nay Hng Yên có 10 đơn vị hành chính cấp huyện là: Thành phố
Hng Yên, Phủ Cừ, Tiên Lữ, Ân Thi, Kim Động, Khoái Châu, Văn Giang, Yên Mĩ,
Mĩ Hào và Văn Lâm với diện tích trên 923km2.
Là một tỉnh đồng bằng nằm giữa châu thổ sông Hồng, không rừng, không
biển, không núi, đất đai mầu mỡ đợc bồi đắp bởi con sông Hồng với điều kiện khí
hậu nhiệt đới gió mùa. Vì vậy Hng Yên có đủ điều kiện để phát triển kinh tế, đặc
biệt là nghề trồng lúa nớc, góp phần làm phát triển thêm cho nền văn minh nông
nghiệp lúa nớc vốn có hàng ngàn năm của lịch sử dân tộc và cũng nơi đây đà sản
sinh ra một nền văn hoá đặc sắc, đậm đà bản sắc dân tộc. Những ngời con Hng Yên
qua hàng ngàn năm đà đi vào lịch sử dân tộc, đi vào truyền thuyết nh thời Hùng Vơng, thời Trng Vơng, thời Đinh, Lí, Trần ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ
Mỗi một thời đại mảnh đất Hng Yên đều có một bản anh hùng ca riêng của
mình để đồng hành cùng lịch sử của dân tộc.
2. Mảnh đất " địa linh nhân kiệt "- Giầu truyền thống văn hoá.
2.1. Mảnh đất " Địa linh nhân kiệt ".
Nớc Văn Lang - Âu Lạc đợc hình thành khoảng thế kỷ XIII -> XVI TCN
qua 18 triều đại Hïng V¬ng theo tơc cha trun con nèi. Theo “LÜnh Nam chích
quái, ngời đi khai phá vùng đầm lầy mới bồi đắp để lập làng, lập ấp ở châu thổ
Sông Hồng là vợ chồng Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Trong tổng số 864 làng, ấp hiện
có ở Hng Yên, làng đợc hình thành sớm nhất là làng Chữ Xá - Lµng trun r»ng do
1
3
Chử Đồng Tử - Tiên Dung lập từ TK thứ III TCN, sau đó là một loạt các làng xà đ ợc
hình thành theo trên vùng đất vừa hội tụ này.
Theo dòng lịch sử, truyền thuyết, thời nào Hng Yên cũng có anh tài. Những
ngời con Hng Yên đà luôn sát cánh bên nhau trong công cuộc khai phá đất hoang,
xây dựng quê hơng đất nớc biệt là trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ
giang sơn, tổ quốc.
Ngay từ thời Hùng Vơng, c dân Hng Yên đà khá đông đúc, trở thành nơi
cung cấp nhân lực, vật lực cho các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm và chiÕn tranh
bé téc. B»ng chøng lµ vµo thêi Hïng ChiỊu Vơng Long (Hùng Vơng Thứ 6) làng
Thổ Hoàng, Ân Thi đà có những chàng trai dũng cảm theo Phù Đổng thiên vơng
đánh giặc Ân. Thời Hùng Nghị Vơng (Vua Hùng Thứ 17), các hoàng tử Bảo Quốc,
châu Võ về làng Bình Hồ (xà Quảng LÃng, Ân Thi) lập đồn trại tuyển quân chống
quân thù. Đại Vơng thiên khai, một thủ lĩnh bộ tộc quy phục vua Hùng, trở thành
đại tớng của nhà vua.
Kết thúc chiến tranh, ngời dân Hng Yên lại quy tụ trên mảnh đất bờ xôi.
ruộng mật này để xây dựng lên cộng đồng làng xÃ. Bởi lẽ sự quy tụ này là một phần
do điều kiện thuận lợi của vị trí địa lí ven sông (Sông Hồng, Sông Luộc, Sông Cửu
Yên, Sông Hoan ái, Sông Kim Ngu). Vì vậy rất thuận lợi cho việc trị thuỷ, tới tiêu,
đánh bắt cá.Vả lại đất đai lại mầu mỡ và có những dải đất cao hơn để xây dựng nhà
cửa, vun đắp nên một truyền thống văn hoá tốt đẹp của mảnh đất Hng Yên nói riêng
và văn minh sông Hồng nói chung.
