Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế - thực tiễn áp dụng của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.43 KB, 102 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại là xu thế
nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Quá trình này đang diễn ra mạnh mẽ,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới
trong một sân chơi tự do cạnh tranh, công bằng. Hòa mình trong xu thế đó, từ
khi tiến hành đổi mới và chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường,Việt
Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức của khu vực và thế giới như Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á(ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEM),
Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), tham gia vào
CEPT và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và gần đây nhất là tổ chức
thương mại thế giới WTO(7/11/2006). Đây là cột mốc quan trọng đánh dấu
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc ký kết các
hiệp định thương mại tự do song phương cũng như đa phương đã tạo ra cơ hội
mở rộng quan hệ kinh tế, giao lưu với nhiều nước trên thế giới, đồng thời, cũng
đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế
giới. Nhất là trong bối cảnh tự do thương mại, hàng hóa từ các quốc gia khác
nhau có thể xâm nhập thị trường nội địa một cách tự do, bình đẳng và không
bị hạn chế nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh, thu lợi nhuận. Từ đó đã nảy
sinh ra những tiêu cực do cạnh tranh gây ra, nhiều doanh nghiệp sản xuất
đứng trước nguy cơ phá sản, đổ vỡ do sự xâm nhập ồ ạt của hàng hóa nhập
khẩu vào thị trường trong nước khi năng lực cạnh tranh của nhiều ngành sản
xuất nội địa còn yếu kém. Đây không chỉ là khó khăn đối với Việt Nam mà
còn là thách thức đối với nhiều nước đang phát triển. Do đó, bên cạnh xây
dựng thương hiệu thì tự vệ thương mại được xem là giải pháp hữu hiệu để bảo
hộ sản xuất trong nước.
Tiền thân của WTO là GATT đã đề ra biện pháp khẩn cấp đối với việc
nhập khẩu một số sản phẩm nhất định để bảo vệ nền sản xuất nội địa. Trên cơ
sở đó, WTO đã mở ra nhiều điều khoản liên quan đến các biện pháp tự vệ
1
thương mại trong hiệp định tự vệ thương mại cho phép các nước thành viên áp


dụng với những tiêu chí cụ thể khi cần. Với chiếc “van” này, nước nhập khẩu
có thể ngăn chặn tạm thời luồng hàng hóa nhập khẩu để giúp ngành sản xuất
nội địa tránh được những đổ vỡ. Nếu như ở các nước phát triển trên thế giới
như Mỹ, khối EU biện pháp tự vệ thương mại cũng như hệ thống pháp lý liên
quan đã hình thành từ rất sớm và được sử dụng hiệu quả thì ở Việt Nam, việc
sử dụng cơ chế này vẫn là vấn đề mới mẻ. Mặc dù thời gian qua, trong tiến
trình đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã có những nổ lực to lớn trong việc xây
dựng hệ thống pháp luật cho phù hợp với pháp luật thế giới cũng như tạo ra
hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình đặc biệt là các công cụ phòng vệ thương mại.
Thực tiễn thương mại của Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh
nhu cầu áp dụng biện pháp tự vệ trong trường hợp cần thiết trước sự nhập siêu
ồ ạt tràn lan của nhiều mặt hàng ngoại vào thị trường nội địa. Gần đây,Việt
Nam đã chính thức áp thuế tự vệ đối với mặt hàng dầu ăn nhập khẩu, đây là
lần đầu tiên Việt Nam chính thức áp dụng biện pháp tự vệ kể từ khi có Pháp
lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam được ban
hành năm 2002 . Đây được xem là tín hiệu đáng mừng cho các doanh nghiệp
trong nước để bảo vệ nền sản xuất nội địa trước xu hướng mở cửa hoàn toàn
theo lộ trình cam kết khi gia nhập vào WTO.
Xuất phát từ thực tiễn trên với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn
vấn đề bảo hộ nền sản xuất trong nước, cụ thể là biện pháp tự vệ trong thương
mại trước xu hướng mở cửa thị trường ngày càng sâu rộng, từ đó có thể đóng
góp một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại của
Việt Nam cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tự vệ thương mại của
các doanh nghiệp trong nước. Em quyết định chọn đề tài “Các biện pháp tự vệ
trong thương mại quốc tế - Thực tiễn áp dụng của Việt Nam” làm đề tài khóa
luận của mình.Với lượng kiến thức còn hạn chế, bên cạnh đó, đây là một đề tài
còn mới mẻ, nguồn tài liệu tham khảo ít ỏi nên khóa luận chắc không tránh
2
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, nhận xét của

các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận đúng như tên gọi của nó: Các biện
pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.
Về phạm vi nghiên cứu:
Khóa luận nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề cụ thể của chế định biện
pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, đó là:
- Pháp luật về tự vệ theo quy định của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
- Pháp luật về tự vệ của một số quốc gia, khu vực điển hình trên thế giới.
- Pháp luật và thực tiễn sử dụng biện pháp tự vệ thương mại của Việt
Nam trong thời gian qua.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là :
- Nghiên cứu những vấn đề cụ thể của chế định các biện pháp tự vệ trong
thương mại quốc tế theo quy định của WTO, theo pháp luật một số nước và
pháp luật Việt Nam.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng của Việt Nam trong thời gian và những
nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra những kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về tự vệ
thương mại của Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các biện
pháp tự vệ thương mại trong thời kỳ mở cửa, hội nhập.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ từng vấn đề
tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như so sánh, phân tích, tổng
hợp, thống kê…dựa trên sự vận dụng các công trình nghiên cứu khoa học đã
được công bố, các văn bản pháp luật quốc tế, của các nước có liên quan và
Việt Nam, các tài liệu tham khảo. Qua đó cho phép tìm hiểu các quy định
pháp luật liên quan đến tự vệ thương mại của Tổ chức thương mại thế giới,
quy định của pháp luật về tự vệ thương mại của một số nước, quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp tự vệ của Việt Nam để từ đó có cái

nhìn toàn diện hơn về vấn đề nghiên cứu.
3
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Bảng chữ
cái viết tắt, nội dung của khóa luận gồm có hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về các biện pháp tự vệ trong thương
mại quốc tế.
Chương 2 : Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại
quốc tế ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tự vệ
thương mại của Việt Nam.
4
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP
TỰ VỆ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên tắc của việc áp dụng các
biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
1.1.1 Khái niệm các biện pháp tự vệ trong thương mại
Tiền đề cho sự hình thành các quy định của pháp luật về biện pháp tự vệ
trong thương mại quốc tế là “điều khoản giải thoát nghĩa vụ” được quy định
tại điều XIX Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT).
Lý do là trong hoàn cảnh bắt buộc phải mở cửa thị trường và thực thi các
chính sách tự do hóa thương mại khuôn khổ tổ chức thương mại thế giới
(WTO), trong đó có nghĩa vụ về thuế. Các quốc gia thành viên bên cạnh việc
được hưởng những lợi ích không thể phủ nhận do chính sách tự do hóa
thương mại mang lại như mở rộng thị trường, thúc đẩy phát triển, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế… thì cũng phải gánh chịu những thách thức và rủi ro không
nhỏ cho nền kinh tế mỗi nước bởi tác động của mặt trái chính sách tự do hóa,
đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại hàng hóa. Một trong những hệ quả của
việc thực hiện các cam kết về nghĩa vụ đó là các quốc gia thành viên phải
chịu sức ép của cạnh tranh ngày một gia tăng khi gia nhập vào sân chơi mang

