Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.71 KB, 25 trang )

Nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng hiện nay
Mục lục
Mở đầu
Phần 1: Nhận thức chung về nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng
1.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng
1.2 Vị trí, vai trị của ngun tắc tập trung dân chủ trong
Đảng
1.3 Bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng
Phần 2: Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay
2.1 Tình hình thực hiện nguyên tắc dân chủ của Đảng ta thời
gian qua
2.2 Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng hiện nay
2.2.1 Tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhận thức
đúng đắn và thống nhất về nguyên tắc tập trung dân chủ.
2.2.2 Cụ thể hóa nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung
dân chủ thành chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối
quan hệ công tác, của từng cán bộ, đảng viên, từng cấp ủy,
tổ chức đảng
2.2.3 Giữ vững và nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, tổ
chức đảng
2.2.4 Thực hiện nghiêm túc nề nếp, chất lượng chế độ tự
phê bình và phê bình


2.2.5 Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện điều


lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy chế hoạt động của đảng viên, cấp
ủy, tổ chức đảng
2.2.6 Đề cao tính Đảng, ý thức trách nhiệm của đảng viên
trong xây dựng, tổ chức và thực hiện nhiệm vụ được giao.
2.2.7 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn kinh nghiệm hoạt động của Đảng trong việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính
đảng của giai cấp cơng nhân, được ra đời cùng với lý luận
về xây dựng “Đảng kiểu mới” và là một trong những
nguyên tắc cơ bản để xây dựng “Đảng kiểu mới”. Nguyên
tắc này đã được Đảng ta nhiều lần khẳng định là một
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng, là sự khác biệt giữa “Đảng kiểu mới” của giai cấp
cơng nhân, đảng cách mạng chân chính với các Đảng chính
trị xã hội khác.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ vừa
phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo trách nhiệm
cao của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, vừa tập trung
được trí tuệ và sức mạnh vật chất của toàn Đảng. Sức mạnh
của Đảng là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng tổ chức. Sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng, chỉ có thể vững chắc và
biến thành hiện thực khi được bảo đảm bằng sự thống nhất

về mặt tổ chức thông qua thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Tuy nhiên, trong Đảng vẫn còn nhiều tổ chức đảng và
đảng viên nhận thức chưa đầy đủ về cơ sở khoa học, vị trí,
vai trò, nội dung, bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ
và việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
vẫn còn chưa thật sự nghiêm túc, diễn biến phức tạp với
những biểu hiện khác nhau, dưới những hình thức khác
nhau. Bên cạnh đó, kẻ thù ln tìm mọi cách xóa bỏ ngun
tắc tập trung dân chủ hịng phá vỡ sự đoàn kết thống nhất


của Đảng ta, làm tan rã, phân tán Đảng về mặt tổ chức. Với
ý nghĩa đó, việc nghiên cứu nguyên tắc tập trung dân chủ, từ
đó quán triệt và thống nhất cao với những chủ trương, biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc này là
một yêu cầu cấp thiết trong công tác xây dựng Đảng ta hiện
nay.
Từ những lý do trên tôi xin chọn đề tài “Nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
hiện nay” làm đề tài tiểu luận thi kết thúc học phần môn học
Xây dựng Đảng
2.Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: Hiểu sâu, nắm vững những nội dung cơ bản
của nguyên tắc tập trung dân chủ, đề ra giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc này.
Nhiệm vụ: khái quát lại những nhận thức chung về
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, phân tích thực
trạng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
thời gian qua, đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực

hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài dựa trên thế giới quan phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và các quan
điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh cùng với
quan điểm của Đảng, Nhà nước về thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: nghiên
cứu tài liệu, phương pháp tổng kết thực tiễn, so sánh, …
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận, Danh mục từ viết tắt
tiểu luận được cấu trúc thành 2 phần:


Phần 1: Nhận thức chung về nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng
Phần 2: Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay
Phần 1: Nhận thức chung về nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng
1.1Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng
Nguyên tắc tập trung dân chủ xuất phát từ nhiều cơ sở lý
luận nhưng cốt lõi là từ bản chất giai cấp công nhân và yêu cầu
đấu tranh cách mạng; từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về
chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân và từ sức
mạnh tổng hợp của Đảng. Theo đó, tập trung dân chủ là
nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới về mặt tổ chức của giai
cấp công nhân, do C.Mác và Ph.Ăngghen đặt cơ sở, được
V.I.Lênin khái quát, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
khẳng định, kế thừa và thực hiện thành công trong xây dựng

Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng mácxít.
Ở điều 25, Điều lệ Liên đoàn đồng minh những người
cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Mỗi hội viên của
Liên đoàn phải liên lạc ít nhất là ba tháng một lần, còn mỗi
chi bộ phải liên lạc mỗi tháng một lần với Ban chấp hành
khu bộ của mình. Ít nhất cứ hai tháng một lần, mỗi khu bộ
phải báo cáo tình tình cơng tác của địa phương mình với
tổng khu bộ, ít nhất ba tháng một lần mỗi tổng khu bộ phải
báo cáo tình hình cơng tác của địa phương mình với Ban
chấp hành Trung ương”. V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng: Đảng
phải được tổ chức theo chế độ tập trung dân chủ, chế độ tập
trung dân chủ là nền tảng tổ chức của một đảng vô sản kiểu
mới. Thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Đảng sẽ làm


cho Đảng thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; nhằm
củng cố và tăng cường sức mạnh của Đảng, làm cho đường
lối của Đảng được thực hiện một cách có hiệu lực. Mặt
khác, thực hiện tốt chế độ tập trung dân chủ sẽ góp phần
ngăn ngừa sự phá hoại của các phần tử khơng kiên định, vơ
chính phủ, cơ hội chủ nghĩa trong Đảng.
Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Hồ
Chí Minh ln trung thành với tư tưởng của C. Mác - Ph.
Ăngghen và V. I. Lênin về nguyên tắc tập trung dân chủ và
sáng tạo, bổ sung, phát triển tư tưởng đó trong tổ chức, sinh
hoạt và hoạt động của Đảng cho phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể của Đảng Cộng sản Việt Nam, trình độ dân
trí của Việt Nam.
Khi Đảng ta ra đời, Hồ Chí Minh đã áp dụng ngay
nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng. Trong các

Văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất (2/1930) do
Người soạn thảo làm thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
xác định: “Bất cứ về vấn đề nào đảng viên đều phải hết sức
thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả
đảng viên phải phục tùng mà thi hành”. Mặc dù không sử
dụng thuật ngữ “tập trung dân chủ” nhưng đây chính là nội
dung cốt lõi nhất của nguyên tắc này.
Trong báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội II của
Đảng (2/1951), khi bàn về các vấn đề cơ bản đảm bảo vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Về tổ chức, Đảng Lao động Việt Nam theo
chế độ dân chủ tập trung”. Nhưng bản chất của nguyên tắc
tập trung dân chủ được Hồ Chí Minh luận giải tồn diện
nhất trong cuốn “Thường thức chính trị” (1953). Tại đó,
Người dành một mục để nói về chế độ dân chủ tập trung của


Đảng và khẳng định: “Toàn thể đảng viên, toàn thể các cấp,
tổ chức thống nhất lại theo một nguyên tắc nhất định.
Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung”. Như vậy, tập trung
dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo tồn bộ cơng tác tổ chức, sinh
hoạt và hoạt động của Đảng, là nguyên tắc cơ bản nhất có ý
nghĩa sống còn của Đảng.
Thực tiễn xây dựng, hoạt động của Đảng ta, của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã khẳng định vai
trò đặc biệt quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ:
Đối với Đảng ta, trải qua hơn 80 năm xây dựng và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng luôn khẳng định tầm quan trọng
của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng đã kiên trì, vận dụng
sáng tạo nguyên tắc này cả trong điều kiện khi chưa có hoặc

