Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

ý nghĩa nguyên tắc Thẩm quyền và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.27 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật tố tụng hình
sự chịu sự chi phối của các nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật như:
pháp chế xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật…
Ngoài ra, với tư cách là một ngành luật độc lập, luật tố tụng hình sự có
những quy tắc chung của hệ thống pháp luật khi vận dụng vào các quan hệ
tố tụng hình sự cũng có những biểu hiện đặc thù riêng. Nguyên tắc Thẩm
quyền và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong
sô đó. Nguyên tắc này đảm bảo cho Toà án thực hiện tốt các chức năng xét
xử của mình, đồng thời đề cao trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm.
Việc tìm hiểu “ ý nghĩa nguyên tắc Thẩm quyền và Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc này” sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu nguyên tắc này.
NỘI DUNG
I. Nội dung của nguyên tắc.
"Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật" là một trong những nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự, được
hiểu là trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị
ràng buộc bởi bất cứ yếu tố nào khác ngoài pháp luật, loại trừ mọi sự can
thiệp từ bên ngoài vào hoạt động xét xử của Tòa án.
a. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập.
• Độc lập với các yếu tố khách quan:
- Độc lập với các chủ thể khác của Tòa án: giữa Thẩm phán, Hội thẩm và
nội bộ ngành Tòa án có mối quan hệ ràng buộc nhất định được thể hiện cụ
thể ở: Quan hệ giữa Thẩm phán và Tòa án cấp trên; quan hệ giữa Thẩm
phán và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; quan hệ giữa Hội thẩm và
Chánh án Tòa án nơi hội thẩm tham gia xét xử. Những mối quan hệ này
không đơn thuần là quan hệ về tổ chức hành chính càng không đơn thuần là
quan hệ tố tụng. Trong quan hệ hành chính có mối quan hệ tố tụng và trong
quan hệ tố tụng có mối quan hệ hành chính nhất định không có sự tách
bạch rõ ràng. Có thể nói Thẩm phán và Hội thẩm là người chịu sự quản lí


của Chánh án và Tòa án cấp trên. Thông qua công tác tổ chức xét xử như
họp bàn trước khi xét xử, phân công thẩm phán, hội thẩm xét xử vụ án,
Chánh án có tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
Ngoài ra, việc có quy định “Tòa án cấp trên” có thể hủy án “Tòa án cấp
dưới” cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Chính
vì vậy Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm của mình
trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải
quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo xét xử
công bằng khách quan.
- Độc lập với sự chỉ đạo của của cấp ủy Đảng: Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh dạo của Đảng cộng sản
1


(Điều 4 Hiến pháp 1992). Ngoài ra giữa tổ chức Đảng và Thẩm phán còn
có mối quan hệ khác ngoài mối quan hệ giữa Đảng viên và tổ chức Đảng
qua thủ tục tuyển chọn Thẩm phán. Theo quy định hiện hành thì cùng với
việc lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ công chức trong cơ quan người được
đề nghị còn phải lấy ý kiến của cấp ủy Đảng. Chính vì những lý do này mà
yêu cầu được đặt ra là Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức đúng đắn sự
lãnh dạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp để đảm bảo sự độc lập trong
xét xử.
- Độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án: Việc xét xử của Tòa án
dựa trên những thông tin cần thiết, đáng tin cậy đó là chứng cứ vụ án. Bản
án, quyết định của Tòa án dựa trên cơ sở phân tích đánh giá thông tin đã
được cơ quan điều tra thu thập. Chính vì vậy, các thông tin ban đầu (nhất là
kết luận điều tra và cáo trạng truy tố) có ảnh hưởng nhất định đến nhận
định của Hội đồng xét xử. Vì vậy, Độc lập với tài liệu trong hồ sơ vụ án là
việc Thẩm phán và Hội thẩm trên cơ sở đánh giá tính chính xác của các
thông tin, kiểm tra lại tính xác thực, đúng đắn của quyết định truy tố, từ đó