tính chất toàn cầu hóa, nhất là các quốc gia có trình độ kém phát triển thì
những tác động của chính sách tự do hóa được thể hiện rõ rệt nhất. Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) trong các Hiệp định đa biên của mình, ngoài việc
thiết lập những quy định mang tính chất nghĩa vụ thì cũng đã mở ra nhiều
điều khoản nhằm giải thoát các nước thành viên trong những trường hợp đặc
biệt. Đó là những ngoại lệ cho phép Chính phủ các nước thành viên thực hiện
những hành động nhất định nhằm bảo vệ quyền lợi của mình khi bị tác động
bởi chính sách tự do hóa thương mại.
Điều XIX GATT 1994 quy định:
Biện pháp khẩn cấp đối với việc nhập khẩu các sản phẩm nhất định
5
1. a) Nếu do hậu quả của những diễn tiến không lường trước được và
do kết quả của những nghĩa vụ, trong đó có những nhân nhượng thuế quan
của một bên ký kết theo Hiệp định này, một sản phẩm được nhập khẩu vào
lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng gia tăng và với các điều kiện đến mức
gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất
những sản phẩm tương tự hay sản phẩm cạnh tranh trực tiếp trong nước, bên
ký kết đó có quyền ngừng hoàn toàn hay một phần các cam kết của mình, rút
bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng thuế quan, đối với sản phẩm đó và trong thời
gian cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục tổn hại đó.
b) Nếu một bên ký kết đã chấp nhận một sự nhân nhượng liên quan tới
một sự ưu đãi và sản phẩm là đối tượng ưu đãi được nhập khẩu vào lãnh thổ
của bên ký kết có tình huống như nêu tại điểm a) của khoản này tới mức mà
nhập khẩu đó đã gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các
nhà sản xuất những sản phẩm tương tự hay trực tiếp cạnh tranh là các nhà
sản xuất trên lãnh thổ của bên ký kết đang được hưởng hay đã được hưởng
sự ưu đãi đó, bên ký kết này có thể đề nghị bên ký kết đang nhập khẩu và bên
ký kết đang nhập khẩu có quyền tạm ngừng hoàn toàn hay một phần các cam
kết của mình, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng thuế quan đối với sản phẩm
đó và trong thời gian cần thiết để ngăn ngừa và khắc phục tổn hại đó ”

1
Như vậy, nếu do hậu quả của những tiến triển không thể lường trước
được và do ảnh hưởng của các cam kết đối với một bên ký kết theo Hiệp định
GATT, kể cả các nhượng bộ về thuế, bất kì sản phẩm nào được nhập khẩu
vào lãnh thổ của bên kí kết đó với số lượng tăng và trong các điều kiện gây ra
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước
hoặc sản phẩm cạnh tranh trực tiếp trong nước của lãnh thổ đó thì bên kí kết
này được quyền dừng việc thực hiện toàn bộ hay một phần nghĩa vụ hoặc rút
lại hoặc sửa đổi nhượng bộ liên quan đến sản phẩm đó ở mức độ và trong
khoảng thời gian có thể là cần thiết để ngăn chặn hay khắc phục thiệt hại này.
Trên cơ sở Điều XIX GATT, WTO trong hiệp định về tự vệ (SG) - một
1
Xem thêm Diều 19 GATT 1994
6
trong các hiệp định đa biên của tổ chức này, đã kế thừa và quy định rõ ràng,
cụ thể đầy đủ về mục đích; về thủ tục điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ
thương mại một cách tạm thời theo nguyên tắc không phân biệt đối xử; về bồi
thường thiệt hại thương mại cho các nước có lợi ích thương mại bị ảnh hưởng
xấu bởi việc áp dụng đó.
Như vậy, biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa trước hết mang đặc
điểm của một hành vi phòng vệ thông thường đó là tự bảo vệ mình nhằm
chống lại những tác động gây hại từ bên ngoài. Đối tượng mà biện pháp tự vệ
hướng đến là những hành vi đến từ bên ngoài và những hành vi này có thể
gây ra thiệt hại tổn thất cho chủ thể của những hành vi phòng vệ
1
[xem nhận
diện về tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hóa] nên tự vệ là những hành
vi phòng vệ chính đáng. Trong thương mại quốc tế, các biện pháp này bao
gồm đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia, biện pháp tự vệ, chống bán phá giá,
chống trợ cấp,đây được xem là những biện pháp nhằm mục đích đảm bảo

thương mại công bằng.
Biện pháp tự vệ theo tinh thần của GATT và Hiệp định tự vệ thì tự vệ
thương mại là biện pháp khẩn cấp đối với việc nhập khẩu một sản phẩm nhất
định khi mà sản phẩm đó được nhập vào nước nhập khẩu với số lượng gia
tăng đột biến và với các điều kiện đến mức gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại nghiêm trọng cho nhà sản xuất những sản phẩm tương tự hoặc sản phẩm
cạnh tranh trực tiếp trong nước.
Thiệt hại nghiêm trọng ở đây được hiểu là sự giảm sút đáng kể của
ngành công nghiệp trong nước. Để xác định có hay không thiệt hại nghiêm
trọng cần phải làm rõ và căn cứ vào các chỉ tiêu như lượng hàng hóa nhập
khẩu tăng tuyệt đối hay tương đối; lượng gia tăng nhập khẩu lấy đi bao nhiêu
phần trăm thị phần trong nước; sự giảm sút thực tế về sản lượng, doanh số, thị
phần, lợi nhuận, lỗ, năng suất, tỷ suất đầu tư, nhân công, việc làm
Ngành công nghiệp trong nước bị thiệt hại do sản phẩm nhập khẩu cạnh
tranh không chỉ là những mặt hàng giống hệt nhau về nội dung mà còn mở
rộng ra đối với những hàng hóa tương tự, những hàng hóa có khả năng cạnh
7
tranh trực tiếp với hàng hóa nhập khẩu của nước đó.
1.1.2 Đặc điểm của các biện pháp tự vệ
Thứ nhất, tự vệ trong thương mại là biện pháp được áp dụng đối với
hàng hóa, không áp dụng đối với dịch vụ, sở hữu trí tuệ hay đầu tư.
2
Mỗi nước nhập khẩu là thành viên của WTO đều có quyền áp dụng biện
pháp tự vệ miễn là tuân thủ theo các quy định chung của WTO về điều kiện
thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ. Các doanh nghiệp có thể yêu cầu
Chính phủ áp dụng biện pháp này để bảo vệ lợi ích của mình trước hàng hóa
nhập khẩu từ nước ngoài tràn vào trong những tình huống cụ thể.
Thứ hai, biện pháp tự vệ trong thương mại là một trong ba trụ cột của hệ
thống các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp,
tự vệ) và được áp dụng để bảo vệ thị trường nội địa trước sự xâm nhập của

