Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 83 trang )

Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây Việt Nam có những điều kiện rất thuận lợi
cho hoạt động kinh doanh phát triển. Việt Nam luôn được các nước trên thế
giới đánh giá cao về sự ổn định chính trị và được nhiều tập đoàn kinh tế lớn
trên thế giới dành sự quan tâm đầu tư, có được sự quan tâm đó là do nước
ta có nguồn nhân lực dồi dào với hơn 84 triệu người, là thị trường tiêu thụ
tiềm năng, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao và ổn định ( trên 8%).
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức thứ 150 của WTO, và
là một trong các thành viên tích cực của các tổ chức quốc tế và khu vực
như: APEC, ASEAN...Điều này, mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho các nhà
kinh doanh cả trong và ngoài nước. Trong bối cảnh như vậy, rõ ràng việc
quyết định lựa chọn hình thức kinh doanh nào đảm bảo cho nhà đầu tư có
được hiệu quả tốt nhất về sử dụng vốn, phát triển nhanh thị trường, mở
rộng nhanh thị phần và kiểm soát được hệ thống nhằm tạo được tiếng nói
với thị trường là điều rất được quan tâm. Với sự phát triển mạnh mẽ của
thương mại và để đáp ứng nhu cầu chính đáng đó, nhiều phương thức kinh
doanh đã ra đời, phát triển rộng rãi và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho
những người hoạt động kinh doanh. Một trong những phương thức hiệu
quả được nhiều thương nhân lựa chọn đó là phương thức “nhượng quyền
thương mại”, tiếng Anh là “Franchise”.
Nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh tiên tiến,
được nhiều doanh nhân lựa chọn để kinh doanh và nó đang là phương thức
mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các doanh nhân. Đặc biệt, với sự hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới kể từ khi Việt Nam gia
nhập WTO, cụm từ “nhượng quyền thương mại” bắt đầu gây được sự chú ý
của nhiều người, nhiều giới bởi ngày càng có nhiều thương hiệu lớn của
nước ngoài “đổ bộ” vào Việt Nam thông qua hình thức kinh doanh này,
Hoàng Minh Tuấn Trang 1
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.


cũng như có một số thương hiệu đã nhượng quyền thành công trong nước
và nước ngoài. Điều đó đang từng ngày từng giờ góp phần vào công cuộc
phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước và góp phần làm thay
đổi bộ mặt kinh tế, xã hội của Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu về quản lý và
thúc đẩy hoạt động NQTM phát triển, Việt Nam đã có các quy định khá cụ
thể về NQTM như Luật thương mại 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005...và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Các văn bản này đã được áp dụng tại Việt
Nam và bước đầu đã mang lại những kết quả rất đáng ghi nhận, góp phần
thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, khi tổ chức thực hiện, vẫn còn tồn tại một số vướng mắc,
khó khăn làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước và
các chủ thể tham gia quan hệ NQTM tại Việt Nam. Bởi vì một số nội dung
trong các văn bản pháp luật chưa thực sự phù hợp với tình hình phát triển
thực tế của hoạt động NQTM hiện nay tại Việt Nam, cũng như chưa có sự
thống nhất giữa các đạo luật liên quan khi quy định về NQTM. Cụ thể như:
Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ không phù hợp khi áp dụng
cho “hợp đồng nhượng quyền phát triển khu vực” và “hợp đồng nhượng
quyền thương mại hai cấp”; chưa giải quyết được mối quan hệ giữa NQTM
và cạnh tranh; các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin về NQTM chưa
cụ thể; quy định về xử phạt vi phạm hành chính mới dừng lại ở mức định
khung, chưa cụ thể và không đủ cơ sở để áp dụng trong thực tiễn...
Sự phát triển mạnh mẽ của phương thức NQTM tại Việt Nam hiện
tại và tương lai rất cần có sự điều chỉnh một cách khoa học và đầy đủ của
hệ thống pháp luật trong nước. Việc điều chỉnh một cách khoa học và đầy
đủ một mặt đáp ứng được nhu cầu hoạt động nhượng quyền thương mại
đồng thời phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế về NQTM. Chính vì
vậy việc tìm hiểu về phương thức NQTM thông qua các quy định pháp
luật và qua đó thấy được những vướng mắc, bất cập khi áp dụng trong
thực tiễn để đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về
Hoàng Minh Tuấn Trang 2

Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
NQTM là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật
nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các qui định của pháp luật về NQTM được qui định
trong Luật thương mại, các văn bản liên quan như: Luật cạnh tranh 2004,
Luật sở hữu trí tuệ 2005, Bộ Luật dân sự 2005, Luật chuyển giao công
nghệ 2006, Nghị định 35/2006/NĐ - CP, Thông tư số 09/2006/BTM...
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về nhượng
quyền thương mại trong quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển hoạt động
NQTM tại Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Về lý luận: Đề tài này nghiên cứu về quy định của pháp luật về
NQTM được quy định tại Luật thương mại và các văn bản liên quan như:
Luật cạnh tranh 2004; Luật sở hữu trí tuệ 2005; Luật chuyển giao công
nghệ 2006; Nghị định 35/2006/NĐ-CP...
2.2.2. Về thực tiễn: Nghiên cứu thực tiễn hoạt động NQTM. Trên cơ
sở đó, tìm ra những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng các quy
định của pháp luật về NQTM để đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định về NQTM.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, mục đích của tác giả nhằm:
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về NQTM trên cơ
sở các quy định của Luật thương mại và các văn bản liên quan về NQTM.
- Đưa ra những bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
Hoàng Minh Tuấn Trang 3

Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
luật về NQTM.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định pháp luật về NQTM.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Tập hợp các quy định của pháp luật về NQTM.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận NQTM được quy định trong Luật thương
mại và các văn bản liên quan như: Luật cạnh tranh 2004, Luật sở hữu trí tuệ
2005, Bộ Luật dân sự 2005, Luật chuyển giao công nghệ 2006, Nghị định
35/2006/NĐ - CP, Thông tư số 09/2006/BTM...
- Thu thập các số liệu về tình hình hoạt động NQTM ở nước ta trong
những năm gần đây.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về NQTM.
- Tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng các quy định pháp
luật về NQTM chưa mang lại hiệu quả cao; từ đó có những kiến nghị cụ thể
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về NQTM.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, tác giả nghiên
cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các
phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận cơ bản về NQTM;
- Phương pháp thống kê để thấy được số lượng NQTM trong nền
kinh tế;
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn nắm bắt được những khó
khăn vướng mắc của cơ quan quản lý trong quá trình thực hiện các quy
định về NQTM và những khó khăn từ phía các bên nhượng quyền và bên
nhận quyền thương mại;
- Phương pháp so sánh giữa các quy định của pháp luật về NQTM