đưa ra quan điểm chứng minh tội phạm của Hội đồng xét xử, các tình tiết
thu thập được phải phù hợp với hiện thực khách quan.
- Độc lập với yêu cầu của người tham gia tố tụng, với dư luận và với cơ
quan báo chí: Phán quyết của Tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện những
nhóm mâu thuẫn về lợi ích, đó là những mâu thuẫn về lợi ích giữa bị cáo và
người bị hại, giữa nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự, giữa nhà nước và
người phạm tội. Ai cũng có nhu cầu kết quả xét xử đưa lại lợi ích tối ưu
cho họ. Sau phán quyết của Tòa án sẽ có rất nhiều bình luận từ quần chúng
nhân dân, từ cơ quan báo chí rằng tòa xét xử như vậy đúng hay không, có
công bằng hay không, nặng hay nhẹ. Đặc biệt là các vụ án bị cấp trên xử
hủy, những vụ án xét xử lưu động và các vụ án lớn được dư luận quan tâm.
Những vấn đề đó đều tác động mạnh mẽ đến tâm lý của Thẩm phán và Hội
thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Vì vậy, mới đặt ra yêu cầu Thẩm phán
và Hội thẩm xét xử độc lập với yêu cầu của người tham gia tố tụng, với báo
chí, với dư luận nghĩa là việc xét xử chỉ dựa trên những chứng cứ , những
quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào yêu cầu khách của những
người nói trên.
• Độc lập với các yếu tố chủ quan (giữa các thành viên trong hội đồng
xét xử):
Cơ sở của việc độc lập xét xử giữa Thẩm phán và Hội thẩm được ghi
nhận thành một trong những nguyên tắc của tố tụng đó là: khoản 1 Điều 22
BLTTHS. Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Các thành
viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng
cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau
cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng
văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.

2



Quy định này đã loại trừ việc Thẩm phán lạm quyền, tác động đến hoạt
động xét xử của Hội thẩm. Đồng thời, điều này cũng ngăn cấm thái độ ỷ lại
vào Thẩm phán của Hội thẩm mà cũng buộc Hội thẩm phải tích cực chủ
động và có trách nhiệm trong hoạt động chứng minh tội phạm.
b. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập không có nghĩa là xét
xử tùy tiện mà việc xét xử phải tuân theo quy định của pháp luật và điều
này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tuân theo pháp luật hình sự ( bao gồm cả luật thực định và
khoa học về luật hình sự). Vì muốn áp dụng đúng các quy định của Bộ luật
hình sự buộc Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức về việc định tội
danh và quyết định hình phạt,…
Thứ hai, tuân theo pháp luật tố tụng hình sự: Có thể chia hoạt động xét
xử của Thẩm phán và Hội thẩm thành 2 giai đoạn, thứ nhất là từ khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước ngày mở phiên tòa và thứ hai là
tại phiên tòa:
Ở giai đoạn thứ nhất là giai đoạn mà Thẩm phán và Hội thẩm nghiên
cứu hồ sơ để xem xét các tài liệu có trong vụ án, từ đó xây dựng kế hoạch
xét hỏi và những tình huống xảy ra tại phiên tòa để có kế hoạch ứng phó
thích hợp và những công việc cần thiết khác cho phiên tòa.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần nắm chắc các quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự từ thủ tục bắt đầu phiên tòa cho đến kết thúc phiên tòa,
trong đó phần xét hỏi, tranh luận và nghị án là quan trọng nhất.
Thứ ba, tuân theo các văn bản pháp luật khác có liên quan như: Pháp
luật dân sự và các văn bản luật chuyên ngành khác,..
c. Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong
hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
- Độc lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật: Nếu Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập, không chịu bất kì sự tác động nào thì phán quyết của
Hội đồng xét xử mới có tính khách quan, vô tư, quyết định của Hội đồng

xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm
phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật.
- Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử: Khi
nắm chắc kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm có điều kiện để thể
hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở khía cạnh khác thì tuân
theo pháp luật là đã loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm, bởi vậy họ mới có được sự độc lập.
Như vậy, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử
chỉ tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là ràng buộc.
3


Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét
xử tùy tiện, độc đoán.
II. Ý nghĩa của nguyên tắc.
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Cụ thể:
• Về mặt chính trị xã hội: Nguyên tắc xác định vai trò, vị trí cơ quan
Tòa án trong hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và các Cơ quan tiến
hành tố tụng nói riêng. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không một cá
nhân, cơ quan nào được xen vào hoạt động xét xử của Tòa án (cụ thể là
Thẩm phán và Hội thẩm) phải đảm bảo sự độc lập trên cơ sở chỉ tuân theo
pháp luật không tuân theo bất cứ sự chỉ đạo nào khác ngoài pháp luật, trái
pháp luật. “Quan chức” cũng như “thường dân” khi phạm tội đều bị đưa ra
xét xử bởi Tòa án trên cơ sở những quy định của pháp luật mà không có
đặc ân nào. Tư pháp độc lập là một trong những yếu tố để đảm bảo công

