A . PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội tồn tại phổ biến. Nó là
những bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ
đất đai. Tranh chấp đất đai để lại các hệ lụy xấu phá vỡ sự đoàn kết trong nội
bộ nhân dân, là nguy cơ tiềm ẩn sự mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội và là điều kiện để các thế lực thù địch tuyên truyền kích động, xuyên tạc,
chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam v.v Để ngăn
ngừa nguy cơ tiềm ẩn sự mất ổn định chính trị và duy trì khối đại đoàn kết
toàn dân, vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm. Trong các đạo Luật đất đai được ban hành như Luật đất đai
năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 đều có các quy
định về giải quyết tranh chấp đất đai. Theo đó, tranh chấp đất đai được giải
quyết thông qua hòa giải ở cơ sở do các tổ hòa giải thôn, xóm, tổ dân phố và
chính quyền xã, phường, thị trấn thực hiện. Chỉ khi hòa giải ở cơ sở không
thực hiện được thì tranh chấp đất đai mới do Tòa án nhân dân (TAND) hoặc
Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện trở lên giải quyết. Việc đi sâu tìm hiểu
việc giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính thực hiện trên phạm
vi địa bàn một huyện như huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình thì dường như
còn ít có công trình nghiên cứu. Hơn nữa trong điều kiện kinh tế thị trường,
đất đai ngày càng có giá trị cao thì các tranh chấp, khiếu kiện đất đai ngày
càng gia tăng. Để góp phần tháo “ngòi nổ” của các điểm nóng do tranh chấp,
khiếu kiện đất đai gây ra trên địa bàn huyện thì việc nghiên cứu, tìm hiểu và
đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng công tác giải quyết tranh chấp đất
đai theo thủ tục hành chính xem xét trong phạm vi một huyện cụ thể như
Huyện Quảng Ninh là một việc làm có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Với ý nghĩa đó, em lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp đất đai theo
thủ tục hành chính qua thực tiễn tại địa bàn Huyện Quảng Ninh - Tỉnh
Quảng Bình” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là đi sâu tìm hiểu những vấn đề lý luận về
tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính qua
thực tiễn tại địa bàn Huyện Quảng Ninh - Tỉnh Quảng Bình đã và đang đạt
được những kết quả như thế nào? Tìm hiểu những nguyên nhân thành công,
những hạn chế vướng mắc trong quá trình thực hiện giải quyết các tranh chấp
đất đai theo thủ tục hành chính tại địa bàn Huyện Quảng Ninh - Tỉnh Quảng
Bình. Từ đó đưa ra các kiến nghị và phương hướng nhằm nâng cao chất lượng
công tác giải quyết các tranh chấp tại địa bàn Huyện Quảng Ninh - Tỉnh
Quảng Bình.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Lý giải những vấn đề lý luận chung về tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính;
- Đánh giá thực trạng pháp luật đất đai thông qua việc tìm hiểu, phân tích
thực trạng áp dụng trên địa bàn Huyện Quảng Ninh – Tỉnh Quảng Bình;
- Đưa ra định hướng và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn Huyện.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về tranh chấp đất đai, các dạng tranh chấp đất
đai phổ biến
- Nghiên cứu các quy định hiện hành về giải quyết tranh chấp đất đai;
- Thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành về giải quyết tranh chấp đất
đai tại địa bàn Huyện Quảng Ninh - Tỉnh Quảng Bình.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1 Phạm vi về không gian
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện nay về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai theo
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
2
thủ tục hành chính tại địa bàn Huyện Quảng Ninh - Tỉnh Quảng Bình cụ thể
tại Ủy ban nhân dân Huyện Quảng Ninh – Tỉnh Quảng Bình.
4.2 Phạm vi về thời gian
Đánh giá về công tác giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành
chính tại địa bàn Huyện Quảng Ninh – Tỉnh Quảng Bình trong thời gian 4
năm từ 2010 đến 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra; trong quá trình
nghiên cứu đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử… được sử dụng
trong chương 1 khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về tranh chấp
đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính ;
- Phương pháp so sánh luật học, phương phương pháp đánh giá v.v
được sử dụng trong chương 2 khi tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về
giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính trên địa bàn huyện
Quảng Ninh;
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp… được sử dụng ở chương
3 khi xem xét, tìm hiểu về hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
thông qua việc nghiên cứu thực trạng áp dụng tại huyện Quảng Ninh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việc nghiên cứu và thực hiện đề tài khóa luận này đã góp phần làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp
đất đai theo thủ tục hành chính để rồi từ đó hiểu được các quy định của
pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành
chính, đặc điểm, trình tự, thẩm quyền của việc giải quyết tranh chấp đất đai
theo thủ tục hành chính. Nhìn nhận được sự khác biệt cơ bản giữa việc giải
quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính với giải quyết tranh chấp
theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
3
Việc nghiên cứu và tìm hiểu về thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai
theo thủ tục hành chính trên địa bàn Huyện Quảng Ninh – Tỉnh Quảng Bình
đã giúp cho chúng ta có được cái nhìn khách quan đúng đắn về tình hình giải
quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính trên địa bàn Huyện. Đánh giá
thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính trên địa bàn
Huyện, ghi nhận được những mặt đã đạt được cũng như những vướng mắt
hạn chế còn tồn tại trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai. Qua đó tìm ra
những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên để rồi từ đó có những giải
pháp cụ thể nhằm khắc phục theo hướng hoàn thiện nâng cao chất lượng giải
quyết tranh chấp đất đai trên địa bản Huyện.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính.
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành
chính trân địa bàn Huyện Quảng Ninh – Tỉnh Quảng Bình và những giải pháp
nâng cao hiệu quả.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
4
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI THEO THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1.1. Những vấn đề lý luận chung về tranh chấp đất đai theo thủ tục
hành chính
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong đời sống xã hội,
không phụ thuộc vào chế độ sở hữu đất đai. Đối với Việt Nam trong suốt thời
gian từ khi chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được thiết lập từ năm 1980
cho đến nay, tranh chấp đất đai luôn là vấn đề thời sự có những diễn biến rất
phức tạp ảnh hưởng xấu đến việc quản lý, sử dụng đất đai nói riêng và gây bất
ổn nhất định đối với đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Sự kiện Bộ tài
nguyên và môi trường từng đề xuất thành lập một cơ quan tài phán chuyên
trách để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về đất đai phần nào cho thấy tính
chất nghiêm trọng của vấn đề này.
