Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho HS lớp Ba

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.95 KB, 17 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết Tập đọc là phân môn đảm nhiệm việc hình thành và
phát triển cho học sinh kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh
ở cấp tiểu học, cấp học đầu tiên trong trường phổ thông. Đọc giúp học sinh chiếm
lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập, đây là một công cụ
giúp học sinh học tốt các môn học. Việc dạy Tập đọc sẽ giúp các em hiểu biết hơn,
bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một
cách lô gíc cũng như có hình ảnh về các sự vật có xung quanh cuộc sống của chúng
ta. Như vậy, dạy Tập đọc có một ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo
dưỡng, giáo dục tình cảm chuẩn mực đạo đức và phát triển trí tuệ, tư duy.
Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy kỹ năng đọc của học sinh Tiểu học
nói chung đặc biệt là học sinh lớp Ba tôi chủ nhiệm chưa cao. Một số em đọc bài
chưa được trôi chảy, tốc độ đọc còn chậm, phát âm sai do phương ngữ, đọc sai
nhiều ở những tiếng có âm ch/tr; n/l; x/s; thanh hỏi/ thanh ngã. Đa số học sinh đọc
đúng văn bản nhưng chưa có sự đồng đều về âm lượng và chưa hiểu được nội dung
của câu văn, đoạn văn. Số em biết đọc diễn cảm một văn bản (thuộc văn bản nghệ
thuật) chưa nhiều, cách ngắt nghỉ giữa các từ, cụm từ, cách ngắt nhịp thơ, cách thể
hiện giọng đọc hay trong một bài văn, bài thơ còn hạn chế. Giáo viên chưa mạnh
dạn đổi mới phương pháp dạy học; hình thức tổ chức chưa được linh hoạt; sử dụng
đồ dùng dạy học hiệu quả chưa cao; đôi lúc còn rập khuôn, máy móc. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân làm cho học sinh không chủ động, tích cực trong học
tập nên chưa nâng cao được chất lượng môn Tiếng Việt nói chung và kỹ năng đọc
nói riêng.
Là một giáo viên tôi luôn trăn trở, suy nghĩ: Làm thế nào để nâng cao kỹ năng
đọc cho học sinh giúp các em thuận lợi hơn trong quá trình học tập các môn học. Vì
vậy, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho HS lớp Ba”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a) Mục tiêu
1



Sử dụng một số biện pháp rèn kỹ năng đọc thông qua dạy phân môn Tập đọc
để giúp học sinh đọc đúng, đọc rõ ràng, đọc hiểu được nội dung bài, đọc diễn cảm.
b) Nhiệm vụ
Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh còn gặp khó
khăn hoặc kỹ năng đọc chưa tốt; đề xuất một số biện pháp, phương pháp giảng dạy
để nâng cao chất lượng, sự ham thích học phân môn Tập đọc cho học sinh trong lớp
cũng như trong khối, trong trường học nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sư phạm nhằm rèn kỹ năng đọc cho học sinh.
4. Giới hạn của đề tài
Các biện pháp nâng cao kỹ năng đọc cho học sinh lớp 3, trường TH Tây
Phong từ năm học 2014 – 2015 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp làm mẫu
- Phương pháp thực hành, luyện tập
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Tiếng Việt là thứ tiếng ghi âm bằng công cụ chữ quốc ngữ, có đặc điểm cơ
bản "nói sao viết vậy". Từ đó, tình trạng nói sai dễ dẫn đến tình trạng viết sai. Dạy
tốt phân môn Tập đọc thì học sinh sẽ có kỹ năng đọc tốt, là tạo cho học sinh một
nền tảng vững chắc để học tốt môn Tiếng Việt và tất cả các môn học khác. Có đọc
2



