Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Ý nghĩa của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.58 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ BÀI……………………………………………………………………..1
B. NỘI DUNG………………………………………………………………….1
I.
Nguyên tắc xác định sự thật……………………………………………1
1. Cơ sở của nguyên tắc xác định sự thật vụ án……………………………..1
1.1. Cơ sở lí luận……………………………………………….……………
1
1.2. Cơ sở pháp lý……………………………………………….…………..2
1.3. Cơ sở thực tiễn…………………………………………….…………..2
2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án……….…...2
II.
Ý nghĩa của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án…………………..3
III. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này………6
1. Một số khó khăn khi thực hiện nguyên tắc này…………………………..6
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc…..…..7
2.1. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật……………………..……..7
2.2. Hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc…………………………..….….8
2.3. Một số kiến nghị………………………………………………….…….9
C. KẾT THÚC…………………………………………………………….…10

1


A. MỞ BÀI
Các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là những phương châm, những
định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự được các văn bản
pháp luật ghi nhận. Quá trình giải quyết vụ án hình sự thông qua các giai đoạn
khác nhau, nhưng các giai đoạn đó đều có mục đích chung là xác định sự thật của
vụ án, do vậy xác định sự thật của vụ án không chỉ là nguyên tắc quan trọng của tố
tụng hình sự mà còn là nguyên tắc vô cùng quan trọng đối với bất kì luật hình thức


nào. Tuy không được xác định là một nguyên tắc mang tính đặc thù của luật tố
tụng hình sự nhưng nguyên tắc này đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo việc xử lý vụ án được công minh, không để lọt tội phạm đồng thời không làm
oan người vô tội. Để hiểu rõ hơn nội dung cũng như ý nghĩa của nguyên tắc này,
nhóm chúng em quyết định chọn đề tài Ý nghĩa của nguyên tắc xác định sự thật
của vụ án và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này để
làm bài tập nhóm tháng 1.
B. NỘI DUNG
I. Nguyên tắc xác định sự thật
1. Cơ sở của nguyên tắc xác định sự thật vụ án
1.1. Cơ sở lí luận:
Để đấu tranh chống tội phạm đạt được hiệu quả tốt thì mọi hành vi phạm tội
đều phải được phát hiện và xử lí trước pháp luật. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm rõ những chứng cứ xác định có tội, xác
định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị
can, bị cáo. Trong quá trình tiến hành tố tụng, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm
phán và hội thẩm không được thiên vị, cảm tình cá nhân, phải thu thập và đánh giá
chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cân nhắc kĩ mọi tình tiết có thể
làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Mọi tình tiết thu được trong quá trình điều tra, xét xử đều được đánh giá trên
cơ sở pháp lý để rút ra kết luận về vụ án. Nguyên tắc này muốn được thực hiện tốt
thì đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
tức là phải được đào tạo về nghiệp vụ và làm chủ được nghề nghiệp, nắm được
những quy định của pháp luật, có tư duy pháp lý, có thói quen và phương pháp giải
2


quyết các vấn đề pháp lý. Việc xác định sự thật khách quan của vụ án phải dựa trên
quan điểm Mác – Lênin về vấn đề nhận thức vì nó ảnh hưởng lớn đến việc xác

định đúng đắn vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. bị
can, bị cáo không bị buộc phải chứng minh là mình vô tội. Luật tố tụng hình sự
không quy định bị can bị cáo phải khai đúng sự thật, mặt khác bị can bị cáo cũng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Muốn xác định được bị can, bị cáo có
tội hay không thì phải dựa trên cơ sở những chứng cứ đã thu được trong vụ án để
xem xét. Trong quá trình điều tra, xét xử bị can, bị cáo có quyền đưa ra những
chúng cứ để chứng minh là mình vô tội. Trên cơ sở những chúng cứ rút ra từ
những lời khai của bị can, bị cáo kết hợp những chứng cứ khác, cơ quan tiến hành
tố tụng xác định bị can, bị cáo có tội hay không có tội
1.2. Cơ sở pháp lý:
Nguyên tắc xác định sự thật được quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 (BLTTHS). Ngoài ra, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này còn
được quy định tại một số Điều luật trong Bộ luật này và các văn bản luật liên quan.
1.3. Cơ sở thực tiễn:
Trong thực tiễn xét xử vụ án, bị can bị cáo không có những điều kiện về khả
năng, trình độ chuyên môn, và trong một số trường hợp không được pháp luật trao
cho quyền để tiến hành việc thu thập chứng cứ, xác định sự thật của vụ án để có
thể chứng minh mình vô tội hoặc tội nhẹ hơn. Vì thế việc xác định sự thật của vụ
án được pháp luật tố tụng coi là một nguyên tắc cơ bản mà Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Tòa án có trách nhiệm phải xác định sự thật của vụ án.
2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án:
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án được quy định trong Điều 10 Bộ luật
tố tụng hình sự với những nội dung cơ bản sau:
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp
pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm
rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết
tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Mọi
tình tiết thu được trong quá trình điều tra, xét xử đều được đánh giá trên cơ sở pháp
3



