Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Bức tranh kinh tế hộ nông dân hiên nay và một số vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.13 KB, 20 trang )

Bức tranh kinh tế hộ nông dân hiên
nay và một số vấn đề đặt ra
Một động thái tích cực rất đáng được lưu ý của kinh tế hộ nông dân là sự xuất hiện ngày càng nhiều các hộ bứt phá khỏi tình trạng tự cung, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hóa,
trong đó phương thức trang trại gia đình phát triển mạnh và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.
1 - Đổi mới vị trí, vai trò của kinh tế hộ
Trong thời kỳ chiến tranh, hộ gia đình Việt Nam vừa cung cấp nguồn nhân lực, vừa là nguồn của
cải vật chất (chưa nói tới tinh thần) cho cuộc chiến, đồng thời lại là nơi sản xuất vật chất để bảo
đảm cuộc sống không những cho gia đình (chỉ với 5% quỹ đất canh tác được chia cho các hộ gia
đình làm kinh tế vườn theo lối tự túc, tự cấp), mà còn đóng vai trò là hậu phương lớn miền Bắc cho
tiền tuyến lớn miền Nam (trên cơ sở phát triển hợp tác xã theo kiểu cũ).
Vai trò của kinh tế hộ có nhiều thay đổi cả về phương thức quản lý lẫn lao động sản xuất, nhất là
kể từ khi phong trào hợp tác xã mất dần động lực phát triển. Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là
sự ra đời của Chỉ thị 100, ngày 31-1-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Tiếp theo đó, Nghị quyết
10, ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp đã tạo cơ sở quan trọng để
kinh tế hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp. Ngoài ra, đối với khu vực
nông, lâm trường, nhờ có Nghị định số 12/NĐ-CP, ngày 3-2-1993 về sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ
chế quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước, các nông, lâm trường đã từng bước tách
chức năng quản lý nhà nước đối với quản lý sản xuất, kinh doanh, các gia đình nông, lâm trường
viên cũng được nhận đất khoán và hoạt động dưới hình thức kinh tế hộ. Tuy những đặc điểm
truyền thống của kinh tế hộ vẫn không thay đổi, nhưng việc được giao quyền sử dụng đất lâu dài
đã làm cho hộ gia đình trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh tự chủ, tự quản. Động lực mới cho sự
phát triển kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn đã xuất hiện.
2 - Những kết quả tích cực bước đầu
Chủ trương, chính sách về giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho kinh tế hộ (đất nông nghiệp
20 năm, đất lâm nghiệp 50 năm) đã nhanh chóng đi vào cuộc sống của hàng triệu hộ nông dân.
Và mặc dầu phong trào hợp tác xã không còn phát huy tính tích cực như xưa, nhưng diện mạo của
kinh tế hộ nông dân Việt Nam đã thay đổi một cách cơ bản, nhất là ngày càng có nhiều đóng góp
cho việc giải phóng sức sản xuất, nâng cao sản lượng nông nghiệp, mở mang ngành nghề mới,
nâng cao thu nhập. Theo số liệu điều tra, trên 74,5% số hộ đã có từ 2 - 4 loại hình hoạt động sản
xuất, kinh doanh để tạo thu nhập


(1)
.
Cơ cấu hộ nông dân theo ngành nghề đang chuyển dịch theo hướng tăng dần số lượng và tỷ trọng
nhóm các hộ tham gia sản xuất phi nông nghiệp, như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ; số hộ làm nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 80,9% năm 2001 xuống còn 70,9% năm
2006. Các nghiên cứu đều cho thấy, giai đoạn 2001 - 2006 tốc độ chuyển dịch ấy đã diễn ra nhanh
hơn trước. Nếu thời gian này GDP nông nghiệp đóng góp 20,23% vào cơ cấu kinh tế, nhưng là nền
tảng của sự ổn định chính trị - xã hội vì chúng ta có tới trên 70% dân số sống tại nông thôn, thì
trong số đó, đã có tới 40% dân số nông thôn có nguồn thu từ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ. Đây là một động thái tích cực.
Trong bản thân lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, số hộ sản xuất thuần túy nông
nghiệp giảm dần, trong lúc số hộ tham gia sản xuất lâm nghiệp, thủy sản tăng lên. Tuy vậy, tính
đến năm 2006, số lượng và tỷ trọng các hộ trong lĩnh vực thủy sản (chiếm 6,2%), lâm nghiệp
(chiếm 0,3%) vẫn bị đánh giá là còn quá thấp, chưa tương xứng với tiềm năng thực tế.
