Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết orhan pamuk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.89 MB, 143 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH





Trần Thị Quỳnh Loan








NGHỆ THUẬT DỰNG TRUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK





LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
















Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH





Trần Thị Quỳnh Loan







NGHỆ THUẬT DỰNG TRUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK


Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Mã số: 60 22 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THUẬN










Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Thị Thuận, người thầy kính mến đã
hết lòng hướng dẫn, động viên tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô trong Khoa Văn học nước ngoài – Trường Đại
học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh cùng các bạn trong lớp Cao học VHNN K.19 đã nhiệt tình
giúp đỡ tôi trong suốt khóa học vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô trong Hội đồng chấm luận văn đã cho tôi những
đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Những lời cảm ơn sau cùng, tôi trân trọng gửi đến gia đình – những người luôn hết

lòng yêu thương, quan tâm và nâng đỡ tôi trong cuộc sống.

TP.Hồ Chí Minh – năm 2011
Trần Thị Quỳnh Loan



MỤC LỤC

5TLỜI CẢM ƠN5T 3
5TMỤC LỤC5T 4
5TMỞ ĐẦU5T 1
5TCHƯƠNG 1 : TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ SÁNG TẠO5T 10
5T1.15T 5TCác tiền đề sáng tạo :5T 10
5T1.1.15T 5TTiền đề văn hóa5T 10
5T1.1.25T 5TTiền đề tôn giáo5T 12
5T1.1.35T 5TTiền đề sắc tộc và nhân quyền5T 14
5T1.1.45T 5TTiền đề văn học5T 18
5T1.25T 5TOrhan Pamuk và tiểu thuyết Orhan Pamuk :5T 23
5T1.2.15T 5TOrhan Pamuk5T 23
5T1.2.25T 5TTiểu thuyết Orhan Pamuk5T 25
5TCHƯƠNG 2 : TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK : NHỮNG CÂU CHUYỆN THẾ SỰ5T 29
5T2.15T 5TCâu chuyện về thân phận con người5T 29
5T2.25T 5TCâu chuyện về đời sống tinh thần của một dân tộc5T 38
5T2.2.1 Những xung đột văn hóa Đông - Tây5T 38
5T2.2.2 Những xung đột tôn giáo – chính trị5T 44
5TCHƯƠNG 3 : TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK : MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN SÁNG TẠO5T
48
5T3.15T 5TKết cấu5T 48
5T3.1.1 Kết cấu theo trình tự thời gian5T 48

5T3.1.2 Kết cấu lồng ghép5T 55
5T3.25T 5TNhân vật5T 61
5T3.2.1 Kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk5T 61
5T3.2.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật5T 70
5T3.35T 5TKhông gian và thời gian5T 79
5T3.3.15T 5TKhông gian5T 80
5T3.3.25T 5TThời gian5T 87
5T3.45T 5TGiọng điệu trần thuật :5T 93
5T3.4.15T 5TChất triết luận5T 93
5T3.4.25T 5TTính đa thanh5T 96
5TCHƯƠNG 4 : ORHAN PAMUK VỚI NHỮNG ĐÓNG GÓP CHO TIỂU THUYẾT VÀ
NHỮNG TRẢI NGHIỆM NHÂN SINH
5T 103
5T4.15T 5TNhững đóng góp cho tiểu thuyết5T 103
5T4.1.1 Mô hình tiểu thuyết pha trộn5T 103
5T4.1.25T 5TNghệ thuật của sự đan dệt [50]5T 107
5T4.25T 5TNhững trải nghiệm nhân sinh5T 112
5T4.2.1 Hành trình sáng tạo nghệ thuật5T 112
5T4.2.2 Huzun - hành trình của một nỗi niềm5T 117
5TKẾT LUẬN5T 122
5TTHƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO5T 125
5TPHỤ LỤC5T 131






MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Năm 2008, khi Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam quyết định mua bản quyền ba
cuốn tiểu thuyết của Orhan Pamuk, gồm:
0TPháo đài trắng ( The white castle, 1985 ), Tên tôi là Đỏ
(
0TMy name is red, 1998 ), Tuyết ( Snow, 2002 ), đông đảo độc giả Việt Nam đã có cơ hội tiếp cận
với một “hiện tượng” của văn học thế giới đương đại. Có thể nói,
0Tnhững vấn đề rất “thời sự” về bản
sắc, cá nhân và dân tộc, sự xung đột, giao thoa giữa các nền văn hóa Đông và Tây đã được đặt ra
trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk - nhìn một cách toàn thể - cũng chính là những gì mà mỗi cá
nhân, mỗi dân tộc trên toàn thế giới phải đối mặt trong cuộc sống hiện tại. Những vấn đề đậm chất
nhân bản, nhân loại ấy đã được chuyển tải đến người đọc bằng nghệ thuật độc đáo của “người kể
chuyện tài hoa như Seherazad” (nhận định của The New York times về Pháo đài trắng ), với
“những câu chuyện lồng trong chuyện, tư biện triết học và những nhân vật phức tạp, là một minh
chứng tuyệt vời về những gì tiểu thuyết có thể làm được.” (nhận định của S.B.Kelly – Scotland on
Sunday về Tên tôi là Đỏ ). Để rồi, năm 2006, cái tên Orhan Pamuk đã vinh dự được xướng lên, như
một sự công nhận tài năng vượt trội của ông – một tài năng mà nhà phê bình
0TTom Payne thuộc tạp
chí The Daily Telegraph đã hết lời ca ngợi : “Vì những nhà văn như Pamuk mà giải Nobel được
sinh ra”.
0TCác tác phẩm của Orhan Pamuk đã được dịch ra trên 40 thứ tiếng, làm say mê hàng triệu độc
giả trên khắp hành tinh, đồng thời đưa nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ bước lên vị trí hàng đầu trong nền văn
học đương đại.
0TTrong quá trình tìm hiểu về việc tiếp nhận tác phẩm của Orhan Pamuk ở Việt Nam, chúng tôi
nhận thấy chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm của ông. Vì vậy, thực hiện một công
trình nghiên cứu về nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk, chúng tôi thiết tha
mong muốn được góp phần nhỏ bé trong việc giới thiệu một phong cách sáng tác độc đáo, mới mẻ
đến với độc giả yêu văn chương ở Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề :
2.1 Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết của Orhan Pamuk tại Việt Nam
Nguồn tham khảo chính của chúng tôi khi tìm hiểu về tình hình nghiên cứu tiểu thuyết của

Orhan Pamuk tại Việt Nam hiện nay chỉ giới hạn ở một số bài viết, bài giới thiệu, bài cảm
nhận…đăng rải rác trên các tạp chí (chủ yếu qua internet). Trong đó, có một số bài viết có giá trị,
thể hiện sự am hiểu sâu sắc cũng như những cảm nhận tinh tế về những tác phẩm tiêu biểu của


Orhan Pamuk (đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam). Trước hết, có thể kể đến bài
viết Orhan Pamuk, nhà văn của những nhịp cầu của Đỗ Tuyết Khanh.: “Người dân Thổ hâm mộ
sách của Pamuk không phải chỉ vì cốt truyện hấp dẫn, đầy tình tiết và tình huống quyến rũ, lời văn
sống động và cấu trúc độc đáo, mà còn vì họ tìm thấy ở đấy nhịp tim của chính họ, những ray rứt họ
chia sẻ trước những mâu thuẫn và giằng xé của đất nước.” ; tác phẩm của Pamuk “nêu lên vấn đề
bản sắc, cá nhân và dân tộc, là trực diện với những mâu thuẫn giữa các giá trị Đông và Tây, giữa
những gò bó và truyền thống phong kiến của văn hóa hồi giáo và những thách đố đặt ra cho một xã
hội muốn vươn lên thành một nước phát triển và hội nhập Liên hiệp châu Âu.” ; “Sách của Pamuk
có chiều kích triết lý, nhiều ẩn dụ sâu sắc, vang vọng âm hưởng của văn học thế giới, đem nhiều
thích thú cho người trí thức, nhưng cũng dễ đọc, hấp dẫn đối với độc giả "bình dân", gần gũi với
tâm tư của họ. Pamuk là gạch nối giữa người dân các thành phố Âu hoá của thời đại Internet và
những nông dân ở các vùng quê xa xôi của đất Thổ Nhĩ Kỳ” [64]
Nhà nghiên cứu Phan Nhật Chiêu : Orhan Pamuk – nghệ thuật không có trung tâm viết :
“Orhan, dù được so sánh với hầu hết những khổng lồ văn chương hiện đại từ William Faulkner,
Thomas Mann, Virginia Woolf, James Joyce, Franz Kafka, đến Borges, Calvino và Eco… vẫn là
Orhan, một thanh điệu độc đáo trong thế giới đa thanh này. […] Giọng điệu của Orhan là giọng
điệu của đa thanh. Ông đem vào tiểu thuyết cái đa thanh như ta vẫn thấy trong cuộc sống, vốn là
bản chất của cuộc sống.” Nhà nghiên cứu khẳng định rằng sức hấp dẫn tiểu thuyết của Orhan
Pamuk chính là do nhà văn đã “không chọn Đông hay Tây làm trung tâm cho cái nhìn của mình.” ;
và rằng : “Ông không nói với ta về một chân lý tuyệt đối.” mà “trong thế giới của Orhan, mỗi cá
thể sẽ tìm ra chân lý của mình.” [50]
Trong bài viết “Tên tôi là Đỏ” – bản đại luận về nghệ thuật, Mai Sơn đã thể hiện những cảm
nhận sâu sắc : “một cuộc đại nghị luận “chí tử” và mang tính triết lý về nghệ thuật, ở đây là nền hội
họa của Thổ Nhĩ Kỳ cuối thế kỷ 16” mà qua đó, nhà văn đã tập trung khắc họa chân dung những
người nghệ sĩ – “mỗi người là một thế giới bí ẩn mênh mông, nhưng thế giới đó cũng thật nhỏ bé