Vào những năm 40 - 43 sau công nguyên, nhà Hán xâm lợc nớc ta, cả nớc
chìm trong cảnh đau thơng dới ánh thống trị của bọn phong kiến phơng Bắc. Khi
nghe tin Hai Bà Trng phất cờ khởi nghĩa, một lần nữa, ngời dân Hng Yên lại nhất tề
đứng lên chống giặc ngoại xâm. Tiêu biểu nh 7 cha con Trần Lữu ngời Đào Đặng
(thành phố Hng Yên) đà mộ quân về hởng ứng. Mỗi huyện đều có những anh tài nổi
danh nh Bà Nguyệt Thai - Nguyệt Đô ngời Khoái Châu hởng ứng lời hiệu triệu của
hai Bà đà tuyển đợc 2000 ngời, lập trờng luyện quân ở Tân Trờng, Thái Hoà, Bình
Xuyên (huyện Bình Giang - Hải Dơng) rồi kéo đi hạ thành Yên Định. Hai nàng song
sinh này đà biết gom sức mạnh toàn dân đà hội quân với Là Văn ất ngời Văn Giang
cùng vừa hạ xong thành Kênh Cầu, cùng vây ép Luy Lâu, buộc Tô Định phải thay
quần áo lính trốn về nớc.
Mảnh đất Hng Yên cũng từng là nơi hội tụ, chiến đấu của nữ tớng Vũ Thị
Thục - quê tận Phợng Lâu (Phù Ninh - Phú Thọ) cùng chiến đấu với các chiến nữ Hng Yên ở bờ sông Cát tại thôn Đoàn Thợng (xà Bảo Khê, thành phố Hng Yên). Rồi
bao ngời con Hng Yên khác nh các chàng trai Nguyễn Trung ngời thôn Phú Cốc (xÃ
Ngũ LÃo - Kim Động), Dơng nớc, Dơng Đình, ngời làng Mai Viên (xà Song Mai Kim Động), là cô gái Hơng Thảo, bà Ngọc Chi (Ân Thi), Trần Thị Mà Châu (Thành
phố Hng Yên)), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ Những chiến công của ngời con Hng Yên tiêu biểu cho tinh thần
1
4
yêu nớc, căm thù giặc, chiến đấu dũng cảm, kết tinh ý chí, sức mạnh dân tộc trong
các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Tất cả họ luôn sống mÃi trong tâm linh và
thần điện của các làng xà ở tỉnh Hng Yên.
Sau gần một nghìn năm chìm trong ách đô hộ của phong kiến phơng Bắc cho
đến khi đất nớc giành đợc chủ quyền năm (937) v bồi lắng tạo nên châu thổ sông Hồng phì nhiêu, c trải qua các triều đại Ti n Lê,
Lý Trần, Hậu Lê (1427). Hơn 440 năm ấy, nhân dân Hng Yên luôn sát cánh với
triều đình đánh bại các cuộc xâm lăng của nhà Tống, Nguyên, Minh lập lên những
chiến công hiển hách. Đó là trận Lê Hoàng giết Hầu Nhân Bảo và Trần Khâm Tộ,
bắt sống Quách Quân Biên và Triệu Phục Hng trong cuộc kháng chiến chống Tông
năm 987.
Trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông dới sự chỉ huy của Hng Đạo Vơng Trần Quốc Tuấn, ngời dân Hng Yên cũng lập nên những chiến công tiêu biểu.