lý để rút ra kết luận về vụ án. Trong quá trình tiến hành tố tụng, điều tra viên, kiểm
sát viên, thẩm phán và hội thẩm không được thiên vị, cảm tình cá nhân, phải thu
thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cân nhắc kĩ mọi
tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị
can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội
II.

Ý nghĩa của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án

Xác định sự thật của vụ án chính là việc cơ quan tiến hành tố tụng phải làm
rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết
tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Do vậy để đảm bảo việc xử lý vụ án được
công minh, không để lọt tội phạm, trừng phạt thích đáng những người có hành vi
phạm tội đồng thời không làm oan người vô tội việc xác định sự thật của vụ án là
một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện được điều này. Nếu không có
nguyên tắc này thì việc xác định có tội hay không có tội trở nên rất khó kiểm soát.
Nếu như pháp luật không quy định chủ thể, biện pháp dùng để xác định sự thật
cũng như nội dung xác định sự thật của vụ án thì việc thực hiện mục đích trên là
không thể. Và như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân rất có thể bị xâm
phạm.
Ngoài ra có thể xem xét ý nghĩa của nguyên tắc này được xem xét dưới
những góc độ sau đây
- Ý nghĩa pháp lý: Góp phần cụ thể hóa nguyên tắc hiến định và là cơ sở
để tiến hành các giai đoạn tố tụng. Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 71:
“…Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của công dân” và Điều 72: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi

chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ...”. Việc xác định sự
thật phải được tiến hành do cán bộ tư pháp thuộc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Toà án và chỉ được sử dụng biện pháp hợp pháp. Nguyên tắc này đã loại trừ
những trường hợp người tiến hành tố tụng lại sử dụng các biện pháp có khả năng
xâm hại nghiêm trọng tới các quyền cơ bản của công dân để làm rõ sự thật của vụ
án. Để đảm bảo một cách tối đa quyền lợi của người dân, cơ quan tiến hành tố tụng
phải có đầy đủ căn cứ chứng minh tội phạm, thể hiện qua bản án kết tội của Tòa án
mới có thể khẳng định là có tội. Do vậy, việc thực hiện đúng nguyên tắc xác định
4


sự thật là cơ sở quan trọng nhất để khẳng định một người là có tội hay không có
tội.
Quá trình xác định sự thật là một quá trình vô cùng phức tạp, khi giữa các
giai đoạn đều có sự liên quan mật thiết với nhau. Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý
để cơ quan có thẩm quyền do Luật TTHS quy định bao gồm cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án có quyền áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhằm làm rõ những chứng cứ xác
định có tội, xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Ngoài ra nguyên tắc này cũng đặt ra nghĩa
vụ đối với các cơ quan này không được thiên vị, cảm tình cá nhân, mà phải thu
thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cân nhắc kỹ mọi
tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án. Từ đó, mọi tình
tiết thu được trong quá trình điều tra, xét xử đều được đánh giá trên cơ sở pháp lý
để rút ra kết luận về vụ án.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Ý nghĩa chính trị - xã hội: Xác định sự thật của vụ án là một trong những
yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, mọi công dân đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, pháp luật
sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh. Các quyền cơ bản của những con người trong xã

hội cũng sẽ được bảo đảm khi việc xác định có tội, xác định vô tội, làm rõ tình tiết
tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo được thực
hiện một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ
Nhiệm vụ của hoạt động tố tụng trong giải quyết vụ án cụ thể là phát hiện
nhanh chóng, xử lý chính xác, công minh tội phạm và người phạm tội, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội. Việc xác định sự thật của vụ án là nhằm
sáng tỏ các tình tiết khác nhau của vụ án phục vụ cho việc định tội, quyết định
trách nhiệm hình sự và hình phạt cũng như giải quyết các vấn đề khác liên quan
của vụ án.
Ngoài ra, cũng theo Điều 10 nguyên tắc xác định sự thật của vụ án thì:
“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị
can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Bị can,
bị cáo là những người có thể chịu hậu quả bất lợi từ kết quả xác định sự thật của cơ
quan tiến hành tố tụng vì vậy họ có quyền đưa ra chứng cứ chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của minh. Quy định này của pháp luật nhằm đảm bảo
nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân trong tố tụng
5