Trong bản thân kinh tế hộ trang trại cũng có sự phát triển về chất, xuất hiện nhiều nhu cầu đầu tư
vốn lớn, thuê đất canh tác và lao động thường xuyên hoặc theo thời vụ, chuyển dịch mạnh mẽ cơ
cấu cây, con theo hướng đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu thị trường. Chẳng hạn, trang trại chăn
nuôi tăng rất nhanh, bên cạnh số trang trại sản xuất cây hàng năm và cây lâu năm cũng có sự
phát triển về số lượng và chất lượng. Lượng hàng hóa nông sản của các trang trại đang ngày càng
có vị trí trên thương trường. Một số các trang trại lớn đã bắt đầu phát triển thương hiệu, mở rộng
các quan hệ làm ăn với các công ty lớn trong chế biến, thu mua và xuất khẩu.
Khi nhắc tới những thành tựu chung của kinh tế đất nước như giữ được vị thứ thứ hai thế giới về
xuất khẩu gạo (tính đến năm 2007), đứng đầu về xuất khẩu cà phê rô-bu-sta và hạt tiêu, một
trong 10 nước hàng đầu về thủy sản , thì phải nói, kinh tế hộ nông nghiệp trong nông thôn đã
đóng vai trò chính trong việc tạo ra lượng hàng hóa lớn để phục vụ xuất khẩu. Trong lĩnh vực nông
nghiệp nói riêng, đã có 5 mặt hàng đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD. Đó là thủy sản (3,8
tỉ USD), gỗ (2,4 tỉ USD), cà phê (1,86 tỉ USD), gạo (1,46 tỉ USD), cao su (1,4 tỉ USD).
3 - Khó khăn và thách thức trong thời gian tới
- Khó khăn và thách thức lớn đối với nông dân nước ta nói chung và kinh tế hộ nói riêng trong tiến
trình hội nhập ngày một sâu vào kinh tế thế giới là chênh lệch lớn về năng suất lao động giữa

công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Đây là một trong số các nguyên nhân chính đang làm
tăng thêm khoảng cách cả thu nhập lẫn mức chi tiêu giữa nông thôn và thành thị Thêm vào đó,
tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn tuy đã giảm mạnh, tới hơn một nửa trong khoảng thời gian 10
năm, năm 1993 - 2004, từ 66,4% xuống còn 25%. Hai năm gần đây, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước
đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007, vượt kế hoạch đề ra (16%). Nhưng
trong nông thôn, cá biệt một số tỉnh miền núi, tại những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc ít người, số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ trọng cao: ở Lai Châu hiện nay là 55,32%; Điện Biên
40,77%; Hà Giang 39,44% và Bắc Kạn 37,8%. Dù khu vực nông thôn chiếm tới 90% số hộ thuộc
diện nghèo của cả nước, nhưng tốc độ giảm nghèo ở nông thôn vẫn chậm hơn thành thị tới 20%.
Tính bền vững trong các trường hợp thoát đói nghèo trong nông nghiệp, nông thôn không chắc
chắn, do thiên tai, dịch bệnh, ốm đau Điểm xuất phát thấp, tốc độ phát triển chậm, rủi ro lớn,
thì khoảng cách khó có thể rút ngắn nếu không có những giải pháp mang tính đột phá.
Nếu chia toàn bộ dân số ra 5 nhóm bằng nhau về số người và theo các mức thu nhập từ thấp đến
cao để so sánh chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% dân số giàu nhất với nhóm 20% dân số có
mức thu nhập thấp nhất, thì nếu năm 1994, chênh lệch giữa nhóm giàu và nghèo là 6,50 lần, đến
năm 2006 đã tăng lên 8,34 lần. Nhưng nếu nhóm dân số càng nhỏ lại, 10%, hay 5%, thì sự chênh
lệch thu nhập giữa nhóm giàu và nhóm nghèo lại càng tăng lên đáng kinh ngạc. Theo một cách
suy luận khác, chênh lệch giàu nghèo là rất lớn khi đang tồn tại nghịch lý ở Việt Nam, rằng thu
nhập GDP đầu người còn rất thấp, nhưng giá nhà, đất lại cao, ngang với cả những nước có thu
nhập GDP cao gấp hàng chục lần.