Trải qua nhiều giai đoạn với những chính sách đất đai khác nhau, cho dù
đất đai có được coi như là một loại tài sản có giá, quyền sử dụng đất có phải
là một loại hàng hóa đặc biệt hay không, hiện tượng tranh chấp đất đai đều
được pháp luật ghi nhận và quy định việc giải quyết. Tuy nhiên, trước khi
Luật Đất đai 2003 ra đời, thuật ngữ “TCĐĐ” chưa được chính thức giải thích,
mà chủ yếu là chỉ được “hiểu ngầm” qua các quy định của pháp luật về giải
quyết TCĐĐ, quy định về giải quyết các tranh chấp khác có liên quan đến
quyền sử dụng đất trong các đạo luật đất đai qua các thời kỳ và trong các văn
bản pháp luật có liên quan của cơ quan nhà nước.
Tranh chấp đất đai là một thuật ngữ, một khái niệm đã trở lên rất phổ
biến trong đời sống xã hội. Thuật ngữ này không chỉ xuất hiện trong các văn
bản pháp luật mà còn xuất hiện thường ngày trên các phương tiện thông tin
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
5
đại chúng, trong đời sống nhân dân. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm này
hiện nay vẫn chưa được hiểu một cách đồng nhất, kể cả trong giới luật học.
Việc xác định nội hàm khái niệm tranh chấp đất đai có ý nghĩa quan trọng kể
cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn, đặc biệt là trong việc xác định cơ chế,
thẩm quyền, trình tự và thủ tục giải quyết.
Theo giải thích của Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp nói chung được
hiểu là việc “Giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào”.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Tranh chấp: 1. Giành giật, giằng co
nhau cái không rõ thuộc về bên nào. 2. Bất đồng, trái ngược nhau”. Lần đầu
tiên tại khoản 26 Điều 4 của Luật Đất đai 2003 đã định nghĩa “TCĐĐ là tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên
trong quan hệ đất đai”.
Khi khái niệm này được “ra đời” nó được đón nhận với nhiều cảm xúc,
quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau, bởi đây là một khái niệm có nội hàm
tương đối rộng và không mấy rõ ràng. Theo khái niệm này, đối tượng tranh
chấp trong TCĐĐ là quyền và nghĩa vụ của NSDĐ. Nhưng, đây là tranh chấp
tổng thể các quyền và nghĩa vụ hay chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ
“đơn lẻ” của NSDĐ do pháp luật đất đai quy định, hay bao gồm cả tranh
chấp những quyền và nghĩa vụ mà NSDĐ có được khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật khác cho đến nay vẫn chưa được chính thức xác định. Bên cạnh
đó, chủ thể tranh chấp vốn được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng không được
xác định rõ ràng: chỉ bao gồm NSDĐ hay là tất cả các chủ thể có liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của NSDĐ trong quan hệ TCĐĐ? Chính sự chung
chung này đã khiến cho nội dung của TCĐĐ nhiều lúc được mở rộng tối đa ở
mức độ có thể.
Dẫn chiếu tới quy định của Luật Đất đai năm 2003 về giải quyết TCĐĐ
chúng ta có thể thấy, các chủ thể tham gia TCĐĐ chỉ bao gồm những người
sử dụng đất. Mặc dù, Điều 135 và Điều 136 của Luật Đất đai năm 2003 sử
dụng cả hai khái niệm “TCĐĐ” và “tranh chấp quyền sử dụng đất” nhưng
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
6
chúng ta phải khẳng định rằng khái niệm “TCĐĐ” rộng hơn khái niệm
“tranh chấp quyền sử dụng đất”. Chính do chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
ở Việt Nam nên nội dung chính của quan hệ TCĐĐ chỉ bó hẹp lại là tranh
chấp về QSDĐ. Nhà nước không thừa nhận và đứng ra là một bên chủ thể
ngang hàng với người sử dụng đất trong các vụ TCĐĐ. Theo đó, nếu người
sử dụng đất thấy quyền lợi của mình bị ảnh hưởng bởi các quyết định của cơ
quan nhà nước, hành vi hành chính của cán bộ công chức thì có quyền khiếu
nại theo thủ tục khiếu nại, tố cáo.
Ở một khía cạnh khác, khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai 2003 cũng có thể
được hiểu ở phạm vi khác. Cụ thể, TCĐĐ là tranh chấp về “quyền” và tranh
chấp về “nghĩa vụ” liên quan đến đất đai của người hiện đang quản lý, sử
dụng đất với những người có liên quan trong quan hệ đất đai. Theo đó, tất cả
các giao dịch dân sự giữa các chủ thể mà đối tượng của giao dịch đó là đất
đai, quyền và nghĩa vụ về đất đều được hiểu là quan hệ đất đai. Và theo cách
hiểu này, các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các hợp đồng về đất đai
sẽ được hiểu là tranh chấp đất đai, chẳng hạn tranh chấp về nghĩa vụ nộp thuế
chuyển quyền sử dụng đất giữa các bên tham gia quan hệ chuyển nhượng -
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hay tranh chấp về quyền yêu cầu trả
công trong hợp đồng ủy quyền quản lý, sử dụng đất… Rõ ràng, các tranh chấp
dạng này là những tranh chấp dân sự thuần túy, và thực tiễn các vụ việc này
đều không được các cơ quan hành chính thụ lý mà được Tòa án nhân dân thụ
lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Tiếp đó, “Quan hệ đất đai” được hiểu là quan hệ giữa người với người
trong việc sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai, trong đó có cả các chủ thể là cơ
quan quản lý Nhà nước về đất đai. Nếu hiểu một cách thuần túy tranh chấp
đất đai là tranh chấp “giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai” thì có
nghĩa là sẽ có loại tranh chấp đất đai giữa cơ quan quản lý Nhà nước về đất
đai với người sử dụng đất. Điều này là hoàn toàn mâu thuẫn với chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai. Bởi lẽ, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
7
thống nhất quản lý với tư cách đại diện chủ sở hữu. Trong quá trình quản lý
đó, Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng
đất, giao một phần diện tích đất cho các cơ quan, trong đó có Ủy ban nhân
dân các cấp để làm trụ sở phục vụ hoạt động quản lý xã hội. Người sử dụng
đất, nếu không nhất trí với cơ quan Ủy ban nhân dân về việc quản lý, sử dụng
đối với một diện tích đất cụ thể nào đó, chỉ có quyền đề nghị Nhà nước xem
xét lại việc giao đất đó đã thực sự công bằng, hợp lý hay chưa, chứ không có
quyền tranh chấp diện tích đất đó với cơ quan Ủy ban nhân dân.