hình sự nước ta. Đồng thời nó có vai trò phản biện quan trọng trong quá trình xác
định sự thật của vụ án.
Việc thực hiện đúng nguyên tắc này là một trong những yếu tố đảm bảo cho
sự ổn định xã hội. Hiện nay, người dân đang ngày càng ý thực được các quyền cơ
bản của mình, đồng thời với đó là nhận thức về pháp luật cũng được nâng cao thì
việc áp dụng đúng nguyên tắc xác định sự thật của vụ án thực sự trở nên chú trọng
hơn bao giờ hết. Đã có rất nhiều trường hợp vì những sai sót không đáng có của
người tiến hành tố tụng mà có nhiều người phải chịu án oan sai. Khi những vụ việc
này được đưa ra ánh sáng thì đã gây ra rất nhiều bức xúc cho người dân và mất
bình ổn xã hội.
Về phương diện này, ta xem xét vụ án hình sự sau:

Ông Nguyễn Bá Nhàn (sinh năm 1962, trú tại Bình Phước) bị bắt giữ dựa
trên kết luận của tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an TPHCM “dấu vân
tay phát hiện bên trong hộc tủ bằng gỗ ở trong phòng ngủ nạn nhân tại hiện trường
với dấu tay ngón “nhẫn phải” trên chỗ bản mẫu so sánh mang tên Trương Bá Nhàn
là do ngón tay của cùng một người in ra”. Đồng thời tại nơi ở của ông Nhàn,
CQĐT thu giữ 62 triệu đồng và 5 lượng vàng. Kiểm tra việc sử dụng thời gian của
ông vào sáng 12/12/2001 qua các nhân chứng cho thấy, 8h30 ông Nhàn đi bỏ mối
khẩu trang với ông P.C.C và cùng về đến nhà ông này vào khoảng 10h15, sau đó
ông C. đi đón con, ông Nhàn trở về nhà. Khoảng 11h30, ông đến phòng răng, nơi
ông thường đến chữa răng), chờ đến 12h vào làm răng. Khoảng thời gian từ 10h15
đến 11h30, CQĐT cho rằng ông Nhàn không chứng minh được trong khi dấu vân
tay của ông để lại tại hộc tủ đựng tiền nhà nạn nhân. “Do vậy, căn cứ vào tài liệu
chứng cứ đã thu thập được đủ cơ sở để kết luận Trương Bá Nhàn đã thực hiện hành
vi giết người, cướp tài sản”.
Tuy nhiên, trong vụ án này, ngoài chứng cứ buộc tội là dấu vân tay để lại
hiện trường, CQĐT không thu thập được một chứng cứ nào khác. Số tiền thu giữ ở
nhà ông Nhàn sau khi điều tra, CQĐT đã trả lại cho mẹ vợ ông vì đó là tiền bà
bán đất, gửi con gái giữ giùm. Ông Nhàn bị tạm giam 3 năm 8 tháng 1 tuần, với 3
lần nhận giấy triệu tập của tòa nhưng cả 3 lần đều không thể đưa ra xét xử.
Ngày 8/6/2006, Cơ quan CSĐT Công an TPHCM ra quyết định đình chỉ
điều tra bị can đối với ông vì đã hết thời hạn điều tra mà chưa đủ chứng cứ chứng
minh hành vi phạm tội. Ông được trả tự do. Nhưng nỗi thống khổ của ông chưa kết
6


thúc ở đó khi mà không đủ sức lo và cũng để có tiền thăm nuôi ông, cha mẹ ông
đành bán tống bán tháo 4 mẫu đất đã cho vợ chồng ông. Việc này khiến vợ ông và
gia đình bên ấy hiểu lầm. Đã thế, ông lại mang mặc cảm của một người vừa trở về
từ trại giam, không việc làm, thân phận pháp lý không rõ ràng nên hạnh phúc gia
đình thêm chênh vênh.