trước sự thao túng khích động của các loại quyền lực: thần quyền, tôn giáo, chính trị, triết học, đạo
đức” để rồi dù có trong tay tặng phẩm trời cho là tài năng, thì “mỗi người một kiểu đều đi đến
những kết cục bi thảm, chỉ vì trong bối cảnh xã hội đó một người không có quyền đặt mình vào
trung tâm thế giới, dù đó chỉ là qua các bức chân dung.” [87]
Tác giả bài viết Nỗi ám ảnh màu đỏ : Thiên Bình, đã nhận xét : “với
10T“Tên tôi là Đỏ”10T, Orhan
Pamuk còn chứng tỏ ông là người viết tiểu thuyết lịch sử bậc thầy, mà trong khuôn khổ câu chuyện
này, có thể khoanh vùng cụ thể hơn: Đó là lịch sử của nghệ thuật hội họa Thổ Nhĩ Kỳ, hay nói chính


xác hơn là nghệ thuật minh họa Hồi giáo.” ; và rằng “thông qua lịch sử của hội họa, lịch sử các
triều đại trị vì đất nước này cũng được soi sáng.” Tác giả Thiên Bình cũng nhấn mạnh : “Orhan đã
chứng tỏ được sự dày công nghiên cứu văn hóa truyền thống của ông khi mô tả những công trình
kiến trúc nổi tiếng của đế quốc Ottoman như cung điện Tokapi với những đường lối như mê cung,
quốc khố với sự giàu có, xa hoa khó hình dung Bên cạnh đó, Orhan cũng thành công trong việc tái
hiện không gian xưa cũ của Istanbul thế kỷ 16 với những sinh hoạt văn hóa hết sức đặc trưng. Dưới
ngòi bút của nhà văn này, tôi dường như bị cuốn vào một không gian cổ xưa, được tận mắt nhìn
thấy những thiếu nữ Hồi giáo hé lộ cặp mắt đen sau mạng che mặt, bị giam kín trong hậu cung bởi
lễ giáo nhưng vẫn khôn ngoan tìm cách trao đổi thư từ với tình lang; tôi cũng cảm giác như đang
trò chuyện với những người bán hàng rong, những bà mối tinh quái hay bác thợ cạo thật thà Tất
cả những âm thanh xưa cũ ấy cứ reo vang trong từng trang sách khiến tôi thấy như thể bị lạc bước
vào thế giới quen thuộc của
2T“Nghìn lẻ một đêm”.2T [48]
Nhận xét về tác phẩm Tuyết, trong bài viết nhan đề : Orhan Pamuk, văn chương từ miền
Trung Đông mù ám , Đặng Phùng Quân đã đề cập đến giá trị thời sự của tác phẩm : “Tuyết” là tác
phẩm thể hiện rõ nét âm hưởng thời đại: khí hậu chung của văn chương hiện đại /văn chương lưu
đày và mạt thế luận của một thế giới tha hóa, sự cáo chung của tôn giáo và ý thức hệ. Thông điệp
của Pamuk là tiếng chuông cảnh báo giữa những biến động toàn cầu, từ chiến tranh Bosnia,
Chechnya, Iraq, Afghanistan, Do thái / Palestin, đến hiện tượng khủng bố như một dấu ấn thời đại
(đã gây trăn trở cho những nhà tư tưởng như Habermas, Derrida ).” Và cũng theo Đặng Phùng

Quân, chính điểm này đã khiến cho tiểu thuyết Tuyết của Pamuk mang tính chính trị rất rõ nét, đồng
thời thể hiện “trong con người nhà văn của Orhan Pamuk có sự can đảm của một nhà nhân đạo chủ
nghĩa” khi ông dám đề cập đến “những chuyện khó chịu” (Lời tựa trên trang đầu cuốn Tuyết của
Orhan Pamuk – người viết chú thích) trên trang sách của mình. [86]
Nguyễn Thị Hải Hà trong bài phê bình mang tựa đề Đọc tác phẩm Snow (Tuyết) của Orhan
Pamuk : “sự xung đột Đông Tây trong cá nhân, trong quốc gia, và trên thế giới. Đứng về hàng ngũ
Tây phương là châu Âu, Frankfurt, Istanbul phần nằm trên địa phận châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ, và
Ka (nhân vật Ka - nhà thơ lưu vong – người viết chú thích). Đứng về hàng ngũ Đông phương là
phần lớn còn lại của Thổ Nhĩ Kỳ thuộc về châu Á, Kars, và tất cả những người dân, đa số là Hồi
giáo và người thiểu số Kurd ở trong Kars”.Theo bài phê bình trên, nhà văn Pamuk “có tham vọng
thay đổi quan điểm của châu Âu về những người Hồi Giáo và Thổ Nhĩ Kỳ, qua cách ông thể hiện
những nhân vật sống ở Kars, ở một thành phố hẻo lánh nghèo nàn thuộc về châu Á. Pamuk cho
rằng các quốc gia Hồi giáo, trong đó có Thổ Nhĩ Kỳ, đã bị hiểu lầm nghiêm trọng. Một thiểu số


người Hồi giáo, trẻ và nông nổi, chủ trương dùng bạo động để bảo vệ danh dự Hồi giáo, thật ra chỉ
là một nhóm người trẻ tuổi, dễ bị lừa dối và lung lạc. Họ gây rối loạn bởi vì nhàm chán do dư thì
giờ nhưng thiếu phương tiện để tự xây dựng đời sống và hạnh phúc của riêng họ.”Nguyễn Thị Hải
Hà, qua bài viết trên, tin tưởng rằng tác phẩm Tuyết sẽ “giữ một vai trò quan trọng trong việc
khuyến khích Đông Tây tìm hiểu lẫn nhau để giữ hòa bình trên thế giới khi mà cuộc chiến giữa Tây
phương và các quốc gia Hồi giáo như Afghanistan và Iraq vẫn còn đang tiếp diễn.” [55]
Nói chung, tiến hành nghiên cứu về một hiện tượng văn học đương thời như Orhan Pamuk có
nhiều thuận lợi, song khó khăn cũng không ít. Các tài liệu, bài viết về tác phẩm của nhà văn đương
đại Thổ Nhĩ Kỳ mà chúng tôi vừa điểm qua đa phần chỉ mới dừng lại ở một số nhận định mang tính
khái quát. Chúng tôi hiện vẫn chưa tìm được nguồn tài liệu, công trình khoa học chuyên sâu nào về
tác giả - tác phẩm để làm nền tảng.
2.2 Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết của Orhan Pamuk trên thế giới
Tuy Orhan Pamuk là một hiện tượng nổi bật trong nền văn học đương đại, nhưng hiện nay,
các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của ông đa phần được giới hạn ở một số bài cảm nhận, phê
bình, hoặc một số bài giới thiệu ở mục “điểm sách”… xuất hiện trên các tạp chí tại Mỹ, Anh,

Pháp…như The New York times, The Daily Telegraph, The San Francisco Chronide, The Boston
Globe…Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm thấy một vài bài cảm nhận của bạn đọc về các tác phẩm tiêu
biểu của ông, được đăng rải rác trên các blog cá nhân khác…
Trang web : 5T là một trong những nguồn đăng tải khá nhiều
bài cảm nhận về các tác phẩm của Orhan Pamuk. Trước hết, có thể kể đến bài viết Cướp biển, tổng
trấn và nhà chiêm tinh hoàng gia (Pirates, pashas and the imperial astrologer) của Jay Parini
(1991) về Pháo đài trắng. Ông nhận định : “A new star has risen in the east - Orhan Pamuk, a
Turkish writer. And if “The White Castle” is representative of his fiction, he has earned the right to
comparisons with Jorge Luis Borges and Italo Calvino (…) “The White Castle” is a fable of identity,
a post-modern tale that explores the murky and recessive byways of Cartesian self-consciousness.
At this point, many readers of this review will yawn: not another second-rate philosopher
pretending to be a novelist. You can relax. Mr.Pamuk is a storyteller with as much gumption and
narrative zip as Scheherazade.” [75]
(Tạm dịch : “Một ngôi sao mới đã xuất hiện ở phương Đông : Orhan Pamuk, một nhà văn Thổ Nhĩ
Kỳ. Và nếu xem Pháo đài trắng là tiểu thuyết tiêu biểu của Pamuk, ông đã giành được quyền so
sánh với Jorge Luis Borges and Italo Calvino (…) Pháo đài trắng là một truyện ngụ ngôn về nhân
dạng, một câu chuyện kể hậu hiện đại khám phá những khía cạnh u ám khuất lấp của học thuyết tự ý


thức Descaries. Ở điểm này, có lẽ độc giả bài viết này sẽ ngáp dài : đừng thêm một triết gia tầm
thường giả dạng nhà văn nữa. Bạn yên tâm đi. Ngài Pamuk là một người kể chuyện tài hoa cũng
như nàng Scheherazade vậy.”)
Cũng với nhận định tương tự, tạp chí New York Times viết :
“Một cuốn sách kỳ lạ và tài tình về sự đau đớn trong quá trình tự khám phá bản thân. Và trong suốt
thiên tiểu thuyết, người ta có thể chứng kiến sự pha trộn siêu việt của những gì Orhan Pamuk thực
sự thấy bằng con mắt của một kẻ quá hướng về Tây phương trong khi bề ngoài lại quá thiên về
Trung Đông. Trong khoảnh khắc, Đông-Tây đã gặp gỡ.” [38]
Tạp chí
2TGuardian nhận xét :