Đó là trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất, quân dân
Màn Trù, Mễ Sở (Khoái Châu) đà đón vua Trần Từ Thăng Long về đây xây dựng
hậu cứ thực hành kế " thanh dà " của Trần Quốc Tuấn để rồi tập kích chiến lợc ở
Đông Bộ Đầu (1258). Trong một trận chiến đấu cùng đại quân của Chiêu Văn Vơng
Trần Nhật Duật, Chiêu Thành Vơng, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Tớng quân
Nguyễn Khoái, nhân dân Hng Yên đà cùng đón đánh giặc ở Tây Kết - Hàm Tử
quan, chém chết Toa Đô tại trận trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông
cần thứ 3 (1288). Vị tớng Phạm Ngũ LÃo ngời Phù ủng - Ân Thi đà tiêu diệt gần hết
đội quân của địch đông tới 5000 ngời, góp phần đuổi quân Nguyên Mông về nớc.
Đất nớc đợc giải phóng non sông thu về một mối.
Dới ách đô hộ của giặc Minh, Trấn Sơn Nam nằm trong tay giặc, ngời con
gái họ Đào ngời Làng Đào Đặng (xà Trung Nghĩa - thành phố Hng Yên) vốn nổi
tiếng hát hay, bà đợc giặc tin tởng cho phục vụ trong bản doanh của giặc. Với tài chí
của mình, bà đà dùng kế dụ giặc chui vào bao ngủ tránh muỗi. Đêm đêm bà và một
số anh em đà mang chúng ném xuống sông, góp sức cùng nghĩa quân Lam Sơn
giành lại độc lập cho nớc nhà.
Khi triều đình lục đục, tranh giành quyền bá, hà hiếp nhân dân thì nhân dân
vùng lên chống ách thống trị đòi công bằng xà hội và tìm minh chủ mới. Hàng ngàn
ngời ở vùng đất Sơn Nam thợng đà hởng ứng theo lời Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ,
Phan Bá Vành, Cao Bá Quát đứng lên khởi nghĩa chống lại các thế lực phong kiến
giành lại áo cơm và ruộng đất.
Ngày 01/9/1858 thực dân Pháp nổ súng ở cửa biển Đà Nẵng xâm lợc nớc ta.
Mặc cho triều đình nhà Nguyễn nhu nhợc từng bớc đầu hàng quân giặc nhng nhân
dân Nam kỳ tự giác đứng lên đánh Pháp. Khi quân Pháp đánh chiếm Bắc kì lần thứ 2
và lần lợt đánh chiếm các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có Hng Yên nhằm buộc
triều đình nhà Nguyễn phải kí với Pháp hiệp ớc Hác Măng năm 1083, nhân dân các
huyện Văn Giang, Khoái Châu, Ân Thi, Kim Động, Phù Cừ đà theo Đinh Gia QuÕ
1
5
(1825 - 1885) làm lễ tế cờ " Bình Tây phạt tội "tại đình Thọ Bình (Khoái Châu) mở
đầu cuộc khëi nghÜa B·i SËy (1883-1892). Sau khi §ỉng Q mÊt, Nguyễn Thiện
Thuật (1844 - 1926) tiếp tục lÃnh đạo cuộc khởi nghĩa và phong trào phát triển, lan
rộng ra toàn tỉnh và sang các tỉnh bạn. Nghĩa quân đà vợt sông Hồng đánh phá các
huyện Thanh Trì, Thờng Tín, Phú Xuyên, rồi tấn công thành Hải Dơng, đánh địch
Tân Yên Quảng làm cho quân pháp nhiều phen lúng túng.
Trong những năm diễn ra cuộc khởi nghĩa BÃi Sậy (1883 - 1892) do Đinh Gia
Quế và Nguyễn Thiện Thuật lÃnh đạo, nhân dân các làng xa Hng Yên không chỉ cử con
em tham gia nghĩa quân mà con xây dựng làng trở thành những làng chiến đấu giúp
nghĩa quân đánh thắng nhiều trận. Làng Thọ Bình (xà Tân Dân - Khoái Châu) lập
những trạm tiền tiêu, quan sát địch giúp việc bảo vệ chỉ huy sở cuộc khởi nghĩa. Các
làng trong huyện Khoái Châu, Ân Thi, Yên Mĩ, Mĩ Hào, Văn Giang ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ. đều tự nguyện
đóng thuế cho nghĩa quân, cất giấu lơng thực, sản xuất vũ khí thô sơ trang bị cho con
em chiến đấu. Họ thà hy sinh chữ không chịu tiếp tay cho giặc để bảo vệ nghĩa quân.