Như vậy, định nghĩa tranh chấp đất đai theo khoản 26 Điều 4 Luật Đất
đai 2003 do có nội hàm rất rộng nên đã gây nhiều cách hiểu không chính xác.
Nhiều quan điểm đã đồng tình với cách hiểu rằng, tranh chấp đất đai là tranh
chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền
và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất. Hơn nữa, các tranh chấp
có liên quan đến quyền sử dụng đất của người sử dụng đất cũng đã từng được
quy định cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là tranh chấp liên quan đến quyền
sử dụng đất chứ không phải tranh chấp đất đai một cách chung chung. Vì vậy,
theo quan điểm các nhân, tranh chấp đất đai, tự thân khái niệm đã nói lên nội
hàm của khái niệm. Theo đó, tranh chấp đất đai cần được hiểu là tranh chấp
quyền sử dụng đối với diện tích đất cụ thể giữa các chủ thể trong hoạt động
quản lý, sử dụng đất. Các dạng tranh chấp khác đều được hiểu là tranh chấp
liên quan đến đất đai và được giải quyết bởi cơ quan Tòa án theo thủ tục tố
tụng dân sự.
Như vậy, nên hiểu tranh chấp đất đai ở nước ta chính là tranh chấp quyền
sử dụng đất hay bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp
liên quan đến quyền sử dụng đất, vì làm rõ khái niệm tranh chấp đất đai có thể
giúp xác định chính xác đối tượng tranh chấp trong tranh chấp đất đai, góp
phần áp dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất, góp phần hoàn thiện
pháp luật đất đai, tránh được trường hợp quy định của luật này chồng chéo lên
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
8
quy định của luật kia. Hiện nay, ngành Tòa án ở nước ta vẫn thống kê các tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất vào mục tranh chấp đất đai nói chung. Vì
vậy theo tôi, tranh chấp đất đai là bao gồm tranh chấp quyền sử dụng đất và tất
cả các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và trong điều kiện của nước
ta hiện nay, cũng nên hiểu tranh chấp đất đai chính là tranh chấp quyền sử dụng
đất và các tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất thì phù hợp hơn.
Như vậy, có thể hiểu: “tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung
đột về mặt lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ
đất đai trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai”.
Việc nhận thức như vậy là hoàn toàn phù hợp với xu hướng Nhà nước
đang ngày càng mở rộng quyền cho người sử dụng đất và các cơ quan Nhà
nước được giao quản lý đất đai nếu không tuân thủ pháp luật, gây thiệt hại
cho lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất cũng có thể bị người sử dụng đất
khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại chứ không còn đơn thuần là mệnh lệnh
hành chính một chiều.
Khách quan cũng cần phải thừa nhận rằng, cũng chính định nghĩa tranh
chấp đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành còn chưa rõ ràng, chưa cụ
thể nên trên thực tế chúng cũng là nguyên nhân dẫn đến tình tràng “mù mờ”,
thiếu đi sự phân định rạch ròi và thậm chí trong nhiều trường hợp người ta
đồng nhất giữa tranh chấp với khiếu nại, tố cáo về đất đai, trong khi chúng
hoàn toàn có đối tượng, tính chất, đặc điểm và phạm vi khác nhau. Vì vậy, để
đảm bảo cho hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết
tranh chấp đất đai bằng Tòa án nói riêng đúng pháp luật, đúng thẩm quyền thì
sự cần thiết phải làm rõ nội hàm của vấn đề này.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là hiện tượng xã hội, có thể xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi.
Ở các vùng, miền khác nhau thì tranh chấp đất đai có thể có những nét riêng.
Theo khoản 26, Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 thì “tranh chấp đất đai là
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
9
bên trong quan hệ đất đai”. Hay nói cách khác, tranh chấp đất đai là tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa các đương sự trong
qua trình quản lý và sử dụng đất đai. Như vậy, tranh chấp đất đai chính là các
mâu thuẫn, bất đồng ý kiến của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật
đất đai khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm. Trong
thực tế, đôi khi người ta không phân biệt được tranh chấp đất đai và khiếu nại
trong lĩnh vực đất đai. Tranh chấp đất đai có những đặc điểm chung của các
tranh chấp kinh tế, dân sự, đồng thời nó có những đặc điểm riêng có để phân
biệt với các loại tranh chấp khác:
- Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và
những lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng một loại tài sản đặc biệt không
thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp;
- Các chủ thể tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất,
không có quyền sở hữu đối với đất đai;
- Tranh chấp đất đai luôn gắn liền với quá trình sử dụng đất của các chủ
thể nên không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia tranh
chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước. Vì trước hết, khi xảy ra
tranh chấp, một bên không thực hiện được những quyền của mình, do đó ảnh
hưởng đến việc thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Tranh chấp đất đai xảy ra sẽ tác động không nhỏ đến tâm lý, tinh thần
của các bên, gây nên tình trạng mất ổn định, bất đồng trong nội bộ nhân dân,
làm cho những quy định trong pháp luật đất đai cũng như những chính sách
của Nhà nước không được thực hiện một cách triệt để.
- Tranh chấp đất đai xảy ra là hậu quả của những nguyên nhân nhất định,
nó là biểu hiện cụ thể của những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể sử dụng đất với nhau.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, các tranh chấp đất
đai trở nên rất đa dạng, bởi đất đai không chỉ đơn thuần là tư liệu sản xuất đặc
biệt quan trọng không thể thay thế mà nó đã trở thành một thứ hàng hoá đặc
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
10
biệt. Do sự tác động của quy luật thị trường nên giá đất thường xuyên biến
động, vì vậy việc quản lý và sử dụng đất không chỉ là việc khai thác giá trị
quyền sử dụng đất mà còn cả phần giá trị sinh lời của nó.