- Hộ nông dân
thường rất dễ
bị tổn thương
trước sự chi
phối khắc
nghiệt của quy
luật thị trường. Cơ hội kiếm tiền đến với người có vốn, có điều kiện về thông tin, và kể cả điểm
xuất phát cao, sẽ nhiều hơn rất đáng kể so với các đối tượng khác, nhất là người nghèo. Về
nguyên lý, thị trường dường như mang lại cơ hội cho tất cả mọi người, nhưng không phải mọi
người đều có đủ khả năng như nhau để tận dụng cơ hội đó. Người nắm thông tin, người nhiều vốn,

người lanh lợi và phải có chút "tinh quái" mới tận dụng cơ hội tốt hơn và do đó giàu lên nhanh hơn.
Không ít người lợi dụng quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước những năm gần đây
nắm giữ nhiều cổ phiếu; hay những người biết trước thông tin về quy hoạch nên đầu cơ được
những khu đất đắc địa , từ đó càng có điều kiện thu vén những nguồn lợi từ các cơ hội tốt, lại
càng có điều kiện tích lũy làm giàu - giàu sẽ dễ giàu thêm hơn, nghèo thì thua thiệt và dễ nghèo
đi.
Nhiều hộ nông dân đang rơi vào cảnh thua thiệt trước "vòng xoáy" của các quy luật thị trường,
nhất là ở những nơi hợp tác xã không còn tồn tại, chính quyền cơ sở lại yếu kém, thì không biết
dựa vào đâu? Bởi vậy, sự nghiệt ngã của tình cảnh "nghèo thì nghèo thêm, giàu thì giàu nhanh
hơn" đang là tác nhân chính khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo giữa người giàu và người
nghèo, giữa nông thôn và thành thị. Đây là nguyên nhân chính của hiện tượng số người tự do di cư
ra thành thị kiếm việc làm đang tăng lên. Họ luôn trong tâm lý lo sợ rủi ro, bởi vậy, tư duy "ăn
chắc, mặc bền" vẫn là phổ biến, có đồng nào đổ vào "xây nhà xây cửa" chắp vá, cơi nới một cách
manh mún và rất tốn kém.
- Vốn tích lũy của các hộ gia đình cũng có sự phân biệt khá rõ giữa các loại hình sản
xuất. Theo số liệu của tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 2006 của Tổng cục Thống kê,
tính đến giữa năm 2006 vốn tích lũy bình quân một hộ nông thôn là 6,7 triệu đồng, tăng gấp 2,1
lần so với thời điểm tháng 10 năm 2001. Nhưng vốn tích lũy của các hộ sản xuất phi nông nghiệp
vẫn vượt lên cao hơn các hộ thuần nông. Hộ vận tải tích lũy bình quân là 14,9 triệu đồng, hộ
thương nghiệp là 12,1 triệu đồng, hộ thủy sản là 11,3 triệu đồng, trong khi đó hộ nông nghiệp
thuần chỉ tích lũy dưới 4,8 triệu đồng. Lý do chính của việc tiết kiệm tiền trong phần đông các hộ
gia đình nông thôn
(2)
không phải là để tích lũy mở rộng sản xuất, mà 82% số người được hỏi trả lời
là để chi trả khám và chữa bệnh khi cần thiết và 70% trả lời là để đề phòng các nhu cầu chi tiêu
Người nông dân bị thu hồi đất cho công nghiệp hóa, hay đô thị hóa cũng rơi vào
tình trạng tư liệu sản xuất bị mất hoặc giảm đi, trong lúc chưa chuẩn bị kịp các
điều kiện để chuyển đổi nghề nghiệp. Phần đông nông dân có tiền (tiền đền bù do
bị thu hồi đất) cũng khó tìm phương án nào cho hiệu quả để sử dụng cho sản
xuất, kinh doanh làm cho nó sinh sôi nảy nở.

đột xuất khác, chỉ 6% mong đợi lợi nhuận hay lãi suất.