Lý trởng làng Xuân Dục (Mĩ Hào) chịu chết chứ không chỉ mồ mả tổ tiên quan Hiệp
thống Nguyễn Thiện Thuật cho quân Pháp. Nhân dân Lôi Cầu (XÃ Việt Hoà, Khoái
Châu) thà chịu tàn sát chứ nhất định không chịu hàng giặc. Làng khúc Lông (Vĩnh
Khúc, Văn Giang) đà phá huỷ các con đờng vào làng để không cho quân địch tiến đánh
nghĩa quân đang đóng trong làng. Điều đó càng khảng định truyền thống yêu nớc,
truyền thống anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm của nhân dân Hng Yên.
Sẵn có lòng yêu nớc nồng nàn và tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm,
khi đợc tiếp nguồn ánh sáng của đờng lối cách mạng vô sản, những ngời con tiên
tiến của Hng Yên đà sớm giác ngộ cách mạng, gây dựng phong trào cộng sản để
lÃnh đạo nhân dân làm cách mạng. Năm 1928, dới gốc đa Sài Thị (Khoái Châu), chi
bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đợc thành lập một năm sau (1929),
chi bộ chuyển thành chi bộ Đông Dơng cộng sản Đảng đầu tiên của Hng Yên.
Phong trào cách mạng trớc năm 1945 ở Hng Yên nh cánh đồng cỏ khô gỈp lưa, tõ
mét chi bé, råi hai, ba chi bé, đến tháng 7/1941, hội nghị các chi bộ toàn tỉnh họp
tại Ninh Thôn (xà Cẩm Ninh, Ân Thi) bầu Ban tỉnh uỷ lâm thời để lÃnh đạo phong
trào chung toàn tỉnh. Địch khủng bố phá vỡ phong trào nhng " Phong trào tạm lắng,
phong trào lại lên" và từ đó lực lợng ngày một lớn mạnh và chuẩn bị cho cuộc tổng
khởi nghĩa tháng 8-1945.
Đêm 22/8/1945, UBND cách mạng lâm thời tỉnh Hng Yên đợc thành lập và
đến ngày 25/8/1945, chính quyền cách mạng của ta đà đợc xây dựng trong phạm vi
toàn tỉnh. Nớc nhà hoàn toàn độc lập, chÝnh qun thËt sù vỊ tay nh©n d©n.
Díi sù l·nh đạo của Đảng, của Hồ Chủ Tịch vĩ đại, Trong suốt hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ của nhân dân ta trong suốt 30 năm (1945 1975) hàng triệu ngời con u tú của Hng Yên đà nô nức lên đờng chiến đấu để bảo vệ
Tổ quốc. Trong 9 năm chống Pháp, riêng ở Hng Yên đà diễn ra hàng trăm trận
1
6
đánh nổi tiếng nh ở Bần Yên Nhân, ở Lực Điền (Khoái Châu) ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ với ph ơng châm "
Giặc đến nhà - đàn bà cũng đánh" ngời dân Hng Yên luôn sát cánh một lòng, đánh
giặc Pháp, nổi tiếng với phong trào " Nữ du kích Hoàng Ngân" làm cho giặc Pháp
luôn phải khiếp sợ.
