Nhập môn Việt Nam học
-
25 -
5. Vò trí của Việt Nam học trong hệ thống các ngành khoa học
(Mối quan hệ giữa Việt Nam học với các ngành khoa học khác)
5.1. Mối quan hệ giữa Việt Nam học với các ngành khoa học tự nhiên
Thoạt nhìn, người ta ít khi nghó rằng giữa khoa học xã hội và khoa
học tự nhiên có mối quan hệ với nhau; song trên thực tế thì ngược lại, nhất là
những gì đang diễn ra trong những thập kỷ gần đây và hiện nay - xu hướng
lượng hóa đối với những thông tin của khoa học xã hội. Rõ ràng, nếu không
có những số liệu thì các tri thức khoa học xã hội chỉ là những điều chung
chung, qua loa, đại khái, thiếu tính thuyết phục. Toán học đã thổi vào trong
khoa học xã hội tính chính xác và có thể kiểm tra được. Ngày nay người ta
rất “kỵ” những lối diễn đạt đại loại như đa số, phần đông, rất nhiều/rất ít
mà cần có những số liệu thống kê, tính % tới mấy chữ số thập phân càng tốt.
Bên cạnh đó, phương pháp lập bảng thống kê, đồ thò, biểu đồ cũng đem lại
những cách biểu đạt rõ nét hơn, nhất là đối với những vấn đề phức tạp
(chẳng hạn để diễn tả tốc độ tăng trưởng kinh tế hay diễn biến dân số của
một hay một vài quốc gia nào đó, phương pháp đồ thò sẽ có tính thuyết phục
hơn hẳn một loạt trang viết dài dòng). Một nhà khoa học chân chính, quyết
không thể là một người dốt toán, bởi phương pháp tư duy toán học là một
trong những cơ sở quan trọng hàng đầu trong nhận thức nói chung, của VNH
nói riêng
Nói một cách khác, ngày nay, sự phân chia các ngành khoa học
thành xã hội - nhân văn và tự nhiên - công nghệ chỉ mang tính tương đối. Sự
chuyên môn hóa chỉ có thể phát huy ý nghóa đích thực khi dựa trên một nền
tảng tri thức rộng (có thể so sánh việc này với công việc đào giếng ở vùng
đồng bằng). Chính các nhà khoa học phương Tây đã phải thốt lên rằng, sự
chuyên môn hóa giống như người bò sưng một bên má.
* VNH và Tin học.
Một trong những khuynh hướng phát triển của mọi lónh vực khoa
học ở thế kỷ XXI là phải theo hướng công nghệ hóa, tin học hóa. Công nghệ
thông tin đã, đang và sẽ tiếp tục thâm nhập vào mọi lónh vực của đời sống xã
hội và mọi lónh vực khoa học. Ngành VNH - dó nhiên cũng không thể đứng
bên lề xu thế đó. Ở mức độ đơn giản, các thông tin lòch sử, văn học, nghệ
thuật được biên soạn và lưu trữ dưới dạng các tập tin (file) có nhiều ưu
điểm hơn so với các hình thức biên soạn và lưu trữ bằng các loại văn bản
chép tay/đánh máy trước đây - văn bản được thể hiện nhanh hơn (chẳng hạn
vẽ sơ đồ tháp tuổi hay đồ thò, biểu đồ ), đẹp hơn, chính xác hơn (dễ dàng
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
26 -
sửa chữa tới mức không còn lỗi về hình thức) Việc lưu trữ các thông tin dưới
dạng đóa CD room lại càng đầy ưu thế bởi tính tiện lợi của nó (Nếu tư liệu
dưới dạng sách vở đòi hỏi những kho tư liệu khổng lồ, chi phí cho việc bảo
quản càng phức tạp ). Ở mức độ cao hơn là việc khai thác mạng internet
nhằm đảm bảo tính cập nhật, thời sự của các thông tin được chóng vánh hơn,
hạn chế tối đa việc “phát hiện lại châu Mỹ”(đã được phát hiện). Và hy vọng
trong một tương lai không xa sẽ có những phần mềm chuyên biệt trong việc
khai thác, xử lý những thông tin về khoa học xã hội Do vậy, một trong
những yêu cầu quan trọng hiện nay đối với sinh viên VNH là phải khai thác
được các chức năng thông dụng của computer, truy cập được các thông tin
mà mình quan tâm trên mạng internet, tiến tới mở những trang web gửi lên
mạng để thông báo kết quả nghiên cứu của mình. Mặt khác, trong một tương
lai gần, ngành VNH xây dựng các phần mềm đáp ứng với những yêu cầu
chuyên biệt của ngành mình (chẳng hạn viết các phần mềm Encyclopedie về
lòch sử, văn hóa Việt Nam).
* VNH và các ngành khoa học cách trí (Hóa - Lý, Sinh)
Các ngành khoa học “cách trí” cũng đem lại cho khoa học độ chân
xác đáng kể, mà trước hết là các phương pháp xác đònh niên đại hiện vật
khảo cổ bằng cách phân tích chu kỳ bán rã của đồng vò phóng xạ (C
14
) hay
các phương pháp Kali-Argông, phân tích bào tử phấn hoa Các lónh vực
khoa học cách trí cũng giúp cho các nhà nghiên cứu khoa học xã hội hiểu
một cách thấu đáo hơn những thành tựu văn hóa của nhân loại (Chẳng hạn
nhờ các kết quả phân tích các mẫu trống đồng Đông Sơn mà chúng ta càng
trân trọng tài nghệ và những di sản văn hóa của cha ông, kiểm nghiệm độ
chân xác của các nguồn sử liệu (văn bản, hiện vật ). Muốn chấm dứt được
cuộc tranh luận kéo dài ngót thế kỷ về chất kết dính sử dụng trong việc xây
dựng các tháp Chăm, nhất thiết phải sử dụng tới việc phân tích các mẫu vật
thu được từ các khu di tích đó
[1]
Ngày nay, ngành Đòa-Không ảnh cũng đang được các nhà khoa học
ở một số quốc gia sử dụng trong nghiên cứu khoa học xã hội. Trước hết, máy
bay trực thăng có thể giúp cho các nhà khoa học nhanh chóng đặt chân tới
bất cứ nơi nào mà họ cần khảo sát, kể cả những nơi mà các phương tiện
đường bộ, đường thủy chưa vươn tới được. Đặc biệt hơn, các kết quả phân
tích các bức ảnh từ trên cao giúp cho các nhà khoa học tìm ra được những
thông tin mà quan sát trực tiếp bằng mắt hầu như bất lực. Chẳng hạn sự thiên
di hay hiện diện của một cộng đồng dân cư lạ trong những cánh rừng rậm
nhiệt đới; dấu tích của một hệ thống đê điều hay thành quách cổ xưa (bằng
phân tích không ảnh, người ta cho rằng khu đền tháp Ăng ko được xây trên
một thành trì cổ)
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
27 -
___________
[1]. Chúng tôi thu mẫu vữa từ khu đổ nát của tháp Lửa trong quần thể tháp Pô
Rô mê (thôn Hậu Sanh-xã Phước Hữu-Ninh Phước -Ninh Thuận), đốt cháy và có
mùi thơm.
5.2. Mối quan hệ giữa VNH với các ngành khoa học xã hội-nhân văn
khác lấy Việt Nam làm đối tượng khảo sát.
Đây là mối quan hệ qua lại, bổ sung-hỗ trợ lẫn nhau. Mỗi thành
tựu, mỗi kết quả nghiên cứu của bất kỳ một lónh vực khoa học nào cũng góp
phần làm phong phú hơn, sâu sắc thêm những nhận thức chung về đất nước,
con người Việt Nam; và ngược lại, những tri thức tổng hợp của VNH cũng
góp phần bổ trợ, soi sáng cho những lónh vực khoa học cụ thể.