- Một đặc điểm đặc thù chỉ có trong quan hệ đất đai là người có quyền sử
dụng đất hợp pháp dù không có quyền sở hữu nhưng vẫn có quyền định đoạt
quyền sử dụng trong phạm vi quy định của pháp luật. Có thể gọi đây là
“Quyền sở hữu hạn chế”, được người đại diện chủ sở hữu trao cho người sử
dụng đất. Do đó, tùy theo mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ tranh chấp
đất đai mà việc áp dụng pháp luật, thẩm quyền để giải quyết tranh chấp khác
nhau. Ví dụ: Giải quyết tranh chấp bằng tòa án thì áp dụng pháp luật Dân sự,
Kinh tế; Giải quyết tranh chấp bằng ủy ban thì áp dụng pháp luật Đất đai,
Luật Hành chính …
1.1.3. Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến
Các dạng tranh chấp đất đai hiện nay rất đa dạng, phong phú, nhiều khi
đan xen lẫn nhau. Tranh chấp đất đai có thể được chia làm hai loại lớn, đó là
các tranh chấp mà trong đó cần xác định ai là người có quyền sử dụng hợp
pháp đất đang tranh chấp và tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã
sử dụng đất hợp pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
1.1.3.1. Tranh chấp về đòi lại đất đai
Tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất:
Thực chất đây là dạng tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với đất có
nguồn gốc trước đây thuộc quyền sở hữu của họ hoặc người thân của họ mà
do nhiều nguyên nhân khác nhau họ không còn quản lý, sứ dụng nữa. Bây giờ
những người này đòi lại người đang quản lý, sử dụng dẫn đến tranh chấp.
Trong dạng tranh chấp này có các loại sau:
+ Đòi lại đất, tài sản của họ, của người thân trong các giai đoạn khác
nhau trước đây qua các cuộc điều chỉnh đã chia, cấp cho người khác: Sau cải
cách ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
11
nghiệp. Đặc biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo mô
hình sản xuất tập thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và các tư liệu sản xuất của
nông dân được tập trung vào hợp tác xã. Đến khi thực hiện Nghị quyết T.Ư
10/TW năm 1988, đất đai được phân chia đến hộ gia đình, cá nhân để sản
xuất. Do việc phân chia đất đai không hợp lý một số cán bộ xã, huyện đã làm
sai như chia đất sản xuất cho những người không phải là nông dân để rồi
những người này đem bán, cho thuê, trong khi đó nông dân không có đất sản
xuất, một số hộ trước khi vào tập đoàn, hợp tác xã có đất, đến khi giải thể họ
không có đất để canh tác. Một số hộ thực hiện chính sách “nhường cơm sẻ
áo” của Nhà nước trong những năm 1981-1986 đã nhường đất cho những
người khác sử dụng, nay đòi lại ở miền nam, Nhà nước thực hiện chính sách
cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất đai, nhà cửa, tư liệu sản xuất
của địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hoặc giao nhà cửa, đất đai cho người
khác sử dụng, đến nay do có sự hiểu lầm về chính sách họ cũng đòi lại những
người đang quản lý, sử dụng.
Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi khác ở, ra nước ngoài sinh sống cũng
trở về đòi lại đất đai, tài sản trước đây của họ đã được giao cho người khác
quản lý, sử dụng.
+ Tranh chấp giữa những người làm nghề thủ công, nay thất nghiệp trở
về đòi lại ruộng của những người làm nông nghiệp: Những người làm nghề
thủ công trước đây đã được phân ruộng để sản xuất, để ở, sau đó họ không
sản xuất nông nghiệp nữa hoặc chuyển đi nơi khác để làm nghề, đến nay họ
trở về đòi lại đất để sản xuất, để ở.
+ Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền,
miếu mạo, nhà thờ họ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra như sau: Trước
đây do hoàn cảnh lịch sử, chính quyền địa phương đã mượn đất của các cơ sở
nói trên để sử dụng hoặc tịch thu một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan, trường
học đến nay các cơ sở đó đòi lại nhưng Nhà nước không trả lại được nên
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
12
dẫn đến khiếu kiện của các cơ sở đó.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
13
Ngoài ra, trong những trường hợp nói trên, một số người được các nhà
thờ, dòng tu, chùa chiền, nhà thờ họ cho đất để ở họ đã xây dựng nhà kiên cố,
hoặc lấn chiếm thêm đất của các cơ sở nói trên dẫn đến việc các cơ sở nói trên
đòi lại đất, nhà.
+ Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ: Dạng tranh
chấp này phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho ở
nhờ. Có vụ cho mượn, thuê gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây vài chục
năm (nhất là ở miền nam). Trong nhiều trường hợp không làm hợp đồng, chỉ
giao kết bằng miệng dẫn đến khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ hoặc là
hết hạn hợp đồng, hoặc đòi lại, bên mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng nhà kiên
cố, một số có tên trong sổ địa chính hoặc được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (QSDĐ) thì việc tranh chấp này càng trở nên phức tạp, dẫn đến việc
công dân khiếu kiện lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cấp giấy
chứng nhận QSDĐ.
+ Tranh chấp QSDĐ, tài sản gắn liền với QSDĐ khi vợ chồng ly hôn:
Đây là trường hợp tranh chấp đất hoặc tài sản gắn liền với QSDĐ khi vợ
chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc đất
để ở; có thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa một bên ly hôn với hộ gia
đình vợ hoặc chồng hoặc có thể xảy ra khi bố mẹ cho con đất, đến khi con ly
hôn thì cha mẹ đòi lại
+ Tranh chấp về quyền thừa kế QSDĐ, tài sản gắn liền với QSDĐ: Đây
là dạng tranh chấp do người có QSDĐ, tài sản gắn liền với đất chết mà không
để lại di chúc, hoặc để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật
và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia
thừa kế hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp.