Hoàng Minh Tuấn Trang 4
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
theo Luật thương mại 2005 và các văn bản trước đây, các văn bản có liên
quan khác.
5. Bố cục của đề tài
Đề tài với tiêu đề: “Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise)
và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” được chia làm 3 phần: phần mở đầu,
phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về nhượng quyền thương mại và pháp luật về
nhượng quyền thương mại
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về nhượng quyền
thương mại tại Việt Nam
Ngoài ra, còn có Lời cảm ơn; Bảng viết tắt; Phụ lục; Mục lục và Danh
mục tài liệu tham khảo.
Hoàng Minh Tuấn Trang 5
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
VÀ PHÁP LUẬT NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về nhượng quyền thương mại
1.1.1. Lịch sử và các quan điểm về nhượng quyền thương mại
1.1.1.1. Lịch sử về nhượng quyền thương mại
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức sơ khai của phương thức
kinh doanh nhượng quyền đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII tại
Châu Âu. Tuy nhiên, hoạt động franchise được chính thức thừa nhận khởi
nguồn và phát triển là tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ XIX, khi mà Nhà máy
Singer (sản xuất máy khâu) ký kết hợp đồng nhượng quyền kinh doanh đầu
tiên cho đối tác của mình.
Franchise thực sự phát triển mạnh, bùng phát kể từ sau năm 1945 (khi

Thế Chiến II kết thúc), với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng,
khách sạn và các hệ thống kinh doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự
đồng nhất về cơ sở hạ tầng, thương hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để
nhận dạng những hệ thống kinh doanh theo phương thức này. Từ những
năm 60, franchise trở thành phương thức kinh doanh thịnh hành, thành
công không chỉ tại Hoa Kỳ mà còn ở những nước phát triển khác như Anh,
Pháp... Sự lớn mạnh của những tập đoàn xuyên quốc gia của Hoa Kỳ và
một số nước Châu Âu trong lĩnh vực kinh doanh thức ăn nhanh, khách sạn-
nhà hàng đã góp phần “truyền bá” và phát triển franchise trên khắp thế
giới. Ngày nay, franchise đã có mặt tại hơn 150 nước trên thế giới, riêng tại
Châu Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng kinh doanh theo phương thức
nhượng quyền [29, tr 1].
Nhận thấy lợi ích, hiệu quả của phương thức kinh doanh này, nhiều
quốc gia đã có các chính sách khuyến khích phát triển franchise. Hoa Kỳ là
Hoàng Minh Tuấn Trang 6
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
quốc gia đầu tiên luật hoá franchise và có các chính sách ưu đãi cho những
cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức franchise. Chính phủ
các nước phát triển khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ý... cũng noi gương
Hoa Kỳ, ban hành các chính sách thúc đẩy, phát triển hoạt động franchise,
khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc bán franchise ra nước
ngoài. Nhiều trung tâm học thuật, nghiên cứu chính sách về franchise của
các chính phủ, tư nhân lần lượt ra đời, các đại học cũng có riêng chuyên
ngành về franchise để đào tạo, đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế.
Riêng tại Đông Nam Á, kể từ thập niên 90, các quốc gia đã nhận thấy
tác động của franchise đến việc phát triển nền kinh tế quốc dân là quan
trọng và là xu thế tất yếu của toàn cầu hóa, vì vậy nhiều chính sách, giải
pháp phát triển kinh tế liên quan đến franchise đã được nghiên cứu, ứng
dụng và khuyến khích phát triển. Năm 1992, Chính phủ Malaysia đã bắt
đầu triển khai chính sách phát triển hoạt động kinh doanh nhượng quyền

(Franchise development program) với mục tiêu gia tăng số lượng doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, thúc đẩy và
phát triển việc bán franchise ra bên ngoài quốc gia. Singapore, quốc gia
láng giềng của Malaysia, cũng có các chính sách tương tự nhằm thúc đẩy,
phát triển hoạt động nhượng quyền trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ như
đào tạo, y tế, du lịch, khách sạn, nhà hàng... Gần đây nhất, kể từ thời điểm
năm 2000, Chính phủ Thái Lan cũng đã có các chính sách khuyến khích,
quảng bá, hỗ trợ việc nhượng quyền của các doanh nghiệp Thái Lan tại thị
trường nội địa và quốc tế.
Trung Quốc đang trở thành thị trường tiềm năng của các thương hiệu
nước ngoài như: Mc Donald's, KFC, Hard Rock Cafe, Chilli's... đồng thời
đây là cứ địa đầu tiên để các tập đoàn này bán franchise ra khắp Châu Á.
Thông qua đó, hoạt động franchise của Trung Quốc trở nên ngày càng phát
triển, Chính phủ Trung Quốc đã thay đổi thái độ từ e dè chuyển sang
khuyến khích, nhiều thương hiệu đang được “đánh bóng” trên thị trường
Hoàng Minh Tuấn Trang 7
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
quốc tế thông qua các cuộc mua bán, sáp nhập nhằm chuẩn bị cho kế hoạch
đẩy mạnh hoạt động nhượng quyền ra bên ngoài, được xem là một trong
những động thái quan trọng để phát triển nền kinh tế vốn đang rất nóng của
Trung Quốc.
Ngày nay, nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ thúc đẩy phát triển,
hỗ trợ và quảng bá hoạt động franchise đã được thành lập. Điển hình là Hội
đồng Franchise Thế giới (World Franchise Council), ra đời vào năm 1994,
có thành viên là các hiệp hội franchise của nhiều quốc gia. Ngoài ra, một tổ
chức uy tín và lâu đời nhất là Hiệp hội Franchise Quốc tế (International
Franchise Association) được thành lập năm 1960, có khoảng 30.000 thành
viên bao gồm các doanh nghiệp bán, mua franchise. Thông qua các tổ chức
này, nhiều hoạt động có ích cho doanh nghiệp, cho các nền kinh tế quốc gia
đã được thực hiện như: tổ chức các hội chợ franchise quốc tế; xây dựng