5.2.1. Mối quan hệ giữa VNH với các ngành khoa học lòch sử.
Một trong những lónh vực nghiên cứu trọng yếu của VNH là phải
làm sáng tỏ những vấn đề về lòch sử Việt Nam, do vậy, VNH phải có quan
hệ chặt chẽ với các chuyên ngành của khoa học lòch sử (Sử học - lónh vực
nghiên cứu lấy các nguồn tư liệu thư tòch làm đối tượng khảo sát, Dân tộc
học - lấy việc tìm hiểu văn hóa các tộc người đương đại làm mục tiêu nghiên
cứu, Khảo cổ học - chuyên ngành khoa học chủ yếu nghiên cứu các hiện vật
khai quật từ lòng đất ). Những lónh vực này thường vẫn “độc lập” với nhau,
nhưng khi khảo sát về lòch sử Việt Nam, nhất là những vấn đề liên quan tới
buổi bình minh của lòch sử dân tộc thì các nguồn tài liệu thư tòch hầu như
không có, thì giải pháp tối ưu hơn cả là phải sử dụng phương pháp liên ngành
của VNH mới có thể đưa lại những kết quả khả quan. Xin lấy vấn đề xác
đònh chủ nhân cùa trống đồng Đông Sơn làm dẫn dụ.
Rõ ràng đây là một vấn đề rất phức tạp, bởi phạm vi phân bố của
những hiện vật khảo cổ học này rất rộng lớn, chúng được phát hiện ở hầu hết
các quốc gia ở Đông nám Á (bao gồm cả vùng miền Nam sông Dương tử).
Trước đây, các nhà khoa học Việt Nam đã từng cả quyết là tổ tiên của người
Việt - những cư dân Lạc Việt, là chủ nhân đích thực của những chiếc trống
đồng nổi tiếng này. Luận cứ được đưa ra là dựa vào kết quả nghiên cứu của
Hêgơ - nhà khảo cổ học người Áo, Việt Nam là nơi phát hiện được một số
lượng trống đồng nhiều nhất (70/tổng số 140 chiếc) và đặc biệt lại là nơi tìm
ra những chiếc trống đồng đẹp nhất (các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ ). Ngoài
ra còn có những ghi chép trong Hậu Hán thư (Viện hiếu kỵ, thiện biệt danh
mã, phùng Giao Chỉ chi đồng cổ, nãi chú mã thức), trong Việt sử lược và Đại
Việt sử ký toàn thư về Hội thề đồng cổ dưới triều Lý, về bài thơ của sứ thần
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
28 -
nhà Nguyên - Trần Phu, khi đến Thăng Long (bóng lòa gươm sắt lòng thêm
đắng, rộn tiếng trống đồng tóc đốm hoa). Nếu chỉ dựa vào những cứ liệu này
thì tính thuyết phục không cao, nhất là vào đầu những năm 80 của thế kỷ
XX, các nhà khảo cổ học Trung Quốc đã khai quật được ở các khu vực thuộc
miền Nam sông Dương tử một khối lượng trống đồng nhiều hơn số trống phát
hiện được ở nước ta và có cả những chiếc trống “một chín, một mười” với
trống Ngọc Lũ (trống Khai Hóa). Ngoài ra không thể phủ nhận được một
thực tế là từ nhiều thế kỷ nay, ở người Việt không còn bảo lưu việc đúc và sử
dụng trống đồng nữa. Trên trống đồng lại xuất trình một mảng hoa văn động
vật không mấy phổ biến ở Việt Nam (hươu, giao long ).
Trong bối cảnh nêu trên, nghiên cứu của GS. Dân tộc học Nguyễn
Từ Chi về mối quan hệ giữa bố cục hoa văn mặt trống đồng Đông Sơn và bố
cục hoa văn cạp váy Mường - một tộc người có chung cội nguồn với người
Việt, đã đem lại một cứ liệu về mối quan hệ giữa chủ nhân của những chiếc
trống đồng Đông Sơn nổi tiếng với tổ tiên chung của người Mường, người
Việt - những cư dân Lạc Việt. Luận cứ này còn được bổ sung thêm: cho đến
nay, ở người Mường vẫn còn bảo lưu tục “giã” trống đồng trong những kỳ lễ
hội.
5.2.2. Mối quan hệ giữa VNH với các ngành khoa học Ngữ văn.
Văn học dân tộc (bao gồm cả văn học viết và văn học truyền miệng)
cùng với tiếng Việt là những mảng nghiên cứu trọng yếu của VNH, do vậy
mối quan hệ giữa VNH và các khoa học Ngữ văn là tất yếu.
Văn học cũng chính là sự phản ánh hiện thực thông qua đặc trưng
riêng của nó. Dẫu rằng, đặc trưng nổi bật của văn học là hư cấu, song vẫn có
thể nhận ra sự thực lòch sử đằng sau những sáng tác văn học. Người sáng tác
văn học dù có khả năng tượng tượng tàu giỏi, lãng mạn, bay bổng tới đâu
cũng không thể thoát ra khỏi hiện thực mà anh ta sống (kể cả những nhà văn
gọi là “viễn tưởng”). Những sáng tác văn học dân gian cũng chứa đựng trong
đó cốt lõi lòch sử (chuyện Sơn Tinh-Thủy Tinh, Thánh Gióng ). Ngay cả
những sáng tác nghệ thuật như những ca khúc của một thời chống Pháp,
chống Mỹ hào hùng của dân tộc cũng để lại những âm hưởng rất lớn của thời
đại.
Trong các khoa học Ngữ văn, ngành văn học dân gian hay folklore
nói chung có mối quan hệ đặc biệt với nghiên cứu cổ sử, nhất là các mảng
huyền thoại, cổ tích. Thời kỳ Hùng vương đã lùi sâu vào quá vãng và chỉ
đọng lại bằng những dòng hết sức sơ lược trong các bộ biên niên sử Trung
Hoa chép sau này; song chính một phần nhờ vào sự hỗ trợ của các huyền
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
29 -
thoại về các vua Hùng (các chuyện Quả dưa hấu, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Tiên
Dung - Chử Đồng tử, Thánh Gióng, An Dương vương ) mà đã đem lại cho
các nhà sử học không ít những thông tin quý báu để hình dung nên những giả
thuyết làm việc, bởi nếu gạt bỏ, bóc đi những tình tiết hoang đường, kỳ ảo
vẫn có thể nhận ra bên trong những huyền tích đó những cái “nhân” lòch sử.
Một điều cần đặc biệt phải lưu ý là phải tỉnh táo để phân biệt giữa folklore
và faklore (huyền thoại đởm kiểu sự tích hồ Than thở ở Đà Lạt ).
Một lónh vực khoa học ngữ văn khác cũng có mối quan hệ gắn bó
đặc biệt với khoa học lòch sử là chuyên ngành Ngôn ngữ học nói chung và
Ngữ âm học lòch sử nói riêng. Ngày nay chúng ta có thể nhanh chóng xác
đònh ngôn ngữ của một tộc người lạ bằng cách đối chiếu với một bảng danh
mục 300 từ cơ bản liên quan tới các hiện tượng tự nhiên, các bộ phận cơ thể,
các hoạt động kinh tế chủ yếu và hệ thống thân tộc Tương tự, nhờ vào các
thành tựu của Ngữ âm học lòch sử mà người ta nhận ra được, giải mã được
không ít những tên tuổi, đòa danh cổ xưa nhờ sự trợ giúp của chính chuyên
ngành nghiên cứu này. Chẳng hạn, ta có thể hiểu tước hiệu của các vua
Hùng cùng các quan chức thời đó (phụ đạo, bồ chính ) bằng các quy luật
chuyển hóa phụ âm đầu và so sánh với tước hiệu của các tù trưởng miền núi
gần đây (potarinh, p’ tao, m’tao, lang cun ).
Ngoại ngữ là một thứ vũ khí lợi hại của các nhà khoa học trong việc
“chinh phục những miền chưa hiểu biết”, nhất là những vấn đề có liên quan
tới các dân tộc ngoài biên giới quốc gia. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện
giao tiếp mà nó còn là phương tiện biểu đạt quan trọng của văn hóa, văn
minh và do vậy, ngoại ngữ chính là chìa khóa trong việc mở cánh cửa tòa lâu
đài lòch sử và văn hóa của các dân tộc khác nhau. Trong các thứ ngoại ngữ
đối với các nhà VNH hôm nay, English đóng một vai trò quan trọng đặc biệt
bởi tính thông dụng của nó, bởi nhu cầu giao lưu-hợp tác quốc tế và nhất là
khi mà internet đang là một lợi thế trong việc nắm bắt thông tin.