khi đã có chính quyền; cả trong điều kiện chiến tranh cũng
như khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong điều kiện
Đảng ta là một đảng cầm quyền, Đảng đã trung thành, vận
dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhờ
vậy trong bất kỳ điều kiện, hồn cảnh nào, Đảng cũng ln
ln là một khối thống nhất về ý chí và hành động, Đảng
thực sự là một chỉnh thể thống nhất, đủ sức lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điều
này đã khẳng định năng lực, vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu,
sức mạnh của Đảng xuất phát từ nhiều yếu tố, nhiều nguyên
nhân, trong đó có ngun nhân đặc biệt quan trọng chính là
do Đảng ta kiên trì và vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đang đặt ra cho công
tác lãnh đạo, tổ chức bộ máy, phương thức lãnh đạo của
Đảng cần được đổi mới, chỉnh đốn. Điều đó càng địi hỏi
Đảng ta phải khơng ngừng coi trọng, cụ thể hoá và vận dụng


sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong những năm 90 của thế kỷ XX, quá trình tiến
hành cải tổ, cải cách, đổi mới, một số Đảng Cộng sản cầm
quyền sai lầm về đường lối, dần dần mất phương hướng, xa
rời, đi tới từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng Cộng
sản mất vai trò lãnh đạo, chủ nghĩa xã hội tan rã như ở Liên
Xô và một số nước Đơng Âu vừa qua.
1.2 Vị trí, vai trị của nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng
Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, từ lịch sử phát triển
của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế đã khẳng định

vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với việc
xây dựng và hoạt động của Đảng Cộng sản. Nguyên tắc tập
trung dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân. Giữ
vững và thực hiện tốt nguyên tắc này là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trên lĩnh vực tổ
chức. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: “Tập
trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt chính
Đảng kiểu mới của các giai cấp cơng nhân, Đảng cách mạng
chân chính với các đảng phái khác. Phủ nhận nguyên tắc này
là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất. Đảng chống tập trung
quan liêu, độc đoán, chuyên quyền song triệt để tuân theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ có thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ mới có thể vừa chống được bè phái, bảo đảm sự
thống nhất ý chí và hành động của Đảng. Chỉ có như vậy,
Đảng mới có sức mạnh và sức chiến đấu”.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo toàn bộ và xuyên suốt quá trình xây dựng, tổ chức, sinh
hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt


Nam. Sức mạnh tổ chức của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng phụ thuộc quyết định vào nguyên tắc này.
Đồng thời, nguyên tắc này cũng quy định việc xây dựng cơ
cấu, hình thức tổ chức của Đảng, thiết lập các cơ quan lãnh
đạo của Đảng, tổ chức bộ máy của Đảng làm cho Đảng trở
thành một chỉnh thể đồng bộ, thống nhất có tổ chức chặt chẽ,
kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết thống nhất từ Trung ương đến
cơ sở.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định các chế độ để
chỉ đạo việc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng.
Đó là mối quan hệ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu

số phục tùng đa số, cấp dưới thực hiện vô điều kiện nghị
quyết của cấp trên. Giữa cá nhân với tổ chức, giữa địa phương với Trung ương… giải quyết tốt các mối quan hệ đó
thì mọi đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị của Đảng được thực hiện một cách triệt để, nhanh chóng và chính xác,
tránh được tình trạng “trên phát” nhưng “dưới không động”
dưới làm nhưng trên không biết, ỷ lại trơng chờ vào trên hay
“khốn trắng” cho cấp dưới, công việc không biết giao cho
ai “nhiều sãi khơng ai đóng cửa chùa”. Như vậy, hiệu quả
lãnh đạo, chỉ đạo sẽ bị hạn chế. Thực hiện tốt tập trung dân
chủ sẽ bảo đảm cho Đảng là một “guồng máy” chặt chẽ,
thống nhất, có kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định các nguyên tắc,
chế độ trong sinh hoạt Đảng và phương pháp tác phong lãnh
đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng vừa giữ vững được nguyên
tắc, vừa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng, vừa tập trung được trí
tuệ và sức mạnh của tồn Đảng. Ngun tắc tập trung dân chủ
cịn là ngun tắc chỉ đạo tồn bộ cơng tác tổ chức, sinh hoạt


và mọi hoạt động của Đảng; nó thể hiện bản chất và sự sống
cịn của Đảng. Đồng thời, nó cịn là tiêu chuẩn để phân biệt
giữa Đảng Cộng sản chân chính với các đảng cơ hội, cải lương và là thước đo tính đảng của người đảng viên cộng sản
chân chính với các phần tử tự do, vơ chính phủ, kém tính tổ
chức, tính kỷ luật.
Vai trị của ngun tắc tập trung dân chủ còn được thể
hiện qua kinh nghiệm thực tiễn của phong trào Cộng sản và
công nhân quốc tế và trong công tác xây dựng Đảng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đối với Đảng ta, từ khi ra đời đến nay,
trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành luôn
vận dụng đúng đắn, sáng tạo và kiên trì thực hiện nguyên tắc