niên giám franchise khu vực, và trên thế giới; hợp tác xuất bản các ấn phẩm
chuyên ngành, các website để cung cấp thông tin cho mọi cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp quan tâm đến franchise...
Ở Việt Nam, franchise được xem manh nha xuất hiện vào giữa thập
niên 90, khi mà đồng loạt xuất hiện hệ thống các quán cà phê Trung
Nguyên trên khắp mọi miền đất nước. Mặc dù, cách làm của Trung Nguyên
lúc đó không hoàn toàn là franchise, nhưng cũng phần nào thể hiện được
những đặc trưng cơ bản của phương thức franchise.
Trong thời gian đó, khái niệm franchise gần như xa lạ, chưa được luật
hóa. Năm 1998, lần đầu tiên thông tư 1254/BKHCN/1998 hướng dẫn Nghị
định 45/CP/1998 về chuyển giao công nghệ, tại mục 4.1.1, có nhắc đến
cụm từ “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh – tiếng Anh gọi là
franchise...”.
Tháng 02/2005, Chính phủ ban hành Nghị định 11/2005/NĐ-CP về
chuyển giao công nghệ, trong đó có đề cập đến việc cấp phép đặc quyền
kinh doanh cũng được xem là chuyển giao công nghệ, do đó chịu sự điều
chỉnh của nghị định này.
Hoàng Minh Tuấn Trang 8
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
Tiếp đến, tại Điều 755 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định rằng
hành vi cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong các đối tượng chuyển
giao công nghệ.
Kể từ năm 2006, franchise chính thức được luật hoá và công nhận.
Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực từ 01/01/2006) đã dành nguyên Mục 8
Chương VI để quy định về hoạt động nhượng quyền thương mại. Đồng
thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006
quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại,
đến ngày 25/5/2006 thì Bộ Thương mại ban hành Thông tư 09/2006/TT-
BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại, Quyết định
số 106/2008/QĐ-BTC quy định mức thu, chế độ thu nộp, quản lý và sử

dụng lệ phí đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Đây chính là
những căn cứ pháp lý cơ bản nhất, tương đối đầy đủ để điều chỉnh và tạo
điều kiện cho franchise phát triển tại Việt Nam.
Năm 2004, Hội đồng Nhượng quyền thương mại Thế giới (WFC) đã
tiến hành một cuộc điều tra với kết quả khẳng định rằng: đã tồn tại hơn 65
hệ thống franchise hoạt động tại Việt Nam, đa số là các thương hiệu nước
ngoài. Mặc dù còn khá ít so với các quốc gia láng giềng, nhưng với tình thế
hiện nay, khi franchise đã được luật hóa, Việt Nam chính thức bước qua
cửa WTO, đã có nhiều nhận định rằng hoạt động franchise sẽ phát triển
như vũ bão.
1.1.1.2. Các quan điểm về nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh đã được nhiều
nước trên thế giới áp dụng. Đã có nhiều khái niệm được nêu ra của nhiều
trường phái khác nhau nhằm giải thích, hướng dẫn các đối tượng có nhu
cầu thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại đạt hiệu quả. Tuy nhiên
vì sự khác biệt về quan điểm và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội giữa
các quốc gia nên các khái niệm có sự khác nhau.
Hoàng Minh Tuấn Trang 9
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
Vậy thực chất thuật ngữ nhượng quyền thương mại “Franchise” có
nghĩa là gì? Theo Từ điển của Viện Ngôn Ngữ học thì Franchise là: “cho
phép ai đó chính thức được bán hàng hóa hay dịch vụ của một công ty ở
một khu vực cụ thể nào đó”. Còn Từ điển Webster của Anh thì định nghĩa
“franchise là một đặc quyền được trao cho một người để phân phối hay bán
sản phẩm của chủ thương hiệu”. Qua các định nghĩa trên, chúng ta thấy cả
hai định nghĩa đều nêu ra nội dung cơ bản của NQTM nhưng quá ngắn gọn,
chưa lột tả hết nội dung của từ “Franchise”. Để tìm hiểu kỹ hơn về khái
niệm NQTM, chúng ta nghiên cứu một số khái niệm khác về NQTM:
- Khái niệm NQTM theo quan điểm của một số nước trên thế giới
Thứ nhất, theo Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh quốc tế (The

International Franchise Association), là hiệp hội lớn nhất nước Mỹ và thế
giới đã nêu ra khái niệm NQTM như sau: “Nhượng quyền thương mại là
mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên giao và Bên nhận quyền, theo đó Bên
giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của
Bên nhận trên các khía cạnh như: Bí quyết kinh doanh (know-how), đào
tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương thức,
phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc kiểm soát; và Bên nhận
đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các
nguồn lực của mình".
Thứ hai, theo Uỷ Ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (the US Federal
Trade Commission - FTC): Khái niệm một hợp đồng nhượng quyền thương
mại là hợp đồng theo đó Bên giao: “Hỗ trợ đáng kể cho Bên nhận trong
việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều
hành doanh nghiệp của Bên nhận. Li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận để phân
phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của Bên giao và yêu
cầu Bên nhận thanh toán cho Bên giao một khoản phí tối thiểu”.
Thứ ba, theo quan điểm của Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là liên
minh Châu Âu EU): “Khái niệm quyền thương mại là một tập hợp những
quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng
Hoàng Minh Tuấn Trang 10
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản
quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm,
hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng”. Nhượng quyền
thương mại có nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được nêu ở
khái niệm trên.
Thứ tư, khái niệm nhượng quyền thương mại của Mêhicô: Luật sở
hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ tháng 6 năm 1991 quy định:
“Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử
dụng một thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ

hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm,
hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative
methods), các hoạt động thương mại, hoặc hành chính đã được chủ
thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng
(prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới
thương hiệu đó”.
Thứ năm, khái niệm nhượng quyền thương mại của Nga: Chương 54,
Bộ luật dân sự Nga Khái niệm bản chất pháp lý của “sự nhượng quyền
thương mại” như sau: “Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên
(Bên có quyền) phải cấp cho bên kia (Bên sử dụng) với một khoản thù lao,
theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt
động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của
bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền
đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với
các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ...” [26, tr 2].
- Khái niệm nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm NQTM đã được quy định tại các văn bản như:
Luật thương mại 2005 có hiệu lực ngày 1/1/2006 tại mục 8, điều 284 đã đề
cập đến khái niệm nhượng quyền thương mại và các điều 284, 286, 287,
288, 289, 290, 291 qui định chi tiết các vấn đề liên quan đến hoạt động
Hoàng Minh Tuấn Trang 11
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
nhượng quyền thương mại. Điều 284 qui định: “Nhượng quyền thương mại
là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu
bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ
theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách
thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với
nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh”.
Ngoài ra, để hướng dẫn chi tiết Luật thương mại về hoạt động nhượng
quyền thương mại, chính phủ ban hành nghị định 35/2006/NĐ-CP và Bộ
thương mại ban hành thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn chi tiết đăng ký
hoạt động nhượng quyền thương mại. Có thể thấy, những cơ sở pháp lý trên
đây đã cung cấp một cách khá đầy đủ khái niệm, các nguyên tắc và hướng
dẫn cho việc tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.
1.1.2. Các hình thức nhượng quyền thương mại
Hoạt động NQTM phát triển rất đa dạng và phong phú qua các thời
kỳ, bao gồm nhiều hình thức khác nhau. Các học giả ở nhiều nước phát
triển trên thế giới, căn cứ vào nhiều loại tiêu chí khác nhau, đã đưa ra nhiều
cách phân loại khác nhau, như sau:
Thứ nhất, Căn cứ vào nội dung của hoạt động kinh doanh
Căn cứ vào nội dung của hoạt động kinh doanh có hai hình thức
nhượng quyền là: nhượng quyền phân phối sản phẩm và nhượng quyền
phương thức kinh doanh:
- Nhượng quyền phân phối sản phẩm (product distribution franchise):
là hình thức nhượng quyền thương mại trong đó bên nhượng quyền cung
cấp cho bên nhận quyền nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ, logo của mình, dịch
vụ quảng cáo trên phạm vi quốc gia và quan trọng nhất là sản phẩm. Bên
nhượng quyền không cung cấp cho bên nhận quyền cách thức điều hành
Hoàng Minh Tuấn Trang 12
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
kinh doanh.
- Nhượng quyền phương thức kinh doanh (business format franchise):
là hình thức nhượng quyền thương mại trong đó bên nhượng quyền có thể
cung cấp cho bên nhận quyền rất nhiều dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu hàng
hóa, dịch vụ, logo, cũng như phương thức kinh doanh. Bên nhượng quyền
sẽ hỗ trợ bên nhận quyền trong việc lựa chọn địa điểm kinh doanh, cách

thiết kế và bài trí nội thất, thuê và đào tạo nhân công, quảng cáo và tiếp thị,
cung cấp sản phẩm… Đây là hình thức nhượng quyền thương mại phổ biến
nhất hiện nay [4, tr 15].
Thứ hai, Căn cứ vào cách thức tiến hành nhượng quyền
Có thể chia NQTM thành 2 hình thức: nhượng quyền cho từng cơ sở
(single-unit franchise) và nhượng quyền đa cơ sở (multiple-unit franchise).
- Nhượng quyền thương mại cho từng cơ sở (single-unit franchise):
Nhượng quyền thương mại cho từng cơ sở là cách thức nhượng quyền
thương mại trong đó bên nhượng quyền tiến hành nhượng quyền trực tiếp
cho từng đối tác riêng lẻ để mở một cơ sở kinh doanh. Đây là hình thức
nhượng quyền thương mại đơn giản nhất và phổ biến nhất.
- Nhượng quyền thương mại đa cơ sở (multi-unit franchise): Đây là
cách thức nhượng quyền thương mại thông qua đó thiết lập nhiều hơn một
cơ sở kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại [5, tr 9].
Thứ ba, Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ
Có hai loại nhượng quyền là nhượng quyền thương mại trong nước và
nhượng quyền thương mại quốc tế.
- Nhượng quyền thương mại trong nước là quan hệ nhượng quyền
thương mại trong phạm vi một quốc gia, do pháp luật quốc gia điều chỉnh.
- Nhượng quyền thương mại quốc tế là quan hệ nhượng quyền thương
mại có yếu tố nước ngoài, do pháp luật quốc gia, các điều ước quốc tế, tập
quán quốc tế điều chỉnh.
1.1.3. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
Thứ nhất, về chủ thể
Hoàng Minh Tuấn Trang 13
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
Chủ thể của quan hệ NQTM bao gồm bên nhượng quyền và bên nhận
quyền. Các chủ thể này có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, là công dân trong
nước hoặc người nước ngoài. Trong thực tế, đa số các bên tham gia quan
hệ NQTM là thương nhân. Tuy nhiên, cũng có khi họ không phải là thương

nhân, đặc biệt là khi NQTM diễn ra trong các lĩnh vực như nông nghiệp,
thủ công và hành nghề tự do (ví dụ: hoạt động của nhà tư vấn về hôn nhân
được thực hiện bởi một bên nhận quyền). Có thể có hai bên hoặc nhiều bên
tham gia vào quan hệ NQTM. Bên nhượng quyền và bên nhận quyền có tư
cách pháp lý độc lập với nhau và tự chịu trách nhiệm đối với những rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ hai, về đối tượng
Đối tượng của NQTM là quyền thương mại. Nội dung của khái niệm
quyền thương mại phát triển rất phong phú và có mối liên hệ đặc biệt với
các đối tượng sở hữu trí tuệ. Nội dung của quyền thương mại có thể khác
nhau tuỳ thuộc vào từng loại hình NQTM và thoả thuận giữa các bên. Nó
có thể bao gồm quyền sử dụng các tài sản trí tuệ như tên thương mại, nhãn
hiệu hàng hoá, dịch vụ, bí mật kinh doanh… và quyền kinh doanh theo mô
hình, với phương thức quản lý, đào tạo, tiếp thị sản phẩm của bên nhượng
quyền… Quyền thương mại là một sự kết hợp các yếu tố nêu trên, từ đó tạo
nên sự khác biệt của cơ sở kinh doanh trong hệ thống NQTM, giúp phân
biệt với các cơ sở kinh doanh khác là đối thủ cạnh tranh. Sự lựa chọn và
cách sử dụng các yếu tố này cấu thành một khía cạnh cơ bản của chính sách
chung của doanh nghiệp để tạo ra sức mạnh cạnh tranh.
Thứ ba, về bản chất
Trong hoạt động NQTM, bên nhượng quyền và các bên nhận quyền
cùng tiến hành kinh doanh trên cơ sở cùng khai thác quyền thương mại.
Điều đó tạo ra một hệ thống thống nhất, tính thống nhất thể hiện:
- Thống nhất về hành động của bên nhượng quyền và các bên nhận
quyền. Các thành viên trong hệ thống NQTM phải thống nhất về mọi hành
Hoàng Minh Tuấn Trang 14
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
động nhằm duy trì hình ảnh đặc trưng và duy trì chất lượng đặc trưng của
sản phẩm, dịch vụ.
- Thống nhất về lợi ích của bên nhượng quyền và các bên nhận quyền.