Có thể nói, ngoại ngữ là không thật sự cần thiết đối với các nhà khoa
học nghiên cứu về lòch sử, văn hóa dân tộc mình được không ? Không ! Xin
lấy việc tìm hiểu lòch sử Việt Nam làm ví dụ. Rõ ràng, những nhà sử học
người Việt chỉ dừng lại ở “trình độ D” tiếng Việt hẳn cũng khó lòng có
những hiểu biết lòch sử nước nhà sâu sắc, toàn diện, bởi cả một quá khứ dài
lâu, các thế hệ cha ông họ đã sử dụng chữ Hán làm công cụ biên chép lòch
sử, sáng tác văn học Hơn thế nữa, cũng cần phải biết các đồng nghiệp nước
ngoài quan tâm tới lòch sử Việt Nam đã viết những gì, đã có những đánh giá,
nhận đònh như thế nào vào lónh vực mà anh ta hứng thú.
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
30 -
5.3. Mối quan hệ giữa Việt Nam học với các ngành khoa học về khu
vực và các nước láng giềng (Đông phương học, Đông Nam Á học,
Trung Quốc học, Thái học ).
Hoàn toàn xem giữa VNH và các ngành Đông Nam Á học và Đông
phương học là mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể. Có nhiều vấn đề, phải
đứng từ góc nhìn toàn cục mới có thể nhận thức sâu sắc những vấn đề cụ thể.
chẳng hạn, trước đây, đã có không ít nhà nghiên cứu xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam để cho rằng nhà rông (commune house) chỉ có ở các tộc người nói
các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Môn-Khơ me, song khi khảo sát trên một phạm
vi rộng lớn hơn - cả khu vực Đông Nam Á, chúng tôi thấy rằng không thể
gắn loại hình kiến trúc công cộng truyền thống đó với ngôn ngữ, mà phải
thấy nó là một “mẫu số chung” trong văn hóa truyền thống của toàn khu
vực. Hiển nhiên, đó không phải là ví dụ duy nhất. Chúng ta có thể có được
cái nhìn khách quan hơn khi xem xét các vấn đề chủ nhân trống đồng Đông
Sơn hay “tác quyền” của nông nghiệp trồng lúa nước
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
31 -
6. Sơ lược về sự phát triển và triển vọng của ngành Việt Nam học
6.1. Những thông tin về đất nước, con người Việt Nam đã xuất hiện
từ rất sớm trong một số thư tòch cổ Trung Hoa như Hoài Nam tử (đoạn chép
về cuộc xâm lăng của quân Tần với sự đại bại của viên tướng Đồ Thư), trong
Giao Châu ngoại vực ký, Thủy kinh chú (những ghi chép về cư dân Lạc Việt
và nghề trồng lúa nước ở họ ), Hậu Hán thư (những thông tin liên quan tới
cuộc hành quân đàn áp cuộc khởi nghóa Hai Bà Trưng của Mã Viện ), trong
Sử ký của Tư Mã Thiên (đoạn chép về Triệu Đà theo phong tục Việt bò sứ
giả Lục Giả phê phán là “quên cả phong tục cũ của tổ tiên ) Thế nhưng,
nhìn chung các ghi chép trên đây còn hết sức lẻ tẻ, rời rạc và phản ánh cách
nhìn nhận về đất nước, con người vùng này thông qua lăng kính của những
kẻ ngoại tộc.
6.2. Mãi tới sau khi “khôi phục được quốc thống”(thế kỷ X - sau võ
công của Ngô Vương Quyền cả phá quân Nam Hán ở Bạch Đằng Giang năm
938), và nhất là từ các triều đại Lý, Trần, ý thức dân tộc Việt trỗi dậy, việc
biên soạn lòch sử, ghi chép về các chuyện lạ nước Nam mới được tiến hành
một cách có quy củ. Triều Lý đã có các bộ Thực lục (nay đã thất truyền).
Triều Trần lập Quốc sử viện và có các sử quan chuyên làm sử nước Nam với
tên tuổi của Lê Văn Hưu - tác giả của Đại Việt sử ký gồm 30 quyển Tiếc
rằng bộ sử đầu tiên này nay không còn nữa
[1]
, song nội dung của nó đã được
các nhà viết sử thời Lê tiếp thu và kế thừa. Ngoài ra, ngày nay chúng ta còn
có được các bộ sưu tập chuyện được xem là “kỳ quái”, “u linh” - Lónh Nam
chích quái của Trần Thế Pháp, Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên và
đặc biệt là một bộ sử không rõ tác giả - Đại Việt sử lược gồm 3 tập và cuốn
An Nam chí lược của Lê Trắc. Ngoài ra, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật
cũng rất xứng đáng là một “nhà VNH”, bởi ông đã dành sự quan tâm thích
đáng đến việc tìm hiểu ngôn ngữ, phong tục-tập quán của các tộc người
thiểu số ở phía Bắc và người Chăm.
________________
[1]. Sách viết xong và khắc in vào năm 1272 dưới triều Trần Thánh Tông, tuy
cuốn sách đã bò thất truyền, song hiện vẫn còn 29 đoạn lời bình của ông được
dẫn lại trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên.
Các bộ sử trên đây tuy còn nhiều khiếm khuyết, song đã đem lại
cho chúng ta khá nhiều thông tin liên quan tới một thời kỳ dài của dân tộc từ
thời Hồng Bàng tới Lý triều. Tuy vậy, một trong những hạn chế nổi bật của
những sáng tác trong thời kỳ này là những người viết và sưu tầm không phân
đònh được “thực”- “ảo”, đồng nhất giữa huyền thoại với sự thực lòch sử.
Quan điểm “thiên mệnh” Nho giáo dưới hình thức sấm vó đã chi phối không
nhỏ tới ngòi bút của người viết (các chi tiết liên quan tới Lý Công Uẩn lên
ngôi như sấm cây gạo, con chó ở châu Cổ Pháp mọc chữ “vương” ).
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
32 -
6.3. Thời Hậu Lê như là sự nở rộ của văn hóa dân tộc. Khối lượng
tri thức nhiều mặt về đất nước con người Việt Nam được phản ánh trong thi
ca, sử học, đòa lý. Tiêu biểu trong thời kỳ này có các tác phẩm như Đại Việt
sử ký tục biên của Phan Phu Tiên, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Só Liên và
những người kế tục như Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Tung, Lê Hy
[2]
trong
Quốc sử quán Lê triều, Dư đòa chí của Nguyễn Trãi, Đại Việt thông sử của
Lê Quý Đôn. Cuộc kháng chiến hào hùng 3 lần đại phá Nguyên Mông, cuộc
khởi nghóa Lam Sơn được phản ánh lại sinh động trên nhiều phương diện
(Quân trung từ mệnh tập, Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi).
Bên cạnh việc ghi lại các sự kiện chính trò, quân sự, các phương diện
khác nhau về đất nước, con người, sản vật, phong tục tập quán của từng vùng
cũng đã thu hút sự chú ý của không ít bậc trí thức hồi đó như Dư đòa chí của
Nguyễn Trãi, Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, Lòch triều
hiến chương loại chí của Phan Huy Chú,
Một trong những nét đáng chú ý của thời kỳ này là thái độ cố gắng
vươn tới khách quan của người cầm bút (bình nhân sự lạnh buốt như sương
thu). Cả một giai đoạn dài thuộc thời Hồng Bàng được ghi vào phần Ngoại
kỷ với lời chú chép lại để “tồn nghi”. Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ có nhiều
chỗ đã đạt tới độ chính xác của khoa học (đoạn bình về Triệu Đà, về võ công
Bạch Đằng giang của Tiền Ngô vương ). Hạn chế nổi bật ở họ là tư tưởng
Nho giáo chính thống đã hằn sâu trên những trang viết. Đứng trên lập trường
Nho giáo, họ mạt sát thậm tệnhững chi tiết trong hôn nhân của Đinh Bộ
Lónh, Lê Hoàn và nhiều nhân vật thời Trần. Một số quan lại cai trò nhà Hán
được đồng nhất là vua đất Việt (Triệu Đà, Só Nhiếp, Cao Biền thành Triệu
Vũ đế, Sỹ vương, Cao vương).