+ Tranh chấp giữa đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới với đồng
bào dân tộc sở tại: Đây là dạng tranh chấp thường xảy ra ở vùng Tây
Nguyên. Việc di dân, đặc biệt là di dân tự do khi đến nơi ở mới không
phải lúc nào chính quyền sở tại cũng cấp đất cho người dân di cư, dẫn đến
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
14
việc người mới đến phá rừng, lấn chiếm đất đai dẫn đến tranh chấp với
đồng bào dân tộc sở tại.
+ Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng
đất khác với nhân dân địa phương: Do cơ chế trước đây nên dẫn đến tình
trạng các nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội bao chiếm một lượng
lớn đất đai, không sử dụng hết để đất bỏ hoang hoặc cho người dân sử dụng
theo hình thức phát canh, thu tô. Mặt khác, nhiều nông trường, lâm trường,
các đơn vị quân đội quản lý đất đai lỏng lẻo dẫn đến tình trạng người dân
chiếm đất để sử dụng. Do đó cũng dẫn đến tranh chấp đất đai.
1.1.3.2. Tranh chấp liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Tranh chấp về giải toả mặt bằng phục vụ các công trình công cộng, lợi
ích quốc gia và mức đền bù khi thực hiện giải tỏa. Trong tranh chấp loại này
chủ yếu là khiếu kiện về giá đất đền bù, diện tích đất được đền bù, giá cả đất
tái định cư và đền bù không đúng người, giải tỏa quá mức quy định để chừa
đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện nay, việc quy hoạch mở
mang đường sá, đô thị quá lớn đẫn đến việc tranh chấp loại này rất gay gắt,
phức tạp và có nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện.
1.1.3.3. Tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất hợp pháp
Các dạng tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng hợp
pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình. Trong các dạng tranh chấp này thì người đang SDĐ đã sử
dụng hợp pháp đất, không có ai tranh chấp. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền và
nghĩa vụ SDĐ của mình như:
- Thực hiện các giao dịch về dân sự hợp đồng chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền SDĐ, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn
bằng giá trị quyền SDĐ.
- Hoặc do chủ trương, chính sách của Nhà nước như giải tỏa, trưng dụng,
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
15
trưng mua hoặc do người khác gây thiệt hại, hoặc bị hạn chế về quyền và
nghĩa vụ SDĐ của mình mà dẫn đến tranh chấp.
1.1.3.4. Tranh chấp về ranh giới sử dụng đất
Tranh chấp giữa những người sử dụng với nhau về ranh giới giữa các
vùng đất được phép sử dụng và quản lý: Đây là tranh chấp về ranh giới. Loại
tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới hoặc hai bên không
xác định được với nhau về ranh giới, một số trường hợp chiếm luôn diện tích
đất của người khác. Những trường hợp tranh chấp này xảy ra thường do ranh
giới đất giữa những người sử dụng đất liền kề không rõ ràng, đất này thường
sang nhượng nhiều lần, bàn giao không rõ ràng.
Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về địa giới
hành chính. Loại tranh chấp này thường xảy ra giữa người ở hai tỉnh, hai
huyện, hai xã với nhau, tập trung ớ những nơi có vị trí quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, văn hóa, ở những vị trí dọc theo triền sông lớn, những vùng
có địa giới không rõ ràng, không có mốc giới nhưng là vị trí quan trọng, ở
những nơi có nguồn lâm, thổ sản quý. Cùng với việc chia tách các đơn vị
hành chính tỉnh, huyện, xã thì tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành
chính tương đối nhiều.
Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới xảy ra nhiều khi do lỗi của các cơ quan
nhà nước, đó là khi cấp đất, cơ quan cấp đất có ghi diện tích, nhưng không đo
đạc cụ thể khi giao đất chỉ căn cứ vào giấy cấp đất và đơn kê khai diện tích của
đương sự. Sau này khi đương sự đo lại thấy diện tích đất ít hơn so với quyết
định cấp đất cũng như giấy chứng nhận QSDĐ hoặc khi cấp giấy chứng nhận
QSDĐ có phần diện tích chồng lên nhau. Do đó cũng gây nên tranh chấp giữa
các hộ liền kề nhau. Khi giải quyết tranh chấp, các cơ quan có thẩm quyền phải
xác định phần đất tranh chấp đó là thuộc quyền sử dụng của ai.
1.1.3.5. Tranh chấp về mục đích sử dụng
Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông
nghiệp với đất lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
16
cao su với đất trồng cà phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá
trình phân bố và quy hoạch sử dụng. Trong thực tế trường hợp tranh chấp này
xảy ra như sau: Do mục đích SDĐ nên Nhà nước thu hồi đất của người đang
sử dụng để giao cho người khác sử dụng với mục đích khác, dẫn đến người
đang SDĐ khiếu kiện việc chuyển mục đích SDĐ hay khiếu kiện việc thu hồi
hoặc khiếu kiện người được giao đất sử dụng với mục đích khác. Mặt khác,
người được Nhà nước giao đất chuyển mục đích sử dụng khiếu kiện người
đang sử dụng đất phải giao đất cho mình theo quyết định giao đất.
1.1.4. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai
Mỗi tranh chấp đất đai xảy ra đều do những nguyên nhân nhất định, khi
đó yếu tố chủ quan, khách quan, yếu tố cơ bản, tạm thời cần được nghiên cứu
thận trọng và xử lý một cách kịp thời. Những năm vừa qua, tranh chấp đất đai
diễn ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Tuy mức độ, tính chất và
phạm vi khác nhau nhưng nhìn chung tranh chấp đất đai đã gây ra hậu quả
nặng nề, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải căn cứ vào
thực trạng sử dụng đất, vào đường lối, chính sách của Nhà nước, vào những
văn bản pháp luật để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, từ đó có
những biện pháp giải quyết một cách thoả đáng, góp phần ngăn ngừa và hạn
chế tới mức thấp nhất những tranh chấp có thể xảy ra.
Từ thực tế của hiện tượng tranh chấp đất đai có thể rút ra một số nguyên
nhân chủ yếu sau:
1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do lịch sử để lại.
Trải qua nhiều chế độ khác nhau, mỗi chế độ lại có những quan điểm
khác nhau về chế độ sở hữu làm ảnh hưởng đến các quan hệ sỏ hữu về đất đai.