Qua sự việc trên có thể thấy, chính vì cơ quan tiến hành tố tụng đã không
thực hiện đúng nguyên tắc xác định sự thật mà quyền và lợi ích hợp pháp của
ông Nhàn đã bị xâm phạm một cách nghiêm trọng. Không chỉ vậy, cuộc sống
của ông cũng đã bị ảnh hưởng rất lớn. Chính vì vậy, việc quy định xác định sự
thật một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ để làm rõ các các điều kiện trách
nhiệm xác định sự thật thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng là hoàn toàn cần
thiết bởi người bị nghi ngờ còn hòa nhập cộng đồng, tiếp tục sống và làm việc.
Xuất phát từ ý nghĩa này, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, bên cạnh
việc được luật hóa trong bộ luật TTHS tại Điều 10, thì khi áp dụng trên thực tế lại
càng cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tôn trọng và tuân thủ một
cách triệt để.
III. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này
1. Một số khó khăn khi thực hiện nguyên tắc này
Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa cho bị
can, bị cáo là những nguyên tắc được ghi nhận và đảm bảo thực hiện trong thực tế
cùng với nguyên tắc sự thật. Thế nhưng trên thực tế, việc suy đoán rồi kết tội cho
bị can, bị cáo vẫn mang tính chủ quan, không dựa trên những chứng cứ thu
thập được một cách khách quan, vẫn áp dụng những hình thức điều tra, xét hỏi
mang tính áp đặt, không dựa vào những đặc điểm khách quan của vấn đề. Việc xét
xử, đưa ra quyết định cuối cùng của Toà án có thể bị sai, quyết định chưa đúng khi
cơ quan tiến hành tố tụng chưa tìm hiểu rõ về nhân thân người phạm tội mặc dù đó
là một trong những điều bắt buộc phải chứng minh trong các vụ án hình sự. Nhiều
khi người có thẩm quyền, cơ quan tiến hành tố tụng có cách nhìn phiến diện về
nhân thân của người phạm tội mà có những quyết định chưa chính xác về vụ án. Vì
thế, vấn đề về nhân thân của người phạm tội cần phải được tìm hiểu một cách rõ
ràng, cụ thể, chi tiết để có cái nhìn, nhận xét đúng hơn về lỗi, động cơ, mục đích
7


phạm tội của bị can, bị cáo, từ đó đưa ra được quyết định hình phạt đúng, những

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Có thể thấy nguyên nhân dẫn đến hủy bản án sơ (phúc) thẩm chính là thiếu
sót trong việc nhận định, xác minh và đánh giá các chứng cứ. Vấn đề này là do
nhiều lý do khác nhau, tuy nhiên một trong những nguyên nhân nổi bật là sự hạn
chế về năng lực, trình độ của cán bộ tư pháp chưa đáp ứng được đòi hỏi thực
tiễn. Trong thực tiễn của hoạt động điều tra, một số điều tra viên chưa nắm chắc
được những quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là
trong những vụ án liên quan đến lĩnh vực kinh tế, kế toán, tài chính, khoa học công
nghệ; phương pháp điều tra còn hạn chế, thụ động, nặng về hành chính, khả năng
mở rộng và khám phá còn yếu; trong một số vụ án số lượng và giá trị của chứng cứ
rất lớn nên các điều tra viên không thu thập được đầy đủ và có đánh giá chưa đúng
về vụ án. Đặc biệt, với các tội phạm diễn ra trong một thời gian dài thì, việc xác
định sự thật thực sự rất khó khăn bởi những người tiến hành tố tụng có thể được
thay thế theo thời gian, cùng với đó là sự phối hợp nhân dân, cơ quan và tổ chức
không thực sự hiệu quả do vậy dẫn đến việc bỏ sót tình tiết hay đưa ra những kết
luận thiếu chính xác là điều thường xảy ra.
Bên cạnh đó là sự thiếu trách nhiệm hoặc cố ý vi phạm pháp luật của một số
điều tra viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì thành tích cá nhân, tập thể hoặc
vì động cơ vụ lợi của một số chủ thể tiến hành tố tụng mà tình trạng sai, oan trong
các vụ án hình sự ngày một gia tăng. Do đó, pháp luật cần có những biện pháp và
hình thức xử lý nghiêm khắc nhất với những cán bộ, công chức, viên chức biết luật
mà vẫn thực hiện trái pháp luật.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc
2.1. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật
Để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc, nhận thấy chúng ta cần phải có
một hệ thống pháp luật ổn định và chặt chẽ. Theo quan điểm của nhóm, việc
hướng đến hình thức tranh tụng trong phiên tòa là một trong những phương án
có tính khả thi cao nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này. Rõ ràng,
với hình thức đó, Viện Kiểm sát sẽ phải có những căn cứ thực sự thuyết phục mới
có thể buộc tội được một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì tất yếu việc xác