_______________
[2]. Sách gồm 15 quyển với các phần Ngoại kỷ, Bản kỷ tiền biên, bản kỷ chính
biên và Bản kỷ tục biên, chép từ họ Hồng Bàng đến Lê Gia Tông (1675), khắc in
vào năm 1697.
6.4. Thời kỳ Nguyễn triều cũng là một giai đoạn phát triển đáng kể
về ý thức dân tộc. Ở triều đình có Quốc sử quán ra công biên soạn những bộ
sử đồ sộ như Khâm đònh Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục
(tiền biên và chính biên). Đáng chú ý là sự xuất hiện thể loại “chí” - những
ghi chép khá toàn diện về mọi phương diện về lòch sử, văn hóa của các đòa
phương mà tiêu biểu là các tác phẩm như Đại Nam nhất thống chí, Hoàng
Việt dư đòa chí, Gia đònh thành thông chí của Trònh Hoài Đức), Nghệ An chí
của Bùi Dương Lòch, Phương Đình dư đòa chí của Nguyễn Văn Siêu
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
33 -
Vào cuối thế kỷ XIX, ở nước ta xuất hiện một nhà cải cách lớn -
Nguyễn Trường Tộ (1828 -1871). Một trong những đề nghò canh tân xứ sở
của ông là cải cách về giáo dục. Ở phần này, ông viết:“Cái sở học thû bé là
lễ nhạc, ẩm thực, cư xử, chiến đấu, danh vò trong dó vãng của Bắc quốc, mà
cái sở hành của tráng niên là lễ nhạc, chiến phạt, khởi cư, tác dụng hiện tại
của Nam quốc Sở học thû bé là Sơn Đông, Sơn Tây ở bên Trung Quốc mắt
không từng thấy, mà cái sở hành lúc tráng niên là Bắc kỳ, Nam kỳ chân đi đến
nơi Nước ta, trên cũng có trời che tức là thiên văn, dưới cũng có đất chở tức
là đòa lý. Nước ta ở trong trời đất cũng là một đất nước rất tốt, không phải
phụ thuộc Bắc quốc, tựu trung cũng có nhân sự, nhân luân, tức là cái hiện tại
và tương lai ta cần làm. Nước ta cũng có tổ tiên mà sự tích còn lưu truyền từ
khi khai sinh đến nay, đó là cái mà quan và dân ta cần biết rõ để mà cảm
kích, suy tôn, phấn khởi, cố gắng để mà cùng nhau gìn giữ. Nước ta cũng có
núi sông, bờ cõi, hình thể, bờ biển, đồn ải, thành lũy như thế nào và về đòa
chính, duyên nhai như thế nào, đó là những cái mà chúng ta cần phải biết rõ
để tránh khỏi sai lầm trong khi hình chính liệu sự ”. Theo chúng tôi, đây là
một cách nhìn nhận mang đậm tính chất VNH.
6.5. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, với mục đích phục vụ
việc cai trò, nô dòch nhân dân ta, vơ vét tài nguyên của đất nước ta, họ đã
dành một sự quan tâm đáng kể tới việc nghiên cứu về đất nước, con người
Việt Nam. Các lónh vực nghiên cứu mới như Khảo cổ học, Dân tộc học đã
được tiến hành ở một Trung tâm nghiên cứu có quy mô lớn là Trường Viễn
Đông Bác cổ (Ecole Francaise d’Extreme-Orient). Các kết quả nghiên cứu
của trung tâm này đã được đăng tải trong tạp chí Bulletin de l’Ecole
Francaise d’Extreme-Orient (B.E F.E.O.). Trong số những nhà Đông Dương
học (auteur-indochinoise) thời kỳ này phải kể tới tên tuổi của H. Maspéro -
tác giả của các tập chuyên khảo như - La Royaum de Annam, La Royaum de
Champa, H. Maitre (Les Jungles Moi - Paris, 1912), P. Gourou (Les paysans
du dellta Tonkinois - Paris, 1936), H., Parmentier, L. Finot, chò em bà M.
Colani với những phát hiện về văn hóa Hoà Bình, Sa Huỳnh Ngoài ra, còn
có các công trình biên khảo lòch sử, văn hóa Việt Nam của các học giả người
Việt như Phan Bội Châu, Cao Xuân Dục, Đặng Xuân Bảng Đáng chú ý, có
một số trí thức người Việt tiếp thu nền học vấn của Pháp cũng tiến hành các
công trình nghiên cứu về lòch sử, văn hóa có giá trò như Nguyễn Văn Huyên,
Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Đổng Chi, Trần
Trọng Kim Một số nhà Đông Dương học Pháp vẫn “nặng duyên nợ” với
việc nghiên cứu Việt Nam cho mãi tới tận sau này như G. Condominas (Nous
avons mangé la forêt de la Pierre-Genie Gôo), G. Coedès, P. Lafont
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
34 -
6.6. Phải đợi tới sau chiến thắng Điện Biên phủ thì sự chú ý tới đất
nước và con người Việt Nam mới có một bước phát triển đáng kể. Chiến
thắng lừng lẫy của một dân tộc nhỏ bé trước một cường quốc thực dân nhất
nhì thế giới đã thực sự thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu nước ngoài
về Việt Nam.
Ở trong nước, năm 1958 - Ban Văn -Sử Đòa được thành lập dưới sự
lãnh đạo của nhà sử học Trần Huy Liệu. Năm 1960, cùng với việc thành lập
y ban khoa học xã hội Việt Nam, các viện Sử học, Văn học, Ngôn ngữ học
cũng được tách ra từ Ban Văn -Sử-Đòa trước đó. Năm 1968, giữa lúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn diễn ra hết sức cam go, quyết liệt, Viện
Khảo cổ học và Viện Dân tộc học đã ra đời. Kế đó là sự xuất hiện các viện
Hán-Nôm, Văn hóa dân gian Giới khoa học xã hội miền Bắc đã có những
thành tựu không nhỏ trong việc tổng kết các bài học kinh nghiệm giữ nước
của cha ông, góp phần không nhỏ trong việc đánh thức “40 thế kỷ cùng ta ra
trận”.
Cũng từ 1958, các khoa Lòch sử, Ngữ Văn, Đòa Lý-Đòa chất đã được
mở tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và góp phần quan trọng trong việc
đào tạo một đội ngũ các nhà nghiên cứu văn học, lòch sử, đòa lý Việt Nam
mới. Nhiều người trong số những SV các khóa đào tạo đầu tiên này đã trở
thành những nhà khoa học có tên tuổi trong và ngoài nước (Nguyễn Tài Cẩn,
Hà Minh Đức, Phong Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê,
Nguyễn Từ Chi ). Sau 1975, còn có sự ra đời của một số viện nghiên cứu
khoa học khác như Viện Văn hóa dân gian, Viện nghiên cứu Tôn giáo
Từ sau 1975, ngành VNH đã có một bước phát triển, nhất là ở nước
ngoài. Các center for Việtnamese studies xuất hiện ở nhiều quốc gia khác
nhau. Số sinh viên nước ngoài tới học tiếng Việt ở các trường đại học Việt
Nam cũng không ngừng tăng lên. Ngoài số SV tới từ các nước XHCN trước
đây, còn có nhiều students mang quốc tòch Hàn Quốc, Nhật Bản Đặc biệt,
vào tháng 7/1998, một Hội nghò quốc tế về Việt Nam học đã được khai mạc
tại Thủ đô Hà Nội với trên 500 học giả nước ngoài có mặt.