đúng, đọc trôi chảy mới cảm thụ được bài văn và đọc đúng sẽ hiểu tất cả các văn
bản khác. Những năng lực này không phải tự nhiên mà có. Giáo viên phải từng
bước hình thành cho các em trong thời gian học các lớp ở cấp Tiểu học. Tập đọc là
một phân môn thực hành, nhiệm vụ quan trọng nhất là hình thành năng lực đọc cho
học sinh từ 4 yêu cầu về chất lượng “đọc”: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc
diễn cảm. Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học
như: chính âm, chính tả, ngữ điệu,… Để tổ chức dạy đọc cho học sinh chúng ta cần
hiểu rõ quá trình đọc, nắm được bản chất kỹ năng đọc. Đọc là một hoạt động trí tuệ
phức tạp mà cơ sở tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan
thị giác.
Theo Sách giáo viên Tiếng Việt 3 tập I, mục tiêu của môn Tiếng Việt ở bậc
Tiểu học và mục tiêu của phân môn tập đọc là:
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe,
nói, đọc ,viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy;
cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ
giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
- Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh các kỹ năng đọc (đọc thành tiếng, đọchiểu, nghe và nói). Bên cạnh đó thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và
những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc, phân môn Tập đọc cung
cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn
từ, cách diễn đạt, những hiểu biết vế tác phẩm văn học và góp phần rèn luyện nhân
cách cho học sinh.
Mặt khác, tháng 2/1966 thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát động phong trào
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, trong đó việc đọc đúng, viết đúng tiếng Việt
rất được quan tâm. Người Việt phải nói và viết đúng tiếng nước nhà, cố gắng giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đó không chỉ là biểu hiện của lòng tự trọng bản

3


thân mình mà còn là biểu hiện sơ khởi nhất của tinh thần quý trọng tiếng mẹ
đẻ giàu đẹp, của lòng yêu nước.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.1. Thuận lợi
Ban giám hiệu nhà trường có năng lực, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ những khó
khăn trong công tác chuyên môn, cũng như những công việc khác đối với mọi
người trong đơn vị nói chung, bản thân tôi nói riêng. Bản thân có trách nhiệm cao
trong công tác giảng dạy, chịu khó tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tài
liệu, sách báo,… để nâng cao năng lực chuyên môn; có kế hoạch dạy học cụ thể, sử
dụng đồ dùng dạy học thường xuyên có hiệu quả; kiên trì, nhiệt tình dẫn dắt, hướng
dẫn học sinh đến nơi đến chốn qua từng tiết học. Nhiều năm làm công tác chủ
nhiệm nên bản thân nắm được tâm lý, khả năng nhận thức của học sinh từ đó thiết
kế bài giảng, sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh hơn.
Học sinh tin tưởng, yêu quý giáo viên. Nhìn chung các em ngoan có ý thức học tập.
Đa số các gia đình quan tâm, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập, tạo mọi điều kiện
cho con em học tập. Giáo viên dạy thay, giáo viên dạy bộ môn giảng dạy nhiệt tình.
2.2. Khó khăn
Trường có 3 phân hiệu cách xa nhau, khối Ba có 3 lớp rải đều các phân hiệu, tỉ
lệ học sinh dân tộc thiểu số chiếm trên 30% học sinh của khối. Một số em do bất
đồng về ngôn ngữ, cha mẹ chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình
nên học sinh còn hạn chế về kỹ năng đọc như: một số em phát âm chưa chuẩn các
âm, vần do ảnh hưởng từ tiếng địa phương, đọc chưa đúng tốc độ, ngắt nghỉ câu
chưa phù hợp nhất là những câu dài, đọc phân vai, đọc diễn cảm chưa tốt; đọc được
bài nhưng chưa hiểu nội dung.
2.3. Thực trạng về việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh
Trong những năm qua việc dạy đọc cho học sinh lớp Ba ở trường Tiểu học
Tây Phong rất được quan tâm. Ban giám hiệu nhà trường cũng như tổ chuyên môn

đã tổ chức các chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.