Lợi ích của bên nhượng quyền và các bên nhận quyền có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Việc tiến hành hoạt động kinh doanh tốt hay xấu của bất kỳ
một thành viên nào trong hệ thống NQTM đều có thể làm tăng hay giảm uy
tín của toàn bộ hệ thống, từ đó sẽ gây ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến
lợi ích của các thành viên còn lại.
Như vậy, mặc dù độc lập với nhau về tư cách pháp lý, bên nhượng
quyền và bên nhận quyền vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để đảm
bảo tính thống nhất trong hệ thống NQTM, đảm bảo bên nhận quyền sẽ là
một “bản sao” hoàn hảo của mình, bên nhượng quyền phải có sự hỗ trợ và
sự kiểm soát thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình kinh doanh của
bên nhận quyền. Bởi vì nhượng quyền thương mại không phải là một cơ sở
kinh doanh mà là một cách thức kinh doanh.[25, tr 46]
1.1.4. Những ưu điểm và hạn chế của hình thức NQTM
1.1.4.1. Những ưu điểm của NQTM
Nhượng quyền thương mại là một phương thức kinh doanh rất tiên
tiến, mới mẻ và đang là sự lựa chọn hàng đầu của giới kinh doanh. Vậy
thực chất sức hấp dẫn của phương thức này nằm ở đâu? Xin trả lời rằng sức
hấp dẫn nằm ngay trong những ưu điểm “riêng biệt”, mà chỉ có thể tìm thấy
ở NQTM, đó là:
Thứ nhất, đối với bên nhận quyền (Franchisees)
Mục đích chủ yếu của nhượng quyền chính là giảm thiểu rủi ro.
Những nghiên cứu mới đây cho thấy mức độ thành công của các cửa hàng,
cơ sở kinh doanh mới đều kết luận rằng: việc mở cửa hàng, cơ sở kinh
doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỷ lệ thất bại cao.
Theo con số thống kê tại Mỹ thì trung bình chỉ có 23% doanh nghiệp
nhỏ kinh doanh độc lập có thể tồn tại sau 5 năm kinh doanh, trong khi con
Hoàng Minh Tuấn Trang 15
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
số này đối với các doanh nghiệp kinh doanh theo NQTM là 92%.[22, tr 19]
Lý do chính của tỷ lệ thất bại cao là do người quản lý là những người

mới bước vào nghề, không có kinh nghiệm và phải mất nhiều thời gian cho
việc học hỏi các đặc trưng riêng của từng loại hình kinh doanh. Nếu không
thể cạnh tranh với thị trường, cơ sở kinh doanh sẽ rất dễ rơi vào sự phá sản.
Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền sẽ được huấn
luyện, đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành công
của các loại hình kinh doanh đặc thù mà bên nhượng quyền đã tích lũy
được từ những lần thất bại. Do đó, loại hình kinh doanh bằng nhượng
quyền sẽ giúp bên nhận quyền giảm thiểu những rủi ro khi tham gia vào
hoạt động kinh doanh.
Ngoài ra còn có một lợi ích khác không kém phần quan trọng đó chính
là việc bên nhận quyền được sử dụng các giá trị thương hiệu của bên
nhượng quyền. Khi chủ thương hiệu đã đăng ký bảo hộ thương hiệu rồi thì
bên nhận quyền không phải tốn chi phí này và khi có ai đó vi phạm bản
quyền thì sẽ được chủ thương hiệu hỗ trợ trong việc khiếu kiện (điều này
đã được chứng minh trong trường hợp công ty Vinagame tại Việt Nam đầu
năm 2006).
Khi hệ thống nhượng quyền càng mạnh, càng có nhiều cửa hàng được
mở ra. Thương hiệu ngày càng trở nên nổi tiếng vì mọi người có thể nhìn
thấy nó ở khắp mọi nơi. Đây cũng chính là một chiến dịch quảng bá thương
hiệu rất hiệu quả góp phần làm tăng doanh số bán ra. Hơn nữa, bên nhận
quyền còn được mua khối lượng lớn sản phẩm hoặc nguyên liệu của bên
nhượng quyền với tỷ lệ khấu hao đầy hấp dẫn. Giá của các sản phẩm,
nguyên liệu đầu vào thấp sẽ là một trong những lợi thế cạnh tranh lớn đảm
bảo cho sự thành công của bên nhận quyền khi tham gia vào hệ thống
nhượng quyền.
Do xác suất thành công cao hơn, nên các ngân hàng thường tin tưởng
hơn trong việc xét duyệt cho các doanh nghiệp nhận nhượng quyền vay
Hoàng Minh Tuấn Trang 16
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
tiền. Nói đúng ra hầu như tất cả các doanh nghiệp kinh doanh nhượng