- Trong kinh tế thị trường, việc tìm ra cây gì, con gì để cho sản xuất hàng hóa lớn đã khó, thì việc
tiếp cận đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp mấy năm gần đây cũng đang khó khăn
không kém. Đã thế, thị trường đầu vào của sản xuất nông nghiệp biến động rất bất lợi cho các hộ
nông dân, giá lên cao liên tục, giao thông khó khăn, vốn ít nên khó khăn trong việc mua giá thấp
với khối lượng lớn (mua buôn), mua lẻ thì giá lại rất cao, thiếu những nhà cung cấp tin cậy và ổn
định, và còn thiếu cả thông tin để có cơ hội lựa chọn phương án tối ưu.
- Khó khăn trong khâu sơ chế và chế biến sau thu hoạch cũng là một cản trở lớn đối với kinh tế hộ
nông dân. Phần lớn các hộ nông dân đều thiếu kỹ thuật và khả năng sơ chế nông sản sau thu
hoạch, thiếu thông tin thị trường, chi phí giao dịch cao Nên phần lớn nông sản chưa nâng được
thêm giá trị kinh tế đáng kể trong các khâu tiếp theo của quy trình sản xuất đến tay người tiêu
dùng, kể cả mẫu mã, tiếp thị và tiêu thụ, xuất khẩu.
- Nhiều hộ nông dân đang rất cần đến những sự trợ giúp có tính chất cộng đồng, hiệp hội ngành
hàng hay hợp tác trong các khâu, nhất là đầu vào và đầu ra của sản xuất, nhưng các hợp tác xã
(HTX) hiện nay trong nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng đầy đủ, do chưa hoạt động thật hiệu
quả và thiết thực. Theo số liệu điều tra của Trung tâm Phát triển nông thôn (RUDEC) năm 2007,
thì HTX chỉ đáp ứng 6,9% nhu cầu phân bón và 13,8% nhu cầu giống, trong khi đó các đại lý tư
nhân cung cấp tới 59,2% phân bón và 43,1% giống (xem bảng).
Thực trạng chung của các HTX là, mức vốn hoạt động còn nhỏ, đặc biệt là các HTX trong nông
nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương mại. Tỷ lệ vốn cố định ở các HTX rất cao, từ trên 70% đến
95%. Tình trạng này làm cho HTX thường không đủ vốn lưu động để hoạt động, do đó cũng không
phát huy được vốn cố định, trong khi vay ngân hàng thì gặp nhiều khó khăn về tài sản thế chấp.
Ngược lại, trong lĩnh vực tín dụng thì tỷ trọng vốn cố định rất thấp (chưa đạt 5%), dẫn đến tình
trạng chung ở các quỹ tín dụng là cơ sở làm việc rất nghèo nàn, không bảo đảm an toàn cho việc
mở rộng hoạt động huy động và cho vay. Tỷ lệ HTX có quan hệ tín dụng với ngân hàng và các tổ
chức tín dụng khác chỉ bằng 11,3% số HTX được thống kê, điều đó cho thấy các HTX chưa phát
triển các quan hệ tín dụng với ngân hàng để có thêm vốn phát triển các dịch vụ phục vụ nhu cầu
sản xuất, kinh doanh của xã viên.
- Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với quá trình sản xuất nông nghiệp. Nhưng khó khăn lớn
hiện nay là diện tích đất nông nghiệp đang mất vào các khu công nghiệp, khu đô thị và giao thông

với tốc độ quá nhanh. Đất trồng lúa nước năm 2005 đã giảm trên 302 ngàn héc-ta so với năm
2000. Theo số liệu thống kê, trong 5 năm qua cả nước đã có khoảng 13% số hộ nông dân bị mất
đất, mà lý do chính là bị thu hồi do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Trong khi đó, nhiều
hộ khác tuy đã năng động chuyển đổi ngành nghề, nhưng vẫn không đủ "can đảm" (tính chắc chắn
của nghề mới chưa bảo đảm cho các hộ chuyển nghề yên tâm) để nhượng ruộng cho người khác
canh tác hay thuê người làm. Phần lớn là giữ đất hay có chăng cũng là cho con cháu làm để vừa đủ
mức nộp thuế sử dụng đất. Bởi vậy, tốc độ tích tụ, hoặc dồn điền, đổi thửa diễn ra quá chậm so
với nhu cầu phát triển sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí sử dụng đất diễn ra
khá phổ biến. Tại Nam Định, có địa phương người nông dân muốn trả ruộng thì chính quyền xã
không nhận, vì thời hạn giao đất vẫn còn hiệu lực, nếu nhận thì xã không thu được lệ phí. Trong
khi đó người dân nơi khác đến canh tác thì khó khăn do chính sách cư trú Tại huyện Từ Sơn, Bắc
Ninh có 10.600 hộ nông dân mất đất, làm cho 21.000 lao động không có việc làm, nhưng diện tích
thu hồi lại bỏ hoang, chờ dự án, hoặc chỉ sử dụng khoảng 30%
- Lề lối làm ăn còn nặng về sản xuất nhỏ, manh mún, chưa
thích ứng với kinh tế thị trường. Chữ tín trong làm ăn là rất
quan trọng, thế nhưng một số địa phương nông dân sẵn sàng
"phá hợp đồng" để được lợi trước mắt do giá thị trường đột
ngột lên cao so với hợp đồng, như trong hợp đồng bán hoa
hồi cho đối tác Bắc Âu tại Lạng Sơn. Còn chuyện giá cả lên
xuống thất thường là quy luật "cung - cầu" của thị trường.