4


Đối với giáo viên: Có trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chịu
khó học hỏi đồng nghiệp và tìm hiểu qua tài liệu để đúc rút kinh nghiệm cho bản
thân nhằm năng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên khi chuẩn bị bài vẫn còn phụ
thuộc vào sách giáo viên, sách thiết kế nên bài dạy còn đơn điệu chưa được phù
hợp với từng đối tượng học sinh. Việc chọn từ và giải nghĩa từ vẫn còn rập khuôn
(bám sát từ ở phần chú giải trong sách giáo khoa); chưa phân biệt lựa chọn từ mới
để cung cấp cho nội dung bài. Giáo viên chưa chú ý nhiều đến học sinh có khả
năng tiếp thu chậm vì sẽ mất thời gian. Ngoài ra, giáo viên chưa linh động, sáng tạo
nhiều trong phương pháp giảng dạy và thiết kế bài dạy, chưa khai thác hết ý đồ của
sách giáo khoa.
Đối với học sinh:
Một số em có ý thức học tập, chăm chỉ học bài ở lớp cũng như ở nhà. Trong
giờ học tích cực xây dựng bài, đọc bài tốt, biết tìm hiểu nội dung bài đọc. Bên cạnh
đó còn nhiều em chưa có sự chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp, ít đọc sách,
không chịu đọc sách. Nếu có đọc thì các em cũng chưa biết cách đọc, chỉ đọc một
cách qua loa, đại khái, đọc cho có đọc, lười tìm hiểu. Một số em đọc rất chậm, còn
đánh vần, chưa ý thức được thói quen tập trung chú ý khi đọc thầm. Phát âm chưa
chuẩn, chưa biết cách ngắt nghỉ hơi khi đọc, quen đọc theo tiếng địa phương như:
+ Đọc chưa đúng phụ âm đầu: ch/tr; d/r/gi; l/n; v/d; …..
Ví dụ: “che chẻ” (tre trẻ) ; “đi nàm” (đi làm)
+ Đọc chưa đúng vần: ăn/ăng;.......
Ví dụ : “thằng lằng” (thằn lằn)
+ Đọc chưa đúng thanh hỏi, thanh ngã:
Ví dụ: “trôi nỗi” (trôi nổi)
“kiên nhẩn” (kiên nhẫn)….

Đối với cha mẹ học sinh: Đa số gia đình học sinh từ các nơi đến lập nghiệp,
cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, trong đó không ít là người dân tộc thiểu số, nên
trình độ còn thấp, ít quan tâm đến việc học của học sinh. Bên cạnh đó, còn có một
5


số cha mẹ có tư tưởng khoán trắng cho nhà trường và giáo viên chủ nhiệm nên việc
kết hợp giữa gia đình với giáo viên trong việc giáo dục học sinh còn nhiều hạn chế.
3. Nội dung, hình thức của giải pháp
a) Mục tiêu của giải pháp
Các giải pháp đưa ra giúp giáo viên có sự nhìn nhận đúng hơn, sâu hơn về
tầm quan trọng của việc rèn đọc. Qua đó giáo viên biết lưạ chọn, tìm ra những biện
pháp tốt nhất, phương pháp phù hợp với đặc trưng của phân môn giúp học sinh đọc
tốt hơn. Từ đó nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt.
b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
b.1. Giáo viên chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy
Khâu chuẩn bị bài là một trong những yếu tố không kém phần quan trọng dẫn
đến sự thành công của tiết dạy. Vậy nên để có tiết dạy phân môn Tập đọc đạt hiệu
quả ta cần chuẩn bị:
- Tranh ảnh liên quan đến bài tập đọc
- Sách giáo khoa, sách giáo viên
- Sách thiết kế bài giảng để tham khảo
- Thiết kế bài dạy: Giáo viên phải đọc bài Tập đọc nhiều lần từ việc đọc
nhanh, đọc hiểu đến đọc diễn cảm và cảm thụ bài đọc; dựa vào chuẩn kiến thức, đối
tượng học sinh của lớp để xây dựng mục tiêu bài dạy và đề ra phương án tiến hành.
Tham khảo thêm tài liệu có liên quan đến bài dạy (sách giáo viên, sách thiết kế, các
tư liệu khác…) để thiết kế bài phù hợp với đối tượng, tình hình thực tế của lớp. Vận
dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học linh hoạt, phù hợp với các đối
tượng theo hướng phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh. Dự kiến các tình
huống có thể xảy ra trên lớp như: từ khó học sinh đọc dễ sai, từ mới học sinh khó