Ở miền Bắc sau Cách mạng tháng Tám và sau năm 1953, Đảng và Chính phủ
đã tiến hành cải cách ruộng đất, xoá bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực
dân, phong kiến, xác lập quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân. Năm
1960, thông qua con đường hợp tác hoá nông nghiệp, ruộng đất của người
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
17
nông dân được đưa vào làm tư liệu sản xuất chung, thuộc sở hữu tập thể, do
đó tình hình sử dụng đất đai tương đối ổn định.
Thứ hai, do ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh làm xáo trộn quan hệ
pháp luật về đất đai.
Ở miền Nam, sau hai cuộc kháng chiến, tình hình sử dụng đất đai có nhiều
diễn biến phức tạp hơn. Trong 9 năm kháng chiến chính phủ đã tiến hành chia
cấp ruộng đất cho người nông dân hai lần vào năm 1949 - 1950 và năm 1954.
Nhưng đến cuối 1957, ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện việc cải cách điền địa,
thực hiện việc “truất hữu” nhằm xoá bỏ thành quả của cách mạng, gây ra những
xáo trộn lớn về quyền sở hữu ruộng đất của người nông dân.
Sau năm 1975, Nhà nước đã tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp, đồng
thời xây dựng hàng loạt các nông trường, lâm trường, trang trại. Nhìn chung,
những tổ chức đó bao chiếm nhiều diện tích nhưng sử dụng kém hiệu quả.
Đặc biệt, qua hai lần điều chỉnh ruộng đất vào năm 1978 - 1979 và năm 1982
- 1983, cùng với chính sách chia cấp đất theo kiểu bình quân đã dẫn đến
những xáo trộn lớn về ruộng đất, về ranh giới, diện tích và mục đích sử dụng.
Thứ ba, do yếu tố kinh tế
Do chuyển hướng nền kinh tế từ tập trung quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường mà quan hệ đất đai là một trong những yếu tố của quan hệ
kinh tế. Vì vậy mà nó cũng biến động theo sự thay đổi của quan hệ kinh tế.
Hiện nay, trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước việc thu hồi
đất để mở rộng đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng thực hiện các dự án đầu tư
làm cho quỹ đất canh tác ngày càng giảm. Trong khi đó, sự gia tăng dân số
vẩn ở tỷ lệ cao số trong khi diện tích đất có hạn; do sửa đổi Luật cư trú với
các điều kiện nới lỏng cho phép công dân được tự do cư trú; khuyến khích,
tạo điều kiện cho người nước ngoài, Việt kiều được mua nhà ở tại Việt Nam
đã góp phần phát sinh tranh chấp, khiếu kiện về đất đai. Đặc biệt do tác động
mạnh mẽ của cơ chế thị trường làm cho giá đất tăng đã và đang là những áp
lực lớn gây nên tình trạng kiếu kiện, tranh chấp đất đai một cách gay gắt.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
18
1.1.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, về cơ chế quản lý
Trong thời gian qua, công tác quản lý đất còn lỏng lẻo, chồng chéo,
nhiều chỗ quy định không rõ ràng và còn nhiều yếu kém. Nhà nước phân
công, phân cấp cho quá nhiều ngành dẫn đến việc quản lý đất đai thiếu chặt
chẽ, còn nhiều sơ hở. Có thời kỳ mỗi loại đất do một ngành quản lý: đất nông
nghiệp do nghành nông nghiệp quản lý, đất lâm nghiệp do ngành lâm nghiệp
quản lý, đất chuyên dùng thuộc ngành nào thì ngành đó quản lý đẫn đến tình
trạng tranh chấp giữa đất nông nghiệp với lâm nghiệp và đất chuyên dùng
Cũng có tình trạng, có loại đất không có cơ quan nào quản lý. Bên cạnh đó, tổ
chức cơ quan quản lý đất đai từ trung ương đến cơ sở không ổn định, hoàn
toàn không đủ sức giúp cho Nhà nước trong lĩnh vực này.
Công tác phân vùng quy hoạch đất đai làm chậm, thiếu đồng bộ, việc
phân chia địa giới hành chính có nhiều thay đổi nhưng xác định mốc giới
không kịp thời hoặc không rõ ràng làm cho tình trạng tranh chấp đất đai phức
tạp thêm, phương tiện và hồ sơ phục vụ cho công tác quản lý đất đai còn
thiếu, chưa có đầy đủ những cơ sở khoa học và phương pháp quản lý cần thiết
để xác định quyền sử dụng đất cho các chủ thể nên đã làm giảm hiệu lực của
Nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp đất đai.
Thứ hai, về chính sách, pháp luật đất đai
Về chính sách, pháp luật đất đai chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, có mặt
không rõ ràng và đang có nhiều biến động. Hơn nữa, thực tế áp dụng các
chính sách còn nhiều tuỳ tiện. Chẳng hạn, những quy định của pháp luật về
việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích công cộng,
lợi ích quốc gia: điều kiện đền bù, giá đất khi đền bù vẫn chưa đầy đủ và thực
sự rõ ràng dẫn đến tình trạng cơ quan Nhà nước khi áp dụng sai và dẫn đến
tranh chấp xảy ra. Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn thi hành các điều luật
đã quy định chậm được ban hành làm cho việc áp dụng pháp luật được thực
hiện một cách cầm chừng, thiếu hiệu quả. Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
19
ngày 1/07/2004. Nhưng phải cho đến tháng 10/2004 sau hơn 4 tháng thực
hiện mới có Nghị định hướng dẫn thi hành chi tiết Luật đất đai. Như vậy, nếu
đối chiếu với yêu cầu của Luật ban hành văn bản quy định pháo luật (được
quy định tại Điều 7) thì vẫn chưa tuân thủ triệt để đạo luật kể trên. Điều 7
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định:
Luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác phải được quy
định cụ thể để khi các văn bản đó có hiệu lực thì được thi hành ngay. Trong
trường hợp luật, pháp lệnh có điều, khoản cần phải được quy định chi tiết
bằng văn bản khác, thì ngay tại điều, khoản đó, phải xác định rõ cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định và thời hạn ban hành văn bản.