tập trung dân chủ trong mọi giai đoạn của cách mạng, lúc
thuận lợi cũng như lúc khó khăn, thời bình cũng như thời
chiến, khi chưa có chính quyền cũng như khi đã có chính
quyền… Trong mọi điều kiện, Đảng ta ln ln là một khối
đồn kết thống nhất về ý chí và hành động, thực sự là một
chỉnh thể có tổ chức, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam
giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
1.3 Bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng
Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện qua hai
nội dung: Tập trung và dân chủ.
Tính tập trung trong Đảng thể hiện trước hết ở sự
thống nhất về tư tưởng, về đường lối chính trị, về tổ chức
hoạt động. Sự thống nhất này được thể hiện ở chỗ Đảng chỉ
có một trung tâm lãnh đạo duy nhất thông qua cơ quan cao
nhất là đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, giữa hai kỳ đại
hội là Ban chấp hành Trung ương và thể hiện trong cơ cấu
tổ chức của Đảng.


Về mặt tổ chức của Đảng, tính tập trung được thể
hiện ở vấn đề Đảng phải thống nhất về quy mơ và hình thức
tổ chức. Để đảm bảo tính tập trung này, phải thống nhất ý
chí, hoạt động theo kỷ luật của Đảng một cách tự giác,
nghiêm minh. Kỷ luật Đảng là bắt buộc đối với mọi đảng
viên, đòi hỏi thiểu số phục tùng đa số, cấp phục tùng cấp
trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn
Đảng phục tùng đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và Ban
chấp hành Trung ương.
Về đường lối chính trị của Đảng, tính tập trung địi

hỏi phải có cương lĩnh, đường lối, mục tiêu cách mạng
thống nhất, được mọi tổ chức Đảng và đảng viên tuân thủ và
thực hiện, toàn dân hướng vào phấn đấu. Đảng phải có điều
lệ thống nhất – Điều lệ chính là bộ luật của tồn Đảng mà
mọi tổ chức Đảng và đảng viên phải chấp hành vơ điều kiện
cả về nhận thức và chấp hành.
Tính dân chủ trong Đảng thể hiện ở nội dung mọi
đảng viên có quyền ngang nhau, đều được tham gia trực tiếp
hoặc thông qua đại biểu để thực hiện quyền của mình, thể
hiện ý kiến của mình trong mọi cơng việc của Đảng, khi
thảo luận thì thực sự dân chủ, khi hành động phải thống nhất
trăm người như một; các cơ quan lãnh đạo của Đảng đều do
dân chủ bầu cử lập ra, Đảng lấy tự phê bình và phê bình là
quy luật phát triển của Đảng; thực hiện chế độ báo cáo trước
tổ chức Đảng đã bầu ra mình và có thể bị bãi miễn bết kỳ
lúc nào nếu khơng xứng đáng và khơng hồn thành nhiệm
vụ tổ chức giao. Hoạt động lãnh đạo của Đảng theo nguyên
tắc tập thể lãnh đạo, kết hợp cá nhân phụ trách, phát huy
tinh thần trách nhiệm cá nhân. Ý kiến phụ thuộc vào thiểu


số được bảo lưu, không phân biệt đối xử đối với người có ý
kiến thuộc về thiểu số.
Để hình thành nên nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Đảng, đảm bảo Đảng ln có sự thống nhất về mặt tư tưởng,
đảm bảo đảng viên đóng góp ý kiến và cơng sức cho Đảng,
giữa tính tập trung và tính dân chủ phải gắn bó, khăng khít
với nhau trong một ngun tắc thống nhất không thể tách
rời. Sự thống nhất trong nguyên tắc tập trung dân chủ được
thể hiện như sau:

Thứ nhất, dân chủ là điều kiện, tiền đề tập trung. Nếu
tập trung mà tách rời dân chủ sẽ biến thành chuyên quyền
độc đốn. Kết quả đem lại khơng phải là đồn kết mà là chia
rẽ, đến chừng mực cao hơn sẽ dẫn đến dân chủ cực đoan. Vì
lẽ đó, tập trung phải dựa trên tiền đề dân chủ để tránh tính
trạng chuyên quyền độc đoán, để người dân vẫn là người
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Thứ hai, tập trung là cơ sở đảm bảo cho dân chủ thực
hiện đúng hướng, đúng mục đích. Dân chủ phải dựa trên cơ
sở tập trung, nếu khơng sẽ dẫn đến tình trạng vơ tổ chức, tự
do, tùy tiện, mất tập trung trong Đảng. Thông qua dân chủ
sẽ giúp cho quyền lực của nhân dân không bị tách rời,
không phân tán dẫn đến mất tập trung.
Do đó, khơng thể có dân chủ thực sự nếu khơng có
tập trung và ngược lại, cũng khơng có tập trung thực sự mà
khơng có dân chủ. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa tập
trung và dân chủ. Tập trung dân chủ đối lập với tập trung
quan liêu, tập trung không đối lập với dân chủ. Tách rời hai
mặt này sẽ dẫn đến lệch lạc, thậm chí những tổn thất khó
lường hết, có hại cho sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng. Vì
vậy, tập trung và dân chủ là hai mặt nhưng thống nhất với


nhau không thể tách rời trong một nguyên tắc cơ bản –
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đảm bảo nguyên tắc tập trung chủ là vấn đề sống còn
của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Bài học trong lịch sử về
sự sụp đổ của các tổ chức Đảng Cộng sản đã cho thấy rằng
việc vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ là
một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm sút sức

chiến đấu của Đảng, gây phá vỡ Đảng về mặt tổ chức. Do
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc tổ chức căn bản của
Đảng, đây chính là sức mạnh nội sinh của Đảng.
Những nội dung trên nhằm phát huy tính chủ động,
tích cực, sáng tạo của mọi tổ chức Đảng và đảng viên trong
tham gia vào công việc của đảng, đồng thời đảm bảo sự
thống nhất ý chí và hành động của Đảng, tạo ra sức mạnh
của khối đồn kết nhất trí, kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh.
Điều 9 chương II, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, do Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016) của Đảng thông qua
nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập
ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại
biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại
biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan
lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi
cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về
hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp
trên và cấp dưới; định kỳ thơng báo tình hình hoạt động của


mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình
và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị
quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong

toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban
Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ
có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ
quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên
được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc
về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp
trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp
hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến
trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên
cứu xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng
viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi
quyền hạn của mình, song khơng được trái với nguyên tắc,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
nghị quyết của cấp trên.
Như vậy, tập trung dân chủ theo quan điểm của Đảng
ta có nghĩa là tất cả các cơ quan Đảng đều phải do bầu cử
lập ra và hoạt động theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách; thực hiện chế độ thơng báo tình hình hoạt
động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện
nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình. Đảng viên được
phát biểu ý kiến của mình trước khi biểu quyết và có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu. Mặt khác, tập trung
dân chủ đặt ra yêu cầu kỷ luật nghiêm ngặt và thống nhất


đối với toàn thể đảng viên, là phục tùng ý chí và nghị quyết
của đa số, là việc các cơ quan cấp dưới có nghĩa vụ phải
chấp hành quyết định của các cơ quan có thẩm quyền cấp

trên. Điều đó sẽ bảo đảm cho công tác và sự lãnh đạo của
Đảng ln được tập trung, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý
chí và hành động, tạo nên sức mạnh của toàn Đảng trong
lãnh đạo và hoạt động của Đảng.