hiểu, cách ngắt, nghỉ hơi ở một số cụm từ, câu văn dài, đoạn văn… Ngoài việc rèn
đọc đúng, chính xác, giáo viên cần hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ hợp lý và thể hiện
giọng đọc đúng nội dung với một số câu tiêu biểu.
Ví dụ: Dạy bài: “Cậu bé thông minh”; Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 Tập I,
Trang 4, ta cần chuẩn bị cụ thể:
6


- Tranh Cậu bé thông minh, trong bộ đồ dùng dạy học môn Tiếng việt lớp 3,
tập I.
- Sách Tiếng Việt lớp 3, tập I; Sách giáo viên Tiếng việt lớp 3, tập I; Sách
thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 3, tập I.
- Bảng phụ ghi câu, đoạn khó đọc:
+ Ngày xưa,/ có một ông vua muốn tìm người tài ra giúp nước.// Vua hạ lệnh
cho mỗi làng trong vùng nọ/ nộp một con gà trống biết đẻ trứng, / nếu không có thì
cả làng phải chịu tội. //
+ Cậu bé kia, / sao dám đến đây làm ầm ĩ ?//
+ Thằng bé này láo, / dám đùa với trẫm! // Bố ngươi là đàn ông thì đẻ sao
được? //
+ Muôn tâu, /vậy sao Đức vua lại hạ lệnh cho làng con / phải nộp gà trống
biết đẻ trứng ạ?// .
b.2. Dạy theo đối tượng học sinh qua các tiết Tập đọc
Như chúng ta đã biết dạy học phân hóa là dạy theo từng loại đối tượng, phù
hợp với tâm sinh lý, khả năng, nhu cầu và hứng thú của người học nhằm phát triển
tối đa tiềm năng riêng vốn có. Đặc điểm của dạy học phân hóa là phát hiện và bù
đắp lỗ hổng kiến thức, tạo động lực thúc đẩy học tập cho các em. Để nâng cao kỹ
năng đọc cho từng đối tượng học sinh cần thực hiện các bước sau:
b.2.1. Đối với học sinh đọc chậm, phát âm chưa đúng
Giáo viên hướng dẫn luyện đọc theo một số hình thức sau:
- Luyện đọc từng tiếng, từng từ, từng câu, từng đoạn, cả bài nhiều lần để các

em quen với mặt chữ.
- Từng học sinh đọc, nhóm đọc, cả lớp đọc đồng thanh.
- Hướng dẫn cá nhân; luyện đọc tiếng khó, từ khó nhiều lần để học sinh đọc
đúng.
Thường xuyên nhắc nhở, theo dõi để uốn nắn kịp thời khi các em đọc chưa
đạt yêu cầu. Nếu đọc sai chỗ nào thì yêu cầu đọc lại đúng thì mới đọc tiếp. Nếu 3
7