2TPháo đài trắng2T” tuyệt vời không phải bởi nó đã tái hiện một thời đại, mà vì nó đã khám phá bí
mật cá nhân con người và trên hết vì Pamuk đã gói gọn những suy tư đó trong một câu chuyện đơn
giản đến nhường ấy.” [38]
Với tạp chí
2TIndependent :
“Cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Orhan Pamuk về những ảnh hưởng ngoại lai… đã đem đến cho
chúng ta một cái nhìn điềm tĩnh và thành kiến một cách tao nhã vào kết quả của phát tán văn hoá.
Tác phẩm phảng phất âm hưởng của Calvino, nhưng cách viết và thế giới quan của tác giả lại gần
hơn với Kazuo Ishiguro.” [38]
Nhận xét về cuốn tiểu thuyết thứ sáu của Orhan Pamuk : Tên tôi là Đỏ, S.B.Kelly - tạp chí
Scotland on Sunday khen ngợi : “một hỗn hợp sắc bén giữa truyện vụ án, ngụ ngôn hậu hiện đại và
tiểu thuyết lãng mạn lịch sử “Tên tôi là Đỏ”, với những câu chuyện lồng trong chuyện, tư biện
triết học và những nhân vật phức tạp, là một minh chứng tuyệt vời về những gì tiểu thuyết có thể
làm được ”. [39]
John Updike - tạp chí The New Yorker nhận định :
“Pamuk đã chứng tỏ sự kiên nhẫn và khả năng xây dựng của những người kể chuyện thế kỷ 19 và
các truyền nhân của họ, Proust và Mann… và năng lực tưởng tượng của ông được gắn kèm với một
cảm quan sâu xa về bí ẩn và song nghĩa.” [39]
Philip Hensher - tạp chí Spectator, viết :
“Huyền hoặc, điên đầu, kích thích…Khác hoàn toàn so với thể loại thriller lịch sử truyền thống
phương Tây…Đây là một cuốn tiểu thuyết tuyệt diệu, mơ màng, nồng nàn và tráng lệ, mang chất
phương xa một cách độc đáo và lôi cuốn nhất.” [39]


Cũng tại trang web 5T ở bài viết Snow (Tuyết), Mary
Whipple đã dành cho Tên tôi là Đỏ những lời khen ngợi nồng nhiệt : “Many-leveled, beautifully
wrought, and complex in its themes, this is a novel which thoughtful western readers will want to
explore, a haunting novel rich with insights which should not be ignored.” [69]
(Tạm dịch : “Nhiều tầng bậc, ngôn từ đẹp đẽ, và phức tạp trong các chủ đề của nó, đây là một cuốn
tiểu thuyết mà độc giả phương Tây thâm trầm sẽ muốn khám phá, một cuốn tiểu thuyết ám ảnh chứa

đầy những cái nhìn sâu sắc mà bạn không nên bỏ qua.” )
Thủ pháp này cũng góp phần tạo nên sức hấp dẫn không thể cưỡng lại của tác phẩm, mà như
lời nhận xét của Laurel Maury từ tạp chí The San Francisco Chronide là : “Ma lực tinh ròng”. [40]
Cùng nhận định về tiểu thuyết Tuyết, trong bài viết với nhan đề Nhìn qua tuyết (Seeing
through the snow), Azade Seyhan đã viết : “The resonance of Pamuk's books with the burning
political and cultural issues of the day should not detract from the literary achievement of his work.
Pamuk understands how political forces and oppression control human lives but also believes that
individuals have the capacity to understand their fate and to imagine in the midst of an abject
present the possibility of a different future.” [47]
(Tạm dịch : “Sự kết hợp những vấn đề chính trị nóng bỏng và những vấn đề văn hóa thời đại không
làm giảm sút giá trị văn chương trong tác phẩm của Orhan Pamuk. Pamuk thấu hiểu các lực lượng
chính trị và sự áp chế kiểm soát đời sống của con người như thế nào nhưng cũng tin rằng các cá
nhân có khả năng hiểu rõ số phận của họ và quan niệm rằng giữa thực tại khốn cùng vẫn có khả
năng xuất hiện một tương lai khác.” )
Nữ văn sĩ Margaret Atwood, trong bài viết Chết vì khăn trùm đầu (Headscarves to die for),
đã viết : “In “Snow”(…) the twists of fate, the plots that double back on themselves, the trickiness,
the mysteries that recede as they're approached, the bleak cities, the night prowling, the sense of
identity loss, the protagonist in exile - these are vintage Pamuk, but they're also part of the modern
literary landscape. A case could be made for a genre called the Male Labyrinth Novel, which would
trace its ancestry through De Quincey and Dostoyevsky and Conrad, and would include Kafka,
Borges, García Márquez, DeLillo and Auster, with the Hammett-and-Chandler noir thriller thrown
in for good measure.” [70]
(Tạm dịch : “Trong “Tuyết” (…) vòng xoáy của số phận, những mưu đồ bị phản lại, những sự lừa
phỉnh, những bí ẩn khi mờ khi tỏ, các thành phố ảm đạm, sự rình rập trong bóng đêm, cảm giác
vong bản, nhân vật chính lưu vong, đó cũng là một phần của cảnh quan văn học hiện đại. Đây cũng


là trường hợp có thể xếp vào một thể loại được gọi là tiểu thuyết Male Labyrinth, theo dấu những
nhà văn đi trước như De Quincey và Dostoyevsky và Conrad, bao gồm cả Kafka, Borges, García
Márquez, DeLillo và Auster, với yếu tố trinh thám đan xen một cách chừng mực theo kiểu Hammett

và Chandler.”)
Trong bài viết sắc sảo có nhan đề Giết chóc và niềm vui (Murder and joy), khi nhận định về
văn phong cũng như sự am hiểu của Orhan Pamuk về lịch sử truyền thống hội họa mang dấu ấn thời
Ottoman, Dick Davis đã không dấu sự khâm phục khi ông viết: “Pamuk has written a book that is
over 400 pages long, and which has all the exuberance and richly descriptive density of a
nineteenth-century European novel. He can sound like Stendhal (on love), or Dostoevsky (on guilt
and sin), or Dickens (in his sudden homing in on the memorable detail that brings a moment alive
before the reader's eyes), or Balzac (in the marvellous plethora of evocative particulars with which
he can describe a scene). His use of the Eastern tradition is equally virtuosic (…) His knowledge of
the details of life in sixteenth-century Istanbul is clearly extensive and used to often ravishing effect.”
[52]
(Tạm dịch : “Pamuk đã viết một cuốn sách hơn 400 trang, với lối viết hoa mỹ và cầu kỳ của một
cuốn tiểu thuyết châu Âu thế kỷ XIX. Tác phẩm của ông có âm hưởng của Stendhal (về tình yêu),
hoặc Dostoevsky (về lỗi lầm và tội ác), hoặc Dickens (về những hồi ức đột ngột tái hiện sống động
trước mắt người đọc), hay Balzac (ở những liên tưởng phong phú kỳ diệu khi miêu tả cảnh quan).
Việc vận dụng những truyền thuyết phương Đông của ông cũng rất lão luyện (…) Những hiểu biết
của ông về các chi tiết của cuộc sống ở Istanbul thế kỷ XVI rõ ràng là phong phú và được sử dụng
rất hiệu quả.” ).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
3.1 Đối tượng nghiên cứu :
Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu khảo sát 3 tiểu thuyết đã được dịch ở Việt Nam :
1. Pháo đài trắng (2008), (Nguyễn Thị Kim Hiền dịch), NXB Trẻ, TP.HCM
2. Tên tôi là Đỏ (2008), (Phạm Viêm Phương và Huỳnh Kim Anh dịch), NXB Văn học, Hà Nội
3. Tuyết (2008), (Lê Quang dịch), NXB Văn học, Hà Nội
Bên cạnh đó, chúng tôi có tham khảo thêm Istanbul, hồi ức và thành phố (2010), (Nguyễn Quốc Trụ
dịch), NXB Văn học, Hà Nội cùng một số bài viết của Pamuk trên các tạp chí nước ngoài.
3.2 Phạm vi nghiên cứu :