hàng hóa nước khác. Biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp được áp
dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không công
bằng của hàng hóa nhập khẩu trong khi đó biện pháp tự vệ lại được áp dụng
trong điều kiện thương mại hoàn toàn bình thường, không có hành vi vi phạm
pháp luật hay cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ ba, tự vệ thương mại không phải một biện pháp miễn phí .
Đây là biện pháp được thừa nhận trong thương mại quốc tế song đi
ngược lại mục tiêu “tự do hóa thương mại” của WTO nên tự vệ thương mại là
biện pháp phải “trả tiền”. Có nghĩa là, các nước được phép áp dụng nó để bảo
vệ nghành sản xuất của nước mình nhưng phải “trả giá” cho những thiệt hại
mà biện pháp này gây ra cho các nhà sản xuất nước ngoài như một hình thức
cân bằng cam kết thương mại với nước khác
3
. Nước áp dụng biện pháp tự vệ
thương mại phải bồi thường thương mại cho các nước có hàng hóa bị áp dụng
biện pháp này theo các điều kiện nhất định. Nếu nước áp dụng không tuân
2
Xem án phẩm Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, hệ thống ngắn gọn về WTO và các cam kết gia nhập WTO
của Việt Nam.Tr3.
33
xem ấn phẩm Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, hệ thống ngắn gọn về WTO và các cam kết gia
nhập WTO của Việt Nam., Tr.5.
8
thủ,WTO cho phép các nước liên quan được áp dụng biện pháp trả đũa.
Thứ tư, tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa là quyền của bảo hộ của quốc
gia,vùng lãnh thổ với nhà sản xuất trong nước, khi thỏa mãn các điều kiện
nhất định được ghi nhận tại pháp luật quốc gia và đặt trong mối tương quan
với những quy định của pháp luật quốc tế: i) Có sự gia tăng đột biến của hàng
hóa nhập khẩu; ii) Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực
tiếp với hàng hóa đó bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng ; và iii)

Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt
hại hoặc đe dọa thiệt hại nói trên
4
. Biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa
được áp dụng một cách không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hóa nhập
khẩu liên quan.Việc tăng đột biến lượng nhập khẩu gây thiệt hại nói trên phải
là hiện tượng mà nước nhập khẩu không thể lường trước được khi đưa ra cam
kết trong khuôn khổ WTO.
1.1.4 Ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương
mại quốc tế
Được thừa nhận là một công cụ bảo hộ thương mại hợp pháp, một biện
pháp tự vệ khi được sử dụng sẽ đem lại những tác động sau:
Thứ nhất, biện pháp tự vệ được xem là “chiếc van an toàn” giúp nước
nhập khẩu có thể hạn chế tạm thời luồng nhập khẩu, giảm nhẹ hay trợ giúp
khắc phục thiệt hại gây ra do việc nhập khẩu hàng hoá tăng một cách bất
thường, không thể lường trước vào thị trường nội địa nhằm tránh những đổ vỡ
cho ngành sản xuất nội địa.
Khi thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại, các nước phải chấp
nhận từ bỏ sự bảo hộ của mình đối với các mặt hàng sản xuất trong nước và
chấp nhận rằng hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào sẽ được hưởng các lợi
ích tương tự và bình đẳng như hàng hoá trong nước theo nguyên tắc đối xử
quốc gia. Tuy nhiên, trong các quy định của WTO còn có những ngoại lệ nhất
định nhằm đảm bảo quyền lợi của các thành viên trong những trường hợp
4
xem Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam tr.4.
9
khẩn cấp như cho phép các bên tham gia ký kết sử dụng các biện pháp tự vệ
trong một khoảng thời gian hạn chế nhất định, không nhằm mục đích bảo hộ
lâu dài cho sản xuất nội địa mà chỉ để khắc phục hay giảm nhẹ những thiệt hại
cho các doanh nghiệp trong nước trước tình huống bất thường từ việc hàng

hoá nước ngoài nhập khẩu không hạn chế về số lượng vào thị trường nội địa
của họ. Các biện pháp tự vệ sẽ chấm dứt khi mối nguy hiểm trong tình huống
đặc biệt không còn nữa.
Thứ hai, các biện pháp tự vệ góp phần tăng cường, khuyến khích tính
cạnh tranh thông qua việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất chứ không phải vì mục
đích ưu đãi, bảo hộ ngành sản xuất trong nước hay hạn chế sự cạnh tranh của
hàng hoá nước ngoài trong thị trường nội địa.
Đây là một quy định mang tính chất nhân nhượng và ưu đãi dành cho
các nước đang phát triển, các nước đang trong thời kỳ chuyển tiếp mà nền
công nghiệp của họ chưa sẵn sàng và cũng chưa đủ sức đương đầu với cạnh
tranh quốc tế. Theo đó, một khoảng thời gian hợp lý sẽ dành cho họ để họ
tháo gỡ những khó khăn trước mắt, tìm ra đối sách lâu dài để nâng cao sức
hấp dẫn của sản phẩm mà họ làm ra, thúc đẩy cạnh tranh với hàng nhập khẩu
thông qua những biện pháp thích hợp để thu hút sự lựa chọn của người tiêu
dùng đối với hàng nội địa, thông qua chiến lược tự điều chỉnh lại cơ cấu sản
xuất, nâng cao trình độ sản xuất, cải tiến quy trình công nghệ để có thể thích
ứng được với sự thay đổi trên. Do vậy, các biện pháp tự vệ chỉ mang tính chất
nhất thời và từng bước. Trong thời hạn áp dụng sẽ được Chính phủ nới lỏng
và dần tiến tới xoá bỏ. Mặt khác, những quy tắc của GATT cũng thừa nhận
rằng Chính phủ của các nước đang phát triển, trong khi theo đuổi những
chương trình và chính sách phát triển kinh tế có thể thấy cần hỗ trợ cho những
ngành sản xuất mới hoặc cho sự phát triển hơn nữa những ngành sản xuất
hiện có được quyền áp dụng các biện pháp tự vệ. Các quy tắc về tự vệ cho
mục đích này thường chứa đựng những điều kiện nghiêm ngặt hơn so với mục
đích trên.
10
Bên cạnh mặt tích cực, việc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại có
thể gây ra những tác động xấu như:
Việc áp dụng biện pháp tự vệ có thể dẫn đến sự bảo hộ cho hàng hóa nội
địa một cách tràn lan, gây ra tâm lý ỷ lại của các nhà sản xuất trong nước làm