Đặc biệt, vào ngày 27.9.1995, Bộ Giáo dục -Đào tạo đã cho phép
mở ngành đào tạo Việt Nam học tại Đại học Đà Lạt
[1]
. Đây là ngành đào tạo
chính quy đầu tiên về đất nước, con ngøi và văn hóa Việt Nam đầu tiên ở
bậc đại học. Trải qua hơn 10 năm triển khai chương trình đào tạo với 8 khóa
đã tốt nghiệp và gần 500 cử nhân Việt Nam học vào đời, đã bước đầu khẳng
đònh vò trí của ngành học này đối với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
35 -
hóa đất nước, nhất là trong lónh vực góp phần xây dựng một nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo đònh hướng của Nghò quyết
TƯ V (khóa VIII). Trong vài năm trở lại đây, một số trường đại học của đất
nước cũng bắt đầu mở ngành Việt Nam học. Xem trong danh mục tuyển sinh
vào các trường đại học và cao đẳng năm 2005, chúng nhận thấy có tới 16
trường đại học chiêu sinh ngành học về đất nước, con người và văn hóa Việt
Nam.
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
36 -
7. Giới thiệu Chương trình đào tạo ngành Việt Nam học
(Dành cho SV Việt Nam
[2]
)
So với các ngành đào tạo truyền thống như Toán, Lý, Hóa, Sinh,
Văn, Sử VNH là một lónh vực đào tạo quá mới mẻ, bởi vậy, trên thực tế,
chúng tôi vừa có vinh dự là “những người khai phá” cho một ngành đào tạo
mới, vừa phải đảm đương một trách nhiệm hết sức nặng nề. Do vậy, lẽ
đương nhiên là khó lòng có ngay được một chương trình hoàn hảo và việc
tiếp tục hoàn thiện là điều tất yếu. Chúng tôi đã xây dựng chương trình đào
tạo dựa trên những cơ sở sau:
1). Căn cứ vào mục tiêu đào tạo và đặc trưng của ngành học: đào tạo những
cử nhân khoa học có đủ năng lực đáp ứng những yêu cầu CNH-HĐH đất nước,
nhất là sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc;
_______________
[1]. Công văn số 5145 /KHTC ngày 29.7.1995 do Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Trần Chí
Đáo ký về việc mở thêm 4 ngành đào tạo ở ĐH Đà Lạt (cùng với Quản trò Kinh
doanh, Anh ngữ và Tin học).
[2]. Ở một số trường đại học khác như Đại học quốc gia Hà Nội và Đại học quốc
gia TP. Hồ Chí Minh từ lâu đã có ngành Việt Nam học đào tạo tiếng Việt cho sinh
viên người nùc ngoài. Về cơ bản, ở đó chỉ đào tạo Việt ngữ học (Vietnames
language), chứ chưa phải là Việt Nam học (Vietnamese Studies). Khác với bậc
học phổ thông, chương trình giáo dục do Bộ Giáo dục - Đào tạo quyết đònh,
mang tính thống nhất trên toàn quốc; chương trình đào tạo ở bậc đại học mang
tính chuyên ngành nhằm đào tạo những chuyên gia về những lónh vực khoa học
nhất đònh. Ngay trong từng ngành học, ngoài những yêu cầu chung, mỗi trường
sẽ dựa vào thế mạnh của mình để đề cao một số lónh vực chuyên sâu này hay
một số kỹ năng nghề nghiệp khác.
2). Căn cứ vào Chương trình khung của Bộ Giáo dục-Đào tạo ban hành ngày
1.1.2005 về đào tạo ở bậc đại học theo hệ tín chỉ: 210 tín chỉ/8 học kỳ (chưa kể
các học phần về Giáo dục Quốc phòng - 165 tiết và Giáo dục Thể chất - 5 tín
chỉ);
3). Căn cứ vào đặc thù của khu vực trường đóng, có tính toán tới những yêu
cầu của thò trường lao động hiện nay - rất cần những chuyên gia có khả năng
thích ứng được với nhiều hoạt động khác nhau trên mặt trận văn hóa-tư tưởng;
4). Căn cứ vào mặt bằng chung của trình độ cử nhân khoa học trong nước
và quốc tế và khả năng đáp ứng của đội ngũ giảng viên cơ hữu nhà trường.
Từ những cơ sở nêu trên, từ 1995 tới nay, chúng tôi đã tiến hành xây
dựng, chỉnh lý và triển khai thực hiện chương trình đào tạo VNH trong suốt
những năm 1995 - 2000
[1]
. Có thể hình dung chương trình đào tạo qua sơ đồ
sau:
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
37 -
KHỐI
VIỆT NAM KIẾN THỨ CÁC
& THẾ ĐẠI MÔN CHUNG
LỊCH GIỚI CƯƠNG & BỔ TR
SỬ VN
VĂN
VĂN HỌC V.NAM
HÓA VÙNG VIỆT NAM & TIẾNGVIỆT
CÁC DÂN HỌC NGHỆ THUẬT
TỘCVIỆT VN
NAM KINH ĐỊA PHÁP
TẾ VIỆT CÁC LÝ LUẬT VN
NAM PHƯƠNG VIỆT
PHÁP NAM
NCKH
____________
[1]. Để tranh thủ trí tuệ tập thể, chúng tôi đã tiến hành 2 cuộc hội thảo về chương
trình đào tạo của ngành với sự tham gia của nhiều nhà khoa học và giảng viên
các ngành có liên quan trong trường. Trải qua 11 khóa đào tạo, với 8 khóa đã ra
trường, chúng tôi cũng chưa nhận được ý kiến phủ nhận nào từ phía giảng viên
cũng như sinh viên của ngành, ngoài một số đề nghò mang tính bổ sung như
thêm môn này, môn khác. Từ 2005, phải theo chương trình khung do Bộ ban
hành.
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
NGÀNH VIỆT NAM HỌC
(Xây dựng trên cơ sở chương trình khung do Bộ GD-ĐT ban hành
2005)
I. CẤU TRÚC KIẾN THỨC CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO:
Tổng khối lượng kiến thức là 210 TC chưa kể các học phần GDTC (5
TC) và GDQP (165 tiết).