Với đề tài : “Nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk”, chúng tôi sẽ

trực tiếp tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật dựng truyện của Orhan Pamuk thông qua một số yếu tố như :
nhân vật, kết cấu, nghệ thuật trần thuật. Qua đó, chúng tôi cố gắng đưa ra những đánh giá khái quát
những nét sáng tạo, độc đáo trong nghệ thuật sáng tác của Orhan Pamuk.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Vận dụng quan điểm duy vật, quan điểm lịch sử và phương pháp biện chứng làm nền tảng cho nhận
thức và nghiên cứu, chúng tôi đồng thời vận dụng những thành tựu của khoa nghiên cứu văn học
như : Phương pháp luận nghiên cứu văn học, phong cách học, thi pháp học, lý luận văn học, văn học
so sánh… để làm nổi bật vấn đề.
Chúng tôi sẽ đi từ phương pháp khảo sát phân tích từng tác phẩm, các yếu tố nổi bật thể hiện đặc
điểm và phương thức sáng tác của tác giả, để từ đó rút ra những nhận xét có tính tổng hợp, khái quát.
Đồng thời, để triển khai vấn đề một cách khoa học, biện chứng, chúng tôi đặt đối tượng nghiên cứu
trong mối liên hệ với các yếu tố khác của hệ thống để làm rõ nghệ thuật dựng truyện trong tiểu
thuyết của Orhan Pamuk.
Bằng phương pháp hệ thống, phát hiện tính lặp lại của các phương diện liên quan đến đề tài, khẳng
định những đặc điểm mang tính ổn định về nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết của Orhan
Pamuk.
Phương pháp tiếp cận lịch sử văn hóa cũng sẽ được vận dụng để phát hiện những dấu ấn đặc thù của
văn hóa – lịch sử dân tộc trong nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn, từ đó thấy được những thành
công to lớn của Orhan Pamuk trong “công cuộc trường kỳ của nhà văn : hình thành tổ quốc ông
thông qua sự kể.”( trích nhận định của nhà văn Margaret Atwood về tiểu thuyết Tuyết– Orhan
Pamuk)
5. Đóng góp của luận văn :
Qua công trình nghiên cứu này, chúng tôi muốn đưa ra những cái nhìn sáng rõ, có căn cứ khoa học
về nghệ thuật dựng truyện trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk, qua đó miêu tả khái quát chân dung
sáng tạo của tác giả, nhằm góp thêm một nguồn tư liệu khiêm tốn cho việc nghiên cứu – phê bình
văn học ở Việt Nam.
6. Bố cục của luận văn :
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn sẽ gồm có 4
chương, được phân bố như sau :



UChương 1U : Tiểu thuyết Orhan Pamuk và những tiền đề sáng tạo
Ở chương này, chúng tôi sẽ triển khai một số vấn đề khái quát về nền văn học Thổ Nhĩ Kỳ và những
nét đặc trưng về đời sống văn hóa – tinh thần của dân tộc Thổ. Qua đó, chúng tôi sẽ làm rõ chân
dung văn học của Orhan Pamuk, cùng những dấu ấn của nền văn học truyền thống, của đời sống văn
hóa – tinh thần dân tộc đã được phản ảnh trong những sáng tác của ông.
UChương 2U : Tiểu thuyết Orhan Pamuk: những câu chuyện thế sự
Qua việc khảo sát 3 tiểu thuyết tiêu biểu : Pháo đài trắng, Tên tôi là Đỏ, Tuyết, chúng tôi sẽ đi sâu
khám phá các chủ đề quen thuộc thường xuyên tái xuất hiện trong các sáng tác của Orhan Pamuk,
nhằm làm sáng tỏ thế giới quan của nhà văn - điều đã làm nên phong cách sáng tác riêng biệt của
ông.
UChương 3U : Tiểu thuyết Orhan Pamuk : một số phương diện sáng tạo
Ở chương này, thông qua việc nghiên cứu kết cấu, nhân vật, không gian - thời gian, giọng điệu trần
thuật trong tiểu thuyết của Orhan Pamuk, chúng tôi sẽ làm rõ những sáng tạo của ông.
UChương 4U : Orhan Pamuk với những đóng góp cho tiểu thuyết và những trải nghiệm
nhân sinh
Ở chương này, chúng tôi sẽ tập trung chỉ ra những đóng góp quan trọng của Orhan Pamuk – với tư
cách là một tiểu thuyết gia đương đại - trên con đường đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết. Đồng thời,
chúng tôi sẽ khái quát những đóng góp của Orhan Pamuk – với tư cách là một con người thời đại –
trên con đường tìm kiếm những giải pháp cho sự hòa hợp – cảm thông – chia sẻ giữa các nền văn
hóa, các tôn giáo, các dân tộc.












UCHƯƠNG 1U : TIỂU THUYẾT ORHAN PAMUK VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ SÁNG TẠO
1.1 Các tiền đề sáng tạo :
Chặng đường đi đến giải Nobel năm 2006 của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Orhan Pamuk kéo dài 32
năm, bắt đầu từ năm 1974, khi ông bắt tay viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên mang tên : Cevdet bey ve
ogulları (Cevdet và các con trai, xuất bản năm 1982). Đó là khoảng thời gian không dài so với phần
đông những nhà văn đoạt giải Nobel khác (chẳng hạn so với nhà văn Nga Mikhail Solokhov, đoạt
giải Nobel 1965 khi đã 60 tuổi, với 43 năm miệt mài sáng tác ; hoặc nhà văn Nam Phi John
Maxwell Coetzee, đoạt giải Nobel khi đã 63 tuổi, sau 34 năm cầm bút ) Hành trình 32 năm ấy đã
được ghi dấu với sự ra đời lần lượt của 8 tiểu thuyết, 1 tập tiểu luận, 1 tập hồi ký, cùng với hàng loạt
giải thưởng danh giá trong và ngoài nước.
Thành tựu đáng kể trên của nhà văn 59 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ không chỉ được tạo nên bởi
những năm tháng lao động miệt mài trong căn phòng nhỏ hướng ra vịnh Bosphorus, bởi những đêm
lang thang mơ mộng và suy tư dọc các con phố Istanbul, mà còn được tạo tiền đề bởi những yếu tố
văn hóa – tôn giáo – sắc tộc… làm nên diện mạo riêng không thể nhầm lẫn của vùng đất có lịch sử
lâu đời và đầy biến động này giữa toàn cảnh thế giới ngày nay.
1.1.1 Tiền đề văn hóa
Là một đất nước rộng lớn với tổng diện tích
5T780.580 km²5T (xếp 5Thạng 365T trên thế giới) với vị
trí nối liền lục địa Âu - Á ( phần lãnh thổ chính tại bán đảo Anatolia phía
5TTây Nam5T 5Tchâu Á5T, một
phần nhỏ diện tích ở vùng
5TBalkan5T phía 5TĐông Nam5T 5Tchâu Âu5T ) , trong suốt hàng nghìn năm, Thổ Nhĩ
Kỳ đã trở thành mục tiêu chiếm đoạt của bao cuộc chinh chiến, in dấu chân của các đoàn quân viễn
chinh từ Đông sang Tây và ngược lại.
Thành phố Istanbul – thành phố lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay – trong quá khứ vàng son của
mình, đã từng là kinh đô của 3 đế quốc hùng mạnh : đế quốc La Mã (330 - 395), đế quốc Byzantine
hậu thân của đế quốc La Mã – trung tâm của Ki-tô giáo (395 - 1453) và sau cùng là đế quốc
Ottoman (1453 - 1922) – đế chế Hồi giáo quyền lực nhất trên thế giới từ đầu thế kỷ 14 đến đầu thế

kỷ 20. Và đến năm 1923, cuộc chiến giành độc lập thắng lợi đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ thống
trị của đế chế Ottoman, mở ra một thời kỳ đổi mới hoàn toàn cho đất nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại,
dưới sự lãnh đạo của Mustafa Kemal Ataturk – vị tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ.
Trải qua những năm tháng lịch sử đầy biến động đó, Thổ Nhĩ Kỳ đã lần lượt đón nhận những
luồng gió mới từ cả hai nền văn hóa phương Tây và phương Đông, để rồi theo thời gian, một quốc
gia đa văn hóa - nơi tụ họp của những nền văn minh lớn thế giới, nơi có sự kết hợp kỳ lạ giữa truyền
thống và hiện đại… được hình thành.


Nền văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ với những nét giao thoa độc đáo ấy biểu hiện ở mọi khía cạnh : từ
khía cạnh tinh thần như ngôn ngữ, tư tưởng… đến khía cạnh vật chất như kiến trúc, trang phục…
Nếu có một lần đến với Thổ Nhĩ Kỳ, chắc hẳn chúng ta sẽ có được những cảm nhận sâu sắc
về nền văn hóa độc đáo, được hiện thân ở vẻ đẹp cổ kính của những công trình kiến trúc có lịch sử
hình thành dưới thời đế chế La Mã, đế chế Ottoman : những cung điện mái vòm tráng lệ, những đền
thờ Hồi giáo hùng vĩ vẫn đứng vững với mưa nắng, với thời gian. Tiêu biểu là thánh đường Hagia
Sophia (tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “trí tuệ thần thánh”, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là Ayasofya ) - ngôi thánh
đường lớn thứ 4 thế giới, lúc đầu do Hoàng đế Justinian thuộc triều đại Byzantine xây dựng năm
537 sau công nguyên, sau đó trở thành nhà thờ hồi giáo Ottoman, và nay trở thành bảo tàng lớn của
TP. Istanbul. Qua nhiều biến đổi, kiến trúc của Hagia Sophia hiện nay là sự kết hợp tuyệt mỹ của
những hình ảnh và hoa văn được trang trí bằng nghệ thuật Mosaic độc đáo (nghệ thuật ghép mảnh)
trên tường và trần, cùng với những hàng tháp nhọn xung quanh. Một sự kết hợp hài hòa đến kỳ lạ
giữa kiến trúc đặc trưng của nhà thờ Chính thống giáo La Mã và kiến trúc đặc trưng của đền thờ Hồi
giáo. Có thể nói, đây chính là một bằng chứng thật sống động cho sự giao thoa văn hóa – tôn giáo
đã diễn ra trong nhiều thế kỷ lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ.
Một công trình kiến trúc vĩ đại khác nữa là đền thờ Hồi giáo Sultan Ahmed (The Blue
Mosque) được xây dựng vào đầu thế kỷ XVII, là đền thờ Hồi giáo đẹp và lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, và
được xem là biểu tượng của thành phố Istanbul. Các tín đồ hành hương gọi Sultan Ahmed là “Đền
thờ Xanh” (The Blue Mosque) vì các bức tường bên trong đền thờ được phủ gạch trang trí màu xanh
mô phỏng các dòng suối và các khu vườn thực vật rực rỡ. Có hơn 20 ngàn viên gạch men được làm
theo cách thủ công dùng để trang hoàng bên trong thánh đường, trên các viên gạch là hình ảnh của