bằng xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công
dân đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, pháp luật sẽ được
chấp hành nghiêm chỉnh. “Độc lập xét cử có ý nghĩa quan trọng để đảm
bảo cho môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh vì khi đó các nhà đầu tư
trong và ngoài nước sẽ yên tâm rằng những tranh chấp đầu tư và hợp đồng
kinh doanh của họ sẽ được bảo vệ bởi một cơ chế tài phán xét xử độc lập,
vô tư khách quan. Các quyền cơ bản của mỗi con người trong xã hội cũng
sẽ được bảo đảm khi người cầm cân nảy mực thực sự độc lập xét xử những
hành vi vi phạm các quyền đó. Độc lập xét xử cũng là một điều quan trọng
để đảm bảo sự thành công cảu việc phòng chống tham nhũng bởi lẽ những
kẻ tham nhũng sẽ không có cơ hội được bao che bởi sự can thiệp hoặc tác
động vào quá trình xét xử của Tòa án. Hoạt động xét xử không phải là hoạt
động của một cá nhân mà là hoạt động của tập thể, không chỉ là hoạt động
của quan tòa mà còn có sự tham gia giám sát, tham gia xét xử của nhân dân
thông qua những người đại diện cho họ, đó là Hội thẩm. Nguyên tắc gián
tiếp thể hiện bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước do dân làm
chủ, nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của nhà nước, trong đó có
hoạt động xét xử.
• Về mặt pháp lý: Nguyên tắc là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội
thẩm tiến hành hoạt động xét xử khách quan, đúng pháp luật. Đây cũng là
cơ sở đảm bảo Hiến pháp và pháp luật. Nói cách khác, pháp luật chỉ có ý
nghĩa và có tác dụng khi nguyên tắc “độc lập xét cử” được tuân thủ một
cách triệt để. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử vừa là quyền,
đồng thời cũng là nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm.
• Đối với hoạt động thực tiễn: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật góp phần nâng cao trách nhiệm của
4


Hội đồng xét xử, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, nghiêm

chinh tuân thủ pháp luật, bảo đảm việc xét xử khách quan, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Nguyên tắc này loại trừ các sự tác động không
cần thiết, thậm chí tiêu cực của cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử
của Thẩm phán và Hội thẩm đảm bảo sự bình đẳng, độc lập giữa các thành
viên của Hội đồng xét xử.
Tóm lại, “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Nó đòi hỏi trong
hoạt động xét xử, Thẩm phán và hội thẩm phải tự mình đưa ra các quyết
định để giải quyết vụ án, không lệ thuộc và bất cứ yếu tố nào khác. Hoạt
động xét xử phải đảm bảo đúng pháp luật vầ trình tự, thủ tục cũng như các
quyết định đưa ra phải chính xác và có căn cứ pháp lý. Không một cá nhân,
cơ quan, tổ chức nào được phép can thiệp và hoạt động xét xử của Tòa án.
Độc lập xét xử được quy định trong Hiến pháp và pháp luật của đa phần
các nước trên thế giới. Điều đó một lần nữa khẳng định giá trị của nguyên
tắc này trong hoạt động xét xử.
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một
nguyên tắc quan trọng đối với hoạt động xét xử của Tòa án và được ghi
nhận từ rất sớm trong Hiến pháp và pháp luật. Trên thực tế, nguyên tắc này
đã được các chủ thể của hoạt động xét xử tuân thủ và ngày càng phát huy ý
nghĩa tích cực của nguyên tắc, đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án được
khách quan, đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều biểu hiện của
việc làm trái nguyên tắc, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của Tòa án, xâm
phạm đến quyền và lợi ích của công dân, gây dư luận xấu và bất bình trong
quần chúng nhân dân.
1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc.
a. Một số biểu hiện của việc không độc lập và tuân theo pháp luật của
Thẩm phán và Hội thẩm.
Thứ nhất, hoạt động xét xử chủ yếu là hoạt động của Thẩm phán, Hội
thẩm chưa phát huy hết quyền năng được giao khi thực hiện nhiệm vụ xét