Đối với sản xuất nông nghiệp, tính chất mùa vụ và sự lệ
thuộc vào đất đai, tiểu khí hậu rất chặt chẽ, nên khó có thể
thành công nếu cứ chạy theo sự "lên - xuống" của thị trường.
Thế mà, một số nông dân ở huyện Đông Triều, Quảng Ninh, khi giá vải xuống, thì chặt vải trồng
cây sưa (cây lấy gỗ phải mất 50 năm mới cho thu hoạch, mà giá lúc đó chưa ai có thể nói rõ là sẽ
như thế nào). ở một số địa phương phía Nam cũng vậy, thấy giá một số cây trồng khác đang "sốt",
thì vội chặt cây điều đang kỳ cho thu hoạch Trong khi đó, các ngành chức năng thiếu sự tuyên
truyền, giải thích hữu hiệu để có định hướng sản xuất đúng và hơn nữa có quy hoạch cây, con một
cách khoa học, ổn định lâu dài. Chẳng hạn, nhiều địa phương đã khá thành công trong việc tìm
Quan điểm chung của nhiều nhà

hoạch định chính sách ở nước ta hiện
nay là làm sao sớm "thoát" khỏi
nông nghiệp. Đây là cách hiểu rất
thiển cận, thiếu tính bền vững, đối
với một nước phải bảo đảm có nguồn
lương thực ổn định cho gần 90 triệu
dân trong một vài năm tới như nước
ta.
kiếm thị trường "cần những cái mình có", như chè Nghệ An vào thị trường Trung Đông, gạo, hạt
tiêu, cà phê xuất khẩu ra thế giới.
Hơn nữa, cũng phải tính toán đến cả tình huống mới, khi đang có nhiều cảnh báo trên thế giới
(3)
đã
nói về một cuộc khủng hoảng mới về lương thực đang xuất hiện và sẽ trở nên nghiêm trọng hơn
bất kỳ cuộc khủng hoảng lương thực trước đây thế giới từng chứng kiến. Theo ông Đô-nan Cốc
(Donald Coxe), thách thức lớn nhất đối với thế giới không phải là 100 USD/thùng dầu, mà thế giới
phải có đủ lương thực cho các tầng lớp trung lưu mới và vì vậy đòi hỏi phải tăng sản lượng lương
thực. Chỉ riêng giá lúa mì đã tăng 92% trong năm 2007, và ngày 3-1-2008, giá đóng cửa giao dịch
là 9,45 USD cho 8 ga-lông tại sàn buôn bán Chi-ca-gô. Theo nhiều dự báo, trong những tháng tới
của năm 2008, giá lương thực vẫn tiếp tục tăng.
Những nước xuất khẩu lương thực trước đây như Nga và Ấn Độ hiện nay đang ngừng xuất khẩu
lương thực. Khu vực Trung - Tây của nước Mỹ cung cấp 54% sản lượng ngô của thế giới, nhưng
gần đây số lượng lương thực được tích trữ của Mỹ cho những vụ tiếp theo đã tụt xuống mức thấp
kỷ lục. Do vậy, những nước dư thừa lương thực sẽ có một lợi thế lớn.