hàng vạn bông hoa đang khoe sắc. Thiết kế của nhà thờ Sultan Ahmed được xem là đỉnh cao của sự
phát triển đền thờ Hồi giáo Ottoman.
Nét đặc trưng của nền văn hóa độc đáo Thổ Nhĩ Kỳ còn tập trung ở vẻ đẹp thâm trầm, bí ẩn
của thành phố Istanbul. Không chỉ là thành phố duy nhất trên thế giới trải dài giữa hai lục địa (Á và
Âu), Istanbul còn là thành phố duy nhất đã từng là thủ đô của 3 đế chế hùng mạnh : La Mã,
Byzantine và Ottoman. Với diện tích 153.877 km² và hơn 12.8 triệu dân, Istanbul hiện là thành phố
lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời cũng là thành phố có nhiều đền thờ nhất trên thế giới với 450 công
trình lớn nhỏ. Istanbul còn được nhớ đến với chiếc cầu treo Bosphorus (1973) dài 1074m nối liền 2
châu lục : châu Âu và châu Á. Vịnh Bosphorus với những dinh thự dọc bên bờ biển cũng là hình
ảnh đã in dấu sâu sắc trong tâm hồn của nhà văn Orhan Pamuk từ những ngày ấu thơ, là nguồn cảm
hứng lớn để rồi sau này, trong cuốn Istanbul – hồi ức và thành phố, ở chương 6, ông viết, trong
niềm hoài cổ vấn vương một thời đại vàng son đã suy tàn : “Các yali - những dinh thự tuyệt vời bên


bờ nước của những dòng họ lớn Ottoman trong thế kỷ mười tám và mười chín – chào mừng thế kỷ
hai mươi cùng với niềm hân hoan tự hào của nền Cộng hòa và chủ nghĩa quốc gia Thổ như là
những khuôn mẫu nói lên căn cước và kiến trúc Thổ - Ottoman. Nhưng các yali mà chúng ta nhìn
thấy qua những bức hình trong “Những hồi ức Bosphorus”, được tái tạo trong những bức tranh của
Melling, và phát ra tiếng vọng trong những yali của Sedad Hakki Eldem – những căn nhà lớn lao
với các cửa sổ cao và hẹp, những rìa mái nhà rộng rãi, những cửa sổ nhìn ra vịnh, những ống khói
hẹp, chúng đúng là cái bóng còn lại của một nền văn hóa đã bị hủy diệt.” [37, tr.80] Và, vượt lên tất
cả, vẫn là một tình cảm gắn bó thiết thân giữa nhà văn và mảnh đất quê nhà : “với riêng tôi, có một
chuyện chẳng hề thay đổi : chỗ mà Bosphorus chiếm ngự ở trong trái tim cộng đồng của chúng tôi.
Như khi còn nhỏ, chúng tôi vẫn coi nó như là một sự đảm bảo cho sức khỏe tốt lành, một thứ linh
dược khi lâm bệnh, một suối nguồn vô tận của điều tốt điều thiện, những gì gìn giữ thành phố và
các cư dân của nó.” [37, tr.96], bởi với nhà văn : “Cho dù chuyện gì xảy ra, tôi luôn luôn có thể
làm một cuộc đi dạo dọc theo Bosphorus.” [37, tr.96]. Thật vậy, những hiểu biết sâu sắc cùng tình
yêu thâm trầm bền chặt dành cho Istanbul chính là lý do khiến Orhan Pamuk chọn nơi này là bối
cảnh cho hầu hết các tiểu thuyết của mình.
Bên cạnh đó, nét độc đáo thể hiện rõ sự giao thoa văn hóa, sự kết hợp truyền thống và hiện

đại ở nơi này còn thể hiện ở khu đô thị với những tòa nhà chọc trời, những khu thương mại đồ sộ,
sân bay quốc tế, tàu điện ngầm tối tân … cùng chia sẻ không gian với những con phố ngoằn ngoèo
quanh co, những con đường mấp mô, những dãy nhà với kiến trúc bằng đá xưa cũ nhuộm một màu
xám xịt u buồn ngay trước Quảng trường Taksim cổ kính; ở tấm khăn trùm đầu kín đáo của những
phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ theo đạo Hồi và trang phục quần jean – váy ngắn trên những hè phố tấp nập …
Sự kết hợp lạ lùng nhưng thú vị ấy cũng là một trong những lý do khiến cho danh hiệu “Thủ đô văn
hóa của Âu Châu” đã được trân trọng trao về cho Istanbul - năm 2010.
1.1.2 Tiền đề tôn giáo
Hồi giáo (còn gọi là đạo Islam, nghĩa là “vâng mệnh, quy phục Thượng Đế”), là một
5Ttôn
giáo
5T 5Tđộc thần5T thuộc nhóm các 5Ttôn giáo Abraham5T, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 7 tại bán đảo Ả Rập.
Đây là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau
5TKitô giáo5T, và là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất,
với số
5Ttín đồ5T hiện nay là 1,3 tỷ. [59]
Thổ Nhĩ Kỳ là một quốc gia Hồi giáo. Điều này phần nào được phản ánh qua biểu tượng trên
lá quốc kỳ của Thổ. Biểu tượng này trùng hợp hoàn toàn với biểu tượng của Hồi giáo : vành trăng
lưỡi liềm tượng trưng cho Âm lịch Hồi giáo (bắt đầu tính từ năm 622 sau Công Nguyên - năm
Muhammad và cộng đồng Hồi Giáo từ Mecca di cư về ốc đảo Medina), ngôi sao là biểu tượng cho


sự tuân phục thánh ý Chúa, bởi kinh Koran có viết : “Thiên Chúa đã dựng nên các vì sao để hướng
dẫn con người tới cùng đích”
Hồi giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ đã sớm có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt trong đời sống con người
Thổ. Tư tưởng thần bí, triết lý của đạo Hồi đã để lại dấu ấn đậm nét trong thơ ca dân gian Thổ (bắt
đầu phát triển mạnh vào thế kỷ 13, với các nhà thơ nổi tiếng như Yunus Emre, Sultan Veled, và
Seyyad Hamza), và trong những áng thơ ca
Divan trác tuyệt thời đế chế Ottoman.
Tiêu biểu là một câu thơ của Hayati Efendi - nhà thơ Divan thế kỷ 18 :

4T“Bir gul mu var bu gulsen-i alemde harsız”
(Có hoa hồng nào trong thế giới vườn hồng mà chẳng có gai?)
Câu thơ sử dụng hệ thống hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng : “thế giới” với nghĩa đen chỉ
thế giới vật chất và nghĩa bóng chỉ thế giới tinh thần ; “vườn hồng” ám chỉ cùng lúc khu vườn văn
chương và
5Tthiên đường5T ; “hoa hồng” ám chỉ người yêu, được xem như đang ở trong “vườn hồng”.
Ở đây, hình ảnh hoa hồng - người yêu, có khả năng gây ra đau đớn với những chiếc gai của
nó. Điều này cũng ngầm lý giải rằng thế giới có cả hai mặt : tích cực (là vườn hồng và do đó, thế
giới cũng chứa đựng hạnh phúc giống như thiên đường) và tiêu cực (một vườn hồng đầy gai, và vì
thế, thế giới cũng ẩn giấu nhiều đau khổ).
Giáo luật của đạo Hồi (được ghi lại trong cuốn kinh Koran – thiên kinh duy nhất của Hồi
giáo, gồm 6219 câu ) [59] còn tác động mạnh mẽ trong lối nghĩ, cách hành xử, nếp sống… của
chính người dân Thổ. Đây cũng là nguồn cảm hứng để Orhan Pamuk viết cuốn tiểu thuyết nổi danh
mang tựa đề Tên tôi là Đỏ. Lần theo những trang sách, cả một xã hội Hồi giáo thế kỷ 16 thu nhỏ
hiện ra trước mắt người đọc, với triều đại của những vị quốc vương Hồi giáo, với khăn trùm đầu và
mạng che mặt, với những giờ kinh cầu nguyện buổi trưa trong không khí trầm mặc và linh thiêng,
với niềm tin tuyệt đối của con người vào Thượng Đế, vào thiên đàng lạc thú mai sau…
Đi khắp đất nước Thổ, đâu đâu chúng ta cũng có thể trông thấy những dấu vết sống động của
một nền văn hóa đậm chất tôn giáo hiển hiện rõ nét nơi những công trình kiến trúc huy hoàng của
một thời kỳ lịch sử, nơi những cung điện, đền thờ… tráng lệ, làm nên sức thu hút mạnh mẽ của văn
hóa Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại.
Cũng chính bởi ảnh hưởng của Hồi giáo đã trở thành một điều hiển nhiên khó có thể phân
tách nơi con người và cuộc sống xã hội – chính trị Thổ trong một thời gian dài hàng ngàn năm như
thế, mà từ năm 1923, khi Mustafa Kemal thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ với chủ trương tách
rời tôn giáo và những tổ chức thần quyền ra khỏi hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa… , thì
cũng là lúc bắt đầy nảy sinh những xung đột triền miên giữa nhà nước thế tục Thổ Nhĩ Kỳ và các tổ
chức Hồi giáo.