TT Cấu trúc kiến thức Tổng số
TC
BB/TC
1 Kiến thức giáo dục đại cương (tối thiểu): 42 42/0
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
38 -
2 Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp (tối thiểu):
Trong đó:
a). Kiến thức cơ bản của khối ngành + ngành:
b).Kiến thức chuyên ngành + Luận văn:
168
72
96
60/12
68/28
TỔNG CỘNG 1 & 2 210
170/40
II. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO:
II. 1. Kiến thức giáo dục đại cương (42 TC)(*)
TT
Tên học phần
Số tín chỉ
BB TC
Ghi chú
01 Triết học Mác-Lênin 6
02 Kinh tế chính trò Mác-Lênin 5
03 Chủ nghóa xã hội khoa học 4
04 Lòch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 4
05 Tư tưởng Hồ Chí Minh 3
06 Ngoại ngữ 10
07 Giáo dục Thể chất 5
08 Giáo dục quốc phòng 165 tiết
09 Phương pháp luận nghiên cứu khoa học 2
10 Tin học 4
11 Thống kê xã hội 2
12 Môi trường và phát triển 2
(*) Không tính các học phần 7 và 8
II.2. Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp (168 TC)
2.1. Kiến thức cơ sở của khối ngành và của ngành (72)
TT
Tên học phần
Số tín chỉ
BB TC
Ghi chú
01 Nhập môn Việt Nam học 2
02 Xã hội học đại cương 3
03 Cơ sở Ngôn ngữ học 3
04 Lòch sử văn minh Thế giới 4
05 Dân tộc học đại cương 3
06 Cơ sở Khảo cổ học 3
07 Bảo tàng học 3
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
39 -
08 Các dân tộc ở Việt Nam 3
09 Kinh tế Việt Nam 3
10 Cơ sở Văn hóa Việt Nam 4
11 Lòch sử Việt Nam 6
12 Lòch sử tư tưởng phương Đông 3
13 Thể chế chính trò Việt Nam hiện đại 3
14 Đòa lý Việt Nam 4
15 Văn học dân gian Việt Nam 4
16 Lòch sử Văn học Việt Nam 6
17 Pháp luật đại cương 4
18 Đại cương văn học Thế giới 3
19 Nhập môn Logic học 3
20 Chữ Hán (I) 3
21 Chữ Hán (II) 3
22 Tham quan-học tập (I) 3
23 Tham quan – học tập (II) 3
24 Thực tập nghiên cứu điền dã 4
2.2. Kiến thức chuyên ngành (96 TC)
TT Tên học phần Sốt tín chỉ
BB TC
Ghi chú
01 Các vùng văn hóa Việt Nam 6
02 Các tôn giáo ở Việt Nam 3
03 Văn học Việt Nam TK. 10 – giữa TK .18 4
04 Văn học V. Nam giữa TK18 – đầu TK
19
4
05 Văn học Việt Nam nửa sau TK.19 2
06 Văn học Việt Nam 1900-1945 4
07 Văn học Việt Nam 1945 – 1975 4
08 Lòch sử cổ –trung đại Việt Nam 5
09 Lòch sử cận đại Việt Nam 5
10 Lòch sử hiện đại Việt Nam 5
11 Ngoại giao Việt Nam 3
12 Du lòch Việt Nam 3
13 Kiến trúc Việt Nam 3
14 Tín ngưỡng dân gian Việt 3
15 Dân ca Việt Nam 3
16 Mỹ thuật Việt Nam 3
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
40 -
17 Văn hóa Khơ me 3
18 Các dân tộc Trường Sơn-Tây Nguyên 3
19 Văn hóa Chăm 3
20 Nguyễn Du và truyện Kiều 2
21 Truyện cổ Tây Nguyên 2
22 Sử thi Tây Nguyên 2
23 Những tư tưởng cải cách trong lòch sử VN 2
24 Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh ĐNA 3
25 Tiếp xúc văn hóa Việt Nam – phương
Tây
3
26 Lòch sử giáo dục Việt Nam 2
27 Lòch sử Quân sự Việt Nam 3
28 Xã hội học đô thò và nông thôn Việt Nam 3
29 Tiếng Anh cho hướng dẫn viên du lòch
(1)
3
30 Tiếng Anh cho hướng dẫn viên du lòch
(2)
3
31 Gốm sứ cổ Việt Nam 2
32 Trống đồng Đông Sơn 2
33 Khoa học kỹ thuật trong lòch sử Việt Nam 3
34 Ngôn ngữ Hành chính-Báo chí 3
35 Phương pháp nghiên cứu điền dã 2
36 Văn học Việt Nam sau 1975 2
37 Luận văn tốt nghiệp 10
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
41 -
8. Một vài gợi ý về phương pháp học tập - nghiên cứu ngành Việt
Nam học ở trường đại học
8.1. Về nguyên tắc, việc học tập ở bậc đại học và ở trường phổ
thông là một sự khác biệt về chất. Ở trường phổ thông (nhất là ở nhiều vùng
miền núi, nông thôn nước ta hiện nay), rất thònh hành quy trình dạy học: thầy
đọc-trò ghi. Thầy hoàn toàn độc diễn, trò bò ra chép bài. Lúc về nhà thì lăn
ra học thuộc. Việc đánh giá (giỏi-khá-trung bình- yếu-kém) phụ thuộc vào
trí nhớ của học sinh. Quy trình này có nguồn gốc từ các nước phương Tây,
nơi mà trong suốt nhiều thế kỷ nhà trường nằm trong nhà thờ, phương pháp
dạy-học là phương pháp rao giảng kinh thánh, người nghe tiếp thu bằng lòng
tin vào những điều được cho là đạo lý “bất di, bất dòch”, không hề có việc
trao đổi/tranh luận. Đào tạo theo phương thức đó, nhiều lắm chỉ tạo ra được
những người thừa hành ngoan ngoãn chứ không có/không dám sáng tạo.
Trong nhiều năm trở lại đây, ngành giáo dục nước nhà đã có nhiều cải cách,
cải tiến, song để thay đổi những thói quen cũ, hẳn là phải có thời gian.
Trái lại, quá trình học tập-nghiên cứu ở đại học là một quá trình tích
cực chủ động, sáng tạo của sinh viên dưới sự hướng dẫn của giảng viên - hay
nói một cách khác - đó là quá trình tự đào tạo. Có thể đưa ra phương trình
sau: đại học = tự học. Nói một cách cụ thể hơn: giảng viên có khi chỉ nêu lên
vấn đề, các loại tài liệu tham khảo cần thiết, các phương pháp tiếp cận nên
sử dụng , còn việc giải quyết vấn đề là do sinh viên tự thực hiện lấy. Để
làm được việc đó, họ phải “nằm lỳ” ở thư viện, “ăn dầm, nằm dề” ở đòa bàn
khảo sát và sau 4 năm, lúc ra trường, họ thực sự trưởng thành, hoàn toàn có
đầy đủ khả năng nghiên cứu, giải quyết vấn đề một cách độc lập. Nói một
cách ngắn gọn, họ trở thành những nhà khoa học.
8.2. Cố nhiên, trên đây là nguyên tắc chung cho sinh viên tất cả các
trường đại học ở tất tất cả các quốc gia trên thế giới và áp dụng cho tất cả
mọi ngành đào tạo. Khi vận dụng vào một ngành khoa học cụ thể, tất yếu sẽ
có những phương pháp đặc thù. Rõ ràng, học VNH, bên cạnh những điểm
chung, nó còn có những điểm khác với học Sử, học Văn và các môn khoa
học khác. Như đã nói ở trên, đặc thù của ngành VNH là một môn học mang
tính tổng hợp, đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một khối lượng trí thức rộng,
bao gồm nhiều lónh vực khoa học khác nhau. Công việc này vô cùng gian
khổ và nó phụ thuộc không nhỏ vào chủng loại và chất lượng các loại “công
cụ” mà họ có được - những kỹ năng để lónh hội tri thức, những tri thức về
ngoại ngữ, chữ Hán
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
42 -
8.3. Trước hết, xin trao đổi về phương thức “thu thập nguyên-vật
liệu”. Trước một biển mênh mông những tư liệu thư tòch, mà thời gian học
tập không phải là vô hạn, việc lựa chọn sách và phương pháp đọc là rất quan
trọng. Chọn sách gì ? Trước hết cần chú ý tới đề tài mà mình quan tâm là gì,
kế đến là đọc các nguồn tư liệu gốc liên quan trực tiếp, tiếp nữa là đọc các
công trình của các nhà nghiên cứu hàng đầu về vấn đề đó.
Thí dụ, đối tượng của các bạn quan tâm là cuộc kháng chiến chống
Nguyên - Mông ở thế kỷ XIII của quân dân thời Trần thì không thể không đọc Đại
Việt sử ký toàn thư (tập II) ở các phần viết về nó (từ 1258 - 1285), vì đó là tư liệu
gốc quan trọng liên quan trực tiếp tới cuộc kháng chiến nói trên. Sau đó, các bạn
phải tìm đọc cuốn Cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông ở thế kỷ XIII của các
tác giả Hà Văn Tấn-Phạm Thò Tâm. Kế đến, các bạn đọc lại những gì được trình
bày trong các bộ giáo trình đại học và bài giảng của giảng viên. Lúc đó, các bạn
sẽ rút ra những chỗ giống khác nhau trong bài giảng của thầy giáo so với những
gì các bạn tự tìm hiểu. Những chỗ nào là tâm đắc, những chỗ nào chưa hợp lý
Các bạn có thể nêu câu hỏi thắc mắc của mình trong giờ học hoặc vào lúc thích
hợp khác Có thể, qua đó, các bạn sẽ trở thành chuyên gia về lónh vực đó.
Không ngoại trừ việc các bạn có thể bổ sung thêm những hiểu biết của mình so
với những người đi trước, trình bày những suy nghó đó một cách có hệ thống
trong khuôn khổ một bài nghiên cứu và đương nhiên có thể công bố trên một tạp
chí mà các bạn cho là thích hợp (Có thể trước đó, các bạn trao đổi với thầy giáo
và xin được làm khóa luận về vấn đề đó).