Phần 2: Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay
2.1 Tình hình thực hiện nguyên tắc dân chủ của Đảng
ta thời gian qua
Trong thời gian qua, Đảng ta vẫn giữ vững nguyên
tắc tập trung dân chủ và đã đạt được nhiều tiến bộ trong
thực hiện dân chủ trong xã hội, phát huy trí tuệ và sức mạnh
tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân. Các cấp ủy Đảng
đã thực hiện đúng chế độ kiểm điểm cơng tác tự phê bình và
phê bình, qua đó phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm kỷ
luật của Đảng, Qua đó đảm bảo sự thống nhất và đoàn kết
trong Đảng. Đảng ta đã kiên định nguyên tắc tập trung dân
chủ, xem đây là nguyên tắc căn bản trong tổ chức và sinh
hoạt đảng, đồng thời Đảng ta cũng có những đổi mới trong
việc thực hiện nguyên tắc này. Báo cáo Chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Thật sự phát huy
dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt
cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban
Chấp hành Trung ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong
Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống
quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô
nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ”.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm đạt được vẫn còn

bộc lộ những hạn chế trong nhận thức và thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ chưa thực hiên triệt để, còn hiện tượng
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, độc đốn thiếu dân
chủ hay dân chủ hình thức. Trong sinh hoạt của nhiều cấp
ủy và tổ chức Đảng không được xem trọng, Nghị quyết
khơng cụ thể, khơng có sự thống nhất cao trong nhận thức


và hành động . Dân chủ mà vô kỷ luật sẽ dẫn đến kỷ cương
lỏng lẻo, nói và làm tùy tiện, chấp hành kỷ luật của Đảng,
Nhà nước. Tập trung mà khơng dân chủ sẽ dẫn đến chun
quyền, độc đốn.
Như vậy, việc nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng những năm qua mặc dù đã có những
chuyển biến tích cực song chưa thật vững chắc và triệt để, vẫn
còn nhiều cấp ủy, tổ chức đảng buông lỏng việc thực hiện
nguyên tắc cơ bản trong sinh hoạt Đảng đã làm cho nó biến
dạng, tạo ra một khoảng chênh khá lớn giữa lý luận và thực
tiễn. Vì vậy, mỗi tổ chức đảng và đảng viên trong toàn Đảng
phải nhận diện đúng bản chất và nội dung, đề ra các giải pháp
để thực hiện nguyên tắc này ở các cấp, các tổ chức đảng đang
là một vấn đề cấp bách, một nội dung trọng yếu trong tồn bộ
cơng tác xây dựng Đảng.
2.2 Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay
Hiện nay, tình hình thế giới, trong nước đã có những
thay đổi, đất nước ta đã bước sang thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, nhiệm vụ đặt ra đối với Đảng ta
thật sự mới mẻ và hết sức nặng nề. Trong bối cảnh đó,
chúng ta khơng thể và không nên thực hiện nguyên tắc tập

trung dân chủ theo kiểu cũ, máy móc, cứng nhắc, lệch lạc,
giáo điều. Nguyên tắc tập trung dân chủ cần phải được hiểu
đúng và thực hiện đúng trong điều kiện mới, theo tinh thần
mới của tư duy lý luận.
Để thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ
trong giai đoạn hiện nay các tổ chức đảng cần phải quán triệt
và thực hiện tốt một số giải pháp sau:


2.2.1 Tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên
nhận thức đúng đắn và thống nhất về nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Cần tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu sắc nội dung,
bản chất và mối quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ
gắn với việc liên hệ, kiểm điểm về nhận thức và thực hiện
nguyên tắc này ở đảng bộ, đơn vị mình; chỉ ra những việc đã
làm đúng, chưa làm đúng; nguyên nhân chủ quan của việc
thực hiện chưa tốt hoặc cố tình vi phạm nguyên tắc để khắc
phục, bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành động trong từng
tổ chức đảng và toàn đảng bộ. Đối với những tổ chức và cá
nhân vi phạm nghiêm trọng thì phải xử lý kỷ luật nghiêm, trên
cơ sở đó nâng cao trách nhiệm thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc này, đồng thời có biện pháp để chấn chỉnh tổ chức, kiện
toàn cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ trì đơn vị. Mặt khác, cần cụ
thể hóa nội dung, yêu cầu của nguyên tắc thành chức trách
nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ, chế độ công tác của
từng cán bộ, đảng viên, của từng cấp ủy, tổ chức đảng.
2.2.2 Cụ thể hóa nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập
trung dân chủ thành chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các
mối quan hệ công tác, của từng cán bộ, đảng viên, từng cấp