Không thể phủ nhận những cải cách mang tính tích cực mà Kemal đã tiến hành trên đất nước

mình những năm đầu thế kỷ 20. Bắt đầu bằng việc La tinh hóa chữ viết Thổ, cho đến những thay đổi
triệt để về giáo dục, văn hóa, xã hội…Ông là vị lãnh đạo đầu tiên thiết lập quyền bình đẳng nam nữ,
trao cho người phụ nữ quyền bầu cử, nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò của người phụ nữ trong
xã hội.
Nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ thế tục - dưới bàn tay lãnh đạo của Mustafa Kemal – đã trở nên hoàn
toàn khác biệt với những quốc gia Hồi giáo khác ở khu vực Trung Đông như Ả rập
5TKuwait5T, 5TQatar5T,
Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất,
5TOman5T, 5TYemen5T, 5TBahrain5T, 5TIraq5T …[96]. Từ một đế quốc suy
tàn, bị xâu xé bởi quân đồng minh trong chiến tranh thế giới thứ nhất, trở thành một quốc gia tân
tiến ngày nay.
Tuy nhiên, những mâu thuẫn, xung đột giữa nhà nước thế tục Thổ và các tổ chức Hồi giáo,
như đã nói trên, ngày càng thêm trầm trọng bởi nhiều lý do. Năm 1980, lệnh cấm đội khăn trùm đầu
ở trường Đại học được ban hành tại Thổ Nhĩ Kỳ đã gây nên làn sóng phẫn nộ nơi cộng đồng Hồi
giáo, bởi lệnh cấm này đã tước mất cơ hội được học Đại học của nhiều nữ sinh Hồi giáo. Điều này
đã khơi dậy những mâu thuẫn vốn có giữa những tổ chức Hồi giáo và nhà nước thế tục. Đây cũng là
sự kiện đã được nhà văn Orhan Pamuk phản ánh trong cuốn tiểu thuyết thứ bảy của ông – cuốn
Tuyết – sự kiện này được nhà văn mô tả như một nguyên nhân dẫn đến những vụ tự tử hàng loạt của
các nữ sinh nhằm bảo vệ quyền được đội khăn trùm đầu, và trở nên hành động “châm ngòi” cho
hành vi khủng bố của những tổ chức Hồi giáo cực đoan nhắm vào các tổ chức lãnh đạo thế tục.
Trở lại vấn đề trên, năm 2008, trước khi Tổng thống Abdullah Guel phê chuẩn dự luật bãi bỏ
lệnh cấm đội khăn trùm đầu đối với nữ sinh tại các trường Đại học vào ngày 9/2, ông đã “vấp” phải
sự phản đối dữ dội của một bộ phận không nhỏ người dân Thổ thuộc đảng phái đối lập theo đường
lối thế tục triệt để. Hơn 100.000 người đã đổ về quảng trường của thủ đô Ankara ngày 3/2/2008 để
biểu tình phản đối dự luật này. [90] Bên cạnh đó, Đảng Nhân dân Cộng hòa Thổ ( đảng đối lập theo
đường lối thế tục triệt để ) cũng đã có lời đe dọa rằng họ sẽ kiện lên Tòa án Hiến pháp vì cho rằng
việc bỏ lệnh cấm đội khăn trùm đầu tại các trường đại học vi phạm nguyên tắc thế tục.
Như vậy, có thể thấy rằng, tôn giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ là một vấn đề có ảnh hưởng nhiều mặt
trong đời sống xã hội của đất nước này. Điều này chính là một thử thách lớn đối với những người
cầm quyền, làm sao để đưa Thổ Nhĩ Kỳ khi bước vào thế kỷ 21 sẽ có thể đạt được sự hòa hợp, bình

đẳng trong quyền lợi của những người thế tục và những tín đồ Hồi giáo.
1.1.3 Tiền đề sắc tộc và nhân quyền
Không chỉ là một quốc gia đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử hình thành và phát triển nhiều
biến động, sở hữu một nền văn hóa đậm nét truyền thống lẫn hiện đại, kết tinh của nhiều nền văn


minh lớn trên thế giới, Thổ Nhĩ Kỳ còn là một đất nước đang phải đối mặt với những “bài toán” nan
giải có liên quan đến vấn đề sắc tộc và nhân quyền, từ những năm đầu của chế độ Cộng hòa thế tục
do Mustafa Kemal thiết lập.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, ngoài sắc tộc chính là người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, các
5Tnhóm dân
tộc
5T thiểu số được đề cập tới trong văn bản 5THiệp ước Lausanne5T (hiệp ước hình thành giữa Mustafa
Kemal và quân đồng minh sau đại chiến thế giới lần thứ nhất) bao
gồm
5TArmenia5T, 5THamshenis5T, 5TLevant5T, 5TOssetians5T, 5TPomaks5T và 5TRoma5T (Roma là tên gọi người Gypsy).
Ngoài ra, còn một bộ phận dân cư thuộc những sắc tộc khác như
5TAbkhazia5T, 5TAlbania5T, 5TẢ
Rập
5T, 5TBosna5T, 5TChechen5T, 5TCircassia5T, 5TGrizia5T, 5TKabard5T, 5TKurd5T, 5TLaz5T và 5TZaza5T
Trong suốt tiến trình phát triển từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay, tại Thổ Nhĩ Kỳ đã luôn xảy ra
những vấn đề phức tạp, có liên quan chủ yếu đến nhóm dân tộc thiểu số Armenia và tộc người Kurd.
Vào thế kỷ 16, vùng đất người Kurd sinh sống đã sớm bị chia cắt bởi sự tranh giành kéo dài
nhiều năm giữa đế quốc Ba Tư và đế quốc Ottoman. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, hầu hết
người Kurd sống ở tỉnh Kurdistan, thuộc lãnh thổ của đế quốc Ottoman. Sau khi đế quốc Ottoman
sụp đổ, quân đồng minh đã thỏa thuận và lên kế hoạch chia lãnh thổ của đế quốc này thành vài nước.
Theo Hiệp ước Sèvres được thiết lập khi đó : Kurdistan, cùng với Armenia, sẽ trở thành những nước
độc lập. Song Hiệp ước này đã không thực hiện được. Một thời gian sau đó, Kurdistan bị quân đội
do Mustafa Kemal lãnh đạo chiếm đóng, sự kiện này cùng những sức ép khác đã khiến quân đồng
minh chấp nhận đàm phán lại. Hiệp ước Lausanne được thành lập, và biên giới của Thổ Nhĩ Kỳ

được hình thành như hiện nay với vùng đất của người Kurd sinh sống nằm trong biên giới Thổ. Các
vùng có người Kurd khác được giao cho Anh và Pháp kiểm soát để rồi trở thành các địa phương của
Iraq và Syria theo một số hiệp ước. Từ đó, tộc người Kurd mặc nhiên trở thành một bộ phận dân cư
thuộc quyền kiểm soát của Thổ Nhĩ Kỳ.
Không thể phủ nhận rằng Mustafa Kemal – vị tổng thống đầu tiên của Thổi Nhĩ Kỳ đã có
công lớn trong việc cải tổ chính trị, xã hội và văn hóa triệt để, đặt nền móng cho một đất nước tiến
bộ theo mô hình Tây phương. Song chính công cuộc cải tổ này, với mục tiêu hàng đầu là xây dựng
một đất nước Thổ Nhĩ Kỳ đồng nhất về chủng tộc, ngôn ngữ cũng như tôn giáo, với những biện
pháp quyết liệt, thậm chí hung bạo, cưỡng bức, đã gặp phải sự kháng cự của các tổ chức Hồi giáo và
dân tộc thiểu số, đặc biệt là Kurd và Armenia. Trong khi, theo CIA – The world factbook (một tổ
chức cung cấp thông tin về lịch sử, con người, chính phủ, nền kinh tế, địa lý và các vấn đề xuyên
quốc gia) thì số người Kurd hiện sống ở Thổ Nhĩ Kỳ là 13 triệu (trong tổng số 26 triệu người Kurd
định cư rải rác trên toàn thế giới), chiếm khoảng 20% dân số Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1924, lệnh cấm
dùng tiếng Kurd của chính quyền Kemal ban hành đã khơi dậy làn sóng phẫn nộ, rồi biến thành


cuộc bạo loạn ở một bộ phận người Kurd. Cuộc nổi loạn này đã bị chính quyền Thổ đàn áp tàn nhẫn.
Từ đó các chính quyền Thổ và cộng đồng Kurd lâm vào vòng bạo lực, nổi dậy, đàn áp và khủng bố
tiếp nối nhau, kéo dài cho tới ngày nay, chủ yếu xoay quanh khát vọng đòi quyền độc lập – tự trị
của người Kurd tại Thổ.
Được thành lập vào những năm 1970, Đảng Công nhân người Kurd (PKK) đã phát động một
cuộc chiến tranh vũ trang chống lại chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1984, kêu gọi thành lập một nhà
nước Kurd tự trị tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tổ chức PKK bị Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ và EU xem là nhóm khủng bố
và áp dụng những biện pháp đàn áp không khoan nhượng. Năm 2007, trước tình hình căng thẳng đó,
tổng thống Mỹ G.Bush đã cam kết sẽ giúp Thổ Nhĩ Kỳ đấu tranh với tổ chức PKK. [71]