xử. Trên thực tế, sự quá “chủ động” của Thẩm phán là cho Hội thẩm ở vào
trình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá trình chứng minh tội phạm và
cũng chính vì thế khi đưa ra phán quyết, Hội thẩm cũng chỉ là người quyết
định theo Thẩm phán. Nói cách khác, pháp luật ghi nhận Hội thẩm có
quyền độc lập trong xét xử và chỉ tuân theo pháp luật nhưng bản thân một
số vị Hội thẩm không phát huy được quyền này dẫn đến tình trạng Hội
thẩm tham gia xét xử chỉ là hình thức, mọi phán quyết đều phụ thuộc vào ý
chí Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
Thứ hai, Thẩm phán và Hội thẩm quá lệ thuộc vào kết quả điều tra ban
đầu, tức là lệ thuộc những thông tin, tài liệu có trong vụ án.

5


Thứ ba, có sự thống nhất chứng cứ và định hướng trước việc xét xử. Đó
là việc họp án ba ngành, họp bản án trong nội bộ cơ quan, thỉnh thị án cấp
trên trước khi xét xử. Việc họp ba ngành Công an, Viện kiểm sát trước khi
xét xử không được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, mà chỉ là tiền lệ
của ngành Tòa án nhằm mục đích áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên,
có trường hợp lạm dụng việc “thỉnh thị” án và họp bản án ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động
xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Việc thỉnh thị án tạo nên tâm lý cấp
dưới ỷ lại cấp trên, không có sự độc lập trong quyết định của mình, vi
phạm nguyên tắc nói trên ngay từ chính chủ thể của hoạt động xét xử.
Thứ tư, có sự tác động của từ các nhân tố bên ngoài đến hoạt động xét
xử của các Thẩm phán và Hội thẩm. Các nhân tố bên ngoài ở đây có thể là
Chánh án, các cấp ủy Đảng, các cơ quan báo chí, dư luận, các cá nhân tổ
chức khác (những người tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước khác,…).
b. Nguyên nhân của thực trạng trên.
- Nguyên nhân từ yếu tố pháp luật: Để Thẩm phán, Hội thẩm xét xử chỉ

tuân theo pháp luật, cần phải có văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Có
những hướng dẫn kịp thời nhưng cũng có những vấn đề chưa được hướng
dẫn gây khó khăn cho hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, một số quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự như các quy định về giới hạn xét xử, về nghị
án, về chế độ tòa án xét xử tập thể…cũng gây ra những ảnh hưởng nhất
định đến việc thực hiện nguyên tắc.
- Nguyên nhân từ yếu tố chuyên môn nghiệp vụ: Nói đến yếu tố chuyên
môn nghiệp vụ chủ yếu nói đến trình độ chuyên môn. Trình đồ chuyên môn
yếu dẫn đến tình trạng một số Thẩm phán mới còn bị động, lúng túng trong
việc điều khiển phiên tòa, xử lý các tình huống phát sinh tại phiên tòa.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật mà nhận
thức pháp luật lại không đúng thì việc “chỉ tuân theo pháp luật” ngược lại
sẽ gây ra những hậu quả hết sức tai hại.
- Nguyên nhân từ yếu tố đạo đức nghề nghiệp: đây cũng là một nguyên
nhân dẫn đến oan sai, thiếu công bằng trong xét xử. Ngày nay, khi cơ chế
thị trường ngày càng tác động mạnh vào các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nếu Thẩm phán, Hội thẩm không bình tĩnh trước sự cám dỗ của đồng tiền
thì sẽ sinh đại họa cho nhân dân.
- Nguyên nhân từ việc tổ chức và hoạt động của Tòa án: hiện nay Tòa
án nhân dân được tổ chức như một cơ quan hành chính nhà nước với cơ cấu
Tòa cấp trên Tòa cấp dưới. Thẩm phán cũng là một cán bộ công chức bình
thường, là nhân viên dưới quyền quản lý của Chánh án. Như vậy, bên cạnh
việc tuân thủ pháp luật trong khi làm nhiệm vụ Thẩm phán còn chịu sự chỉ
đạo của Chánh án, Thẩm phán cũng bị áp dụng các biện pháp khen thưởng,
kỉ luật. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn tới sự độc lập của Thẩm phán khi
xét xử. Bên cạnh đó Thẩm phán còn phải giữ mối quan hệ tốt với nhiều cơ
6