Văn bản quy định chi tiết thi hành phải được soạn thảo cùng với dự án,
pháp lệnh để trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi Luật, pháp lệnh có
hiệu lực. Chính sự chậm trể này đã làm cho việc áp dụng pháp luật một cách
cầm chừng, thiếu hiệu quả.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai chưa thực sự được coi
trọng, vì thế trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật trong nhân
dân còn hạn chế. Nhiều văn bản pháp luật đất đai chưa thực sự đi vào cuộc
sống. Việc điều tra, xem xét giải quyết tranh chấp đất đai còn yếu kém, hiệu lực
thấp, chưa thật sự quan tâm đến những giải pháp mang tính quần chúng.
Thứ ba, về cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức thực hiện công vụ liện quan đến đất đai một bộ phận
cán bộ công chức còn thiếu gương mẫu, tuỳ tiện trong quản lý, vi phạm chế
độ quản lý và sử dụng đất đai.
1.1.5. Mục đích, ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp
Pháp luật là phương tiện quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội, quản lý
nền kinh tế nhưng nếu Nhà nước chỉ ban hành pháp luật mà không có những
biện pháp bảo đảm được thực hiện thì pháp luật cũng không thể phát huy
được vai trò tác dụng của mình. Vì thế, cùng với việc ban hành pháp luật, Nhà
nước còn đảm bảo cho pháp luật được thi hành.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
20
Việc xem xét giải quyết đất đai là một nội dung quan trọng trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với đất đai và là những biện pháp để pháp luật đất
đai pháp huy đựơc vai trò trong đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết
tranh chấp đất đai mà các quan hệ đất đai được điều chỉnh cho phù hợp với lợi
ích của Nhà nước, của xã hội và của người sử dụng đất, cần giáo dục ý thức
pháp luật cho công dân để ngăn ngừa những vi phạm pháp luật khác có thể
xảy ra. Với ý nghĩa đó thì việc giải quyết tranh chấp đất đai và tìm ra giải
pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm giải quyết những bất đồng, mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân. Trên cơ sở đó phục hồi các quyền lợi hợp pháp
cho bên bị xâm hại đồng thời bắt buộc bên vi phạm phải gánh chịu mọi hậu
quả pháp lý do hành vi của họ gây ra. Đó cũng là công việc có ý nghĩa quan
trong để tăng cưòng pháp chế trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.
Bên cạnh đó, việc giải quyết tranh chấp đất đai nhằm giải quyết bất
đồng, mâu thuẫn giữa các bên, duy trì sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội; tăng cường sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân; đồng thời góp phần bảo vệ
sự nghiêm minh của pháp luật làm tăng sự tin tưởng của người dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Hơn nữa, việc giải quyết tranh chấp đất đai góp phần góp phần thúc đẩy
việc thực thi, tuân thủ pháp luật đất đai và pháp luật có liên quan. Đó cũng là
công việc có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường pháp chế trong lĩnh
vực quản lý và sử dụng đất đai. Các quyền và lợi ích về đất đai nêu không
được giải quyết tốt tất yếu dẫn tới những xung đột từ quy mô nhỏ đến quy mô
lớn, từ các hiện tượng nhỏ lẻ cá biệt dẫn đến những hiện tượng bất thường
gây xáo trộn trong xã hội. Do vậy, không có Nhà nước nào lại không can
thiệp bằng nhiều biện pháp khác nhau để bình ổn những xung đột đó.
Thực tế, ở một số địa phương tình trạng khiếu kiện đông người gây áp
lực đối với chính quyền, bao vây các doanh nghiệp vì không hài lòng với việc
bồi thường thiệt hại về đất. Điều này cho vấy, việc giải quyết tranh chấp đất
đai đã trở thành mối quan tâm chung của toàn xã hội. Các biện pháp giải
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
21
quyết không nhất thiết cứ phải khiếu kiện đến cơ quan Nhà nước mà có thể
thông qua nhiều con đường khác nhau từ cộng đồng, từ sự chia sẽ của xã hội
và vai trò trung gian hòa giải của các tổ chức đoàn thể. Tuy nhiên, nếu những
biện pháp giáo dục, thuyết phục từ cộng đồng không đạt được sự nhất trí của
các bên đương sự thì đương nhiên bằng con đường hành chính, con đường tư
pháp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm bình ổn các quan
hệ xã hội thông qua việc áp dụng pháp luật để giải quyết mọi quyền lợi chính
đáng cho đương sự. Công tác giải quyết tranh chấp đất đai đạt hiểu quả tốt sẽ
duy trì trật tự xã hội ổn định, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
được phục hồi, mang lại niềm tin to lớn cho người có quyền lợi bị xâm phạm
đồng thời khuyến cáo người vi phạm pháp luật về các trách nhiệm pháp lý có
thể được áp dụng để truy cứu đối với hành vi vi phạm.
Từ những ý nghĩa trên có thể khái quát khái niệm giải quyết tranh chấp
đất đai như sau: “Giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quản lý Nhà
nước về đất đai, là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
nhằm giải quyết các tranh chấp bất đồng, mâu thuẩn trong nội bộ nhân dân,
giữa nhân dân với tổ chức và giữa các tổ chức sử dụng đất với nhau để qua
đó phục hồi các quyền và lợi ích vị xâm phậm đồng thời truy cứu trách nhiệm
pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai”.
