Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

“ Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 20 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 2

Người thực hiện
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Bắc Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

BỈM SƠN, NĂM 2023


1


2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được
học, được đọc, được viết. Biết đọc, biết viết là cả một thế giới mở ra trước mắt
các em. Từ khi bắt đầu đi học, các em đã được tiếp xúc với kiến thức đơn giản
của môn tập đọc rồi từ đó mở rộng ra, nâng cao dần, ngày càng phong phú và đa
dạng hơn, cao hơn, hay hơn.
Dạy học tốt phân mơn tập đọc ở tiểu học nói chung, ở lớp 2 nói riêng là
vơ cùng quan trọng trong hệ thống các môn học. Dạy tốt phân môn tập đọc có
thể bồi dưỡng học sinh nhiều mặt vì nó có tính chất khởi đầu cho người đi học.


Vì vậy phân môn tập đọc ở tiểu học đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần giải quyết.
Nhiều nhà nghiên cứu và các giáo viên có nhiệt huyết đã bỏ nhiều công sức đi
sâu nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm để giải quyết vấn đề đang được
quan tâm này. Là một giáo viên tiểu học, tơi thấy mình phải tự tìm tịi, nghiên
cứu để tìm ra những phương pháp và cách dạy tốt nhất với môn tập đọc giúp các
em học tốt mơn này, đồng thời từ đó các em học tốt các môn học khác.
Dạy học tốt phân mơn Tập đọc địi hỏi người giáo viên phải có nhiệm vụ
thực hiện những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kỹ năng và thái độ như: Rèn luyện
cho học sinh kỹ năng đọc thành thạo. Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học,
phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của mình về cuộc sống. Giáo dục bồi
dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn cho học sinh. Yêu cầu này đáp ứng rõ mục
tiêu đào tạo bậc tiểu học: Giáo dục con người toàn diện.
Để thực hiện tốt những nhiệm vụ trên đòi hỏi mỗi giáo viên trong từng tiết
dạy tập đọc phải linh hoạt mềm dẻo, vận dụng các biện pháp, hình thức sao cho
tiết dạy nhẹ nhàng tự nhiên, đạt hiệu quả cao, từ đó mỗi giáo viên sẽ là người “
thắp sáng lên những ngọn lửa” trong mỗi học sinh. Vì vậy về phương pháp, cách
thức trong tiết học tập đọc là vô cùng quan trọng, cấp thiết.
Qua thực tế dạy tập đọc hiện nay cho thấy việc rèn kỹ năng đọc theo đúng
yêu cầu cơ bản về kiến thức, kỹ năng và thái độ đã được các thầy cô vận dụng
vào trong các tiết dạy. Tuy nhiên việc vận dụng các yêu cầu trên chưa thật linh
hoạt, cịn mang tính hình thức. Cụ thể như: Trong tiết học “Tập đọc” nhưng học
sinh được đọc cịn q ít so với u cầu rèn luyện của phân môn đề ra; việc rèn
kỹ năng đọc cho học sinh cũng chưa tạo hứng thú học tập cho các em vì thường
duy trì một cách thức đọc. Một số học sinh đọc chậm, ngắt nghỉ câu chưa đúng,
chưa biết đọc nhấn giọng, hạ giọng khi cần thiết nhưng chưa được sửa một cách
triệt để. Một số thầy cô do ảnh hưởng của tiếng địa phương nên phần nào cũng
ảnh hưởng đến việc rèn đọc cho học sinh.
Trước tình hình thực tế như vậy, vấn đề đặt ra là người giáo viên phải có
những biện pháp gì khắc phục để rèn cho học sinh đọc tốt? Đó là việc làm hết
sức quan trọng đối với người giáo viên dạy Tiểu học hiện nay. Xuất phát từ

những yêu cầu, lý do trên tơi đã nghiên cứu, áp dụng và tìm ra “ Một số biện
pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2”
2


3
II. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của sáng kiến là nghiên cứu và giới thiệu những biện pháp tích
cực trong việc dạy phân mơn Tập đọc, góp phần giúp học sinh lớp 2 “Rèn
kĩ năng tập đọc; giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn”.Thông qua các biện pháp
này tôi có thể nâng cao kiến thức của bản thân và ý thức được việc nghiên cứu,
tìm tịi phương pháp giảng dạy là một nhu cầu cũng như nhiệm vụ của mình.
Ở bậc tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng có hai u cầu chính là: “Rèn
kĩ năng tập đọc; giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn”. Học môn Tập đọc việc đọc
và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó, hỗ trợ đắc lực cho
nhau. Học sinh có đọc thơng thạo được câu văn câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn
thì các em mới thể hiện được cảm xúc có nghĩa là đã hiểu tường tận về nội dung
và nắm được ý nghĩa giáo dục của bài. Điều đó khẳng định rằng trong tiết dạy
tập đọc lớp 2 việc rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh rất cần thiết.
Trong những năm gần đây việc dạy học mơn tiếng Việt nói chung và
phân mơn tập đọc nói riêng ở bậc tiểu học được Bộ Giáo dục, Sở Giáo Dục,
Phòng Giáo Dục, Ban giám hiệu, giáo viên rất quan tâm. Chính vì vậy việc rèn
đọc cho học sinh phải được đặt lên hàng đầu và thực hiện xuyên suốt trong
nhiệm vụ năm học. Sách giáo khoa và một số tranh ảnh minh họa cho các bài tập
đọc tương đối đầy đủ tạo điều kiện cho việc dạy - học đạt kết quả hơn. Chương
trình mơn học hợp lí tạo điều kiện cho giáo viên có kế hoạch kèm học sinh.
Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu lý luận và thực tiễn từ đó đưa ra những
giải pháp phù hợp khắc phục những vướng mắc khó khăn cho giáo viên, học
sinh trong q trình dạy và học phân môn Tập đọc. Nâng cao chất lượng và hiệu
quả dạy học phân môn này.

III. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những biện pháp góp phần rèn đọc cho
học sinh lớp 2 ở trường tiểu học hiện nay nói chung và học sinh lớp 2 trường
tiểu học Bắc Sơn nói riêng.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Để việc nghiên cứu đạt kết quả tốt, tơi sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu, trong đó chủ yếu là các phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra: Điều tra thực trạng học sinh, những tồn tại của
giáo viên để từ đó có kế hoạch tiến hành.
- Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết đặc biệt là kĩ năng đọc để nắm được thực trạng của từng em.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Nghiên cứu xem xét kết quả học
tập của từng học sinh, của tập thể lớp.
- Phương pháp thử nghiệm: Tiến hành dạy thực nghiệm ở lớp để
nắm được kết quả việc áp dụng kinh nghiệm rèn đọc cho học sinh.
- Phương pháp kiểm tra đánh giá.


4
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
V. Những điểm mới của SKKN.
Đưa ra các việc làm, các giải pháp rèn đọc một cách cụ thể dễ hiểu, dễ
thực hiện, áp dụng được tất cả với giáo viên lớp 2 nói riêng, các khối lớp
khác nói chung đạt hiệu quả.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận.
Đọc là một dạng hoạt động ngơn ngữ, là q trình chuyển từ chữ viết sang
lời nói có âm thanh và thơng hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng) là quá
trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa khơng có âm
thanh (ứng với đọc thầm). Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm phần

chữ viết và phần phát âm, nghĩa là nó khơng chỉ là sự đánh vần lên theo tiếng
theo đúng những ký hiệu chữ viết mà còn là một q trình nhận thức để có khả
năng thơng hiểu những gì được đọc. Q trình dạy học gồm có hai mặt hữu cơ
với nhau, hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động đọc của học sinh. Người
giáo viên đóng vai trị là người tổ chức hoạt động của học sinh, Mỗi học sinh
đều được hoạt động, đều được bộc lộ mình, đều được phát triển. Một điều cần
chú ý là hoạt động đọc chỉ có thể đạt hiệu quả cao nếu học sinh tiến hành hoạt
động một cánh tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ nhận thức sâu sắc.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học chia làm nhiều phân mơn, trong đó tập đọc là phân
mơn thực hành bằng lời nói, nếu dạy tốt mơn tập đọc sẽ tạo điều kiện cho các
môn học khác.
Đọc là tiếp thu những thành tựu của học vần, đọc được nâng cao lên ở
mức đầy đủ và hoàn chỉnh hơn, đồng thời tạo nên bốn khả năng đã nêu: đọc
đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm.
Phân môn tập đọc giáo dục cho các em lịng ham đọc sách, hình thành cho
trẻ thói quen làm việc với văn bản tới từng học sinh, làm quen với sách giáo
khoa. Qua đó nhà trường thực sự là trung tâm văn hóa cho các em. Thơng qua
đọc giúp các em thích đọc và xác định đọc nhiều văn bản là có ích cho cuộc
sống và phát triển trí tuệ thơng minh. Qua đó giáo dục các em tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, thị hiếu, thẩm mỹ, của các em.
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, hai tập, gồm có 9 chủ điểm, cả năm học
35 tuần. Cụ thể như sau:
Tập 1 gồm 4 chủ điểm: Em lớn lên từng ngày (học trong 4 tuần, từ tuần 1
đến tuần 4); Đi học vui sao (học trong 4 tuần, từ tuần 5 đến tuần 8), tuần 9 ơn
tập giữa học kì 1; Niềm vui tuổi thơ (học trong 4 tuần, từ tuần 10 đến tuần 13);
Mái ấm gia đình(học trong 4 tuần, từ tuần 14 đến tuần 17), tuần 18 ôn tập và
đánh giá cuối học kì 1.
Tập 2 gồm 5 chủ điểm: Vẻ đẹp quanh em (học trong 4 tuần, từ tuần 19
đến tuần 22); Hành tinh xanh của em (học trong 4 tuần, từ tuần 23 đến tuần 26),
tuần 27 ôn tập giữa học kì 2; Giao tiếp và kết nối (học trong 2 tuần, từ tuần 28

đến tuần 29); Con người Việt Nam (học trong 2 tuần, từ tuần 30 đến tuần 31);
Việt Nam quê hương em (học trong 3 tuần, từ tuần 32 đến tuần 34), tuần 35 ôn
4


5
tập và đánh giá cuối học kì 2.
Nội dung sách tập đọc lớp 2 sát với thực tế, nội dung logic phù hợp với
trình độ của học sinh. Sánh giáo khoa đã đáp ứng tính thực hành trong dạy và
học, cấu trúc rõ ràng nhằm tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa các phân mơn trong
tiếng việt, tạo tính tổng hợp, tính thống nhất của các phân mơn. Nội dung sách
giáo khoa cũng thể hiện được yêu cầu nhận thức của học sinh từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp theo một hệ thống, học sinh dễ hiểu, dễ nhớ điều đó thể
hiện rất rõ tính khoa học của sách.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của tập đọc là hình thành năng lực đọc cho học
sinh. Năng lực đọc cho học sinh gồm cả bốn kĩ năng bộ phận và cũng là bốn yêu
cầu về chất lượng “đọc” là đọc đúng, đọc lưu lốt có ý thức, đọc hiểu và đọc
hay. Đây là các mức độ tầng bậc của đọc.
Nhiệm vụ thứ hai của đọc là giáo dục lịng ham đọc sách, hình thành cho
các em phương pháp và thói quen làm việc với sách. Thơng qua việc dạy Tập
đọc cần phải giúp các em có được ham muốn được đọc và thấy được lợi ích của
nó trong suốt cuộc đời mình.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
1. Thực trạng.
a. Thực trạng việc dạy tập đọc của giáo viên.
Trong thực tế giảng dạy phân môn Tập đọc ở lớp 2 hiện nay tôi nhận thấy
hầu hết giáo viên đã dạy đúng chương trình và sách giáo khoa, học sinh được
rèn đọc tốt hơn. Bên cạnh đó có một số tồn tại mà một số đồng chí giáo viên còn
mắc phải như: Phần luyện đọc, nhiều giáo viên cho là dễ nhưng thực chất đây là
phần khó nhất, phần trọng tâm của bài. Ở khâu này giáo viên ít mắc lỗi về thao