Nếu không đánh giá đúng lợi thế này, không khéo chúng ta đang đánh mất những lợi thế đã có để
chạy theo những "lợi thế ảo" mà thế giới đang mạnh hơn ta rất nhiều lần. Trong khi đó, muốn làm
cho nền nông nghiệp nước nhà phát triển và hội nhập thành công trên đà của những thành tựu đã
đạt được trong hơn 20 năm đổi mới đã qua, không có cách nào khác là phải có thêm những chính
sách có tính chất đột phá để tạo động lực mới, thật sự mạnh mẽ cho kinh tế hộ phát triển. Đất
nước đang cần có nhiều hộ nông dân làm ăn mang tính chuyên nghiệp hơn, bởi vậy kinh tế hộ

đang cần có sự hỗ trợ, hợp lực mang tính cộng đồng chặt chẽ hơn mới hy vọng có được sức mạnh
trong cạnh tranh khốc liệt của thương trường trước xu thế hội nhập ngày một sâu hơn của nền
kinh tế quốc dân.
Một số nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở nông thôn ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh
Ths. Nguyễn Thị Hằng
*
Ngày nay, đói nghèo đang trở thành một vấn đề cấp bách của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở
các nước chậm phát triển và đang phát triển. Mỗi quốc gia muốn thực hiện được mục tiêu phát triển xã
hội bền vững thì không thể không giải quyết vấn đề đói nghèo. Trong những năm qua Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn về xóa đói giảm nghèo, được các tổ chức quốc tế và các nước đánh giá cao
về sự quyết tâm chống nghèo đói của Chính Phủ Việt Nam, đã cho thấy tính ưu việt của chế độ ta là
phấn đấu vì mục tiêu con người mà Đảng ta đã xác định: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực
hiện công bằng xã hội.
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi khởi xướng và tổ chức thành công chương trình xóa đói giảm nghèo
đồng thời được đánh giá là địa phương đi đầu trong cả nước về phong trào xóa đói giảm nghèo. Đạt
được kết quả to lớn như vậy là do thành phố thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trên cơ sở khai thác tốt
tiềm năng và thế mạnh trên địa bàn. Thành phố đã tập trung giải quyết ba vấn đề lớn đó là: trợ vốn cho
xóa đói giảm nghèo; có phương hướng trợ vốn và các chính sách ưu đãi cho người nghèo. Trải qua
chặng đường hơn 10 năm, chương trình xóa đói giảm nghèo đã thực sự trở thành một phong trào quần
chúng sôi nổi, rộng khắp ở thành phố và nhân rộng trong cả nước, tạo được những chuyển biến tích cực
về nhiều mặt, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và từng bước nâng cao. Tuy nhiên, tình trạng
đói nghèo ở các huyện ngoại thành và sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa nông thôn
và thành thị cũng diễn ra ngày càng gay gắt. Vấn đề tìm ra những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở các
huyện ngoại thành có ý nghĩa quan trọng giúp chính quyền địa phương nhận thức rõ nhiệm vụ xóa đói
giảm nghèo thực chất là một cuộc chiến chống đói nghèo đô thị, rút ngắn dần khoảng cách giàu nghèo,
một trong những tiêu chí quan trọng trong xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh hiện đại. Ở
phạm vi bài viết này, tác giả phân tích một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến nghèo đói ở khu vực ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh.
1. Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn

*
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói và thiếu
nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn nhân lực của họ,
đồng thời nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Người nghèo ở khu vực ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh đa số là sản xuất nông nghiệp, do thiếu vốn nên họ khó có khả năng
hướng tới sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Thông thường họ lựa chọn phương
án sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị kinh tế thấp,
thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao. Do vẫn theo phương án sản xuất
truyền thống nên giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh
tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó. Thành phố Hồ Chí
Minh là một trung tâm kinh tế của khu vực phía Nam và của cả nước, đây là địa phương có tốc độ đô thị
hóa rất nhanh, không gian đô thị ngày càng được mở rộng đã làm thu hẹp diện tích đất canh tác nông
nghiệp.
Xu hướng này tất yếu dẫn tới một bộ phận không nhỏ nông dân sống ở các huyện ngoại thành phải
chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trên thực tế không phải nông dân nào cũng biết cách thay đổi “phương
thức sản xuất” của mình, tức là phải tăng năng suất trên một đơn vị diện tích đất canh tác nhờ áp dụng
khoa học kỹ thuật nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, Do đó,
một bộ phận nông dân từ lâu đã gắn với sản xuất nông nghiệp bị đẩy vào cảnh khốn khổ vì thiếu nguồn
lực để sản xuất. Một số người khác sau khi nhận được số tiền đền bù từ mảnh ruộng của mình trong các
dự án quy hoạch không biết sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả dẫn đến hệ quả là:
Thứ nhất, chỉ thoát được cảnh đói nghèo trong một thời gian ngắn. Khi đã sử dụng hết số tiền mà họ có
được do bán đất và đền bù, giải tỏa thì họ lại tái nghèo.