lần đều sai thì giáo viên đọc mẫu lại. Ngoài việc đọc đúng giáo viên cần xây dựng
nề nếp học tập, thói quen đọc tiếp sức câu, đoạn. Xếp học sinh ngồi đầu bàn để tiện
việc rèn đọc cho học sinh. Tổ chức cho học sinh có kỹ năng đọc tốt kèm thêm học
sinh đọc chậm, phát âm chưa đúng trong giờ Tập đọc (đọc sách ở Thư viện) hoặc
luyện đọc ngoài giờ.
Vận dụng phương pháp luyện đọc theo mẫu, yêu cầu học sinh nghe và nhìn;
giáo viên (học sinh khá, giỏi) đọc mẫu thật chuẩn, học sinh chú ý nghe và nhìn
miệng để đọc theo. Biện pháp này giáo viên cần giảng, phân tích một cách đơn giản
khi học sinh phát âm để phát âm đúng: s/x; r/d/gi; ch/tr; l/n…để học sinh nhận diện
nhằm khắc sâu trí nhớ cách đọc đúng cho học sinh.
Ví dụ: “con sâu”, “xâu kim”
s
x

âu

+ Rèn cho học sinh phát âm theo đúng chữ viết.
Ví dụ: phát âm “ưu tiên” chứ không phải “ưu tiêng”
+ Hướng dẫn cho học sinh phát âm đúng thanh hỏi, thanh ngã
Ví dụ: “nỗi buồn” chứ không phải “nổi buồn”
“một nửa” chứ không phải “một nữa”

b.2.2. Đối với học sinh ngắt nghỉ hơi chưa hợp lí
Khi đọc một văn bản nếu ngắt nghỉ hơi chưa phù hợp sẽ hiểu nội dung văn
bản đi hướng khác. Do đó dạy Tập đọc giáo viên cần chú trọng rèn học sinh ngắt,
nghỉ hơi đúng. Trước hết, cần hướng dẫn các em nghỉ hơi ở những chỗ có dấu kết
thúc câu. Các dấu (dấu chấm, chấm hỏi, chấm than, hai chấm, chấm lửng ở cuối
câu hoặc dấu ngăn cách câu với nhau) cần nghỉ hơi một quãng bằng khoảng thời
gian đọc một chữ. Khi đọc câu có (dấu phẩy, chấm phẩy, gạch ngang, ngoặc đơn ở
giữa câu) thời gian ngắt hơi bằng bằng nửa quãng nghỉ hơi sau dấu chấm. Trong

8


trường hợp dấu kết thúc câu đồng thời cũng kết thúc một đoạn để xuống dòng,
quãng nghỉ sẽ dài gấp đôi khoảng thời gian phát âm một tiếng.
Bên cạnh những dấu kết thúc câu hoặc ngăn cách các bộ phận câu, còn có một
số dấu câu có cách dùng đặc biệt là dấu chấm lửng thể hiện lời nói ngắt quãng cụ
thể là:
- Ngắt quãng giữa một tiếng
VD câu : Bỗng một tiếng “kít...ít” làm cậu sững lại. (trong bài Trận bóng
dưới lòng đường, tr 54). Trong trường hợp này các em không nghỉ hơi mà phát âm
kéo dài chỗ có dấu chấm lửng.
- Ngắt quãng giữa tiếng hoặc từ
VD : Ông ơi... cụ ơi...! Cháu xin lỗi cụ. (Tiếng Việt 3, tập một, tr 55). Trong
trường hợp này, các em cần nghỉ ở chỗ có dấu chấm lửng một quãng bằng thời gian
phát âm một tiếng.
Sự nghỉ hơi cũng được diễn ra ở giữa những cụm từ dài để lời nói được mạch
lạc, rõ ràng. VD : Khi dạy HS đọc câu : Mùa hoa này, bằng lăng nở hoa mà không
vui vì bé Thơ, bạn của cây, phải nằm viện. (trong bài Chú sẻ và bông hoa bằng
lăng). Nếu học sinh đọc liền một mạch không nghỉ hơi giữa hai vế câu “ bằng
lăng nở hoa mà không vui / vì bé Thơ...” thì sẽ làm người nghe không hiểu rõ ý.