giảm khả năng cạnh tranh, phát triển thương hiệu của ngành sản xuất nội địa.
Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp tự vệ sẽ làm giảm lượng hàng nhập khẩu, hạn
chế cơ hội chongười tiêu dùng lựa chọn sản phẩm tương tự với giá rẻ hơn.
Mặt khác, về nguyên tắc, các biện pháp tự vệ không đánh vào hàng xuất
khẩu của một nước cụ thể mà áp dụng với một hàng hóa cụ thể của hàng loạt
các nước xuất khẩu vào thị trường nội địa. Điều này có thể dẫn đến các nước
có mặt hàng bị áp dụng phát đơn kiện, làm ảnh hưởng đến quan hệ thương
mại giữa các quốc gia với nhau. Hơn nữa, nước nhập khẩu có thể bị trả đũa
khi các bên không đi đến thỏa thuận về việc bồi thường do áp dụng biện pháp
tự vệ.
1.1.5 Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ
1.1.5.1 Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Đây là nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế, thể hiện sự bình đẳng
giữa các quốc gia trong quan hệ hợp tác kinh tế mà nội dung chủ yếu của nó
đặt ra yêu cầu các quốc gia không được phân biệt đối xử đối với hàng hóa,
dịch vụ của nhà cung cấp quốc gia khác. Theo nguyên tắc này, biện pháp tự
vệ sẽ được áp dụng lên một loại hàng hóa nhập khẩu không phân biệt xuất xứ
của hàng hóa đó.
Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có ngoại lệ nhất định: Hiệp định về tự
vệ thương mại của WTO quy định “ Trong trường hợp hạn ngạch được phân
bổ giữa các nước xuất khẩu, Thành viên áp dụng hạn chế này có thể tìm kiếm
một thỏa thuận liên quan tới việc phân bổ hạn ngạch cho tất cả các Thành
viên có lợi ích cung cấp chính yếu đối với sản phẩm. Trong trường hợp không
áp dụng được phương pháp này, Thành viên nhập khẩu sẽ phân bổ cho các
Thành viên có lợi ích cung cấp chủ yếu đối với sản phẩm này theo thị phần,
11
tính theo tổng giá trị hay số lượng sản phẩm được nhập từ các Thành viên
này trong một thời gian đại diện trước đó và có tính đến bất cứ một yếu tố
đặc biệt nào đã hoặc có thể ảnh hưởng đến thương mại hàng hóa này”
5

.
Theo đó, nước nhập khẩu khi áp dụng biện pháp tự vệ dưới hình thức
hạn chế số lượng thì phải tham khảo ý kiến của các nước thành viên khác có
lợi ích đáng kể liên quan đến hàng hóa bị áp dụng tự vệ thương mại để đưa ra
tỉ lệ phân bổ hạn ngạch.
1.1.5.2 Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ trong phạm vi và mức
độ cần thiết
Mục đích chính của các biện pháp tự vệ là nhằm giúp các ngành sản xuất
có thời gian điều chỉnh cơ cấu, hợp lý hóa sản xuất để khắc phục thiệt hại,
đứng vững và thích nghi dần với sự cạnh tranh khốc liệt của hàng nhập khẩu
bên ngoài mà ngành phải đương đầu sau khi xóa bỏ những hạn chế. Do đó,
Hiệp định SG tại khoản 1 điều 5 quy định: “Một Thành viên sẽ chỉ áp dụng
biện pháp tự vệ trong giới hạn cần thiết để ngăn cản hay khắc phục tổn hại
nghiêm trọng và để tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh”. Thời hạn cho việc áp
dụng này theo quy định của Hiệp định SG tối đa là 8 năm cho một sản phẩm,
đối với các nước đang phát triển có thể đề ra thời hạn tối đa là 10 năm.
Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ áp dụng, nếu những căn cứ điều kiện
cho sự tồn tại của nó không còn thì nước áp dụng phải dỡ bỏ ngay hoặc đình
chỉ biện pháp tự vệ đang áp dụng cho một loại hàng hóa đó. Trong khi đang
áp dụng, nước áp dụng phải tiến hành rà soát các biện pháp tự vệ để đảm bảo
quyền lợi cho nước bị áp dụng đồng thời đảm bảo sự luân chuyển hàng hóa
diễn ra bình thường.
5
Khoản 2a, Điều 5 Hiệp định về các biện pháp tự vệ thương mại 1994
12
1.1.5.3 Nguyên tắc ưu tiên cho các nước đang phát triển
Với 3/4 thành viên là các quốc gia đang phát triển và các quốc gia có nền
kinh tế chuyển đổi, WTO đã đưa ra nguyên tắc ưu tiên nhằm khuyến khích
phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành cho các nước này những chế độ
đãi ngộ đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn vào hệ

thống thương mại đa biên. Để thực hiện nguyên tắc này, WTO có những quy
định mang tính chất linh hoạt và ưu đãi nhất định cho các nước đang phát
triển, các nước có nền kinh tế chuyển đổi trong việc thực hiện các hiệp định
của WTO như dành thêm một số quyền và không phải thực một số nghĩa vụ.
Theo nguyên tắc này, Hiệp định SG quy định: “Các biện pháp tự vệ không
được áp dụng để chống lại hàng hóa có xuất xứ từ một Thành viên đang phát
triển, nếu thị phần hàng hóa có liên quan được nhập từ Thành viên này không
vượt quá 3%, với điều kiện là tổng số thị phần nhập khẩu từ các Thành viên
đang phát triển, có thị phần nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3%, không vượt quá
9% tổng kim ngạch nhập khẩu nhập khẩu của hàng hóa liên quan”
6
. Ngoài ra,
một Thành viên đang phát triển có quyền kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp tự
vệ trong thời hạn không quá 2 năm sau khi hết thời hạn tối đa là 8 năm.
1.1.5.4 Nguyên tắc đảm bảo bồi thường tổn thất thương mại
Biện pháp tự vệ trong nhập khẩu là một biện pháp “khắc phục thương
mại”, được áp dụng trong điều kiện cạnh tranh hoàn toàn bình thường, nên
khác với chống bán phá giá, chống trợ cấp của Chính phủ là những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, một nước thành viên khi áp dụng biện
pháp tự vệ phải đảm bảo bồi thường thỏa đáng cho nước bị áp dụng do những
thiệt hại mà biện pháp này gây ra cho nhà sản xuất nước ngoài.
1.2 Pháp luật về tự vệ trong thương mại quốc tế
Kết quả của Vòng Uruguya về thương mại đa biên là sự ra đời của tổ
chức thương mại thế giới (WTO) và một hệ thống các quy tắc về thương mại
đa biên được thiết lập. Trong vòng đàm phán đó, một thỏa thuận mới về điều
6
Khoản 1 Điều 9 Hiệp định về các biện pháp tự vệ thương mại 1994
13
khoản XIX GATT đối với các biện pháp tự vệ được thông qua có giá trị áp
dụng đối với tất cả các quốc gia thành viên.