tác kĩ thuật nhưng hình thức tổ chức lại chưa phát huy tính tích cực của mỗi học
sinh, chưa chú ý nhiều đến tốc độ đọc, cách ngắt nghỉ hơi, nhấn giọng, hạ giọng
của các em. Việc phân bố thời gian luyện đọc ít dẫn đến tiết học buồn tẻ, đơn
điệu. Thời gian luyện đọc ít dẫn đến hiệu quả giờ dạy đạt chưa cao. Giáo viên
chưa dành nhiều thời gian cho đối tượng học sinh đọc chậm nên sự tiến bộ về
đọc của các em chưa nhiều.
Trong q trình dạy tập đọc các đồng chí giáo viên thường tập trung gọi
những em đọc tốt đọc và trả lời câu hỏi, ít gọi những em có kĩ năng đọc, nói
kém. Chính vì vậy kĩ năng đọc, nói của các em lại càng kém hơn, dẫn đến các
em ngại đọc, ngại nói và khơng thích nói nữa. Một số đồng chí giáo viên do ảnh
hưởng của tiếng địa phương nên đọc mẫu chưa thật chuẩn điều đó cũng ảnh
hưởng đến khả năng rèn đọc cho học sinh.
Trong thời gian nghiên cứu viết đề tài này, tôi tiền hành dự giờ của một số
đồng nghiệp dạy phân môn Tập đọc, nói chung các giờ dạy đều thực hiện đủ các
bước lên lớp, nhưng phần luyện đọc chưa đáp ứng được yêu cầu rèn luyện của
phân môn đề ra, các đồng chí giáo viên chủ yếu là quam tâm đến đọc đúng câu,
đúng tiếng, từ, đọc trôi chảy. Khi nhận xét giáo viên chỉ đánh giá chung, ít chú ý
đến việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu và thể hiện cách đọc bài văn, bài thơ này
cần đọc như thế nào? tại sao phải đọc như vậy? Chính vì những thiếu sót trên mà


6
giờ học chưa đạt kết quả cao, học sinh đọc chưa được tốt.
b. Thực trạng học tập đọc của học sinh.
Trong các giờ học Tập đọc một số học sinh đọc chưa đảm bảo tốc độ còn
ngắc ngứ, đánh vần, đọc còn nhỏ như em: Sang, My, Dung, Hương, Đan, Bảo,
Huy,...; một số số học sinh chưa biết đọc nhấn giọng, hạ giọng khi cần thiết; một
số em ngắt nghỉ câu chưa đúng.
Học sinh đã đọc kém lại chưa chịu khó đọc, khơng chú ý đến cách hướng
dẫn đọc của cơ, khơng nghe những bạn đọc đúng để mình học tập, để mình đọc

đúng. Đối với những em đã đọc đúng thì chưa chịu rèn kỹ năng đọc diễn cảm
(đọc hay) để thể hiện được cảm xúc, tình cảm thái độ qua giọng đọc và tính cách
của các nhân vật như: đọc đúng tốc độ, cao độ, trường độ, và âm sắc. Các em
chưa tự giác chuẩn bị bài ở nhà, không luyện đọc nhiều lần trước khi đến lớp.
Một số em trong tiết học tập đọc còn thờ ơ, khơng say mê đọc.
c. Về phụ huynh.
Có những phụ huynh thì rất quan tâm đến con em mình nhưng cũng có
nhiều phụ huynh chưa quan tâm, trình độ hạn chế, khơng có phương pháp hướng
dẫn. Có những phụ huynh nhận thức không đầy đủ nên thờ ơ trước lời nhận xét
của giáo viên, không hỗ trợ giáo viên trong việc kèm cặp con cái, mải đi làm
kiếm tiền mặc cho con em mình được đến đâu thì được, phó mặc cho thầy cô.
2. Kết quả thực trạng.
Sau khi khảo sát chất lượng đọc của học sinh lớp tôi trong đầu học kỳ I,
năm học 2022 - 2023 tôi thấy, các em thường mắc các lỗi cơ bản sau:
Kết quả khảo sát đầu năm được thể hiện qua bảng sau:
SĨ SỐ

Đọc diễn cảm

Đọc đúng, đảm bảo
tốc độ

SL

%

SL

%


1

3,0

15

45,5

Đọc ngắc ngứ, chưa
đúng tốc độ, ngắt
nghỉ chưa đúng
SI
%

33

17

51,5

Kết quả trên cho thấy: Hơn 50 % học sinh dọc bài chưa đạt yêu cầu theo
quy định. Học sinh đọc bài tốt rất ít chỉ chiểm khoảng 3 %.
Điều cần quan tâm nhất từ kết quả khảo sát trên là còn nhiều học sinh đọc
ngắc ngứ, chưa đảm bảo tốc độ, đọc nhỏ, ngắt nghỉ chưa đúng. Ngồi ra cũng có
nhiều học sinh chưa biết đọc nhấn giọng, hạ giọng nên kỹ năng đọc diễn cảm
chưa cao.
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
1. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về đọc cho học sinh.
Tơi có suy nghĩ, bất kỳ việc gì nếu có lịng say mê thì việc thực hiện mới
có kết quả cao. Để bồi dưỡng nâng cao nhận thức về đọc cho học sinh tôi

6


7
khuyến khích các em đọc thêm các loại sách truyện phù hợp với lứa tuổi để nâng
cao sự hự hứng thú và ham đọc cho các em.
Ví dụ: Ở lớp tơi có góc thư viện riêng, mỗi tuần tơi đều sưu tầm các
quyển truyện, báo nhi đồng phù hợp với các em để ở góc thư viện của lớp, mỗi
giờ ra chơi các em lại tranh thủ ngồi đọc truyện, đọc báo cùng nhau như vậy đã
giúp các em ham mê đọc và đọc tốt hơn.