Khi đồng thanh, tới câu này, giáo viên cần hướng dẫn nghỉ hơi đúng, viết câu văn
đó lên bảng, đánh dấu nghỉ hơi cho học sinh nhớ.
Khi hướng dẫn học sinh nghỉ hơi giữa cụm từ lưu ý các em đọc tự nhiên,
tránh cường điệu, đọc nhát gừng vì hiểu ngắt giọng một cách máy móc hoặc đọc
quá to những tiếng cần nhấn giọng.
Ngoài việc đọc đúng, chính xác, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh cách
nhấn giọng ở những từ in đậm và ngắt nhịp giữa các dòng thơ đúng chỗ, thể hiện
giọng đọc đúng với nội dung.
Ví dụ: Trong bài thơ “Bận” Sách giáo khoa Tiếng Việt - Tập I trang 59.
Trời thu / bận xanh /
Sông Hồng / bận chảy /

Còn con / bận bú /
Bận ngủ / bận chơi /
9


Cái xe / bận chạy /

Bận / tập khóc cười /

Lịch bận tính ngày .//

Bận / nhìn ánh sáng. //

Với bài này đọc với giọng vui, khẩn trương, thể hiện sự bận rộn của mọi vật,
mọi người.
b.2.3. Đối với học sinh đọc vẹt, chưa hiểu nội dung
Để giúp học sinh hiểu nội dung bài cần rèn cho học sinh kĩ năng đọc thầm.
Đọc thầm giúp học sinh dễ cảm nhận nội dung bài học. Đây là hình thức đọc hiểu

mà đòi hỏi học sinh phải có tính tự giác. Do đó, trước khi cho học sinh đọc thầm,
giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm định hướng rõ việc đọchiểu (đoạn văn hay khổ thơ nào, đọc để biết, hiểu, nhớ hay suy nghĩ và trao đổi về
điều gì,…)
Kết hợp quan sát, theo dõi từng học sinh để biết học sinh đọc đến đâu. Có như
vậy mới nâng cao được chất lượng đọc thầm nhằm giúp các em hiểu được nội dung
bài đọc. Học sinh được rèn kĩ năng đọc thầm, đọc lướt thường chủ yếu ở phần tìm
hiểu bài ở phân môn Tập đọc.
Giáo viên nên chọn từ trọng tâm và giải thích ngắn gọn, dứt khoát, dễ hiểu.
Yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà, tìm hiểu nội dung bài theo từng câu hỏi
ở sách giáo khoa.
Ngoài ra, giáo viên cần xây dựng cho học sinh thói quen tìm đọc sách ở Thư
viện và ghi chép những thông tin cần thiết khi đọc nhằm hỗ trợ cho các môn học
khác. Từ đó rèn được kĩ năng đọc hiểu cho học sinh.
b.2.4. Đối với học đọc hiểu và đọc diễn cảm
Muốn giúp người nghe cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn bản đòi hỏi
người đọc phải đọc diễn cảm văn bản. Để giúp học sinh đọc cảm nhận văn bản,
hiểu văn bản thì trong việc dạy môn tập đọc phải chú ý rèn luyện khả năng đọc hiểu
cho học sinh. Đó là vấn đề cần thiết, quan trọng đối với học sinh lớp 3. Hiểu nội
dung bài văn, bài thơ thì mới có cách đọc đúng, đọc hay và diễn cảm được. Việc
luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong bước đọc thầm. Đọc diễn cảm là một
yêu cầu đặt ra khi đọc những câu văn bản văn chương hoặc có các yếu tố của ngôn
10


ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng
giọng, cường độ giọng,... để biểu đạt đúng ý nghĩ và tình cảm mà tác giả đã gửi
gắm trong bài đọc, đồng thời biểu hiện được sự thông hiểu, cảm thu của người đọc
đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao và chỉ thực
hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát. Để phát huy năng lực đọc nên gọi
các em đọc mẫu. Khuyến khích cách đọc sáng tạo của học sinh, tránh áp đặt một