Pháp luật về tự vệ thương mại mà cụ thể là tự vệ trong nhập khẩu hàng
hóa được xây dựng với tên gọi “Hiệp định về các biện pháp tự vệ” nhằm bảo
vệ các quốc gia nhập khẩu khỏi những tác động khi tham gia vào một thiết
chế thương mại mang tính chất toàn cầu. Bên cạnh đó, Hiệp định cũng đưa ra
những quy định về việc bảo vệ quyền lợi của quốc gia cung ứng hàng hóa khi
bị quốc gia nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ.
1.2.1 Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Hiệp định SG cho phép quốc gia nhập khẩu được quyền áp dụng biện pháp
tự vệ cho một sản phẩm sau khi cơ quan có thẩm quyền điều tra của thành viên
đó xác định được là sản phẩm đó được nhập vào lãnh thổ của mình khi có sự gia
tăng nhập khẩu, tương đối hay tuyệt đối so với sản xuất nội địa, và theo đó có
thể gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp sản
xuất nội địa sản xuất ra các sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh
trực tiếp với sản phẩm đó. Biện pháp được phép áp dụng trong trường hợp này là
áp dụng biện pháp hạn chế định lượng (biện pháp phi thuế quan) hoặc là tăng
mức thuế đã cam kết vượt lên mức thuế trần (biện pháp thuế quan).
Hiệp định cũng quy định “Một thành viên sẽ không tìm kiếm, áp dụng
hay duy trì bất cứ một hạn chế xuất khẩu tự nguyện nào, thỏa thuận phân
chia thị trường hay bất cứ biện pháp tương tự nào khác đối với việc xuất
khẩu và nhập khẩu. Những biện pháp này bao gồm những hành động do một
thành viên đơn phương áp dụng cũng như là những hành động theo thỏa
thuận, hiệp định hay hiểu biết giữa hai hay nhiều thành viên”
7
. Theo đó, một
thành viên khi áp dụng biện pháp tự vệ sẽ không được áp dụng biện pháp nào
khác như hạn chế xuất khẩu tự nguyện hay hàng rào kỹ thuật.
Như vậy, trong trường hợp cần thiết phải áp dụng biện pháp tự vệ
thương mại thì một thành viên nhập khẩu có quyền sử dụng một trong các
biện pháp cụ thể sau:
7

Khoản 1b Điều 11 Hiệp định về các biện pháp tự vệ thương mại 1994
14
Thứ nhất : Biện pháp thuế quan (biện pháp tăng thuế so với mức thuế
trần đã cam kết).
Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu là tên gọi chung để chỉ hai loại thuế
trong lĩnh vực thương mại quốc tế: thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu. Thuế
quan là khoản thu của nhà nước đánh vào hàng hóa khi hàng hóa đó di chuyển
từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác
8
. Đây là công cụ rất quan
trọng để nhà nước thực hiện chính sách kinh tế của mình, việc đánh thuế quan
giúp kiểm soát được hàng nhập khẩu vào thị trường nội địa. Ngoài chức năng
điều tiết sản xuất, nhập khẩu và hướng dẫn tiêu dùng; là nguồn thu quan trọng
của ngân sách nhà nước. Thuế quan có tác dụng bảo hộ hàng hóa tương tự,
ngành kinh tế hàng hóa tương tự trong nước. Việc đánh thuế cao vào hàng
hóa nhập khẩu sẽ giúp các nhà sản xuất trong nước có thể cạnh tranh được với
hàng nhập khẩu. Đặc biệt là giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
các ngành non trẻ có thời gian trưởng thành và sinh lời để từ đó có thể cạnh
tranh với hàng nhập khẩu.
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới trong khuôn khổ WTO, thông
qua các vòng đàm phán về lộ trình cắt giảm thuế quan, thuế suất ràng buộc sẽ
được đưa vào danh mục thuế quan của mỗi quốc gia và được công bố rộng
rãi. WTO từ khi thành lập đã có 22.500 trang danh mục thuế quan cam kết
của các nước đối với một số loại hàng hóa cụ thể được thỏa thuận trong
khuôn khổ WTO; trong đó ghi rõ cam kết của từng nước theo danh mục hàng,
mã thuế, thuế suất cam kết, nhất là các cam kết giảm thuế và mức thuế trần
đối với hàng hóa nhập khẩu. Đối với mức thuế trần, đó chính là các cam kết
không tăng thuế vượt quá một mức đã xác định, được gọi là mức trần, thường
là mức đang được áp dụng trên thực tế
9

. Những cam kết này có giá trị ràng
buộc đối với các nước thành viên. Mỗi nước tham gia thỏa thuận phải áp dụng
thống nhất cam kết của mình đối với hàng hóa nhập khẩu của tất cả các nước
thành viên WTO phù hợp với nguyên tắc tối huệ quốc và những lộ trình cắt
8
Xem giáo trình luật thương mại quốc tế, Đại học luật Hà Nội, tr.97
9
Xem giáo trình luật thương mại quốc tế, Đại học luật Hà Nội, tr.97
15
giảm thuế quan (nếu có) căn cứ vào kết quả của những vòng đàm phán tiếp
theo sau khi gia nhập. Để đảm bảo kết quả đàm phán về thuế và nhằm mở
rộng thương mại một cách ổn định, WTO đưa ra quy định cấm các nước
thành viên đánh thuế cao hơn mức thuế suất mà họ đã cam kết giảm hoặc giữ
nguyên và không cho phép các nước thành viên đơn phương tự ý thay đổi,
nâng thuế suất nhượng bộ này
10
.
Tuy nhiên, WTO cũng quy định một số trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn
trong trường hợp ngành sản xuất trong nước gặp khó khăn do lượng nhập
khẩu tăng đột biến khi hàng hóa nước ngoài được nhập khẩu tự do do hệ quả
của việc cắt giảm thuế quan và xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan, thì quốc
gia nhập khẩu có quyền sử dụng biện pháp thuế quan bằng cách tăng thuế
nhập khẩu nếu sau khi tiến hành điều tra, có đủ cơ sở để áp dụng. Mức thuế
tăng trong trường hợp này phải hợp lý, chỉ được duy trì trong thời gian cần
thiết và phải được dỡ bỏ dần. Mục đích của việc áp dụng biện pháp thuế quan
là để giúp nước nhập khẩu tạm thời hạn chế nhập khẩu, có thời gian điều
chỉnh cơ cấu sản xuất, phục hồi nền sản xuất và thích nghi dần với sự cạnh
tranh gia tăng của hàng nhập khẩu chứ không nhằm mục đích nào khác.
Thứ hai: Biện pháp hạn chế định lượng (Biện pháp phi thuế quan).
Biện pháp hạn chế định lượng bao gồm các hình thức: hạn ngạch; giấy