ủy, tổ chức đảng
Xây dựng, ban hành các qui định cụ thể hoá nguyên tắc
tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách và mở rộng sinh hoạt dân
chủ. Muốn phát huy dân chủ trong Đảng phải nâng cao giác
ngộ xã hội chủ nghĩa, nâng cao tính đảng cho đảng viên và các
tổ chức đảng. Song, dân chủ không chỉ là vấn đề nhận thức tư
tưởng mà trước hết là vấn đề tổ chức, cơ chế, xây dựng hoàn
thiện cơ chế dân chủ dưới sự lãnh đạo của tập trung. Nói cách
khác, cơ chế tập trung trên cơ sở dân chủ trong Đảng là vấn đề


rất quan trọng và cấp bách hiện nay. Cần phải ban hành quy
định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, xác định rõ
chế độ, chức trách của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, có quy định
cụ thể về nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Xây dựng kế
hoạch, chương trình cụ thể để tăng cường cơng tác kiểm tra
của cấp uỷ cấp trên đối với cấp uỷ cấp dưới. Thực hiện
nghiêm chế độ về việc bảo lưu ý kiến và nghiên cứu các khiếu
nại của đảng viên, bổ sung và hồn thiện quy chế về cơng tác
cán bộ. Xây dựng thành quy chế, quy định cán bộ đi cơ sở,
nhất là đi đến các đơn vị ở xa, có nhiều khó khăn để chỉ đạo
tại chỗ và giúp cấp dưới tháo gỡ khó khăn, vướng mắc..
2.2.3 Giữ vững và nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp
ủy, tổ chức đảng
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ
rõ: “Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh
hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí
thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời
giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa

phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi
phạm dân chủ”. Do vậy, Các cấp uỷ, cấp uỷ viên phải được
cung cấp nhanh chóng, chính xác những thơng tin cần thiết để
nắm chắc tình hình, có điều kiện đóng góp vào q trình ra các
quyết định. Các cuộc họp và sinh hoạt Đảng phải chuẩn bị chu
đáo nội dung, mở rộng dân chủ thảo luận thẳng thắn, có kết
luận rõ ràng. Phải tơn trọng và tập hợp hết ý kiến đúng đắn
của Đảng viên trước khi quyết định. Khi có ý kiến khác nhau
phải thảo luận kỹ, nhất là đối với những vấn đề quan trọng
phải biểu quyết, khi cần thiết có thể cho tiến hành điều tra,
khảo sát, làm thí điểm rồi mới kết luận. Mọi người đều phải


nghiêm chỉnh thực hiện nghị quyết, không ai được quyền
tuyên truyền và thực hiện ý kiến riêng của mình đã bị đa số
bác bỏ.
2.2.4 Thực hiện nghiêm túc nề nếp, chất lượng chế độ
tự phê bình và phê bình
Tự phê bình và phê bình lúc nào cũng quan trọng, là
“phương thuốc hay nhất” để khắc phục, sửa chữa khuyết
điểm. Hiện nay, do những biểu hiện tiêu cực phát triển khá
phổ biến và nghiêm trọng thì càng phải thực hiện nghiêm túc
chế độ này. Người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị phải
gương mẫu thực hiện. Trên cơ sở cụ thể hố quy chế dân chủ
ở cơ sở có cơ chế phù hợp để lấy ý kiến góp ý, phê bình tổ
chức Đảng và cán bộ, đảng viên hàng năm, bảo vệ người
thẳng thắn phê bình, đồng thời xử lý nghiêm những hiện
tượng lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích hãm hại đồng chí,
đồng đội gây rối nội bộ. Khắc phục cho được tình trạng nể
nang, né tránh, hình thức, chiếu lệ, bao che cho nhau, thấy

đúng khơng kiên quyết bảo vệ, thấy sai không dám phê phán
đấu tranh hoặc khi được phê bình thì tiếp thu một cách miễn
cưỡng và không sửa chữa khuyết điểm.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá XI) xác định tự phê bình và phê bình là
một trong nhóm giải pháp quan trọng, trong đó chỉ rõ:
“Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành
Trung ương tập trung kiểm điểm, đánh giá làm rõ tại sao
những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra nhiều năm nhưng
chậm được khắc phục, có mặt cịn yếu kém, phức tạp thêm;
làm rõ nguyên nhân trở ngại trong việc lãnh đạo thực hiện
các nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng.



×