cách đọc theo khuôn mẫu. Sau khi tìm hiểu nội dung bài, giáo viên cần mở rộng nội
dung bài; đặt câu hỏi mở rộng phù hợp với nội dung bài để học sinh suy nghĩ, phán
đoán, tạo cho học sinh có cơ hội phát huy năng lực tìm tòi, sáng tạo trong học tập.
Ví dụ: dạy bài “Giọng quê hương”
Trước khi tìm hiểu nội dung đoạn 3, gọi 1 học sinh đọc đoạn 3. Đồng thời cả
lớp đọc thầm. Giáo viên giao nhiệm vụ: Vì sao anh thanh niên cảm ơn Thuyên và
Đồng? Những chi tiết nói lên tình cảm tha thiết của các nhân vật đối với quê
hương? Qua câu chuyện, em nghĩ gì về giọng quê hương?
b.3. Làm tốt công tác phối hợp với cha mẹ học sinh
Phối hợp là hoạt động cùng nhau giữa hai hay nhiều tổ chức để đạt mục tiêu
chung. Ở trường ngoài giáo viên trực tiếp giảng dạy, để nâng cao chất lượng giáo
dục phải phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh và giáo viên bộ môn, các tổ chức
trong và ngoài nhà trường. Để giúp học sinh có kỹ năng đọc tốt giáo viên phối hợp
chặt chẽ với cha mẹ học sinh. Giáo viên tổ chức họp định kỳ với cha mẹ học sinh
qua các giai đoạn: Đầu năm, cuối học kỳ I, cuối học kỳ II (3 lần/1 năm) để cha mẹ
học sinh nắm được tình hình học tập của con em mình. Trong cuộc họp đầu năm
giáo viên nêu đặc điểm tình hình chung của lớp, hướng dẫn cha mẹ cách hướng dẫn
con học ở nhà. Giáo viên phối hợp với gia đình giúp học sinh sắp xếp thời gian ở
nhà hợp lý để các em có thời gian rảnh tìm đọc sách, truyện, chuẩn bị trước bài khi
đến lớp. Yêu cầu gia đình thường xuyên quan tâm đến việc học tập của con em
mình, tạo không khí học tập thoải mái cho các em. Cha mẹ nên nhờ con đọc giúp
bài báo hay tin tức,... đó cũng là cách để kiểm tra con đọc và tạo hứng thú cho con
em. Nếu có gì chưa rõ về việc học của con em mình thì cần trao đổi kịp thời với
giáo viên bằng cách gặp trực tiếp hoặc liên hệ qua điện thoại.
11


c) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các biện pháp trên có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Nếu giáo
viên thực hiện đồng bộ các giải pháp trên; học sinh chịu khó luyện đọc; kết hợp với

sự định hướng, giúp đỡ của giáo viên, của bạn bè trong qua trình học chắc chắn kỹ
năng đọc của các em được nâng lên.
d) Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi
và hiệu quả ứng dụng
Khi chưa áp dụng các biện pháp hướng dẫn học sinh luyện đọc. Qua kết quả
khảo sát và thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phần kỹ năng đọc của các em còn hạn
chế. Các em đọc còn sai về âm, vần, ngắt nghỉ hơi chưa đúng, tốc độ đọc còn chậm,
chưa nắm được nội dung, đọc bài nhỏ chưa trôi chảy….
Qua thực tế giảng dạy khi áp dụng các biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh
ở lớp tôi chủ nhiệm có tiến bộ rõ rệt. Các em tự tin, hứng thú hơn trong học tập.
Kết quả cụ thể như sau :
Trước khi thực hiện đề tài

Đọc đúng
Năm

TSHS
SL

%

Đọc
nhanh

SL

%

Đọc
hiểu


SL

%

Sau khi thực hiện đề tài
Đọc
diễn
cảm

Đọc đúng

SL

%

SL

%

Đọc
nhanh

SL

%

Đọc
diễn
cảm


Đọc
hiểu

SL

%

S
L

%

20142015

15

6

40.0

3 20.0

3 20.0

1

6.6

5


33.3

4 26.6

4 26.6

2 13.3

20152016

35

15 42.8

7 20.0

7 20.0

2

5.7

12 34.2

9 25.7

9 25.7

5 14.2


11 40.7

5 18.5

3 11.1

1

3.7

11 40.7

7 25.9

5 18.5

3 11.1

20162017

27

(HKI)