Góc thư viên của lớp
Ngồi ra trong mỗi giờ tập đọc, tôi thường xuyên động viên khen ngợi các
em qua lời nói, cử chỉ và hành động. Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi rất
hiếu động, các em thích được khen, được động viên. Chính vì thế, tơi đã dùng
những lời nói vừa khen ngợi, vừa động viên đối với các em để khích lệ sự cố
gắng. Chẳng hạn khi các em đọc bài tơi thường nói kèm theo những câu động
viên như: “Cô thấy hôm nay bạn Sang đọc to hơn, tốc độ nhanh hơn rồi, cô
khen bạn Sang” hoặc “Em chỉ cần cố gắng thêm một chút nữa thì sẽ đọc rất
tốt đấy”,.... Biện pháp này cũng đem lại hiệu quả rất cao, các em ham đọc sách,
chăm chỉ luyện đọc.
2. Chuẩn bị cho việc đọc.
Mỗi một bài dạy, trước khi lên lớp tôi phải đọc bài nhiều lần để đọc tốt
bài và hiểu thấu đáo nội dung. Tôi xác định nội dung cần đạt, xác định giọng
đọc, phương pháp dạy, hình thức tổ chức, dự kiến các lỗi học sinh hay mắc, dự
kiến quỹ thời gian cho từng phần kiến thức. Tất cả các vấn đề trên, tôi lên kế
hoạch cụ thể rõ ràng để chủ động truyền đạt kiến thức trong khi tiến hành bài
giảng. Ngồi ra tơi phải chuẩn bị chu đáo về đồ dùng, các phương tiện phục vụ



8
cho tiết dạy như bảng phụ, tranh ảnh, máy tính, máy chiếu.
Để rèn luyện cho những học sinh đọc quá nhỏ: Tôi đã luyện cho các em
đọc to chừng nào bạn cuối lớp nghe rõ được. Đồng thời tư thế đứng đọc cần
đàng hoàng, thoải mái.
3. Giáo viên đọc mẫu.
Việc đọc mẫu của giáo viên đòi hỏi phải chuẩn mực, chính xác có tác
dụng làm cơ sở định hướng cho học sinh. Mặt khác không hạn chế việc đọc mẫu
một lần. Trong q trình giảng dạy, có thể đọc diễn cảm khi luyện đọc lại, đọc
diễn cảm, đọc nâng cao. Việc đọc mẫu của giáo viên trong bài Tập đọc phải tốt
và diễn cảm. Vì đây là một hình thức mang tính nghệ thuật lồng với cảm xúc.
Đọc diễn cảm làm cho mọi người (cụ thể là học sinh) rung cảm với người
đọc (giáo viên hoặc học sinh), là người nối liền tác phẩm với người nghe. Khi đọc
mẫu cần dùng ngữ điệu, chỗ ngừng giọng và các thủ pháp khác để làm nổi bật ý
nghĩa và tình cảm của tác giả đã gửi gắm trong nội dung bài đọc. Qua việc đọc
mẫu tốt của giáo viên, học sinh cảm nhận được một phần cái hay cái đẹp của bài
tập đọc, các em hào hứng, phấn khởi muốn tìm hiểu, khám phá bài tập đọc hơn.
4. Luyện kỹ năng thực hành đọc cho học sinh.
a. Luyện kĩ năng đọc đúng tiếng từ.
Đọc đúng là sự tái hiện âm thanh bài đọc, cần đọc chính xác, khơng đọc
thừa, thiếu, sót âm vần. Đọc đúng; phải thể hiện ngữ âm chuẩn để hệ thống ngữ
âm tiếng mẹ đẻ không bị lẫn lộn. Đọc đúng cần đúng âm và thanh (đúng âm vị).
Đọc đúng cịn có nghĩa đọc đúng ngữ điệu - ngắt nghỉ hơi đúng.
Đối với những em đọc còn ê a, ngắc ngứ. Ở đây lỗi của các em là chưa
nhận rõ mặt chữ nên ê a để nghĩ xem chữ đó đọc như thế nào? Có em phải dừng
lại để đánh vần. Đối với nhóm này, giáo viên dành một thời gian thích hợp
cho việc luyện đọc. Giáo viên hướng dẫn các em đọc to rõ ràng từng tiếng tuyệt
đối không kéo dài từ tiếng này sang tiếng khác. Đọc dứt khoát từng từ, cụm
từ, từng câu. Giáo viên luyện cho học sinh một cách thường xuyên và phải
tạo thành một thói quen. Nếu cần thiết cho các em dừng lại nhận rõ chữ rồi mới

đọc liền mạch.

Cô kèm học sinh đọc chậm đọc bài
8


9
b. Luyện kĩ năng đọc câu.
Khi các em đã đọc tương đối tốt các tiếng, từ, tôi tiến hành luyện cho các em
đọc câu. Học sinh tiếp nối nhau đọc từng câu trong mỗi đoạn, cả bài tập đọc. Giáo
viên chỉ định một học sinh đầu bàn (hoặc đầu dãy) đọc, sau đó lần lượt từng em
đứng lên đọc nối tiếp nhau đến hết bài (có thể đọc liền 2 câu lời của một nhân
vật). Khi học sinh nối tiếp nhau đọc từng câu giáo viên theo dõi, hướng dẫn các
em đọc đúng các từ ngữ học sinh địa phương dễ phát âm sai và viết sai. Việc
hướng dẫn phát âm đúng các từ ngữ nói trên nhằm làm cho học sinh có ý thức
phân biệt các âm, vần, thanh dễ lẫn và viết đúng chính tả. Việc luyện đọc từng
câu này giúp cho các em sự tập trung cao để theo dõi bạn đọc đồng thời rèn cho
tất cả học sinh trong lớp đều được luyện đọc. Phần đọc từng câu này muốn học
sinh đọc tốt trước hết phải rèn cho học sinh phát âm đúng, rõ ràng, chuẩn xác các
tiếng từ. Phần lớn những học sinh đọc yếu thường chưa phân biệt được cách phát
âm ngồi ra cịn phát âm sai theo thói quen địa phương.
Để khắc phục lỗi này tôi đã điều tra, phân loại lỗi ngay từ đâu năm cho
từng em, từng nhóm để có kế hoạch bồi dưỡng uốn nắn. Trong bảng theo dối
phát âm của học sinh, tôi ghi rõ mức độ tiến bộ, những khuyết diểm còn mắc
phải trong từng tháng để từng bước dứt điểm. Khi hướng dẫn phát âm, tơi phân
tích cho các em thấy sự khác biệt của phát âm đúng với phát âm sai mà các em
mắc phải. Giáo viên có thể làm mẫu hay dùng hình vẽ để minh hoạ để các em
thấy được hệ thống môi, răng, lưỡi khi phát âm.
c. Luyện kĩ năng đọc đoạn bài.
Học sinh tiếp nối nhau đọc từng đoạn trong bài (một hoặc hai lượt) trong