quyền lớn trên thế giới đều chủ động đàm phán, thuyết phục ngân hàng ủng
hộ các đối tác nhận nhượng quyền của mình bằng cách cho vay với lãi suất
thấp. Người nhận nhượng quyền trong trường hợp này chỉ phải bỏ ra 30%
tiền vốn đầu tư.
Cơ hội để giảm thiểu rủi ro và nâng cao khả năng thành công là những
gì mà một nhà kinh doanh khôn ngoan không thể bỏ qua. Những ưu điểm
này là động lực để thúc đẩy họ tham gia vào hệ thống nhượng quyền.
Thứ hai, đối với bên nhượng quyền (Franchisors)
Vốn luôn là một vấn đề lo ngại lớn nhất khi mở rộng sản xuất kinh
doanh. Nhưng trong hệ thống nhượng quyền, người bỏ vốn ra để mở rộng
hoạt động kinh doanh lại chính là bên nhận quyền. Điều này giúp cho bên
nhượng quyền có thể mở rộng hoạt động kinh doanh bằng chính đồng vốn
của người khác và giảm chi phí cho việc thâm nhập thị trường. Đồng thời
việc phải bỏ vốn kinh doanh là động lực thúc đầy bên nhận quyền phải cố
gắng hoạt động có hiệu quả, mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho bên
nhượng quyền.
Ngày nay trên thị trường có những thay đổi hết sức mạnh mẽ và một
lẽ dĩ nhiên là nếu bạn không thay đổi, phát triển và mở rộng cùng với thị
trường thì bạn sẽ bị các đối thủ cạnh tranh qua mặt. Những cơ hội kinh
doanh cũng sẽ trôi qua tầm tay. Thật may, hình thức nhượng quyền sẽ giúp
bạn mở rộng hoạt động kinh doanh, xây dựng sự hiện diện ở khắp mọi nơi
một cách nhanh chóng với hàng trăm cửa hàng trong và ngoài nước mà
không một hình thức kinh doanh nào có thể làm được.
Khi sử dụng hình thức nhượng quyền, bên nhượng quyền sẽ tạo ra
được những lợi thế trong việc quảng cáo, quảng bá thương hiệu của mình.
Mở rộng kinh doanh và sự xuất hiện ở khắp nơi của chuỗi cửa hàng sẽ đưa
hình ảnh về sản phẩm đi sâu vào tâm trí khách hàng một cách dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó chi phí quảng cáo sẽ được trải rộng cho rất nhiều cửa hàng,
Hoàng Minh Tuấn Trang 17
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.

cho nên chi phí quảng cáo cho một đơn vị kinh doanh là rất nhỏ. Điều này
giúp bên nhượng quyền xây dựng được một ngân sách quảng cáo lớn, và
đây là một lợi thế cạnh tranh mà khó có đối thủ cạnh tranh nào có khả năng
vượt qua. Hoạt động quảng cáo càng hiệu quả thì hình ảnh về thương hiệu,
hình ảnh về sản phẩm càng được nâng cao, giá trị vô hình của doanh
nghiệp càng lớn mạnh mang lại nhiều thuận lợi cho bên nhận quyền khi sử
dụng nhãn hiệu, thương hiệu của bên nhượng quyền. Vì vậy cả bên nhượng
quyền và bên nhận quyền ngày càng thu được nhiều lợi nhuận từ việc áp
dụng hình thức kinh doanh nhượng quyền.
Khi nhượng quyền, bên nhận quyền phải trả tiền bản quyền thuê
thương hiệu và tiền phí để được kinh doanh với tên và hệ thống của bên
nhượng quyền. Đồng thời bên nhận quyền phải mua sản phẩm, nguyên liệu
của bên nhượng quyền nhờ đó mà bên nhượng quyền có thể tối đa hóa thu
nhập của mình.
Chính vì lẽ đó một điều đáng lý thú là nếu như bạn muốn mở rộng
hoạt động kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận thì nhượng quyền là giải pháp
tối ưu mà bạn nên nghĩ đến.
1.1.4.2. Những hạn chế của nhượng quyền thương mại
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật như trên của phương thức NQTM, đã
tạo ra niềm tin và sức hấp dẫn cho các bên tham gia vào quan hệ NQTM,
tạo điều kiện cho phương thức này phát triển. Thì nội tại của NQTM cũng
còn tồn tại không ít nhược điểm, hạn chế cần phải nghiên cứu và đánh gía,
đó là:
- Về kiểm soát chất lượng
Kiểm soát chất lượng là một công việc hết sức quan trọng, nó là một
trong những yếu tố quyết định đến sự thành công của một “thương hiệu”.
Vì vậy việc kiểm soát chất lượng luôn được các doanh nghiệp, nhà sản xuất
chú trọng và trong NQTM cũng không ngoại lệ. Bởi vì nền tảng của thỏa
thuận nhượng quyền là thương hiệu nổi tiếng của công ty và chất lượng sản
Hoàng Minh Tuấn Trang 18

Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
phẩm. Trong nhượng quyền, bên nhận quyền có thể không quan tâm về
chất lượng như bên nhượng quyền đề nghị và kết quả là chất lượng kém,
doanh thu thấp làm giảm uy tín của công ty trên toàn cầu. Để vượt qua bất
lợi này bên nhượng quyền cần soạn thảo hợp đồng nhượng quyền một cách
chặt chẽ, cụ thể và rõ ràng. Bên cạnh đó, phải đẩy mạnh hiệu quả hoạt động
của hệ thống nhượng quyền khiến họ không muốn tách rời khỏi hệ thống
nhượng quyền.
- Điều hành quản lý hệ thống
Trong hệ thống NQTM, số lượng cửa hàng có thể lên tới con số hàng
trăm, do đó vấn đề về quản lý hệ thống hoạt động một cách thống nhất và
hiệu quả là hết sức khó khăn. Vì vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây
dựng cho mình một đội ngũ nhân viên đủ mạnh để quản lý hệ thống
nhượng quyền là hoàn toàn cần thiết. Bằng tiềm lực kinh tế mạnh, qui mô
lớn của một số doanh nghiệp cộng với sự nỗ lực to lớn, thì có thể dễ ràng
xây dựng được đội ngũ nhân viên giỏi giúp cho hệ thống nhượng quyền
hoạt động thành công. Nhưng trên thực tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ
tiến hành mở rộng được hệ thống nhượng quyền nhưng việc kiểm soát,
điều hành quản lý hệ thông NQTM một cách có hiệu quả như các doanh
nghiệp trên lại là một vấn đề không phải doanh nghiệp nào cũng làm được.
- Mâu thuẫn có thể xảy ra giữa bên nhận quyền và bên nhượng quyền
Tồn tại những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích kinh tế giữa bên nhận
quyền và bên nhượng quyền đang là một trong những nhược điểm gây
nhiều tranh luận trong phương thức nhượng quyền. Nếu bên nhận quyền
hoạt động có hiệu quả, làm ăn phát đạt, thu được nhiều lợi nhuận thì mọi
chuyện sẽ rất tốt và không có gì để nói. Nhưng nếu họ làm ăn thua lỗ thì
mâu thuẫn sẽ nảy sinh. Nếu không lường trước được việc này và có những
giải pháp thỏa đáng, bên nhận quyền có thể kiện bên nhượng quyền đã
không huấn luyện, hỗ trợ chặt chẽ cho bên nhận quyền trong việc quản lý
điều hành kinh doanh.