12


III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1 Kết luận

Khi áp dụng các biện pháp nêu trên vào thực tế giảng dạy tôi thấy các biện
pháp có tính hiệu quả cao, giúp cho kĩ năng đọc của học sinh tiến bộ rõ rệt. Đồng
thời phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập. Một khi các
em đọc tốt thì không những góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt mà còn
giúp các em học tốt hơn những môn học khác.
Như vậy, để giúp các em có kĩ năng đọc đúng, ngày càng đọc lưu loát, đọc
hiểu, đọc diễn cảm hơn thì giáo viên cần phối hợp các biện pháp trên một cách
thường xuyên, linh hoạt. Có làm như thế mới theo sát được từng học sinh, kịp thời
uốn nắn, sửa chữa những chỗ sai của từng em, giúp các em ngày một tiến bộ hơn
trong học tập. Bên cạnh đó chúng ta cần chú ý đến những vấn đề sau:
- Nắm được đặc điểm, tâm sinh lí của học sinh trong lớp.
- Phân hóa các đối tượng học sinh để có kế hoạch dạy phù hợp.
- Gặp gỡ cha mẹ học sinh trao đổi kết quả học tập của con em và yêu cầu phụ
huynh cần quan tâm nhắc nhở các em rèn đọc trong thời gian ở nhà. Hướng cho các
em nói đúng chính âm khi giao tiếp với mọi người, hạn chế phát âm theo tiếng địa
phương.
2. Kiến nghị
a) Đối với nhà trường
Hằng năm tổ chức hội thi “đọc thơ, văn diễn cảm” để các em học sinh của
trường có dịp cọ xát học hỏi lẫn nhau. Đồng thời cũng tạo ra không khí thi đua rèn
đọc tốt, khích lệ các em phấn đấu, luyện đọc để có giọng đọc ngày càng hay. Bên
cạnh đó, để các em được bộc lộ tài năng, óc sáng tạo của mình qua hội thi.
b) Đối với chuyên môn
Tổ chức chuyên đề về phương pháp dạy phân môn tập đọc.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã tiến hành rèn kỹ năng đọc
cho học sinh khi dạy phân môn Tập đọc ở lớp 3. Những ý kiến đó có thể còn thiếu
13


sót, cách giải quyết vẫn còn hạn chế, kính mong Ban giám khảo cùng đồng nghiệp

đóng góp ý kiến để chúng tôi dạy được tốt hơn nữa trong những năm tiếp theo.
Băng Adrênh, ngày 12 tháng 03 năm 2017
Người viết

Nguyễn Thị Thảo

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

14


…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………….….................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

TÀI LIỆU THAM KHẢO
15


1. “Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học” của Phó tiến sĩ Lê
Phương Nga – Đỗ Xuân Hảo- Lê Hữu Tĩnh .
2. Tài liệu “ Bồi dưỡng thường xuyên” cho giáo viên chu kì III - Tập II của
Bộ Giáo Dục & ĐT- Vụ Giáo Dục tiểu học.

3. “Dạy và học môn Tiếng Việt ở tiểu học” theo chương trình mới của Tiến sĩ
Nguyễn Trí .
4. Tài liệu “ Bồi dưỡng giáo viên” SGK lớp 3 theo chương trình tiểu học mới
của Đặng Huỳnh Mai.
5. Sách giáo khoa, Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, sách thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 3
6. Tài liệu “Để có một giờ dạy nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn, chất lượng hơn
và hiệu quả hơn” của Nguyễn Hữu Du - Sở Giáo dục và Đào tạo Vũng Tàu.
7. Chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học của Bộ Giáo dục và Đào
tạo.

16


17



×