Phương pháp đọc sách có một tầm quan trọng đặc biệt. Không thể
đọc sách báo khoa học theo kiểu “nhấm nháp” tiểu thuyết văn học. Thông
thường, việc đọc các tài liệu khoa học phải chia thành nhiều công đoạn:
trước hết phải xem qua mục lục xem có vấn đề mà mình quan tâm không.
Kế đó là “đọc chụp” những phần “có vấn đề” theo cách “chụp” cả trang,
“chụp” tiếp các trang khác khi phát hiện thấy những điều tâm đắc thì đánh
dấu trang/phần đó, rồi “chụp” tiếp để phát hiện tiếp (nếu có). Sau đó, các
bạn đọc kỹ lại phần đã đánh dấu. Ghi chép vào sổ tay những tư liệu hay
đánh giá quan trọng.
Giờ học ở trường đại học tại các quốc gia tiền tiến trên Thế giới
(như Liên Xô trước đây chẳng hạn) thường được chia làm 2 phần - phần nghe
giảng lý thuyết và phần thảo luận. Thời lượng 2 phần này là tương đương
nhau, thậm chí phần thảo luận được đánh giá quan trọng hơn
[1]
. Ở nước ta,
vấn đề thảo luận được kết hợp trong quá trình trình bày lý thuyết. Trong quá
trình nghe giảng, sinh viên có thể đặt câu hỏi thắc mắc đối với giảng viên và
giảng viên có trách nhiệm phải giải đáp các thắc mắc đó
[2]
.
____________
[1]. Ở Liên Xô trước đây, giờ lên lớp lý thuyết sinh viên có thể đến hoặc không, song giờ
thảo luận (xêminar) là bắt buộc. Thiếu vắng giờ thảo luận sinh viên không được phép làm
bài thi.
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
43 -
[2]. Theo khuyến nghò của PGS. Nguyễn Hữu Đức - Hiệu trưởng nhà trường, giờ lên lớp chỉ
nên sử dụng 2/3 thời gian để giảng lý thuyết, còn để 1/3 thời gian thảo luận. Chúng tôi cho
rằng, với tình hình thực trạng nhà trường hiện nay, khuyến nghò trên là phù hợp và cần
thiết.
Nói như vậy không có nghóa học VNH là chỉ “chúi mũi” vào sách
vở, trái lại, để củng cố nhận thức của mình, để có chỗ đứng trong xã hội sau
khi ra trường, sinh viên VNH phải dũng cảm “dấn thân” vào thực tiễn. Cụ
thể, trong những cơ hội thuận lợi, họ cần phải cố gắng tìm hiểu trên thực đòa
- nơi đã xẩy ra các biến cố trong quá khứ, gặp gỡ các chứng nhân lòch sử, tới
những danh lam, thắng cảnh của đất nước Việc học tập dã ngoại chẳng
những sẽ góp phần củng cố, bổ sung thêm những tri thức đã học ở nhà
trường, ở sách vở mà còn tạo hứng thú cho người học, nhất là khi họ phát
hiện những điều bất cập giữa sách vở với những điều tai nghe, mắt thấy. Ở
đây, sinh viên cần phải rèn luyện một kỹ năng đặc biệt - kỹ năng khám phá
những điều mới mẻ trước những cái tưởng như bình thường hay “xưa như trái
đất”.
Chẳng hạn, khi vào thăm những ngôi đình ở một số làng Việt, hỏi các
cụ bô lão về các vò thần thờ trong đình các làng đó, sinh viên có thể nhận diện
chân xác hơn dung mạo của các vò Thành Hoàng - Có đúng thành hoàng là
những người có công “khai điền, khẩn tòch” lập nên các làng đó hay không hay
đó chỉ là một “típ” trong bức tranh đa dạng về thành hoàng mà thôi. Một thí dụ
khác, khi đứng trước những ngôi tháp Chàm uy nghi cổ kính mằm rải rác trên
suốt dọc các tỉnh duyên hải Trung và Nam Trung Bộ đất nước, sinh viên sẽ khám
phá ra nhiều điều mà chưa dễ đã tìm thấy trong sách vở của những người đi
trước. Xung quanh chất liệu xây dựng tháp Chàm - một vấn đề đã “treo” lên suốt
nhiều thập kỷ chưa có lời giải đáp thỏa đáng, biết đâu sẽ được họ khám phá ra.
Trong chương trình đào tạo ngành VNH còn có những môn học bổ
trợ như ngoại ngữ và chữ Hán. Với những môn học này, phương pháp chủ
yếu vẫn phải là “cày” cật lực. Quá trình hiểu biết sẽ đi “từ những thay đổi
về lượng dẫn tới sự biến đổi về chất”. Không ai mới sinh ra đã biết ngôn
ngữ nói chung, ngoại ngữ nói riêng, mà đó là sự tích lũy theo thời gian.
Không nôn nóng, song cũng không được bỏ đứt quãng. Kinh nghiệm của
những người biết nhiều ngoại ngữ cho thấy là họ học ngoại ngữ “rất ít” - mỗi
ngày chỉ một giờ nhưng không bao giờ bỏ, dẫu đó là những ngày mùa đông
âm u hay mùa hè nóng bức. Một hạn chế nữa của sinh viên là rất ngại nói, sợ
sai. Đây là một quan niệm không đúng. Phải mạnh dạn sử dụng những điều
đã học được để nói chuyện với nhau. Điều này sẽ củng cố thêm những điều
đã học vì bản chất của ngôn ngữ là thói quen. Sai thì sửa, có sai mới có đúng
và nếu được người khác chữa cho sẽ nhớ rất kỹ, rất lâu. Vấn đề nắm vững
ngoại ngữ càng trở nên cấp bách trong bối cảnh giao lưu-hội nhập quốc tế
hôm nay, khi internet đã thâm nhập vào mọi lónh vực của đời sống. Bên cạnh
đó, tri thức ngoại ngữ cũng góp phần đáng kể vào việc hiểu sâu sắc hơn
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
44 -
tiếng mẹ đẻ. Thực tế, đã có không ít người hiểu ngữ pháp tiếng Việt trong
quá trình học “tiếng Tây”: Nhờ đặt trong mối quan hệ giữa thứ tiếng nước
ngoài đang học với đối chứng là tiếng Việt, họ đã nhận thức ra các phạm trù
ngữ pháp (chủ/vò/tân ngữ ) mà lâu nay họ vốn chẳng mấy quan tâm.
Trong suốt nhiều thế kỷ, các thế hệ tổ tiên người Việt đã tiếp thu
và sử dụng chữ Hán làm một công cụ để sáng tác văn học, nghệ thuật, biên
chép lòch sử, trang trí đền đài, miếu mạo Từ đầu thế kỷ XX tới nay, chữ
Hán mất dần đòa vò đó và đang dần dần trở thành một thứ “tử tự” (văn tự
chết). Nhìn chung, những người Việt thuộc vài ba thế hệ trở lại đây khi đối
diện với những di sản văn hóa của cha ông đã trở thành những kẻ “mù lòa”.
Để hiểu được gia tài văn hóa quý báu đó, đối với những chuyên gia VNH
cần phải có một vốn liếng tối thiểu về loại hình văn tự này, bởi không phải ở
đâu, bao giờ chúng ta cũng có được các tài liệu hay chuyên gia phiên dòch.
Đó chính là lý do việc đưa chữ Hán vào chương trình đào tạo VNH với tư
cách là một môn học bắt buộc
[1]
.