Hoàng Minh Tuấn Trang 19
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
Với điều kiện pháp lý như hiện nay, các điều khoản về nhượng quyền
còn sơ sài thì việc kiện tụng sẽ mất nhiều thời gian. Do đó, cách tốt nhất
để tránh xa mâu thuẫn và kiện tụng thì bên nhượng quyền phải làm mọi
cách có thể để hỗ trợ hệ thống nhượng quyền hoạt động thành công. Có
như vậy mới đảm bảo cho hệ thống tồn tại và phát triển, như thế cả hai
bên đều có lợi.
1.2. Pháp luật nhượng quyền thương mại
1.2.1. Pháp luật NQTM của một số nước trên thế giới
Để quản lý và điều hành hoạt động NQTM (Franchise) phát triển một
cách có hệ thống và phù hợp với chính sách kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia, thì việc xây dựng cho mình những quy định cụ thể về NQTM là một
nhu cầu tất yếu. Hiện nay, ở các quốc gia có hoạt động NQTM phát triển
như: Mỹ; Australia; Nga; Trung Quốc; Hàn Quốc; Nhật Bản...đều đã có
những quy định về nhượng quyền thương mại. Nhìn chung Luật nhượng
quyền thương mại được các nước trên thế giới xây dựng chủ yếu nghiêng
về phía người mua Franchise (Bên nhận quyền), hay nói cách khác là để
bảo vệ người mua Franchise không bị thiệt thòi với người bán Franchise
(Bên nhượng quyền). Trong phạm vi đề tài này, tác giả xin khái quát một
số điểm chính về pháp luật NQTM của một số nước trên thế giới:
Thứ nhất, pháp luật nhượng quyền thương mại của Mỹ
Ở nước Mỹ chỉ có một số tiểu bang có luật riêng về Franchise
(Franchise investment law) như: Bang California; Hawaii; Illinois; Indiana;
Maryland; Michigan; Minnesota; New York; Washington...Nhìn chung,
luật nhượng quyền ở các Bang này, quy định rất rõ về hợp đồng nhượng
quyền và đòi hỏi công ty nhượng quyền phải thông báo đầy đủ, chính xác
về mức doanh thu, lịch sử hình thành và phát triển của công ty, các vụ kiện
tụng tranh chấp, thông tin liên lạc với các đơn vị đại lý hiện tại,…Theo quy
định thì bên bán Franchise (Bên nhượng quyền) bắt buộc phải cung cấp cho

bên mua franchise (Bên nhận quyền), một tài liệu được gọi là UFOC hay
Hoàng Minh Tuấn Trang 20
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
còn gọi là bản giới thiệu về NQTM. Tài liệu này phải chuyển cho bên mua
franchise ngay từ lần gặp đầu tiên hoặc chậm nhất là 10 ngày trước khi ký
hợp đồng hay trả phí franchise. Nếu việc này không được thực hiện đúng
theo quy định thì chủ thương hiệu hay người bán franchise có nguy cơ bị
thưa kiện bởi đối tác mua franchise. Ngoài ra theo quy định, thì trước khi
công bố tài liệu UFOC người bán phải đăng ký và trình duyệt tài liệu này
với chính quyền bang sở tại. Còn nếu người bán franchise mà cố tình đưa
sai lệch các thông tin - dù đã đăng ký hoặc không đăng ký, thì đều phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật (dân sự hoặc hình sự tùy theo mức độ sai
phạm) [23,tr 71].
Thứ hai, Pháp luật nhượng quyền thương mại của Australia
Ở Australia nhượng quyền thương mại được thực hiện theo các quy
định về nhượng quyền thương mại theo mã số (Code of Conduct), một số
vùng điều này là bắt buộc được quy định trong Đạo luật thực tiễn thương
mại năm 1974. Theo mã số thì chủ thương hiệu nhượng quyền phải công
bố tài liệu về NQTM cho phía nhận quyền ít nhất 14 ngày trước khi hợp
đồng NQTM được ký kết. Mã số nhượng quyền cũng quy định rất rõ các
nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại, như: các quy định liên
quan đến ngân quỹ tiếp thị, cơ chế giải quyết các tranh chấp phát sinh bằng
hình thức trọng tài...[30].
Thứ ba, Pháp luật nhượng quyền thương mại của Ka-dắc-xtan
Cho đến năm 2002, quy định nhượng quyền thương mại tại Ka-dắc-
xtan cũng đã được qui định tại Chương 45 của Bộ luật Dân sự Kazakh (CC).
Áp dụng các biện pháp hỗ trợ của nhà nước nhượng quyền thương mại thông
thường được đề cập trong chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Áp
dụng các biện pháp để thúc đẩy nhượng quyền thương mại đã được quy định
tại Khoản 2.4.1 của nhà nước hỗ trợ cho các chương trình phát triển doanh

nghiệp nhỏ giai đoạn 1999-2000. Các quy định của Chương 45, cũng như
các quy tắc chính phủ về nhượng quyền chi tiết. Nhìn chung, các điều khoản
Hoàng Minh Tuấn Trang 21
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
về cung cấp thông tin NQTM, hợp đồng NQTM có điểm tương đồng với
pháp luật của các nước khác như Mỹ, Úc... [31].
1.2.2. Pháp luật nhượng quyền thương mại của Việt Nam
Phương thức kinh doanh NQTM đã có những bước phát triển mạnh
mẽ trong thời gian vừa qua và đang là sự lựa chọn đáng tin cậy cho các
doanh nhân Việt Nam. Cùng với sự phát triển của NQTM thì hệ thống các
quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động này cũng được xây dựng và hoàn
thiện dần trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử NQTM. Thể hiện ở sự
ra đời của hàng loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh về nhượng quyền
thương mại, điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với
phương thức kinh doanh này. Đồng thời đây cũng là cơ sở pháp lý hết sức
quan trọng để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn hoạt động
NQTM. Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến nhượng
quyền thương mại như sau:
- Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 của Bộ
khoa học công nghệ và môi trường hướng dẫn thực hiện Nghị định số
45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết về chuyển
giao công nghệ.
- Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 02/02/2005 của Chính phủ quy
định chi tiết về chuyển giao công nghệ.
- Bộ luật dân sự 2005
- Luật cạnh tranh 2004
- Luật Thương mại 2005
- Luật sở hữu trí tuệ 2005
- Luật chuyển giao công nghệ 2006
- Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của Chính Phủ quy