định sự thật phải được tiến hành đúng và đủ.
Một vấn đề nữa chính là quy định trong các văn bản luật còn chưa thực sự
thống nhất. Sự mâu thuẫn xảy ra trong chính một văn bản. Ví dụ như trong
8


BLTTHS, BLTTHS quy định về truy nã bị can nhưng không có điều luật nào quy
định việc truy nã bị cáo. Điều 161 BLTTHS quy định căn cứ truy nã bị can gồm 2
căn cứ là bị can trốn hoặc không biết bị can đang ở đâu, quy định những thủ tục
cần phải có trong việc truy nã bị can và hình thức thông báo quyết định truy nã bị
can. Như vậy, BLTTHS chỉ điều chỉnh đối tượng bị truy nã là bị can trong giai
đoạn điều tra hoặc trong giai đoạn truy tố (Điều 169 BLTTHS). Theo quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 169 BLTTHS trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát cũng có
quyền tạm đình chỉ khi không biết bị can đang ở đâu và yêu cầu cơ quan điều tra ra
lệnh truy nã bị can. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra áp dụng Điều 161
BLTTHS để truy nã bị can là đúng luật. Tuy nhiên, điểm b khoản 2 Điều 169 quy
định căn cứ yêu cầu cơ quan điều tra truy nã “khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ
bị can đang ở đâu” là không rõ ràng. Đã trốn thì làm sao biết được bị can đang ở
đâu, liên từ “mà” đã làm cho cụm từ “không biết rõ bị can đang ở đâu” trở nên
thừa, tối nghĩa. Vì vậy, theo chúng tôi, cần phải thay từ “mà” bằng từ “hoặc”. Việc
sửa đổi như vậy là thống nhất với những quy định về truy nã, tạm đình chỉ khác
như các điều 160, 161 BLTTHS. Điểm b khoản 2 Điều 169 BLTTHS được hiểu là
viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can khi có một trong hai căn cứ
để yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can: Một là bị can trốn, hai là không biết rõ
bị can đang ở đâu. )
Do vậy, việc thống nhất hệ thống văn bản luật để việc áp dụng trở nên dễ
dàng hơn là điều cần thiết.
2.2. Hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc
Hoàn thiện hình thức tranh tụng trong phiên tòa là một trong những phương
án mà nhóm em rất quan tâm. Không chỉ nâng cao tính khách quan, hiệu quả trong

công tác tố tụng nói chung mà còn nâng cao trách nhiệm của những người có nghĩa
vụ chứng minh. Nếu như không đảm bảo việc xác định sự thật một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ thì rõ ràng việc thực hiện chức năng công tố của Viện
Kiểm sát cũng như xét xử của Tòa án, thi hành án của cơ quan Thi hành án… là
không thể đảm bảo.
Trong phiên điều trần nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp và
hoàn thiện công tác cải cách tư pháp, một vấn đề mấu chốt được đặt ra là cần nâng
cao và mở rộng hoạt động đào tạo chuyên môn cho cán bộ tư pháp. Việc nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tất yếu cũng hướng đến
mục đích nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp nói chung. Một thực trạng dễ
thấy là cán bộ tư pháp còn thiếu rất nhiều về số lượng và yếu về chất lượng. Hiện
9


nay, phần lớn cán bộ tư pháp ở nước ta được đào tạo tại Học viện tư pháp tuy
nhiên kết quả đào tạo không hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu. Một trong những
nguyên nhân đó chính là chất lượng đầu vào khi mà phần lớn người học có trình độ
tại chức. Hơn nữa, một số điều kiện liên quan khác như trình độ giáo viên, giáo
trình giảng dạy cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Do vậy, hoàn thiện công tác giảng dạy,
đào tạo tại Học viện Tư pháp là một vấn đề cần thiết.
Một trong những giải pháp cần thiết nữa đó chính là nâng cao sự phối – kết
hợp giữa các cơ quan, tổ chức với nhau, giữa các cơ quan, tổ chức với nhân dân
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp nói chung là nâng cao hiệu quả thực
hiện nguyên tắc xác định sự thật nói riêng. Bên cạnh đó cũng cần nâng cao trách
nhiệm của những người tham gia tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ cho cán bộ tư pháp
hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Nhằm hạn chế những hành vi vi phạm trong công tác xác định sự thật của
những người tiến hành tố tụng, một vấn đề cũng vô cùng cấp thiết đó chính là quán
triệt công tác đào tạo ngay từ đầu tại các cơ sở đào tạo.
Để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này, thiết nghĩ cần phải nâng cao