Hoà bình lập lại, Hng Yên cùng với miền Bắc xây dựng xà hội chủ nghĩa,
miền nam phải chống giặc Mĩ xâm lợc. Với phơng châm " vì miền nam ruột thịt "
phụ nữ ở lại tăng gia sản xuất xây dựng đất nớc. Thanh niên, nam giới một lần nữa
lại nô nức ra trận. Cũng ở Hng Yên đà xuất hiện bao anh hùng trong lao động, anh
hùng lực lợng vũ trang nh: Bà Phạm Thị Vách, Nguyễn Văn Phụng ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ. và hàng vạn
ngời con Hng Yên đà gửi lại tuổi thanh xuân ở chiến trờng miền Nam và mÃi mÃi
không trở về. Đặc biệt là ngời con của Hng Yên, một vị lÃnh tụ kiệt xuất Nguyễn
Văn Linh là một minh chứng cho lòng dũng cảm, tinh thần chiến đấu trong chiến trờng. Trong thời bình, một lần nữa ông lại mang lại ánh sáng cho con đờng xây dựng
chủ nghĩa xà hội ở nớc ta mà cả nớc phải mang ơn và kính trọng.
Đất nớc hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, Hng Yên đà cùng cả
nớc vững bớc theo Đảng, xây dựng và chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng
mảnh đất hình lá cờ tung bay tiến lên chủ nghĩa xà hội.
2.2. Mảnh đất giầu truyền thống văn hoá.
Là một tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng, đất đai phì nhiêu lại đợc
thiên nhiêu u đÃi. Ngay từ khi ngời dân Hng Yên khai hoang mở đất, nơi đây đà là nơi
sản xuất ra nhiều lúa gạo, hoa mầu. Thành lập nên một nền văn hoá lúa nớc lâu đời,
đó chính là nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nớc của nớc ta. Cũng chính văn
minh đó đà sản sinh ra một nền văn hoá với bản sắc độc đáo của mình.
Thứ nhất: Cốt cách của ngời Hng Yên không chỉ không hình thành hệ giá trị
tâm thức con ngời qua tình yêu đất - nớc, tinh thần đoàn kết cộng đồng làng xà mà
đối với ngời Hng Yên luôn luôn coi trọng cuộc sống thực tế để tạo dựng một cuộc
sống lao động cần cù, nhân ái và bao dung, trọng nghĩa tình đạo lí. Làm nông
nghiệp là phải " Một nắng hai sơng" cần cù chịu khó. Bởi lẽ, thực tế đà dạy con ngời
ta " Đợc mùa chớ phụ ngô khoai/ đến khi thất bát lấy ai đỡ lòng"
Cho nên, mỗi một gia đình, mỗi con ngời luôn luôn cần kiệm để lo cho tơng
lai, cho cuộc sống này phát triển.
Cũng từ thực tế đó, ngời dân Hng Yên luôn có tinh thần sáng tạo, từ một sáng
tạo nhỏ, tích góp lại trở thành một sáng tạo lớn hơn. Nghề thủ công truyền thống ở
Hng Yên đà ra đời từ rất sớm và sau này đà dần dần trở thành những làng nghề
truyền thống. Ca dao xa có những câu viết về làng nghề Hng Yên.
Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu,
Đồng tỉnh bán thuốc, Huê cầu nhuộm thâm
Hay
Mẽ, Nhạn có đất buôn nâu
Phú Trạch là đất trồng dâu nuôi tằm
1
7
Phú Thị nhuộm vải bán tăm
Thiết Trụ nấu rợu tế thần mọi nơi,
Đa Hoà đập đá nung vôi
Bằng Nha dệt cửi là nơi thanh nhàn.
Và kể sao hết những làng nghề truyền thống ở khắp đất Hng Yên. Ngày nay
ngời con Hng Yên đà mang nghề truyền thống của quê hơng đi khắp nơi để xây
dựng lập nghiệp nh Quảng Ninh, Vũng Tầu, Tây Nguyên ), Sau một trận địa trÊn, vïng ®øt gÉy ® ThiÕt nghÜ r»ng, ®ã là
một nét đẹp về văn hoá, một truyền thống quý báu của ngời dân Hng Yên.
Thứ 2: Một trong những nét đẹp của truyền thống văn hoá Hng Yên nữa phải
nhắc đến đó là truyền thống hiếu học, tôn s trọng đạo, vợt lên khó khăn để trở thành
ngời có ích cho Tổ quốc, quê hơng.