khi theo dõi học sinh đọc, giáo viên kết hợp rèn cho học sinh biết ngắt, nghỉ hơi
đúng chỗ, biết phân biệt câu thơ và dòng thơ có những bài thơ phải đọc vắt hai
dịng thơ vào thành một câu thơ. Khi học sinh đọc nối tiếp xong, tôi đưa các câu
dài để hướng dẫn các em ngắt, nghỉ câu đúng.
Ví dụ: Trong bài “Tơi là học sinh lớp 2” sách Tiếng Việt lớp 2, tập 1 có
câu văn dài: “Tơi háo hức tưởng tượng ra cảnh mình đến đầu tiên, cất tiếng
chào thật to những bạn đến sau. Nhưng vừa đến cổng trường, tôi đã thấy
mấy bạn cùng lớp đang ríu rít nói cười trong sân.”
Giáo viên đọc mẫu câu văn và yêu cầu học sinh phát hiện xem cô ngắt,
nghỉ sau những tiếng nào. Khi học sinh phát hiện đúng chỗ ngắt, nghỉ giáo viên
gạch chéo sau những tiếng đó và tiến hành cho học sinh đọc lại câu văn. “Tôi
háo hức / tưởng tượng ra cảnh mình đến đầu tiên,/ cất tiếng chào thật to/
những bạn đến sau.// Nhưng / vừa đến cổng trường,/ tơi đã thấy mấy bạn
cùng lớp / đang ríu rít nói cười ở trong sân. //”
Có những dịng thơ dài ngắn khác nhau, có dịng đủ ý, có dịng ý trải dài
sang dòng sau (thơ vắt dòng). Để hiểu ý của câu thơ giúp người nghe cảm nhận
được cái hay cái đẹp, người đọc cần chú ý tính liền mạch, tính liên kết của dịng
thơ. Ví dụ: Bài:“Tiếng chổi tre” của nhà thơ Tố Hữu, sách Tiếng Việt 2, tập 2:


10
“Những đêm hè
Khi ve ve
Đã ngủ
Tôi lắng nghe
Trên đường Trần Phú
Tiếng chổi tre
Sao xác
Hàng me
Tiếng chổi tre

Đêm hè
Quét rác .... ” ...
Trong bài thơ này các dòng thơ đọc nhanh, một số dịng thơ gần như
khơng nghỉ hơi ở cuối dịng, đọc gần như liền hơi với dịng tiếp sau.
Ngồi việc rèn cho học sinh biết ngắt hơi sau dấu phẩy, nghỉ hơi sau dấu
chấm, việc nghỉ hơi sau dấu chấm cảm, chấm lửng! chấm phẩy cũng hết sức cần
thiết. Đối với câu văn dài, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc thành cụm từ, biết
giữ hơi để khỏi phải ngắt quãng giữa các âm tiết. Ngoài việc rèn đọc cho học
sinh giáo viên kết hợp sửa cho học sinh những câu học sinh đọc bị vấp, bị ngắt
quãng nửa chừng, đọc rời các âm tiết, giáo viên cho học sinh đọc lại và sửa cho
các em. Giáo viên kết hợp giải nghĩa một số từ ngữ trong bài cho học sinh.
d. Luyện kĩ năng đọc từng đoạn trong nhóm.
Đây là hình thức mới, khá được coi trọng. Việc làm này được hình thành
cho học sinh kĩ năng, kĩ xảo đọc. Đọc trong nhóm là học sinh từng cặp hay từng
nhóm nhỏ tập đọc (em này đọc, em khác nghe nhận xét, giải thích, góp ý để
cùng nhau tìm ra cách đọc). Trong khi học sinh đọc trong nhóm, giáo viên theo
dõi, hướng dẫn các nhóm đọc đúng.

Học sinh đọc bài trong nhóm
10


11
Hình thức đọc trong nhóm tạo điêu kiện cho học sinh được rèn luyện đọc
nhiều nhằm kích thích nhu câu tìm hiểu bài văn, bài thơ như: Bài văn bài thơ nói
về ai ? Có những nhân vật nào trong bài ? Trong bài có ai đang trị chuyện ?...
Khi thời gian đọc nhóm đã hết, tơi tiến hành tổ chức cho các nhóm thi
đọc. Đây là một hình thức ln khích kệ các em thi đua nhau đọc để không bị
thua bạn. Mỗi đoạn hoặc mỗi bài thơ tôi đều cho đại diện hai nhóm cùng đọc để
các nhóm khác dễ đánh giá nhận xét.


Đại diện học sinh các nhóm thi đọc
e. Luyện kĩ năng đọc tồn bài.
Trong phần này học sinh phải biết đọc giọng phù hợp với đoạn văn, phân
biệt lời tác giả với lời nhân vật. Biết đọc theo giọng của nhân vật trong đoạn hội
thoại. Biết phân biệt cách đọc văn vần với văn xuôi. Đối với văn kể chuyện yêu
cầu học sinh đọc rõ từng nhân vật, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả, sắm vai.
Đối với giọng người kể yêu cầu học sinh xác định được giọng đọc: giọng bình
thản, chậm rãi, có tính chất tâm tình. Giọng của các nhân vật có thể là giọng
hồi nghi, phấn khởi, vui vẻ, cởi mở,...Đối với những câu hỏi yêu cầu học sinh
cần phải lên giọng.
Ngoài ra cần rèn cho học sinh đọc đúng ngữ điệu. Sử dụng ngữ điệu rất
quan trọng trong đọc diễn cảm. Người nghe cảm nhận được cái hay, cái đẹp, giá
trị của bài, chính là nhờ một phần lớn của giọng điệu người đọc, khi cần lên
giọng, xuống giọng, đọc kéo dài, đọc nhanh, chậm,...sao cho phù hợp với ý
nghĩa, cảm xúc của đoạn bài.
Có rất nhiều học sinh lớp tơi đọc bài khơng có ngữ điệu, đọc từ đầu đến
cuối bài giọng đều đều như nhau, không lên giọng, xuống giọng, khơng bộc lộ
cảm xúc.
Ví dụ: Trong bài “Ánh sang của yêu thương” Sách Tiếng Việt 2, tập 1,
trang 130 có đoạn: “ Đột nhiên, cậu trơng thấy ánh sáng của ngọn đèn hất lại từ
mảnh sắt tây trên tủ. Nét mặt cậu rạng rỡ hẳn lên. Ê-đi-xơn vội chạy sang nhà
hang xóm, mượn về một tấm gương. Lát sau, đèn nến trong nhà được cậu thắp
lên và đặt trước gương. Căn phòng bỗng ngập tràn ánh sáng.