Chữ Hán được học tại trường là chữ Hán đọc theo âm tiếng Việt, còn
gọi là âm Hán-Việt (hay âm Việt-Hán). Cái khó ở đây chủ yếu là nhớ mặt
chữ, vì khối lượng ký tự khá lớn. Con đường để nắm vững loại hình văn tự
quan trọng này vẫn phải là “cày”, mà trước hết là phải thường xuyên viết
cho “quen tay”. Đến một lúc, khi “vốn liếng” đã kha khá, hẳn nhiều người
sẽ thích thú bởi sự hấp dẫn của nó. Biết bao nhiêu khái niệm lâu nay vẫn sử
dụng nhưng không hiểu hay chỉ hiểu một cách lơ mơ, thông qua môn học này
mà chúng ta lónh hội nội hàm của nó một cách sâu sắc hơn, sử dụng thích
hợp hơn (chẳng hạn các khái niệm “hình viên phân”, “đại số”, “lực tương
hỗ” hay các khái niệm “văn hóa”, “vương”, “phong”, “phong kiến” ). Và
một hứng thú lớn là có thể đọc nguyên bản các bài thơ hay các đoạn văn cổ
vừa đem lại niềm tin một cách vững chắc vào những thông tin đã đọc/học
vừa có được một âm hưởng đặc biệt mà các bản dòch dù tài tình đến đâu
cũng không dễ gì có được (So sánh việc đọc bản dòch Bình Ngô đại cáo hay
Hòch tướng só văn với đọc nguyên tác chữ Hán). Từ những ưu thế trên đây,
mỗi sinh viên chúng ta phải cố gắng cao độ để có được một “vốn liếng” chữ
Hán nhất đònh, sao cho có thể đọc được văn bản ở mức độ trên dưới 70%
(phần còn lại có thể sử dụng từ điển tra cứu). Để kiểm tra trình độ và năng
lực thực hành Hán văn của mình, vào những dòp thuận tiện, sinh viên nên tới
các đình đền, miếu mạo, chùa chiền và thử đọc các chữ Hán trên các hoành
phi, câu đối tại các hạng mục kiến trúc đó.
Một trong những yêu cầu rèn luyện của sinh viên trong quá trình đào
tạo là phải tập dượt nâng cao kỹ năng viết. Nhìn chung, kỹ năng viết của sinh
viên hiện nay rất hạn chế,thậm chí còn bò những lỗi rất sơ đẳng về chính tả,
ngữ pháp
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
45 -
(viết thường, viết hoa tùy tiện, lỗi chấm câu ) chứ chưa nói tới viết sao cho
hay,
_____________
[1]. Theo một số nhà nghiên cứu phương Tây, chữ Hán có ưu thế trong việc phát triển tư
duy của người học, bởi cấu trúc nội tại của nó (hình thức) đã phản ánh ý nghóa của từ (nội
dung), chứ không vô hồn, vô cảm như chữ ghi âm. Kết luận này được rút ra trên cơ sở thực
nghiệm giữa 2 nhóm đối chứng khi học tiếng Anh: nhóm học tiếng Anh nhưng dùng chữ
Hán để ghi đã có chỉ số thông minh vượt lên so với nhóm dùng chữ la tinh (Theo lời PGS.
Cao Xuân Hạo).
cho hấp dẫn. Muốn nâng cao kỹ năng viết (viết “sạch nước cản”), sinh viên
cần phải rèn luyện. Ngay từ năm đầu, các bạn hãy bắt đầu từ một vài trang
viết về những suy nghó hay khám phá của mình (có thể tranh thủ sự đóng
góp của bè bạn hay giảng viên). Kế đó, các anh/chò có thể thử sức bằng cách
công bố bài viết của mình trên một tờ báo thích hợp. Ở các năm thứ II /thứ
III, nên chăng là phải có hình thức bài tập lớn hay niên luận để thay thế cho
việc làm bài thi của một chuyên đề hay giáo trình nào đó. Ở năm thứ IV, một
số sinh viên
(khoảng 30 % só số của lớp) sẽ được chọn để làm luận văn tốt nghiệp đại
học. Đối với những bài viết khoa học, ngoài việc có ý tưởng mới mẻ (dù rất
nhỏ), còn đòi hỏi phải trình bày nó theo một số quy phạm nhất đònh, chẳng
hạn - từ một việc thường gặp là cách trích dẫn số liệu hay ý kiến của một tác
giả nào đó
Bên cạnh kỹ năng viết, việc trình bày miệng những vấn đề cần
diễn đạt cũng không kém phần quan trọng. Khả năng diễn đạt/trình bày một
vấn đề gì đó của sinh viên hiện nay nhìn chung là rất hạn chế. Hiện tượng
lúng ta, lúng túng như gà mắc tóc khi nói trước đám đông là khá phổ biến.
Muốn nâng cao kỹ năng này, ngay trong quá trình nghe lý thuyết, trong các
giờ thảo luận sinh viên cần mạnh dạn diễn đạt những suy nghó của mình
sao cho mạch lạc, trôi chảy. Có một số giờ học, giảng viên sẽ giao đề tài cho
sinh viên tự chuẩn bò và trình bày cho cả lớp nghe. Mặt khác, nhà trường và
khoa cũng sẽ tạo ra những “sân chơi” lành mạnh để sinh viên có cơ hội thể
hiện mình. Các hoạt động của lớp, của đoàn cũng là môi trường thuận lợi
để mỗi chúng ta từng bước nâng cao năng lực diễn thuyết.
Cũng như âm nhạc, hội họa những khả năng trên đây liên quan
không nhỏ tới năng khiếu của mỗi người, tuy vậy, nếu không rèn luyện thì
cũng khó lòng mà có được. Mỗi sinh viên chỉ có thể thực sự trưởng thành khi
hòa mình vào không khí học tập, rèn luyện, tu dưỡng toàn diện.“Thất bại là
mẹ thành công”. Hẳn không phải ở đâu, bao giờ chúng ta cũng thành công,
song kể cả trường hợp chưa thành công, chúng ta cũng rút ra cho mình những
bài học bổ ích để khi vào đời sẽ không hoặc ít bò vấp ngã. Hãy tâm niệm câu
châm ngôn nổi tiếng của Gothe - Mọi lý thuyết chỉ là màu xám, còn cây đời
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
46 -
mãi mãi xanh tươi. Cuộc sống muôn màu, muôn vẻ đang chờ đợi, vẫy gọi
chúng ta. Ngay từ khi còn là sinh viên, hãy trân trọng những năm tháng đẹp
nhất của cuộc đời để làm giàu hành trang trí tuệ những điều cần thiết cho
cuộc sống mai này. Vinh quang không có chỗ cho những kẻ lười biếng mà
chỉ chờ đợi những ai chăm chỉ, miệt mài lao động và học tập. Ở đâu, bao giờ,
làm gì chúng ta vẫn đinh ninh lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Non sông Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay không ? Dân tộc Việt Nam có sánh vai được với
các cường quốc 5 châu được hay không ? Chính là nhờ một phần lớn vào công
học tập của các cháu”.
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học
Nhập môn Việt Nam học
-
47 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Cao Thế Trình. Việt Nam học - một ngành đào tạo mới đang hứa hẹn nhiều
triển vọng. Nội san Đại học Đà Lạt, số 1/1997, tr. 52-54.
2. Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học (Tóm tắt báo cáo). H., 1998.
3. Phan Ngọc Liên (chủ biên). Lòch sử sử học Việt Nam. Đại học quốc gia Hà
Nội - Trường Đại học Sư phạm. H., 1999.
4. Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB. Thành phố Hồ
Chí
Minh, TP. HCM, 2001.
5. Viện Mác-Lê nin. Những giá trò tinh thần truyền thống Việt Nam , H.,
1983.
6. Vũ Hạnh (A.Pazzi). Người Việt cao quý, TP. HCM, 1992.
7. Nguyễn Trung Thành: Đường chúng ta đi. Tập truyện -ký, Văn nghệ giải
phóng, TP. HCM, 1975.
8. Phạm Đức Dương: Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á. Nghiên cứu lòch
sử
số 3/1983
9. Trần Bạch Đằng. Vài suy nghó về Việt Nam học // Lòch sử, sự thật và sử
học.
Tạp chí Xưa & Nay, NXB Trẻ, TP HCM, 1999, tr. 43-50.
10. Trần Quốc Vượng – Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn
hóa
Dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H., 2000.
PGS.TS. Cao Thế Trình Khoa Việt Nam
học