Trong thực tế, kể từ khi ghi chép thành văn, chữ Hán đà du nhập vào nớc ta,
và tính từ khoa thi cử năm ất MÃo (1075) đến hết đời nhà Nguyễn khoa Kỉ Mùi
(1919) khoa cử của nớc ta đà trải qua 845 năm. Trong tổng số 2785 ngời đỗ trong
184 khoa thi thì Hng Yên đà có 228 ngời đỗ đại khoa ở các kì thi hội, thi đình.
Nhiều ngời đỗ đạt đà trở thành những lơng thần danh tớng làm rạng danh đất nớc
quê hơng nh: Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370) 12 tuổi đỗ Thái học sinh, 16 tuổi
đỗ Hoàng Giáp đời Trần Anh Tông, đà từng đi sứ Bắc. Soạn sử nam và là đại thần
(Tể Tớng) 5 tiền vua. Đó là lễ Bộ thợng th Đào Công Soạn (1376 - 1456) ngời đỗ
đầu kì thi sẽ từ đời Lê Thái Tổ văn chơng chính Lê Nh Hổ (1511 - 1581) phó tớng
Tả đô đốc Hoàng Nghĩa Giao (1623 - 1662). Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705 1748) tác giả truyền kì Tân Phả và dịch giả Chinh phụ ngâm khúc nổi tiếng Hải
thợng LÃn Ông Lê Hữu Trác (1720-1905), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ.)), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ.. Điểm qua những ng ời con tài danh
đất Hng Yên nêu trên mà cha kể đến những nhân vật huyền thoại nh trạng Nguyễn
Tống Trân, ngời đi sứ Mời năm khiết trời Ngô, đợc vua Tàu phong là Lỡng Quốc
Trạng Nguyên. Ngời Hng Yên có cậu bé Tống Trân, con nhà nghèo khó, 8 tuổi đỗ
Trạng Nguyên nh một biểu tợng cao đẹp về tinh thần ham học, sự vợt khó vơn lên
thành tài làm rạng danh đất nớc.
Do vị trí cận kề Hà Nội, khi Tây học thịnh hành thì Hng Yên cũng là nơi có
phong trào tân học khởi sắc. Nơi đây cũng sản sinh ra đợc nhiều nhà khoa học, nhà
thơ, nhà văn, tớng lĩnh ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ nhạc sĩ cho đất nớc. Tiêu biểu nh nhà nông học cử nhân
Nguyễn Công Tiễn (1892 - 1976), ngời huyện Phù Cừ, với công trình nghiên cứu
bèo hoa dâu gây tiếng vang trên hội nghị khoa Thái Bình Dơng. Đó là nhà thơ, tác
giả tập Tiếng Dịch Sông ô - Kiêm nhà khảo cổ học Tiến sĩ Phạm Huy Thông
(1916 - 1988) - tác giả của nhiều công trình nghiên cứu thời Hùng Vơng dựng nớc.
Ông đà đợc nớc cộng hoà dân chủ Đức công nhận là viện sĩ viện hàn lầm khoa học.