12

Đoạn văn trên đọc giọng vui khi sáng kiến lóe lên, cần đọc với nhịp điệu
nhanh, dồn dập, nhấn giọng ở các từ đột nhiên, rạng rỡ.

Thế nhưng nhiều em đọc với nhịp điệu chậm rãi, giọng đọc đều đều,
không thoát lên được ý nghĩa vui mừng, reo vui khi sáng kiến lóe lên của Ê- đi –
xơn. Vì vậy giáo viên cần phải rèn cho học sinh đọc có ngữ điệu, giọng điệu
phải phù hợp với từng loại câu (kể, hỏi, cảm, cầu khiến). Giáo viên hướng dẫn
đọc một cách cụ thể rõ ràng, tránh hướng dẫn chung chung như phần hướng dẫn
đọc ở sách giáo khoa.
Đối với các bài thơ để rèn học sinh đọc diễn cảm, giáo viên phải biết
khai thác những nét đặc trưng của thơ: dòng thơ, nhịp thơ, vần thơ, thể thơ. Cần
hướng dẫn kỹ về cách ngắt nhịp, cách nghỉ hơi ở cuối mỗi dòng thơ, cách đọc
những tiếng cùng vần với nhau,... sao cho phù hợp với thể thơ, nội dung của
từng khổ thơ, đoạn thơ.

Học sinh đọc tồn bài
g. Các hình thức tổ chức luyện đọc.
Luyện đọc thành tiếng: Giáo viên có thể chọn đọc mẫu một đoạn giáo
viên hướng dẫn học sinh đọc thể hiện đúng nội dung bài. Với một số câu văn,
câu thơ đặc biệt, giáo viên đánh dấu nhấn giọng hoặc ngắt giọng để giúp học
sinh nắm chắc cách đọc. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc ngắt giọng, nhấn
giọng một cách tự nhiên, không đọc nhát gừng vì hiểu một cách máy móc hoặc
đọc q to những tiếng cần nhấn giọng. Luyện đọc thành tiếng bao gồm các hình
thức: Đọc cá nhân, đọc nhóm, đọc đồng thanh (nhóm, tổ, lớp), đọc phân vai.
Trong việc luyện đọc cho học sinh, giáo viên cần biết nghe học sinh đọc để có
cách rèn luyện thích họp với từng em và cần khuyến khích học sinh trong lớp
12


13
trao đỗi, nhận xét về chỗ được chỗ chưa được của bạn, nhằm giúp học sinh rút
kinh nghiệm để đọc tốt hơn.
Luyện đọc thầm: Hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc

thầm, những kĩ năng này con người sẽ sử dụng suốt đời. Đọc thầm có tác dụng
làm cho học sinh dễ cảm nhận nội dung bài đọc. Việc đọc thầm của cả lớp là
khâu chuẩn bị cho các em đọc thành tiếng tốt và phần nào nắm được nội dung
bài. Giáo viên có thể giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm định hướng việc
đọc - hiểu (Đọc câu, đoạn hay khổ thơ nào? Đọc để biết, hiểu nhớ điều gì?...).
Có đoạn văn, thơ cần cho học sinh đọc thầm 2; 3 lượt với tốc độ nhanh dần và
từng bước thực hiện các yêu cầu từ dễ đến khó, nhằm rèn luyện kĩ năng đọc hiểu, cần khắc phục tình trạng học sinh đọc thầm một cách hình thức, giáo viên
khơng nắm được kết quả đọc - hiểu của học sinh để xử lí trong q trình dạy
học.
Luyện học thuộc lịng: Ở bài dạy có yêu cầu học thuộc lòng, giáo viên
cần chú ý cho học sinh luyện đọc kĩ hơn. Giáo viên hướng dẫn học sinh thuộc
lòng tại lớp từng khổ rồi cả bài thơ bằng cách hướng dẫn học sinh đọc đồng
thanh, xoá dần các từ, cụm từ, sau đó là những chữ đầu của mỗi khổ thơ. Học
sinh thi học thuộc lòng với các hình thức nâng cao dần thơng qua việc tổ chức
các trò chơi luyện đọc.
Thi đọc tiếp sức, thi đọc nhanh, thuộc giỏi khổ thơ. Đọc thơ truyền điện.
Chọn người un bác. Hình thức này nên tổ chức trị chơi vào cuối tiết học để
tạo khơng khí vui tươi, nhẹ nhàng, gây hứng thú cho học sinh.
5. Luyện đọc đúng tốc độ (yêu cầu tối thiểu 70 tiếng/phút).
Hướng dẫn học sinh giữ tốc độ để học sinh làm chủ tốc độ đọc, giáo viên
cần đọc mẫu để học sinh làm theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc là: cụm từ, câu,
đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ bằng việc giữ nhịp đọc ngồi ra cịn có
biện pháp đọc nối tiếp trên lớp hoặc thi hai bạn đọc giữ tốc độ với nhau:
Đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, bạn để điều chỉnh tốc độ bằng cách
trước khi dạy giáo viên đếm trong bài có bao nhiêu tiếng rồi tự tính trong bấy
nhiêu phút.
6. Luyện đọc diễn cảm.
Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt, trước hết trong mọi giờ tập đọc
giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách phát âm chuẩn, đọc đúng đắn, có ý thức,
trơi chảy, sau đó mới u cầu học sinh đọc diễn cảm. Trong phương pháp dạy

học những yêu cầu đó gọi là chất lượng đọc được thể hiện đồng thời và chi phối
lẫn nhau. Tính đúng đắn sẽ nâng cao tốc độ đọc và cho phép đọc có ý thức hơn.
Nếu không hiểu cái đang đọc thỉ không thể đọc lưu loát và diễn cảm được. Đọc
diễn cảm yêu cầu đọc đúng giọng vui buồn, giận dữ, trang nghiêm... phù hợp với
từng ý của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn
giọng ở từ ngữ biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả. Để đọc diễn
cảm, học sinh phải làm chủ được chỗ ngắt giọng, làm chủ được tốc độ đọc (độ