quan khác, hay việc bàn bạc ba bên trước khi xét xử cũng ảnh hưởng lớn

tới nội dung xét xử và kết quả bản án, v.v..
2. Giải pháp.
a. Về hoàn thiện pháp luật.
Cần hoàn thiện pháp luật nói chung và các quy định có liên quan trực tiếp
đến việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
- Bộ luật hình sự: cần xây dựng mức hình phạt ở các khung không cách
quá xa nhau, bỏ Khoản 2 Điều 46 và bổ sung một số tình tiết giảm nhẹ ở
Khoản 1 Điều 46. Những tình tiết bổ sung này phải được đúc kết từ thực tiễn
áp dụng, phải liên quan đến hành vi phạm tội và phải có tính đặc trưng, điển
hình, thực sự là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các tình tiết
phải rõ ràng, những tình tiết phải liên kết với nhau thì sử dụng liên từ và, nếu
độc lập trong cùng một điểm thì sử dụng dấu chấm phẩy, tránh trường hợp
áp dụng không đúng, suy diễn.
- Bộ luật tố tụng hình sự cần có những quy định cụ thể hơn về nghị án. Ở
Điều 222 BLTTHS lại quy định như sau “Các thành viên Hội đồng xét xử
phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết từng vấn đề
một…”. Về giới hạn xét xử cần quy định lại theo hướng bỏ đoạn 2 của điều
luật, Điều 196 chỉ còn “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi
theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét
xử”. Nên bỏ nguyên tắc “Toàn án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” vì
đã quy định rõ ở điều luật về thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia
(Điều 15), thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm (Điều 185) và thành phần
Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều 244), quyết định theo đa số (Điều 222)
BLTTHS.
- Cần có một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh, rõ ràng và thống nhất để tạo cơ
sở cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật.
- Cần có những văn bản hướng dẫn kịp thời để có cách áp dụng pháp luật
thống nhất trong xét xử.
b. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

• Nâng cao trình độ chuyên môn cho Thẩm phán và Hội thẩm.
Trình độ chuyên môn pháp lý của Thẩm phán và Hội thẩm có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo Pháp luật
khi xét xử. Chỉ khi Thẩm phán và Hội thẩm nắm vững được các quy định của
Pháp luật, có khả năng giải quyết có chất lượng vụ án thì họ mới có khả năng
thực hiện việc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật vì nếu không có
được năng lực ấy họ sẽ phải thụ động trong việc giải quyết các vụ án và khi
đó không thể độc lập trong xét xử được. Chính vì vậy, việc nâng cao trình
độc chuyên môn cho đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm rất quan trọng. Việc
nâng cao một cách toàn diện kiến thức pháp lý nói riêng và nghiệp vụ xét xử
7


nói chung cho đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm ở nước ta hiện nay còn là
một vấn đề nan giải.
+ Đối với Thẩm phán: Hiện nay, số người đủ tiêu chuẩn để được bổ
nhiệm làm Thẩm phán chưa đủ so với yêu cầu của thực tiễn xét xử đặt ra. Do
vậy, Nhà nước đã bổ nhiệm một số người chưa đủ tiêu chuẩn do luật định
làm Thẩm phán nên số này cần phải được đào tạo kịp thời để đảm bảo đủ
tiêu chuẩn theo luật định. Người Thẩm phán phải có ý thức pháp luật cao
hơn ý thức pháp luật của những người khác mà ý thức pháp luật đó cần theo
kịp với những thành tựu của khoa học pháp lý và văn hóa pháp lý. Thẩm
phán có nghiệp vụ cao tức là họ phải nắm được những quy định của Pháp
luật, có thói quen và phương pháp khoa học để giải quyết các vấn đề pháp lý
đặt ra. Để đạt được điều này, trong quá trình đào tạo cán bộ có hướng bổ
nhiệm hoặc đã bổ nhiễm làm Thẩm phán phải thực sự coi trọng chất lượng
đào tạo, tránh hiện tượng đào tạo tràn lan mang tính chất “dán mác” hình
thức. Những Thẩm phán đương nhiệm có trình độ Cao đẳng trở xuống phải
được chuẩn hóa trình độ, đảm bảo đến năm 2012, số lượng Thẩm phán có
trình độ cử nhân luật đạt tỷ lệ 100%. Sau thời gian này, những trường hợp