Đó là cử nhân Dơng Quảng Hàm (1898 -1946), một nhà s phạm mẫu mực, và là ngời Việt Nam đầu tiên biên soạn văn học sử - cuốn Việt Nam văn học sử yếu và
sách quốc ngữ cho học sinh tiểu học. Danh nhân Tô Ngäc V©n (1908 - 1954) mét
1
8
hoạ sĩ nổi tiếng. Đó là các nhà văn nổi tiếng, tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực
phê phán (1930 - 1945) nh Ngun C«ng Hoan (1903 - 1977), Vũ Trọng Phụng
(1912 - 1939) và các nhà văn hiện đại nh Học Phi, Lê Lựu, Chu Lai, Nguyễn Thị
Hồng Ngát...Trên lĩnh vực sân khấu, Hng Yên có Lê Đình nghị (1884 - 1954), nhà
cải cách và phát triển nghệ thuật chèo. Một loại hình sân khấu dân gian độc đáo của
dân tộc từng đợc tôn vinh là ông Tổ nghề chèo. Lĩnh vực nhạc sĩ có Cao Việt Bách,
Phó Đức Phơng, Nguyễn Hữu Ước ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ có những ca khúc đà đi cùng năm tháng và đ ợc cả nớc biết đến. Đặc biệt, trong 2 cuộc kháng chiến chống 2 đế quốc hung mạnh
nhất của thế giới là Pháp và Mĩ, đà xuất hiện 44 tớng lĩnh tài ba công tác trong binh
chủng quân đội nhân dân Việt Nam. Những con ngời thợng võ trên đất Hng Yên đÃ
làm rạng danh non sông gấm vóc nh: Trung Tớng Nguyễn Bình (1908- 1951). Đại tớng Nguyễn Quyết, Thợng Tớng Hoàng Minh Thảo, Thợng Tớng Đặng Vũ Hiệp,
Thợng Tớng Nguyễn Trọng Xuyên, Thợng Tớng Phạm Thanh Ngân, Thợng Tớng
Lê Quang Hoà ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ
Những ngời con u tú của Hng Yên nêu trên là sản phẩm văn hoá của vùng
quê chung đúc nên, vừa là sự tự vơn lên chiếm lĩnh đỉnh cao và sáng tạo nên văn hoá
của họ. Đồng thời cũng làm cho truyền thống văn hoá của quê hơng, đất nớc thêm
giầu mạnh. Đó là những tấm gơng tiêu biểu cho tinh thần hiếu học, vơn lên thành
tài, cống hiến cho Tổ quốc của ngời Hng Yên. Vì vậy, không phải bỗng nhiên mà
sách Đại Nam Thống chí đà ghi: ở đây Kể sĩ gắng học, nhà nông chăm cày, a tiết
kiệm, tránh xa xỉ. Đây chính là giá trị vô cùng quý giá mà những ngời con Hng
Yên đà để lại cho đời.
Thứ 3: Sẽ thiếu tính toàn diện và tính thống nhất khi khảo sát về truyền thống
văn hoá của một địa phơng mà không xét qua phong tục tập quán, đời sống tâm linh
của c dân sống ở địa phơng, đó là hệ giá trị về tâm thức con ngời Hng Yên.
Ngoài giá trị về lòng yêu nớc nồng nàn, lòng nhân ái bao dung, tinh thần
đoàn kết cộng đồng: Cá nhân - gia đình - làng nớc, ngời dân Hng Yên còn có một
nét đẹp nổi bật trong đời sống tâm linh đó là luôn luôn biết ơn về nguồn cội. Chính
nét đẹp đó đà xây dựng trong mỗi con ngời, mỗi gia đình, dòng họ, làng xóm có một
nét đẹp văn hoá sâu đậm và đó là một phần đời sống tinh thần trong họ.
Càng hoà chung trong thế giới tâm linh của ngời Việt ở vùng c dân nông
nghiệp Đông Nam , nhất là vùng trồng lúa nớc thì mẫu Thoải (mẹ nớc) là vị thần đợc thờ phụng nhiều nhất. Trong những ngày lễ, giỗ tết, trên bàn thờ bao giờ cũng
dâng cúng nớc. Điểm qua các hội Tứ Pháp ở Lạc Hồng (Văn Lâm) là lễ hội cầu ma.
Hội Tống Trân (Tiên Lữ) Đa Hoà - Chử Đồng Tử, Tiên Dung và các lễ hội ven sông
Hồng bao giờ cũng có tục lƠ ríc níc, råi tơc lƠ méc dơc, cÇu ma thuận gió hoà.
Trong tâm thức của mỗi ngời, nớc nh một vật thiêng đem đến cho ngời dân phúc
trạch dồi dµo.