phép; cấm xuất khẩu, nhập khẩu;… do Chính phủ của một thành viên áp dụng
nhằm hạn chế số lượng nhập khẩu từ những thành viên khác.
Hạn chế định lượng là một trong những biện pháp được sử dụng để bảo
vệ ngành sản xuất trong nước chống lại sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu.
Đây là rào cản cứng, trực tiếp trong thương mại quốc tế, đi ngược lại với mục
tiêu tự do hóa thương mại trong GATT/WTO
11
.
Điều XI GATT quy định: ngoài thuế quan, thuế nội địa và các loại phí
khác, các nước thành viên không được phép tạo ra hay duy trì những biện
pháp như hạn ngạch, giấy phép hay các biện pháp khác nhằm hạn chế số
lượng nhập khẩu từ những thành viên khác, hay hạn chế số lượng xuất khẩu
10
Xem giáo trình luật thương mại quốc tế, Đại học luật Hà Nội. Tr.56
11
Xem giáo trình luật thương mại quốc tế, Đại học luật Hà Nội, Tr.54
16
hoặc bán để xuất khẩu tới các thành viên khác.
Như vậy, về nguyên tắc, biện pháp hạn chế định lượng bị cấm hoàn toàn
trong khuôn khổ WTO. Tuy nhiên, GATT 1994 vẫn cho phép các nước thành
viên áp dụng hạn chế định lượng trong một số trường hợp ngoại lệ. Cụ thể là
khi ngành sản xuất trong nước bị hoặc có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng do
sự gia tăng ồ ạt của hàng nhập khẩu cùng loại, thì biện pháp hạn chế số lượng
được cho phép áp dụng như là biện pháp tự vệ trong thời hạn nhất định để
ngăn chặn thiệt hại hoặc cứu vãn ngành sản xuất trong nước
12
; Một số trường
hợp khác như khi một nước thành viên khác được cho phép áp dụng biện
pháp trả đũa đối với nước thành viên khác vì không tuân thủ nghĩa vụ của
GATT thì biện pháp hạn chế định lượng cũng được cho phép áp dụng trong

một chừng mực nhất định
13
; Hạn chế định lượng cũng được cho phép áp dụng
với mục đích bảo vệ cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia
14
, một số
ngoại lệ chung như để bảo vệ sức khỏe con người, động vật, bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên, vì lý do quốc phòng an ninh lương thực (Điều XX, XXI
GATT 1994). Khi áp dụng biện pháp hạn chế số lượng, các quốc gia phải tuân
thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Hiệp định về các biện pháp tự vệ thương mại tại Khoản 1 Điều 5 quy
định: “Nếu một biện pháp hạn chế định lượng được sử dụng, thì biện pháp
này sẽ không làm giảm số lượng nhập khẩu dưới mức nhập khẩu trung bình
của 3 năm đại diện gần nhất có số liệu thống kê, trừ khi có sự biện minh rõ
ràng rằng cần có một mức khác để ngăn ngừa hoặc khắc phục thiệt hại
nghiêm trọng” .
Như vậy, để áp dụng biện pháp hạn chế định lượng thì quốc gia nhập
khẩu phải đảm bảo rằng biện pháp này sẽ không làm giảm số lượng nhập
khẩu dưới mức nhập khẩu trung bình của 3 năm đại diện gần với thời điểm áp
dụng và phải có số liệu thống kê cụ thể về mức nhập khẩu của 3 năm đó, hay
một mức khác thấp hơn mức nhập khẩu trung bình của 3 năm gần nhất nếu có
12
Điều XIX Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994
13
Khoản 2 Điều 23 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994
14
Điều 18 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994
17
bằng chứng rõ ràng cần phải áp dụng như vậy để ngăn ngừa hoặc khắc phục
thiệt hại nghiêm trọng.

Hiệp định cũng quy định nước nhập khẩu có thể áp dụng hạn chế này
bằng việc tiến hành đàm phán với các nước xuất khẩu có lợi ích chính yếu đối
với sản phẩm đó để thỏa thuận lại về việc phân bổ hạn ngạch dựa trên hạn
ngạch đã được phân bổ trước đó giữa các nước xuất khẩu. Trong trường hợp
không thỏa thuận được, nước nhập khẩu sẽ phân bổ các phần hạn ngạch cho
các thành viên có lợi ích cung cấp chủ yếu sản phẩm đó tính theo tổng giá trị
hoặc số lượng sản phẩm được nhập từ các thành viên này trong một thời gian
đại diện trước đó. Nước nhập khẩu khi thực hiện việc phân bổ phải tính đến
yếu tố đặc biệt có thể gây ảnh hưởng đến thương mại hàng hóa đó.
Hạn ngạch hay quotas là quy định của nhà nước về số lượng hoặc giá trị
hàng hóa cao nhất được phép nhập khẩu trong một thời gian nhất định
(thường là một năm)
15
.
So với biện pháp thuế quan thì hạn ngạch có xu hướng ít được sử dụng
hơn trong thương mại quốc tế vì tính ưu việt của thuế quan so với hạn ngạch
nhập khẩu thể hiện qua:
Một là, việc áp dụng thế quan mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Hai là, thuế quan minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán hơn so với hạn ngạch.
Việc điều hành, quản lý, phân bổ hạn ngạch nhập khẩu là một bài toán khó và
dễ kéo theo nhiều vấn nạn như tham ô, hối lộ
Ba là, về lý thuyết, nếu cả thuế quan và hạn ngạch đều hướng đến mục
tiêu hạn chế lượng nhập khẩu nhất định thì hạn ngạch làm giá trong nước bị
đẩy lên rất nhiều so với thuế quan. Do hạn ngạch là “hạn chế cứng”, nước
xuất khẩu sẽ không thể tăng số lượng xuất khẩu vượt quá hạn ngạch cho dù có
cố gắng cải thiện về chất lượng và giá cả sản phẩm xuất khẩu tới mức nào
chăng nữa
16
. Hơn nữa, khi nước nhập khẩu áp dụng biện pháp hạn ngạch thì
số lượng và đối tượng hạn chế hoàn toàn phụ thuộc vào nước nhập khẩu và

thường không minh bạch, nên có nhiều khả năng nước xuất khẩu sẽ bị phân
15
Xem Giáo trình luật kinh tế quốc tế, Đại học kinh tế Đại học quốc gia Hà Nội
16
Xem giáo trình luật thương mại quốc tế, Đại học luật Hà Nội,tr.54
18
biệt đối xử. Vì thế, tác động bảo hộ của hạn ngạch lớn hơn, nguy cơ gây bóp
méo thương mại nhiều hơn và có thể dẫn đến những “cuộc chiến thương mại”
không cần thiết.
Tóm lại, trong trường hợp cần áp dụng biện pháp tự vệ thương mại thì
nước nhập khẩu cần cân nhắc lựa chọn một trong hai biện pháp hoặc là tăng
thuế so với mức thuế trần đã cam kết hoặc là biện pháp hạn ngạch. Tuy nhiên,
trong tự do hóa thương mại hiện nay, các quốc gia có xu hướng sử dụng biện
pháp thuế quan truyền thống hoặc kết hợp giữa hai biện pháp hạn ngạch và
thuế quan tạo ra biện pháp hạn ngạch thuế suất thuế quan, tức là mức thuế sẽ
tăng dần lên tương ứng với số lượng hàng hóa nhập khẩu.
1.2.2 Điều kiện áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế, một biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng khi hội
đủ ba điều kiện sau:
Thứ nhất: Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số
lượng.
Điều kiện đầu tiên để quốc gia nhập khẩu được áp dụng biện pháp tự vệ
là số lượng hàng nhập khẩu tăng đột ngột, một cách tương đối hay tuyệt đối
17
.
Sự gia tăng đó bao gồm sự gia tăng một cách tương đối hay tuyệt đối về số
lượng, khối lượng hay giá trị của loại hàng hoá đó so với số lượng, khối lượng
hay giá trị của hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản
xuất trong nước. Hàng hóa nhập khẩu được coi là tăng đột biến về số lượng
khi có sự gia tăng tuyệt đối (ví dụ số lượng hàng hóa nhập khẩu tăng gấp đôi,