không được chuẩn trình độ ngành không xem xét để bổ nhiệm làm công tác
xét xử. Những Thẩm phán chưa được đào tạo nghiệp vụ xét xử, ngành cần có
kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, thời gian mỗi lần tập huấn, bồ dưỡng ít
nhất là một tháng và có thể tổ chức hai năm một lần.
+ Đối với Hội thẩm: Xuất phát từ ý nghĩa của chế định Hội thẩm là sự
tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán,
mặc dù luật quy định Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán nhưng không
nhất thiết trình độ chuyên môn nghiệp vụ phải tương đương Thẩm phán.
Ngoài việc mở lớp bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên hàng năm và có chất
lượng, trong mỗi đợt xét xử cũng nên tranh thủ đóng góp, tham gia cho họ
nhằm không ngừng nâng cao khả năng xét xử cho họ, tạo điều kiện cho họ
tiếp tục với các văn bản pháp quy mới có liên quan. Hội thẩm phải được
cung cấp thông tin về hoạt động xét xử và các kiến thức pháp luật. Với một
trình đọ chuyên môn về những lĩnh vực nhất định, Hội thẩm cũng có thể tự
bổ sung kiến thức pháp luật cho mình.
• Đạo đức Thẩm phán và Hội thẩm
Hiệu quả công tác xét xử mặc dù phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của các thành viên Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, việc xét xử
của một vụ án có hiệu quả, chất lượng, đúng người, đúng pháp luật hay
không còn phụ thuộc rất nhiều vào đạo đức, trách nhiệm và lương tâm nghề
ngiệp của Thẩm phán và Hội thẩm là thành viên của Hội đồng xét xử đó. Ý
nghĩa giáo dục pháp luật đối với nhân dân nói chung mà trực tiếp là những
người theo dõi phiên toàn nói riêng có đạt được cao hay không phần nhiều
phụ thuộc vào thái độ, tác phong làm việc của các thành viên Hội đồng xét
xử và những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa. Tính khách quan, sự lịch
thiệp, sự tế nhị cao trong sử xự cá nhân và những điều kiện khác làm hình
8


thành lên cơ sở đạo đức trong hoạt động của người Thẩm phán. Bác Hồ cũng

đã từng nói “có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng, có tài mà không có
đức thì thành người vô dụng”. Chính vì vậy, bên cạnh việc không ngừng học
tập nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì Thẩm phán và
Hội thẩm phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện trau dồi đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp, tạo một phong cách làm việc gương mẫu của người cán bộ làm
công tác Pháp lý, đưa nội dung đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán vào chương
trình đào tạo nghiệp vụ xét xử tại cơ sở đào tạo nghề như là một phần cơ bản
của nội dung đào tạo.
• Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán.
Thẩm phán phải là những người có trình độ cử nhân luật chính quy, được
đào tạo nghiệp vụ xét xử, đã làm công tác pháp luật ít nhất 4 năm đối với
Thẩm phán cấp huyện và 8 năm đối với Thẩm phán cấp tỉnh. “Khi thẩm phán
có trình độ, năng lực, họ sẽ tự tin hơn, quyết đoán hơn trong công việc và lúc
này, cho dù có thể có sự ảnh hưởng, sự tác động nào đó thì họ vẫn không thể
bị chi phối khi đang giải quyết một vụ án cụ thể. Trong thời gian dài (có thể
là suốt đời) cho đến khi xét thấy không đủ tiêu chuẩn thì bãi miễn hoặc khi
họ xin ra khỏi ngành. Thực hiện được chế độ này sẽ làm cho người được bổ
nhiệm hoàn toàn được yên tâm về vị trí nghề nghiệp của họ mà tạo động cơ
và điều kiện thuận lợi cho họ nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tu dưỡng đạo đức, tác phong nghề nghiệp và đúc rút nhiều kinh
nghiệp tạo niềm tin nội tâm cao khi tiến hành xét xử.
• Thực hiện các biện pháp kinh tế - xã hội.
Trong mọi thời đại, kinh tế là yếu tố quyết định bản chất xã hội, bản
chất pháp luật. Trong điều kiện nước ta hiện nay mới chuyển từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đã làm phát sinh nhiều yếu
tố thuộc mặt trái của nó.
Hoạt động xét xử là hoạt động của Nhà nước do Thẩm phán và Hội
thẩm tiến hành. Khi tiến hành hoạt động này, người Thẩm phán và Hội
thẩm khó tránh khỏi những tác động của yếu tố kinh tế. Mục đích của các
biện pháp kinh tế xã hội trong lĩnh vực này là tạo điều kiện cho Thẩm phán