14
nhanh, chậm, chỗ ngân hay là việc giãn nhịp đọc), làm chủ được cường độ giọng
(đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay không), và làm chủ ngữ điệu (độ cao của giọng
đọc, lên giọng hay hạ giọng). Đọc diễn cảm thể hiện ở kĩ năng dùng ngữ điệu,
biết nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở dấu phẩy, hoặc chỗ cần tách ý, biết đọc liền
các tiếng trong từ ghép, từ láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra cần biết đọc đúng
giọng câu kể, câu hỏi biết phân biệt giọng người dẫn chuyện với từng tuyến
nhân vật có tính cách khác nhau. Đọc diễn cảm là biểu hiện cao của đọc có ý
thức và chỉ thực hiện đựơc trên cơ sở đọc đúng và đọc nhanh. Do vậy dù đọc ở
mức độ nào cũng phải yêu cầu phát âm đúng song cũng không nên quá nhấn
mạnh ở các phụ âm: tr - ch; r - gi; n -1; s - x làm giọng đọc mất tự nhiên.
Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định chung về cách tổ chức lớp. Qua
tim hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh về lựa chọn, đặc biệt là về kĩ
năng đọc và phân loại học sinh theo ba đối tượng: Đối tượng 1: Học sinh biết
đọc diễn cảm. Đối tượng 2: Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu lốt. Đối tượng
3: Học sinh đọc nhỏ, lí nhí, ấp úng, ngọng. Dựa vào đó, tơi đã sắp xếp chỗ cho
học sinh những em đọc còn yếu ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt để đôi bạn
cùng tiến. Tôi tiến hành nêu yêu cầu cơ bản về việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn
cảm giúp các em cảm thụ bài văn, bài thơ của từng chủ đề. Hướng dẫn mỗi em
đóng một quyển sổ để ghi những câu, những đoạn, bài văn, bài thơ hay có giá trị
về nội dung và nghệ thuật. Sau khi tiến hành như vậy, tôi đi vào giảng dạy theo

các bước sau: Trước khi học bài tập đọc, tôi dặn học sinh đọc nhiều lần ở nhà
cho trôi chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong sách
giáo khoa, đề ra các yêu cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “Nhím nâu kết bạn” sách Tiếng Việt 2, tập 1, trang 89.
Bài văn được viết theo thể kể chuyện - kể về tình bạn tốt đẹp giữa nhím trắng
và nhím nâu. Nhờ tình cảm chân thành của nhím trắng, nhím nâu đã có sự thay
đổi: Từ chỗ nhút nhát, trở nên mạnh dạn, thích sống cùng bạn bè. Tình bạn đã
làm cho cuộc sống của các bạn vui hơn. Tình tiết câu chuyện hâp dẫn, sinh
động. Khi đọc học sinh cần làm rõ những chi tiết đó bằng cách đọc nhấn giọng
vừa phải ở các từ ngữ. “hiền lành”, “nhút nhát”, “vồn vã”, “lung túng”, “run
run”, “tươi cười”. Đặc biệt những câu đối thoại của nhím trắng ngữ điệu đọc
phải tốt lên sự cởi mở, chân thành, thân thiện. Nhím trắng vồn vã:” Chào
bạn! Rất vui được gặp bạn!”. Nhím trắng tươi cười: “Đừng ngại! Gặp lại
bạn, tôi rất vui. Tôi ở đây một mình, buồn lắm. Bạn ở lại cùng tơi nhé!”.
Những câu đối thoại của nhím nâu ngữ điệu đọc phải tốt lên sự rụt rè, nhút
nhát. Nhím nâu lung túng, nói lí nhí: “ Chào bạn!”, rồi nấp vào bụi cây.
Nhím nâu run run: “ Xin lỗi, tơi khơng biết đây là nhà của bạn.” Trong bài
đọc có nhiều câu cảm, không phải câu cảm nào cũng đọc với ngữ điệu như nhau
mà phải tùy thuộc vào các nhân vật được nói tới trong bài. Khi đọc câu cảm dẫn
lời của nhím trắng phải đọc với ngữ điệu cởi mở, thân thiện và đọc nhấn giọng
vào tiếng cuối câu cảm. Khi đọc cảm dẫn lời của nhím nâu phải đọc với ngữ
điệu rụt rè, nhút nhát và phải nhấn giọng chậm hơn ở tiếng cuối câu cảm. Đối
14


15
với những bài văn xi khi đọc ngồi việc tìm những dấu câu đặc biệt (câu hỏi,
câu cảm) để hướng dẫn học sinh đọc. Giáo viên còn phải chú trọng cách nghỉ
hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở chấm phẩy, dấu hai chấm. Đặc biệt phải biết ngắt hơi
ở chỗ khơng có dấu câu nhưng đó là chỗ tách ý.

7. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh
Ngoài việc luyện đọc cho các em ở trên lớp, tơi cịn phối hợp với phụ
huynh kèm cặp con luyện đọc lại bài ở nhà rồi quay video gửi cho cô nhận xét.

HS luyện đọc lại bài, phụ huynh quay video gửi cô nhận xét
Để chuẩn bị tốt cho đọc bài mới, tôi hướng dẫn phụ huynh ngồi cạnh con
theo dõi và nghe con đọc bài lần đầu, nếu thấy chữ nào con đọc chưa đúng thì
yêu cầu con đánh vần, đọc lại cho đúng để lần sau đọc lại con không bị mắc sai
nữa.

Phụ huynh kèm con đọc bài ở nhà


16
Một số trường hợp, học sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm
của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các em chưa hiểu cách phát
âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương (rượu - riệu; hươu - hiêu; hưu
– hiu; hữu – hĩu; ...). Đối với những trường hợp trên, trong mỗi bài dạy, khi có
từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói sai,
giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó
giúp các em tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương.
Với một số em phát âm cịn ngọng, tơi đã gặp trực tiếp phụ huynh trao
đổi và động viên để phụ huynh hướng dẫn thêm con em lúc ở nhà. Ngồi ra tơi
cịn trao đổi phụ huynh thường xun chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi
người trong gia đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân
trong gia đình là mơi trường giáo dục cho các em khi ở nhà.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Từ những giải pháp cụ thể trên đã giúp cho các em có kỹ năng đọc thành
thạo, biết đọc diễn cảm và biết cảm thụ văn học. Các em ham mê đọc sách, biết
thi đua nhau luyện đọc và cùng nhau phấn đấu.