chất lượng kiểm sát các hoạt động nhằm xác định sự thật. Rất nhiều vụ việc oan sai
do sự bất cẩn của người tiến hành tố tụng không những xâm phạm nghiêm trọng
tới quyền và lợi ích hợp pháp của người dân mà còn gây ra sự mất ổn định xã hội.
2.3. Một số kiến nghị:
Nguyên tắc này có thể sẽ chính xác hơn nếu thể hiện Điều 11 như sau: “Bảo
đảm việc xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”.
Đây cũng chính là nhiệm vụ bao trùm của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự.
Toàn diện, khách quan, đầy đủ là những đòi hỏi có tính chỉ đạo từ việc thu
thập đến kiểm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án.
Niềm tin nội tâm của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán khi đánh giá
chứng cứ chỉ có thể dựa trên cơ sở đã xem xét toàn diện, đầy đủ, khách quan vụ án.
Điều này được thể hiện bằng những yêu cầu cụ thể sau đây:
a) Mọi chứng cứ và tình tiết của vụ án phải được thu thập, xem xét, đánh giá,
kết luận;
b) Chứng cứ phải thu thập đủ đến mức để khẳng định những vấn đề làm cơ sở
cho việc khởi tố, truy tố, xét xử hoặc đình chỉ vụ án.
c) Việc đánh giá chứng cứ và các tình tiết của vụ án phải được tiến hành một
cách vô tư;
10


d) Việc vi phạm nguyên tắc đảm bảo khách quan, toàn diện, đầy đủ đều dẫn
đến hệ quả tố tụng: trả vụ án để điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án, tuyên bố bị cáo
vô tội hoặc hủy bản án tại cấp phúc thẩm.
Nguyên tắc này liên quan chặt chẽ với nguyên tắc suy đoán vô tội và tạo tiền
đề cho nhau. Tuy nhiên bản chất pháp lý của chúng khác nhau. Suy đoán vô tôi là
định hướng khách quan, là niềm tin nội tâm là hai mặt của quá trình đánh giá vụ
án. Niềm tin nội tâm là một nội dung của nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật – một số nguyên tắc gắn liền với nền dân chủ tư sản, đối lập với nền
tư pháp độc đoán phong kiến và của Tòa án giáo hội. Tuy nhiên niềm tin nội tâm

của người tiến hành tố tụng lại gắn liến với nguyên tắc suy đoán vô tội, tức là mối
liên hệ giữa ý thức chủ quan và đòi hỏi khách quan. Trong khi người tiến hành tố
tụng có quyền và thậm chí tin vào bị can, bị cáo là người có tội thì đồng thời xác
định nếu không đủ chứng cứ để khẳng định được điều đó thì phải tuyên bố bị cáo
vô tội. còn nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là đòi hỏi trực tiếp đối với mọi
hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng trong việc thu thập và đánh giá các
chứng cứ và các tình tiết của vụ án. Vì vậy như trên đã nói, phần 2 của Điều 11
BLTTHS (trách nhiệm chứng minh tội phạm) là nội dung của nguyên tắc suy đoán
vô tội nên cần được quy định vào Điều 10 của BLTTHS thì hợp lý hơn.
Nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” (Điều 10 BTTHS 2003). Nguyên
tắc này qui định “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến
hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình
vô tội”. Theo qui định này thì trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Theo chúng tôi, với định hướng phân định rõ chức
năng, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng như Nghị quyết 49 Bộ chính
trị đã nêu thì nên bỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án do trách nhiệm
này thuộc chức năng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Mặt khác, việc phải
chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của Tòa án khi ra bản án và
phán quyết của mình, đồng thời thiên chức “trọng tài anh minh”, “người cầm cân
nảy mực” của Tòa án dễ bị hiểu sai lệch. Vì vậy, nguyên tắc này cũng nên sửa đổi
theo hướng toà án không có trách nhiệm chứng minh tội phạm.
C. KẾT THÚC
Trên đây là những nhận định và ý kiến về bài làm của nhóm. Vì kiến thức hạn
chế cũng như nguồn tài liệu còn ít, nên bài làm cũng chưa giải quyết được hết vấn
đề đặt ra. Rất mong được sự đóng góp của thầy cô.
Chúng em xin cảm ơn!
11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2009, 2010, 2011.
2. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2003.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.
4. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.
5. Viện khoa học pháp lí, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.

12



×