và Hội thẩm thực hiện tốt công việc của mình. Trước tình hình kinh tế xã
hội phát triển như hiện nay mức thu nhập bình quân của người lao động
tăng cao đã làm tăng mức nhu cầu trong sinh hoạt hàng ngày. Hiện nay, chế
độ lương với Thẩm phán và phụ cấp xét xử đối với Hội thẩm rất thấp. Các
Thẩm phán và Hội thẩm đều là những người phải lo toan cuộc sống gia
đình, khi mà họ thường xuyên phải chịu sự tác động của các yếu tố tiêu cực
có khi là những lợi ích vật chất thì nên chăng Nhà nước cần xem xét cho họ
hưởng một mức thu nhập hợp lý đủ khả năng giúp cho họ đứng vững trước
những sự tác động từ bên ngoài.
Mặt khác, cần nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ nhân dân để tạo ra
sự ủng hộ cho hoạt động độc lập của Tòa án. Cá nhân, tập thể và các cơ
quan Nhà nước khác cần tôn trọng nguyên tắc này trong hoạt động xét xử,
9


tránh sự can thiệp thô bạo và hoạt động xét xử của Tòa án một cách trái
pháp luật.
• Về cơ cấu thành phần Hội đồng xét xử.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tạo Điều 185 thì thành phần
Hội đồng xét xử sơ thẩm bao giờ cũng có số Hội thẩm nhiều hơn số Thẩm
phán (Hội đồng 3 thì gồm 1 Thẩm phán và 2 Hội thẩm; Hội đồng 5 thì gồm
2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm) quy định này nhằm tránh sự áp đặt của Thẩm
phán đối với quyết định của bản án. Trong giai đoạn hiện nay, trước tình
hình kinh tế xã hội rất nhiều biến động, tình hình tính chất các vụ án hình
sự rất phức tạp đòi hỏi các thành viên của Hội đồng xét xử phải có khả
năng trình độ cao trong nghiệp vụ xét xử. Trong khi đó, dù thế nào đi nữa,
do điều kiện ít tham gia xét xử và sự đào tạo còn hạn chế nên trình độ giải
quyết án của các Hội thẩm khó có thể ngang bằng với các Thẩm phán
chuyên nghiệp. Khi đó, với số lượng chiếm đa số trong Hội đồng xét xử,
các Hội thẩm do không đánh giá được tính chất, mức độ của vụ án mà đưa

ra ý kiến và biểu quyết những phán quyết không hợp lý sẽ dẫn đến việc Hội
đồng xét xử đưa ra những bản án không thực sự đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Tất nhiên, những sai sót của bản án sơ thẩm đó còn có khả năng
được sửa chữa bởi các trình tự khác theo luật định. Song điều đó sẽ làm
phát sinh những công việc mà lẽ ra không nên có và nhiều khi nó còn làm
ảnh hưởng xấu đến sự tín nhiệm của nhân dân đối với Tòa án cấp sơ thẩm.
Vì vậy, với trình độ cũng như các tiêu chuẩn về đạo đức, phẩm chất nghề
nghiệp của Thẩm phán thông qua việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán
hiện nay thì nên chăng thay vì quy định số Hội thẩm chiếm đa số trong
thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm hiện nay bằng việc quy định cho số
Thẩm phán – những người xét xử chuyên nghiệp – chiếm đa số trong hội
đồng đó và nâng cao chất lượng Hội thẩm để phát huy đúng mức vai trò
của họ trong công tác xét xử mà vẫn bảo đảm tính dân chủ cao trong hoạt
động này do chế định Hội thẩm đem lại.
KẾT LUẬN
Như vậy, muốn cho nguyên tắc này thực hiện tốt thì nhà nước phải có
pháp luật hoàn chỉnh, vì nó là điều kiện để đảm bảo cho Toà án có chỗ dựa
vững chắc trong công tác xét xử. Ngoài ra, Thẩm phán và Hội thẩm phải là
những người có trình độ chuyên môn, chính trị và tinh thần đấu tranh bảo
vệ pháp luật.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003;
2. Trường đại học Luật Hà nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006;
3. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001;

4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Những nguyên tắc cơ bản của luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004;
5. Từ Thị Hải Dương, Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xet xử độc
lập và chi tuân theo pháp luật, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà nội, 2009;
6. Ts. Nguyễn Ngọc Chí, Một số yếu tố ảnh hưởng tới nguyên tắc
thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 2/2009.

11



×