Qua đó chúng ta thấy được các biện pháp này đã đem lại hiệu quả cao
trong việc rèn đọc cho học sinh. Các em tự tin đọc trước các bạn, trước thầy cô,
điều này càng có ý nghĩa sâu sắc và tầm quan trọng đối với bậc tiểu học, đối với
thầy giáo, cô giáo - những người trực tiếp hình thành nên những thói quen và kĩ
năng cho học sinh.
Cụ thể: Khảo sát chất lượng cuối học kì II, năm học 2022 - 2023 của lớp
tôi thực nghiệm đạt kết quả như sau:
Đọc ngắc ngứ,
Đọc đúng, đảm bảo chưa đúng tốc độ,
SĨ SỐ
Đọc diễn cảm
tốc độ
ngắt nghỉ chưa
đúng
SL
%
SL
%
SI
%
33

8

24,3

24

72,7


1

3,0

Qua kết quả khảo sát trên ta thấy chất lượng rèn đọc của lớp tôi được
nâng lên rõ rệt. Điều đó chứng tỏ kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc của bản thân tơi
đã thực sự có hiệu quả đối với tất cả học sinh. Đó là niềm mong muốn của riêng
tôi và cũng là điều mong muốn của mọi giáo viên.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Qua q trình tích lũy, nghiên cứu, áp dụng “ Một số biện pháp rèn kỹ
năng đọc cho học sinh lớp 2”, tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện kỹ năng đọc
đóng một vai trị quan trọng trong việc học tập của học sinh, rèn luyện kỹ năng
đọc là một nhiệm vụ không thể thiếu với học sinh tiểu học nhất là lớp học đầu
cấp. Rèn kỹ năng đọc cũng đồng nghĩa với việc học sinh được rèn luyện một số
16


17
phẩm chất như tính kiên trì, chịu khó, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm. Để học sinh
có kỹ năng đọc tốt người giáo viên cần phải:
Có lịng say mê nghề nghiệp, ln có ý thức tìm tịi sáng tạo trong cơng
việc dạy học. Nắm được mục đích, nội dung, nhiệm vụ của mơn Tập đọc lớp 3
nói chung và của từng bài Tập đọc nói riêng. Phải nắm vững đặc trưng, phương
pháp, yêu cầu của phân môn Tập đọc, nghiên cứu kĩ bài dạy từ đó có được
phương pháp dạy phù hợp có tác dụng phát triển tư duy năng lực cảm thụ văn
học cho học sinh.
Xây dựng được biện pháp rèn đọc phù hợp với đối tượng học sinh trong
lớp. Giáo viên vận dụng linh hoạt sáng tạo các phương pháp đảm bảo đặc trưng
của phân mơn.

Có sự tận tâm, nhiệt tình, yêu thương học sinh tạo cho các em sự say mê,
thoải mái trong tiết học.
Trong mỗi giờ tập đọc người thầy phải hướng dẫn cách đọc cho học sinh
thật tỉ mỉ từng từ ngữ, từng câu văn, từng đoạn văn, phải kiên trì uốn nắn, sửa
chữ kịp thời tùy theo từng đối tượng học sinh.
Ln tìm tịi sáng tạo, sử dụng các hình thức và phương pháp dạy học:
Lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên điều khiển, giao nhiệm vụ, dẫn dắt để học
sinh có một tiết học Tập đọc đạt hiệu quả cao.
2. Đề xuất kiến nghị.
Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệm vụ sư phạm cho giáo viên
Tiểu học, tạo điều kiện cho giáo viên học tập, thực hiện đổi mới phương pháp
dạy học có hiệu quả. Đầu tư cơ sở vật chất, đồ dùng, trang thiết bị dạy học phụ
vụ cho hoạt động dạy và học. Tổ chức các cuộc thi đọc hay, đọc hiểu để không
ngừng nâng cao kỹ năng đọc để giáo viên có giọng đọc chuẩn có sức thuyết
phục. Trong q trình giảng dạy cần khuyến khích, động viên kịp thời để tạo
được khơng khí dạy- học sơi nổi để nâng cao chất lượng dạy- học. Giáo viên
thường xuyên kiểm tra đánh giá việc đọc của học sinh ghi nhận kết quả của các
em hay một tiến bộ rất nhỏ. Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi về
phương pháp dạy Tập đọc nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy phân môn tập đọc
lớp 2.
3. Cam kết.
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, khơng sao
chép nội dung của người khác.
XÁC NHẬN CỦA
HIỆU TRƯỞNG

Ngày18 tháng 4 năm 2023
Người viết



18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy Tiếng Việt ở Tiểu học của Bộ GD&ĐT
2. Hướng dẫn giảng dạy nghiên cứu bộ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2.
3. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt 2.
4. Một số tập san, chuyên đề báo cáo GD&Thời đại.
5. Tìm hiểu qua một số băng hình dạy mẫu.
6. Sách tham khảo gồm:
- Để học tốt môn Tiếng Việt 2 của Nhà xuất bản Đà Nẵng.
- Bồi dưỡng Văn- Tiếng Việt Tiểu học 2 của NXB TP. Hồ Chí Minh.

18


19
MỤC LỤC
Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
I. Lí do chọn đề tài.................................................................................................1
II. Mục đích nghiên cứu........................................................................................2
III. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................2
IV. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................2
V. Những điểm mới của SKKN............................................................................3
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM....................................................3
I. Cơ sở lí luận.......................................................................................................3
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu....................................................................4
1. Thực trạng.........................................................................................................4
2. Kết quả thực trạng............................................................................................5

III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề...............................................5
1. Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về đọc cho học sinh........................................5
2. Chuẩn bị cho việc đọc.......................................................................................6
3. Giáo viên đọc mẫu.............................................................................................7
4. Luyện kỹ năng thực hành đọc cho học sinh......................................................7
5. Luyện đọc đúng tốc độ (yêu cầu tối thiểu 70 tiếng/phút)................................12
6. Luyện đọc diễn cảm........................................................................................12
7. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh.................................14
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:...........................................................15
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..............................................................................15
1. Kết luận...........................................................................................................15
2. Đề xuất kiến nghị............................................................................................16
3. Cam kết............................................................................................................16



×