Cuộc chiến triền miên giữa hai bên từ năm 1984 tới nay đã làm hơn 40.000 người chết,
nhưng vẫn chưa hề có dấu hiệu kết thúc. Gần đây, vào tháng 6 năm 2010, một cuộc đổ máu bị xem
là nặng nề nhất trong nhiều năm qua xảy ra giữa quân đội Thổ Nhĩ Kỳ và các du kích người Kurd,
khiến cho 11 binh sĩ chính phủ và 12 tay súng người Kurd thiệt mạng ở tỉnh Hakkari gần biên giới

với Iraq. Sau biến cố này, Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan đã có lời tuyên bố gay gắt
rằng sẽ tận diệt các du kích của lực lượng nổi dậy người Kurd. [92]

Bên cạnh vấn đề trên, Thổ Nhĩ Kỳ còn phải đối mặt với những rắc rối liên quan đến người
Armenia.
Vốn là một đất nước Thiên Chúa giáo, có nền văn hóa lâu đời và vị trí chiến lược, trải dài từ
bờ biển Đen đến biển Caspi và biển Địa Trung Hải, từ lâu Armenia đã trở thành đối tượng xâm
chiếm của nhiều đế quốc trên thế giới. Đến những năm 1500, Đế quốc Ottoman và Safavid Ba Tư
chia nhau cai trị Armenia. Về sau, lãnh thổ Đông Armenia (bao gồm các tiểu vương quốc Erivan và
Karabakh - khi đó thuộc Ba Tư) bị sáp nhập vào Đế quốc Nga trong những năm 1813 và 1828.
Dưới thời Ottoman, người Armenia và người Thổ Nhĩ Kỳ sống với nhau khá hòa thuận. Tuy
nhiên, khi đế chế Ottoman bắt đầu sụp đổ và đại chiến thế giới thứ nhất diễn ra, một phần lớn người
Armenia sống tại Thổ Nhĩ Kỳ đã thiệt mạng vì “cuộc diệt chủng Armenia” do tổ chức Young Turks
(Thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ) cầm quyền. Sự kiện này xảy ra vào khoảng năm 1915 - 1918, xuất phát từ
những thất bại quân sự trong cuộc chiến giữa Thổ và Nga trên dãy núi
5TCaucasus5T. Khi đó, có tin đồn
rằng các binh sĩ Armenia trong quân đội Thổ đã bỏ chạy về phía người Nga. Lời đồn đại trở nên
đáng tin cậy một phần bởi người Armenia – cũng như người Kurd – vốn không thuộc cộng đồng
dân Thổ Ottoman, và vẫn luôn có tư tưởng chống lại ách cai trị của người Thổ. Chính quyền Thổ, vì
vậy, đã kết án người Armenia về thất bại tại Caucasus và bắt đầu kế hoạch trục xuất và giết hại họ.
Cuối tháng 2 năm 1915, người Thổ bãi nhiệm các quan chức người Armenia. Họ chuyển các binh sĩ
người Armenia khỏi các đơn vị chiến đấu, đưa họ vào các binh đoàn lao công. Họ bỏ tù các sĩ quan


quân sự Armenia, ra sắc lệnh người Armenia không được phép mang vũ khí, bắt giữ những nhân vật
trọng yếu của Armenia : các nhà văn, nhà giáo,
5Tluật sư5T …và giết chết họ. Đồng thời, chính quyền
Thổ đã lập kế hoạch trục xuất người Armenia ra khỏi đất Thổ. Trong quá trình cưỡng bức người
Armeni di chuyển, nhiều người đã phản kháng, nhưng không thành công và đã bị giết chết. Nhiều
người đã bỏ chạy, một số trốn vào sa mạc khô cằn, để rồi bị tấn công bởi một bộ phận

5Tngười Kurd5T
cũng căm ghét người Armenia. Một số khác bị giam giữ và bỏ đói đến chết trong các trại tập trung ở
sa mạc. [46]
Những sự kiện từ năm 1915 tới năm 1918 được người Armenia và đại đa số các nhà sử học
phương Tây coi là những vụ thảm sát hàng loạt, với con số người chết lên đến hơn 1 triệu người
(Trong khi vào năm 1914 có khoảng 2 triệu người Armenia sống tại Thổ ) Vì lý do đó, cộng đồng
Do Thái Armenia đã từng vận động sự công nhận chính thức những sự kiện trên là vụ “diệt chủng”
từ hơn 30 năm nay. Tuy có nhiều nước, dưới sức ép của Thổ Nhĩ Kỳ, đã không chính thức thừa
nhận những cuộc thảm sát người Armenia là diệt chủng, nhiều nước đã thông qua luật chính thức
công nhận thực tế cuộc diệt chủng: Pháp, Nga, Canada, Italia, Thụy Sĩ, Thụy Điển
, Hà Lan, Bỉ, Hy
Lạp, Síp, Slovakia, Uruguay, Argentina, Ba Lan, Liban, Cộng đồng châu Âu, nhiều bang tại Hoa Kỳ.
Tuy sự thật đã rõ ràng, chính quyền Thổ cho đến ngày hôm nay vẫn không chấp nhận cụm từ
“diệt chủng” khi nhắc đến sự kiện đó và luôn đàn áp, trừng phạt nặng nề những người Thổ nào dám
nhắc đến trang sử đen tối này. Dù vậy, trong cuốn tiểu thuyết thứ bảy của mình, cuốn Tuyết, nhà văn
Orhan Pamuk vẫn thẳng thừng phơi bày sự thật đó. Độc giả hẳn không quên đoạn đối thoại giữa Ka
và Ipek ở chương 4, khi cả hai “nói đến gian trưng bày riêng trong bảo tàng về cuộc thảm sát
Armenia” thì Ipek bảo : “một số khách du lịch đến đây chờ được xem chứng tích người Thổ tàn sát
người Armenia, cho tới khi kinh ngạc nhận ra câu chuyện hoàn toàn ngược lại” [40, tr.39]. Cũng
trong cuốn Tuyết, ở chương 31, trong cuộc họp chính trị, để phản bác những lời buộc tội phương
Tây về “các cuộc thập tự chinh, vụ sát hại dân Do Thái, những người bản xứ da đỏ ở Mỹ và số tín
đồ Hồi giáo Algeria bị Pháp giết”, có một nhân vật (nhà văn cố tình không nêu tên) đã đặt câu hỏi
thế này : “Hàng triệu người Armenia ở Kars và toàn xứ Anatolia đâu cả rồi ?”. Bằng giọng điệu
giễu cợt, nhà văn nói thêm : “Gã mật thám ghi chép mọi chuyện không nỡ ghi tên nhân vật này vì
thương hại. ” [40, tr.311].
Không chỉ viết sách, năm 2005, ông còn thẳng thừng phát biểu trên một tờ báo Thụy Sĩ rằng :
“Chúng ta đã giết hại 1 triệu người Armenia và 30.000 người Kurd trên đất này. Và không ai ở Thổ
Nhĩ Kỳ ngoài tôi dám nói lên sự thật này.” [68] Ông còn khẳng định một cách mạnh mẽ rằng đó là
hai biến cố trọng đại mà cho đến nay Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa có can đảm nhìn nhận.



Khi phát biểu về sự thảm sát người Armenia, và bênh vực người Kurd bị đàn áp ở Thổ Nhĩ
Kỳ, Pamuk đã gia nhập hàng ngũ với Kenzaburo Oe (đoạt giải Nobel năm 1994) và J.M. Coetzee
( đoạt giải Nobel năm 2003). Kenzaburo Oe đã nói về việc quân đội Nhật Bản bức tử dân Nhật và
J.M. Coetzee đã phát biểu việc người Nam Phi bị đàn áp. Các nhà văn trên đều là những giọng nói
mạnh mẽ của giới văn nghệ, đã lớn tiếng bênh vực nhân quyền, trong đó có quyền tự do ngôn luận.
Họ cũng đã dùng tiếng nói của mình để nói với thế giới thay cho những người không thể nói và
không có điều kiện để phát biểu ý kiến.
Và giải thưởng Nobel văn học năm 2006 được trân trọng trao cho Orhan Pamuk đã được
nhiều tổ chức nhân quyền và văn học quốc tế hoan nghênh nhiệt liệt, xem đó không chỉ là sự công
nhận một tài năng trong nền văn học thế giới, mà còn là một chiến thắng có ý nghĩa của quyền tự do
ngôn luận, là sự vinh danh cho những nhà văn can đảm bảo vệ cho sự tự do tư tưởng.
1.1.4 Tiền đề văn học
Theo một số tài liệu nghiên cứu khái quát về văn học Thổ Nhĩ Kỳ [94], nền văn học của đất
nước liên lục địa Âu – Á này có bề dày lịch sử khoảng 1.500 năm. Đây là cả một quãng đường dài,
ghi dấu rất nhiều thành tựu đáng chú ý. nhằm thấy được những ảnh hưởng nhất định của văn học
truyền thống cũng như đương đại đã để lại dấu ấn trên tác phẩm của ông. Cũng vì lý do đó, chúng
tôi chọn thời điểm thế kỷ 20 như một cột mốc phân chia sự xem xét, nhìn nhận về những thành tựu
mà nền văn học kéo dài 1.500 năm này đã đạt được.
1.1.4.1 UDấu ấn văn học Thổ Nhĩ Kỳ trước thế kỷ 20
Thế kỷ 10, 11 đánh dấu sự hình thành nền văn học dân gian Thổ Nhĩ Kỳ với ba thể loại
chính : sử thi, thơ ca dân gian, truyện kể dân gian. Nền văn học dân gian Thổ Nhĩ Kỳ thời kỳ này
không chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ cũng như nền văn học Ba Tư và Ả Rập (đây là điểm khác biệt
so với nền văn học viết Thổ Nhĩ Kỳ hình thành sau đó không lâu). Điểm đáng chú ý là, thơ ca dân
gian Thổ (bắt đầu phát triển mạnh vào thế kỷ 13, với các nhà thơ nổi tiếng như Yunus Emre, Sultan
Veled, và Seyyad Hamza) chịu ảnh hưởng mạnh bởi tư tưởng Hồi giáo Sufi và Shia. Ngoài ra, thơ
ca dân gian Thổ còn đặc biệt gắn kết chặt chẽ với nền âm nhạc dân gian truyền thống, bởi đa phần
chúng đã được sáng tác để hát (thường sử dụng trong các buổi họp mặt mang tính chất tôn giáo, có
vai trò tương tự các
5Tbài thánh ca5T của Tây phương).