Thứ hai, khi diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp một số lao động trong nông nghiệp không tìm được
việc làm mới, thất nghiệp gia tăng và vì vậy họ rất khó khăn trong việc tự mình thoát khỏi đói nghèo.
Thứ ba, khi giá đất tăng lên do tác động của đô thị hóa, người nông dân bán đất ồ ạt, nhiều ngôi nhà
mới được xây dựng nhưng đó là những ngôi nhà của những người ở nơi khác đến, có nhiều tiền còn
nông dân thì bị đẩy vào sâu hơn và đất canh tác cũng thu hẹp lại, vì vậy người nông dân khó có cơ hội
để duy trì hoạt động sản xuất nông nghiệp của mình nếu như họ không có kế họach sử dụng đồng vốn
kiếm được từ việc bán đất một cách có hiệu quả và cuối cùng cảnh đói nghèo vẫn tiếp tục ở lại với họ.
Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất nông nghiệp như

khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón… đã làm tăng chi phí tính trên một đơn vị giá trị
sản phẩm. Khả năng còn hạn chế về vốn của người nghèo và cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng
có giới hạn chính là nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, mở
rộng sản xuất, tiếp cận thị trường,… Một mặt, do không có tài sản thế chấp, người nghèo phải dựa vào
tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số
người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể hoặc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ
khó có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước cũng như các tổ chức tín
dụng. Người nghèo còn thiếu thông tin về pháp luật, chính sách và thị trường đã làm cho họ sẽ càng
nghèo hơn.
2. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Những người nghèo là những người thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm
tốt và ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đủ để đảm bảo cho nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do
vậy không có điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát nghèo. Theo số liệu điều tra
năm 2004 của Viện Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, mức thu nhập bình quân nhân khẩu trên một tháng của
khu vực nông thôn ngoại thành là 726.000 đồng/người/tháng, bằng 54,3% mức thu nhập bình quân
chung của thành phố
(
1). Do mức thu nhập thấp nên khả năng chi cho học hành ở khu vực ngoại thành
cũng thấp hơn nội thành. Chi cho học hành bình quân một người một tháng của khu vực nông thôn là
24.785 đồng trong khi đó ở khu vực thành thị là 62.535 đồng. Qua số liệu trên cho thấy người dân ở khu
(
vực ngoại thành chi cho giáo dục chỉ bằng 39,6% của khu vực thành thị từ đó có thể khẳng định rằng
người nghèo trong khu vực nông thôn ngoại thành chi cho học hành càng ít hơn nữa. Trình độ học vấn
thấp không chỉ ảnh hưởng tới thu nhập mà còn ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan về giáo dục,
sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái,…ở thế hệ hiện tại mà còn cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ
em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo nhất và
sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục và đào tạo càng trở nên khó khăn hơn. Học vấn thấp và
đói nghèo vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau, thường là bạn đồng hành miễn cưỡng đáng buồn
của nhau. Đa số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp.

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động phổ thông ở khu vực ngoại thành chiếm 92,9% trong
tổng số lao động, đối với khu vực nội thành thì tỷ lệ này là 81,3%. Ở ngoại thành chỉ có 3,1% lao động
có trình độ đại học, trong khi đó ở nội thành người có trình độ đại học và trên đại học chiếm tới 13,2%,
điều kiện học tập khó khăn là trở ngại lớn đối với người nghèo.
Trình độ học vấn thấp làm hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi
nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao và ổn định. Các khu công nghiệp, khu chế xuất và
khu đô thị mới ngày càng phát triển ở khu vực ngoại thành là cơ hội cho người dân sống nơi đây nhưng
đồng thời đây cũng là thách thức lớn đối với người nghèo, bởi lẽ do trình độ học vấn thấp họ khó có thể
tìm được việc làm tốt hơn trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Nếu tìm được chỗ làm cũng chỉ là
lao động phổ thông. Đây là thực tế không chỉ có ở khu vực ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh mà là
một thực trạng phổ biến trong cả nước.