1.1.6. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
Luật đất đai cũng như các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt
Nam đều được xây dựng trên những nguyên tắc thống nhất, bởi vì đó được
xem là những tư tưởng chỉ đạo, là nền tảng cơ sở, xuất phát điểm để thực hiện
các mục đích, yêu cầu đề ra. Vì vây, việc giải quyết tranh chấp đất đai cũng
phải đảm bảo tuân theo những nguyên tắc nhất định:
Thứ nhất, nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thực
hiện vai trò là đại diện chủ sở hữu. Cụ thể, theo Điều 17 Hiến pháp năm 1992
quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng
đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
22
Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực
kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh
cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở
hữu toàn dân”. Quy định này đã được cụ thể hóa tại Khoản 1 Điều 5 Luật đất
đai 2003: “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sỡ
hữu”. Như vây, đây là nguyên tắc rất cơ bản trong hoạt động giải quyết tranh
chấp đất đai, đòi hỏi khi xem xét giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong quan
hệ pháp luật đất đai đều phải thực hiện trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn
dân, bảo vệ quyền lợi cho người đại diện của chủ sở hữu, bảo vệ thành quả
cánh mạng về ruộng đất. Cần quán triệt đường lối Nhà nước không thừa nhận
việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện
chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách
mạng lâm thời cộng hoà miền nam Việt Nam và nhà nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt nam.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm lợi ích của người SDĐ, nhất là lợi ích kinh
tế, khuyến khích việc tự thương lượng, tự hòa giải trong nội bộ nhân dân;
Xuất phát từ nhận thức động lực phát triển xã hội, lợi ích của người lao
động bao giờ cũng đặt lên trên hết. Muốn đất đai sử dụng đạt hiệu quả thì Nhà
nước phải quan tâm đến lợi ích của NSDĐ. Do đó, trong giải quyết tranh chấp
đất đai cũng vậy lợi ích của NSDĐ cần được quan tâm đúng đắn. Thực hiện
nguyên tắc này, hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai đã thể hiện được tư
tưởng đổi mới trong quá trình Nhà Nước điều hành các quan hệ xã hội về đất
đai. Xét cả mặt lý luận và thực tiển, lợi ích bao giờ cũng là vấn đề cốt lõi
trong hầu hết các quan hệ xã hội và đất đai là một trong những lợi ích quan
trọng nhất của mọi tầng lớp. Nếu lợi ích của người sử dụng đất không được
đảm bảo thì việc sử dụng đất không thể đạt được hiệu quả mong muốn, đây là
giải pháp thuyết phục khi giải quyết các tranh chấp đất đai. Để bảo vệ một
cách tốt nhất những lợi ích thiết thân đó, trước hết các bên tranh chấp phải
gặp nhau để bàn bạc, thảo luận và thương lượng. Đó cũng là cơ sở quan trọng
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
23
đảm bảo quyền tự định đoạt cho các đương sự. Cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai chỉ thụ lý đơn khi các bên đã tiến hành
qua thủ tục này mà không đạt được sự nhất trí cần thiết.
Thứ ba, nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai phải nhằm mục đích ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với việc
tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa;
Thực hiện tốt nguyên tắc này trong quá trình giải quyết tranh chấp đất
đai sẽ tạo điều kiện cho lao động ở nông thôn có việc làm phù hợp với quá
trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Đây là vấn đề cần phải làm trong quá trình giải quyết tranh
chấp đất đai. Bởi mục đích của việc giải quyết tranh chấp đất đai là tìm ra giải
pháp đúng đắn trên cơ sở pháp lý.
Vậy nên, khi giải quyết tranh chấp đất đai cần phải thực hiện triệt để
những nguyên tắc trên để đảm bảo công tác giải quyết một cách đúng đắn
theo quy định của pháp luật.
1.1.7. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Kế thừa những quy định của Luật đất đai năm 1993, tại kỳ họp thứ tư
Quốc Hội khóa XI, trước khi thông qua toàn văn Luật đất đai năm 2003, vấn
đề phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai giữa co quan hành
chính Nhà nước với cơ quan tư pháp được đề cập nhiều tại các diễn đàn của
Quốc hội và có ý kiến tại sao không có Tòa án đất đai, trong khi Tòa hành
chính vắng hoe các vụ kiện thì lĩnh vực đất đai có quá nhiều chuyện để thưa
kiện. Nên chăng tiếp tục kế thừa những quy định của Luật đất đai 1993 và
phải có một lộ trình để Tòa án nhân dân (TAND) có thời gian để chuẩn bị mọi
điều kiện để giải quyết có hiệu quả các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993
thì TAND có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai mà NSDĐ có giấy
tờ chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản
gắn liền với đất. Quy định này khi mới nhìn vào tưởng chừng như đã rõ ràng
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
24
và chặt chẽ. Tuy nhiên khi áp dụng thực tế mới biết điều khoản này chưa rõ
ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau; bởi hiểu như thế nào là giấy chứng
nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp? Hậu quả là vụ tranh chấp đất
đai không biết phải giải quyết từ đâu, TAND hay UBND.
Tại Thông tư liên tịch số 02/TTLT-TANTC-VKSNDTC-TCĐC ngày
28/07/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tổng cục địa chính xác định, TAND sẽ giải quyết tranh chấp đất đai với các
trường hợp đã có giấy chứng nhận QSDĐ theo Luật đất đai năm 1993 và theo
mẫu giấy của Tổng cục địa chính phát hành. Như vậy, sau 4 năm từ ngày có
Luật đất đai năm 1993, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới có hướng
dẫn chính thức để xác định rõ cụm từ “ giấy chứng nhận của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền” chính là giấy chứng nhận QSDĐ. Với hướng dẫn trên,
khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 được hiểu một cách chính xác hơn.
Tuy nhiên, các quy định đó chưa bao quát hết những trường hợp được cấp
giấy chứng nhận QSDĐ theo Luật đất đai năm 1987 và theo mẫu giấy cũ của
Tổng cục quản lý ruộng đất trước đây. Vì vậy, cho đến khi TANDTC,
VKSNDTC và TCĐC ban hành thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 thì thẩm quyền giải quyết của
TAND chỉ bao gồm các việc tranh chấp về QSDĐ mà NSDĐ đã có giấy
chứng nhận QSDĐ theo Luật đất đai năm 1993 với mẫu giấy chứng nhận do
Tổng cục địa chính phát hành và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất.
Như vậy, từ những quy định của các văn bản pháp luật trên, mọi trường
hợp có tranh chấp của các bên đương sự dù là tranh chấp về QSDĐ hay tài
sản gắn liền với đất, nếu có giấy chứng nhận QSDĐ thì đều do TAND thụ lý
giải quyết. Cho đến khi Luật đất đai năm 2003 chính thức ban hành thì thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai được quy định chặt chẽ hơn theo hướng
mở rộng thẩm quyền cho TAND để dần dần chấm dứt tình trạng cơ quan hành
chính làm thay cả việc cơ quan tài phán. Tại điều 136, 137 Luật đất đai 2003
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Luyến
25