1
9
Ngoài thờ thần nớc, tập tục thờ cúng tổ tiên nh một nét đẹp không thể thiếu
trong mỗi gia đình, dòng họ. Ngày giỗ, tết đồng thời cũng là ngày con cháu, gia
đình đợc đoàn tụ đông đủ. Sửa soạn mẫm cỗ cúng, bằng tấm lòng thành kính để nhớ
đến tổ tiên, ông bà đà có công sinh thành, dỡng dục. Rộng ra nữa thì mỗi dòng họ
lại có nhà thờ để thờ Thuỷ Tổ của dòng họ. Làng xà có Thành Hoàng làng đợc cả
làng thờ phụng vì có công khai phá, dạy nghề cho cả làng mình. Mỗi một dịp nh
vậy mỗi con ngời lại hớng đến một cái thiện, cái hoàn mĩ hơn.
Một không gian trong đời sống văn hoá tâm linh nữa của ngời dân Hng Yên
không thể không nói đến đó là không gian văn hoá đình, chùa, miếu mạo. Mỗi một
công trình là một nét đẹp văn hoá, là cả một kiến trúc nghệ thuật độc đáo mà con
ngời để lại. Hng Yên có hàng trăm ngôi đền, đình chùa, lăng tẩm đợc xếp hạng văn
hoá quốc gia nh Đền Đa Hoà (Khoái Châu) Chùa An Xá (Kim Động) chùa Nôm
(Văn Lâm) chùa Tứ Pháp (Văn Lâm) ), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ Nh ng nổi bật hơn cả là trong mỗi công
trình ấy là cả một đời sống tâm linh vô cùng phong phú đa dạng. Đó là việc thờ cúng
các anh hùng dân tộc nh có công với nớc, với dân nh Chử Đồng Tử, Hai Bà Trng và
tớng lĩnh của Hai Bà, Trần Hng Đạo, Phạm Ngũ LÃo, Triệu Quang Phục, Đào Nơng
), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ Tất cả đều đợc suy tôn thành các vị thần luôn để che chở, giúp đỡ ngời dân trong
mọi lúc, mọi nơi để con ngời có thể yên tâm hơn.
ở gần trung tâm
Phật giáo Luy Lâu (Bắc Ninh) tục thờ Phật ở Hng Yên đÃ
có truyền thống rất lâu đời và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. ở Hng Yên tôn
thờ các hiện tợng có liên quan trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp lúa nớc. Câu
chuyện về sự tích Man Nơng mang con trao cho Khâu Đà La gửi cây rừng nuôi. Cây
gỗ ấy đợc ngời thợ mộc là Đào Độ tạc thành 4 pho tợng tứ pháp thờ ở bốn ngôi
chùa.: Thành Đạo (Pháp Vũ), Thiền Định (Pháp Vân) Phi Tờng (Pháp Lôi), Trí Quả
(Pháp Điện). Những cành còn lại của cây gỗ thờng đợc ngời Hng Yên đem về tạc
thành tợng thờ tại các chùa Thái Lạc (xà Lạc Hồng) chùa Pháp Vân (xà Lạc Đạo Văn Lâm) Cù Tu (Xuân Trúc - Ân Thi), Bình Kiều (Khoái Châu) chùa Thứa (xà Dị
Sứ, Mĩ Hào)), Sau một trận địa trấn, vùng đứt gẫy đ
Nh vậy, không gian văn hoá và nét đẹp trong đời sống tâm linh của ngời dân
Hng Yên thật đa dạng và phong phú. Tất cả các không gian văn hoá ấy hiện nay còn
là nơi hội tụ của việc sinh hoạt văn hoá của đời sống nhân dân. Tất cả các nghi lễ
trên thể hiện một nét đẹp văn hoá truyền thống, đó là nét đẹp cần đợc nâng niu, trân
trọng và cũng góp một phần không nhỏ vào làm tôn vinh thêm nét đẹp văn hoá,
phong tục của văn hoá Việt. Cũng qua đó nhằm giáo dục truyền thống đạo nghĩa,
hiếu học, tôn s trọng đạo, yêu nớc, yêu quê hơng của bao thế hệ ngời Việt nói chung
và của ngời dân nói riêng.
Quả thật, Hng Yên đúng là một vùng đất giầu đẹp và là một tỉnh có truyền
thống văn hiến, vùng đất địa linh nhân kiệt - ngàn năm văn hiÕn”.
2
0