định chi tiết Luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại.
- Thông tư số 09/2006/TT-BTM ngày 25/05/2006 của Bộ Thương Mại
hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.
Hoàng Minh Tuấn Trang 22
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
- Quyết định số 106/2008/QĐ-BTC ngày 17/11/2008 của Bộ Tài
Chính về việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí
đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.
Ngoài ra, do tính chất đặc thù của mình, hoạt động NQTM còn chịu sự
điều chỉnh của các quy định pháp luật khác có liên quan như: pháp luật về
dịch vụ phân phối, pháp luật về thuế, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật
về đầu tư, pháp luật phá sản, pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo
chào bán quyền thương mại, pháp luật hành chính, pháp luật hình sự,…
Như vậy, với việc ban hành các văn bản pháp luật trên, một khung
pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam đã hình
thành, bước đầu tạo cơ sở cho sự phát triển NQTM và góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam.
Chúng ta sẽ tìm hiểu một số nội dung cơ bản về NQTM, được quy
định trong các văn bản pháp luật chủ yếu như sau:
Thứ nhất, về hợp đồng NQTM
Hợp đồng NQTM là nội dung quan trọng của NQTM, thông qua hợp
đồng này quan hệ giữa các bên được xác lập. Khi tìm hiểu về hợp đồng
NQTM, chúng ta cần lưu ý các nội dung:
Một là, điều kiện trở thành chủ thể hợp đồng NQTM
Pháp luật quy định khá rõ về điều kiện trở thành chủ thể hợp đồng
NQTM, từ đó góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các bên.
Tại Điều 5, 6, 7 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, chủ thể tham gia hợp
đồng NQTM bao gồm bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Bên nhượng
quyền là thương nhân cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng
quyền thứ nhất (bên nhượng quyền sơ cấp) và bên nhượng lại quyền (bên

nhượng quyền thứ cấp). Bên nhận quyền là thương nhân nhận quyền
thương mại để khai thác, kinh doanh gồm cả bên nhận quyền sơ cấp và bên
nhận quyền thứ cấp. Bên nhượng quyền và bên nhận quyền phải đảm bảo
những điều kiện nhất định về chủ thể tham quan hệ NQTM được pháp luật
Hoàng Minh Tuấn Trang 23
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
quy định như:
Bên nhượng quyền, được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng 3
điều kiện sau:
- Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt
động ít nhất 01 năm. Trường hợp thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền
sơ cấp từ bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải
kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở
Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại.
- Đã đăng ký hoạt động NQTM với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
- Hàng hóa, dịch vụ kinh doanh thuộc đối tượng của quyền thương
mại là hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm
kinh doanh. Trường hợp danh mục hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hạn
chế kinh doanh, Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện,
doanh nghiệp chỉ được kinh doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp
Giấy phép kinh doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều kiện
kinh doanh.
Bên nhận quyền, pháp luật quy định bên nhận quyền phải là thương
nhân có đủ khả năng tiến hành các hoạt động kinh doanh sau khi nhận quyền
kinh doanh của bên nhượng quyền. Cụ thể là bên nhận quyền phải có đăng
ký kinh doanh ngành nghề phù hợp với đối tượng của quyền thương mại.
Hai là, hình thức hợp đồng NQTM
Theo quy định tại Điều 285 Luật thương mại 2005, hợp đồng NQTM
phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý
tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình

thức khác theo quy định của pháp luật. Việc quy định như vậy nhằm đảm
bảo tính minh bạch, rõ ràng của hợp đồng NQTM, tạo căn cứ vững chắc
cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng và tạo
thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp.
Ba là, nội dung hợp đồng NQTM
Hoàng Minh Tuấn Trang 24
Pháp luật nhượng quyền thương mại (Franchise) và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
Các qui định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, về cơ
bản đã có sự phù hợp với pháp luật của các nước. Theo nội dung của Điều
286, 287, 288, 289 Luật thương mại 2005, các bên sẽ có những quyền và
nghĩa vụ cơ bản sau:
Bên nhượng quyền, có ba quyền cơ bản là: thứ nhất, nhận tiền
nhượng quyền; thứ hai, tổ chức quảng cáo cho hệ thống NQTM; thứ ba,
kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo
đảm sự thống nhất của hệ thống NQTM và sự ổn định về chất lượng hàng
hoá, dịch vụ.
Đi đôi với quyền, bên nhượng quyền cũng có những nghĩa vụ nhất
định, đó là: thứ nhất, cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống NQTM cho
bên nhận quyền; thứ hai, đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật
thường xuyên cho bên nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ
thống NQTM; thứ ba, thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch
vụ bằng chi phí của bên nhận quyền; thứ tư, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ
đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng NQTM; thứ năm, đối xử bình
đẳng với các bên nhận quyền trong hệ thống NQTM.
Bên nhận quyền, có hai quyền: thứ nhất, yêu cầu bên nhượng quyền cung
cấp đầy đủ sự trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống NQTM; thứ hai,
yêu cầu bên nhượng quyền đối xử bình đẳng giữa các bên nhận quyền trong
hệ thống NQTM.
Bên nhận quyền được sử dụng, khai thác quyền thương mại thuộc sở
hữu của bên nhượng quyền, do đó phải chịu nhiều ràng buộc từ phía bên

nhượng quyền và các nghĩa vụ đặt ra đối với bên nhận quyền cũng nhiều
hơn, bao gồm bảy nghĩa vụ: thứ nhất, trả tiền nhượng quyền và các khoản
thanh toán khác theo hợp đồng NQTM; thứ hai, đầu tư đủ cơ sở vật chất,
nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền mà bên nhượng quyền
chuyển giao; thứ ba, chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của
Hoàng Minh Tuấn Trang 25

×