Khác với văn học dân gian, văn học viết Thổ ( trước khi
5Tthành lập5T nước Cộng hòa Thổ Nhĩ
Kỳ vào năm 1923 ) lại có xu hướng chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ cũng như văn học Ba Tư và Ả
Rập. Hiện tượng này có thể được lý giải bởi bối cảnh lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ vào thời điểm ấy : khoảng
cuối thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 14, với sự cai trị của đế quốc Ba Tư hùng mạnh, mọi hoạt động kinh


doanh tại đây đều dùng tiếng Ba Tư, ít khi dùng tiếng Thổ. Nền văn học chịu ảnh hưởng của tiếng Ả
Rập và Ba Tư thời kỳ này đã được biết đến với biệt danh là “văn học Divan”. Nền văn học này tiếp
tục được phát triển cả sau khi đế quốc Ottoman xuất hiện (đầu thế kỷ 14).
Văn học viết thời Ottoman, xuất hiện cùng lúc với sự ra đời ngôn ngữ Thổ Ottoman (tiền
thân của tiếng Thổ hiện đại), bao gồm thơ và
5Tvăn xuôi5T. Trong đó, thơ ca - đặc biệt thơ Divan (với bề
dày lịch sử phát triển khoảng 500 năm) - là dòng văn học chiếm ưu thế. Thơ Divan, cũng giống như
thơ ca dân gian Thổ, chịu ảnh hưởng đậm nét bởi tư tưởng Hồi giáo Sufi. Không những thế, do chịu
ảnh hưởng của ngôn ngữ cũng như văn học Ba Tư và Ả Rập, thơ Divan còn chứa đựng một lượng
lớn biểu tượng, thể hiện sự hòa trộn giữa yếu tố thần bí tôn giáo và thế tục, làm nên ý nghĩa triết lý
sâu xa hàm ẩn trong các bài thơ.
Về văn xuôi, từ đầu thế kỷ 11 cho đến thế kỷ 19, văn xuôi Ottoman không chứa bất kỳ một
tác phẩm văn học hư cấu nào, điều này rất khác biệt với nền văn học phương Tây cùng thời. Theo
nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy, văn xuôi Thổ Nhĩ Kỳ thời đế chế Ottoman đã xuất hiện một số
thể loại sau :
- Tarih : thể loại
5Tlịch sử5T. Đây là một thể loại mang giá trị truyền thống, với sự xuất hiện nhiều
tác giả nổi tiếng, bao gồm
5Tsử5T gia Asıkpasazade (thế kỷ 15), các sử gia Katib Celebi và Naima (thế
kỷ 17).
-
5TSeyahatname5T : thể loại 5Ttruyện5T du hành, với tác phẩm tiêu biểu là 5TSeyahatname5T của 5TEvliya
Celebi

5T (thế kỷ 17). Trong Pháo đài trắng, một tiểu thuyết lấy bối cảnh Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ 17, Orhan
Pamuk đã từng mô tả Evliya Celebi, với vai trò như một nhân vật lịch sử mà vị học giả người Ý đã
gặp gỡ trong những năm anh ta sống tại đất Thổ.
-
5TSefaretname5T : ghi chép những chuyến hành trình và trải nghiệm của 5Tđại sứ5T triều Ottoman,
điển hình là tác phẩm Paris Sefaretnamesi của
5TYirmisekiz Mehmed Celebi5T, đại sứ tại vương
triều
5TLouis XV nước Pháp5T khoảng năm 1718 - 1720
- Siyasetname : một loại tham luận chính trị mô tả hoạt động của nhà nước và cố vấn cho các
nhà cai trị, tiêu biểu là tác phẩm
5TSiyasatnama5T, được viết bằng tiếng Ba Tư của tác giả 5TNizam al-
Mulk
5T. Ông cũng là vị 5Ttể tướng5T đã từng cộng tác với các nhà cai trị vùng Seljuk là 5TAlp Arslan5T

5TMalik Shah5T I vào thế kỷ thứ 11.
- Tezkire : hồ sơ ghi chép ngắn về
5Ttiểu sử5T của các nhân vật có tên tuổi. Một trong số những tác
phẩm nổi tiếng là Tezkiretu's-suaras - tiểu sử của các nhà thơ, viết bởi Latifi và
5TAsık Celebi5T vào thế
kỷ 16.


- Munseat : hồ sơ ghi chép, thu thập các bài viết và thư từ của những nhân vật nổi tiếng (giống
như bộ sưu tập những bức thư nổi tiếng của phương Tây)
- Munazara : hồ sơ ghi chép, thu thập
5Tcác cuộc tranh luận5T tôn giáo hay triết học tự nhiên.
Đầu thế kỷ 19, đế chế Ottoman rơi vào tình trạng suy thoái.
5TQuốc vương Selim III5T (1789 -
1807), đã cố gắng cứu vãn tình trạng này bằng con đường cải cách xã hội, nhưng không đạt hiệu quả.

Phải đến sau khi
5TSultan Mahmud II5T tiêu diệt được các quân đoàn Janissary năm 1826, công cuộc cải
cách ấy mới bắt đầu đạt được những thành công nhất định.
Những cải cách này cuối cùng đã thực sự lan rộng trong phạm vi khắp đế quốc vào
5Tthời kỳ
Tanzimat
5T (khoảng năm 1839 – 1876 dưới triều vua Abdul Mecid I, người kế tục Sultan Mahmud II).
Thời kỳ này, nhiều hệ thống quản lý dưới thời Ottoman được tổ chức lại, chủ yếu theo mô hình
nước
5TPháp5T.
Cùng với sự cải cách chế độ Ottoman, tiến trình cải cách trong văn học cũng được diễn ra.
Nói chung, cải cách văn học tập trung trong hai lãnh vực : ngôn ngữ và thể loại. Nhiều nhà cải cách
kêu gọi từ bỏ truyền thống thơ Divan và quay về truyền thống dân gian. Những thể loại văn học mới
được đưa vào văn học Ottoman, trước hết là tiểu thuyết và truyện ngắn. Xu hướng này bắt đầu vào
năm 1861, với bản dịch ra tiếng Thổ Ottoman của cuốn tiểu thuyết
5TLes aventures de Télémaque5T
(Những cuộc phiêu lưu của Télémaque) của
5TFrancois Fénelon5T sáng tác năm 1699, dịch bởi Yusuf
Kamil Pasha -
5TĐại tể tướng5T dưới triều 5TQuốc vương Abdulaziz5T.
Do quan hệ lịch sử gần gũi với
5TPháp5T, nền 5Tvăn học Pháp5T đã đưa những ảnh hưởng lớn của
phương Tây đến văn học Thổ trong suốt nửa cuối thế kỷ 19. Kết quả là, nhiều chuyển biến nổi bật ở
Pháp trong thời kỳ này cũng diễn ra tương tự tại Đế chế Ottoman. Chẳng hạn, trong quá trình phát
triển truyền thống văn xuôi Ottoman, ảnh hưởng của
5Tchủ nghĩa lãng mạn5T có thể thấy trong giai đoạn
Tanzimat, và phong trào theo chủ nghĩa
5Thiện thực5T và 5Ttự nhiên 5T trong các giai đoạn kế tiếp.
Nhiều nhà văn thời kỳ Tanzimat đã có nhiều sáng tác thuộc những thể loại rất đa dạng.
Chẳng hạn, năm 1876, nhà thơ

5TNamık Kemal5T (1840 - 1888) đã viết cuốn tiểu thuyết có nhan đề :
Intibah (Tỉnh thức). Năm 1860,
5Tnhà báo5T Sinasi (1826- 1871), được ghi nhận là tác giả của vở kịch
Thổ hiện đại đầu tiên : vở hài kịch một hồi Aair Evlenmesi (Đám cưới của nhà thơ). Bên cạnh đó,
tiểu thuyết gia Ahmed Midhat Efendi (1844 - 1912) cũng đã có những sáng tác quan trọng cho thấy
ảnh hưởng của nhiều trào lưu chính: năm 1873, ông viết cuốn Hasan Mellah yahud Sırr Icinde
Esrar (Hasan thủy thủ, hoặc huyền bí trong huyền bí) theo trường phái lãng mạn ; đến năm 1881,

×