gấp ba) hay tương đối (ví dụ lượng hàng hóa nhập khẩu dường như không
tăng, nhưng cùng thời điểm đó số lượng hàng nhập khẩu lại giảm mạnh một
cách rõ rệt) và phải diễn ra một cách đột ngột, nhanh, tức thời. Đối với giá trị,
cần lưu ý là sự gia tăng về giá trị nhập khẩu không phải là yếu tố bắt buộc để
điều tra trong vụ việc tự vệ (ví như Vụ Giầy dép của Achentina)
18
.
Điều XIX GATT 1994 đưa ra khái niệm “không lường trước được”,
17
Điều 2 Hiệp đinh về tự vệ thương mại 1994
18
Xem Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế,
19
không lường trước được nghĩa là có sự gia tăng một cách bất thường, là kết quả
của những nghĩa vụ, của sự nhân nhượng thuế quan. Diễn biến của sự biến đổi
đó phải xảy ra sau khi các bên đã đàm phán và không có gì để khẳng định được
rằng các nhà đàm phán, những người đã đưa nhượng bộ, có thể hay lẽ ra phải
dự đoán được sự biến đổi đó khi đưa ra cam kết trong khuôn khổ WTO. Các
nguyên tắc của WTO không đưa ra tiêu chí cụ thể về việc xác định sự gia tăng
hàng hoá nhập khẩu vì có thể mức nhập khẩu tuy tăng nhẹ nhưng lại gây thiệt
hại không hề nhỏ cho ngành sản xuất nội địa. Do vậy, việc đưa ra một mức cụ
thể như vậy sẽ không thể phản ánh chính xác được sự gia tăng bất thường của
loại hàng hoá đó. Các quy định này chủ yếu do các nước áp dụng xác định dựa
trên số liệu thống kê hải quan.
Thứ hai. Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp
với hàng hoá đó bị thiệt hại hoặc đe doạ bị thiệt hại nghiêm trọng.
Đây cũng là điều kiện quan trọng để có thể áp dụng biện pháp tự vệ và
điều kiện này gắn liền với điều kiện về sự gia tăng đột biến của hàng nhập
khẩu. Theo Hiệp định SG, tổn hại nghiêm trọng được hiểu là sự suy giảm toàn
diện đáng kể tới vị trí của ngành công nghiệp sản xuất nội địa. Hoặc đe dọa

gây ra tổn hại nghiêm trọng là tổn hại nghiêm trọng rõ ràng sẽ xảy ra. Một lưu
ý là “việc xác định nguy cơ tổn hại nghiêm trọng phải dựa trên cơ sở thực tế
chứ không phải là phỏng đoán, viện dẫn hoặc khả năng xa”
19
. Như vậy, quốc
gia nhập khẩu phải điều tra chứng minh được rằng ngành sản xuất nội địa
phải chịu thiệt hại nghiêm trọng hoặc bị đe dọa thiệt hại nghiêm trọng do
lượng hàng nhập khẩu tăng ồ ạt. Cụ thể, về hình thức, các thiệt hại này có thể
tồn tại dưới hai dạng là thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ thiệt hại rất gần; về mức
độ, các thiệt hại này phải ở mức nghiêm trọng, tức là ở mức cao hơn so với
thiệt hại đáng kể trong trường hợp các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ
cấp. Về phương pháp, cơ quan chức năng của nước nhập khẩu phải đánh giá,
xem xét thiệt hại thực tế trên cơ cở phân tích tất cả các yếu tố liên quan đến
19
Khoản 1b Điều 4 Hiệp đinh về tự vệ thương mại 1994
20
thực trạng của ngành sản xuất nội địa như: Tốc độ và sản lượng gia tăng nhập
khẩu của sản phẩm liên quan một cách tuyệt đối hay tương đối; Lượng gia
tăng nhập khẩu lấy đi bao nhiêu phần trăm thị phần trong nước; Sự giảm sút
thực tế về sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, lỗ, năng suất, tỷ suất đầu
tư, nhân công, việc làm, Trách nhiệm điều tra chứng minh thiệt hại này sẽ do
một cơ quan chức năng của mỗi quốc gia đảm nhiệm.
Thứ ba. Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột
biến và thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại đó.
Sự gia tăng số lượng hàng hóa nhập khẩu là hệ quả của chính sách tự do
hóa thương mại và có mối quan hệ nhân quả với những thiệt hại xảy ra. Quốc
gia nhập khẩu phải chứng minh được rằng những thiệt hại nghiêm trọng hoặc
đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa là hệ quả của
lượng hàng hóa nhập khẩu tăng đột biến. Và hiện tượng tăng đột biến phải là
nguyên nhân trực tiếp gây nên thiệt hại cho nền sản xuất hàng hóa trong nước.

Nếu không chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa lượng nhập khẩu
của loại hàng hóa tăng đột biến có liên quan đến thiệt hại nghiêm trọng hoặc
đe dọa nghiêm trọng gây ra thì quốc gia nhập khẩu sẽ không thể áp dụng biện
pháp tự vệ. “Khi có các yếu tố khác không phải là sự gia tăng nhập khẩu,
xuất hiện cùng một thời gian, gây ra tổn hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra
tổn hại nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp trong nước thì những tổn hại
này sẽ không được coi là do sự gia tăng hàng nhập khẩu”
20
.
1.2.3 Những quy định về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp
tự vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu
Trong trường hợp khẩn cấp cần ngăn chặn thiệt hại, cứu vãn nền sản
xuất trong nước đang bị hoặc có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng do lượng
nhập khẩu ồ ạt là hệ quả của việc thực hiện nghĩa vụ cắt giảm thuế quan và
xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan khi tiến hành mở cửa thị trường, gia nhập
vào các thiết chế thương mại khu vực, toàn cầu. Các quốc gia thành viên có
20
Khoản 2b Điều 4 Hiệp đinh về tự vệ thương mại 1994
21
quyền viện dẫn các điều khoản về tự vệ theo Hiệp định về các biện pháp tự vệ
để bảo vệ nền sản xuất nước mình. Việc điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ
sẽ do một cơ quan chuyên trách của mỗi quốc gia thực hiện. Khác với các vụ
kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp, WTO không có nhiều quy định chi
tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Các nước thành viên trên
nền tảng các quy định của WTO, căn cứ vào tình hình, điều kiện của quốc gia
mình để nội luật hóa các cam kết. Nhìn chung, pháp luật về tự vệ thương mại
của Việt Nam và các nước quy định việc áp dụng biện pháp tự vệ được thực
hiện theo trình tự sau.
1.2.3.1 Thủ tục điều tra để áp dụng các biện pháp tự vệ.
Thứ nhất, nộp đơn và cung cấp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ

thương mại.
Bên yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ nộp đơn yêu cầu và cung cấp hồ sơ
trong đó có các tài liệu và thông tin liên quan đến hàng hóa thuộc đối tượng điều
tra để áp dụng biện pháp tự vệ và các hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh
tranh trực tiếp. Chủ thể nộp đơn yêu cầu vụ kiện áp dụng biện pháp thương mại
thông thường là nhà sản xuất nội địa và Chính phủ quốc gia nhập khẩu.
Việc nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thường gây ra những xáo
trộn, bất ổn định trong đời sống thương mại của nhà sản xuất. Do đó, khoản 2
Điều 3 Hiệp định SG quy định “Mọi thông tin có tính chất bí mật hoặc được
cung cấp trên cơ sở bí mật phải được các cơ quan có thẩm quyền bảo quản
tuyệt mật, dựa trên nguyên nhân được đưa ra. Thông tin này sẽ không được
tiết lộ nếu không được phép của bên cung cấp thông tin ” Thông thường thì
những thông tin về vụ kiện tự vệ sẽ được bảo mật cho đến khi có quyết định
điều tra chính thức được ban bố.
Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia sau khi tiếp nhận hồ sơ yêu cầu thì
phải chỉ định một cơ quan chuyên trách điều tra như Ủy ban Châu Âu, Ủy ban
thương mại quốc tế Hoa Kỳ, Bộ Công thương (Việt Nam), trường hợp hồ sơ
yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ chưa đầy đủ thông tin thì phải thông báo cho
22
bên yêu cầu bổ sung thông tin trong một thời hạn nhất định. Cơ quan có thẩm
quyền sẽ không ra quyết định điều tra nếu các thông tin đó không được cung
cấp trong thời hạn quy định.
Thứ hai, giai đoạn điều tra.
Sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu đầy đủ, hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền
điều tra phải ra quyết định điều tra và tiến hành điều tra. Khoản 1, Điều 3,
hiệp định SG quy định: “Một Thành viên có thể áp dụng biện pháp tự vệ chỉ
sau khi cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đó tiến hành điều tra theo thủ
tục được xây dựng và công bố phù hợp với Điều 10 của Hiệp định GATT.
Việc điều tra sẽ bao gồm việc thông báo công khai cho tất cả các bên liên
quan, thẩm vấn công khai hoặc các biện pháp thích hợp khác để nhà nhập

khẩu, nhà xuất khẩu, và các bên có liên quan có thể đưa chứng cứ, quan điểm
của họ, bao gồm cả cơ hội được phản biện lý lẽ của bên kia và đưa ra quan
điểm của mình nhằm xem xét việc áp dụng biện pháp này có phù hợp với lợi
ích chung không. Cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố báo cáo kết quả điều tra
của mình và các kết luận thỏa đáng trên cơ sở các vấn đề thực tế và pháp lý”
23
Như vậy, sau khi ra quyết định điều tra, cơ quan điều tra phải thông báo
công khai quyết định điều tra cho các bên liên quan. Nhà nhập khẩu, nhà xuất
khẩu và các bên có liên quan được quyền đưa ra chứng cứ, quan điểm của họ
về vụ kiện tự vệ để đảm bảo quyền tố tụng của các bên. Việc điều tra để đưa
ra kết luận và công bố kết quả điều tra của cơ quan điều tra phải dựa trên cơ
sở thực tiễn và pháp lý để đảm bảo tính công bằng, minh bạch và hiệu quả.
Các phiên tham vấn công khai sẽ được cơ quan có thẩm quyền tổ chức
với sự tham gia của các bên liên quan đến quá trình điều tra và áp dụng các
biện pháp tự vệ nhằm tạo điều kiện cho tất cả các bên liên quan trình bày ý
kiến và cung cấp thông tin cần thiết. Các bên liên quan đến quá trình điều tra
có quyền trình bày bằng các chứng cứ bằng văn bản; tiến hành tham luận và
thể hiện quan điểm về lợi ích kinh tế - xã hội khi áp dụng biện pháp tự vệ.
Một lưu ý là các bên liên quan không bắt buộc phải có mặt tại các cuộc tham
vấn; nếu bên nào không có mặt tại các cuộc tham vấn thì lợi ích của họ liên
quan đến biện pháp tự vệ vẫn được bảo đảm.
Trong khi điều tra để xác định xem hàng nhập khẩu gia tăng có gây ra
hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng đối với sản xuất trong nước theo các
quy định của Hiệp định SG hay không, cơ quan chức năng sẽ đánh giá tất cả
các yếu tố liên quan tới đối tượng và có thể định lượng dựa trên tình hình sản
xuất của ngành này, đặc biệt là tốc độ và số lượng gia tăng nhập khẩu của sản
phẩm có liên quan một cách tương đối hay tuyệt đối, thị phần trong nước của
phần gia tăng nhập khẩu này, sự thay đổi mức bán hàng, sản xuất, năng suất,
công suất sử dụng, lợi nhuận, lỗ và việc làm
21

.
Giai đoạn điều tra kết thúc bằng việc cơ quan điều tra đưa ra kết luận và
công bố kết quả điều tra dựa trên cơ sở thực tiễn và pháp lý về các yếu tố: tình
hình nhập khẩu, tình hình thiệt hại, mối quan hệ giữa việc nhập khẩu và thiệt
hại. Quốc gia nhập khẩu phải thông báo ngay lập tức cho Uỷ ban về các biện
pháp tự vệ về: (a) việc tiến hành điều tra liên quan tới tổn hại nghiêm trọng
21
Khoản 2 Điều 4 Hiệp đinh về tự vệ thương mại 1994
24
hay đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng và các nguyên nhân; (b) kết luận về
tổn hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng do sự gia tăng
nhập khẩu; và (c) quyết định áp dụng hoặc mở rộng biện pháp tự vệ
22
. Trong
trường hợp dự kiến áp dụng hay mở rộng biện pháp tự vệ, quốc gia nhập
khẩu phải cung cấp tất cả thông tin cần thiết cho Uỷ ban về các biện pháp tự
vệ, bao gồm các chứng cứ về sự tổn hại nghiêm trọng hay đe dọa gây ra tổn
hại nghiêm trọng do sự gia tăng nhập khẩu, mô tả rõ ràng loại sản phẩm liên
quan, biện pháp dự kiến, thời điểm áp dụng dự kiến và tiến độ thực hiện tự do
hóa biện pháp này.
Dưới đây là bảng số liệu và biểu đồ mô tả các vụ điều tra tự vệ được
tiến hành trên thế giới từ 1995- 31/3/2013.
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Tổng số vụ 5 3 10 15 25 12 34 15 14
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tổng số vụ 7 13 8 10 25 20 11 25 2
Nguồn: Hội đồng tư vấn các biện pháp phòng vệ thương mại quốc tế VCCI
Biểu đồ 1
22
Khoản 1 Điều 12 Hiệp đinh về tự vệ thương mại 1994

25

×