3. Nguyên nhân về nhân khẩu học
Quy mô hộ gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành
viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh con trong các hộ
gia đình nghèo và khu vực nông thôn thường là rất cao. Đông con là một trong những đặc trưng nổi bậc
của các hộ gia đình nghèo. Tỷ lệ sinh của khu vực ngoại thành năm 2000 là 19,0
0
/
00
trong khi đó ở các
quận nội thành thì tỷ lệ này là 16,8
0
/
00
. Năm 2002 tỷ lệ này tương ứng ở ngoại thành thành là 17,2
0
/
00

nội thành là 16,3

0
/
00
. Nhân khẩu bình quân ở ngoại thành cao hơn nội thành, ngoại thành bình quân 4,69
người/hộ, nội thành là 4,63 người/hộ
(
2). Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh cao trong các
hộ sống ở nông thôn mà đặc biệt là những hộ nghèo là do họ không có kiến thức cũng như điều kiện
tiếp cận với các biện pháp sức khỏe sinh sản. Tỷ lệ phụ nữ nghèo đặt vòng tránh thai thấp, tỷ lệ nam
giới nhận thức chưa đầy đủ trách nhiệm kế hoạch hóa gia đình và sử dụng biện pháp tránh thai chưa
cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ
giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế.
Dân số tăng nhanh, quy mô gia đình nhiều con ở khu vực ngoại thành là áp lực lớn đối với vấn đề giải
quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo đồng thời tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo chính là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của họ. Gần đây nhiều cuộc điều tra kinh tế xã hội cho thấy,
bên cạnh do sự tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội, tốc độ gia tăng dân số nhanh cũng như số con
đông trong mỗi gia đình trở thành một lực cản cho vấn đề xóa đói giảm nghèo ở cấp quốc gia, địa
phương cũng như trong từng hộ gia đình.
4. Đặc điểm tự nhiên và cơ cấu sản xuất:
Do đặc điểm tự nhiên của khu vực nông thôn nói chung và ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng chủ yếu là sản xuất nông nghiệp truyền thống, công nghiệp chưa có điều kiện phát triển mạnh và
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Trong những năm gần điều kiện kết cấu hạ tầng ở khu
vực nông thôn ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh có cải thiện nhưng chưa thật sự trở thành nhân tố
quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đã không phát huy hiệu quả những chính sách về xóa
đói giảm nghèo của chính quyền thành phố. Thực tiễn cho thấy, điều kiện giao thông nông thôn nơi nào
không thông suốt, nơi đó sẽ có một nền kinh tế - xã hội “ốm yếu”, ngược lại giao thông nông thôn thông
suốt sẽ tạo thuận lợi cho sản phẩm nông nghiệp được tiếp cận với thị trường, từ đó nâng cao đời sống
người dân nói chung và đăc biệt là góp phần xóa đói giảm nghèo. Mặt khác, điều kiện tự nhiên của khu
(
vực nông thôn ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh so với những nơi khác có nhiều thuận lợi hơn, tuy

nhiên người nghèo ở khu vực này khả năng tiếp cận được những dịch vụ, sản phẩm, thị trường, cũng
khó khăn hơn, khả năng thoát khỏi cảnh nghèo đói của họ trở nên phức tạp hơn. Do điều kiện tự nhiên
không thuận lợi như ở nội thành, việc đào tạo nguồn nhân lực hay quá trình thoát khỏi cảnh nghèo khổ
từ việc nâng cao nguồn nhân lực cũng khó khăn, mọi chi phí đều cao hơn so với khu vực thành thị, hàng
hóa của họ sản xuất ra kém sức cạnh tranh do quá trình vận chuyển. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh
hưởng của thiên tai và các rủi ro khác, các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn
hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra. Đa số người nghèo của khu vực này sống bằng nghề
nông nên dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, điều kiện thời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, khả năng đối phó và khắc phục rủi ro này của người nghèo rất kém do nguồn thu nhập
thấp, bấp bênh và khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra
trong cuộc sống (mất mùa, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe, ). Với năng lực kinh tế mong
manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn
trong cuộc sống của họ và tất nhiên người nghèo thì càng nghèo hơn.
Ngoài ra, người nghèo chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, năng suất thấp do không có trình độ để áp dụng
khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất. Khả năng nâng cao năng suất là rất khó khăn trong khi do áp lực
của đô thị hóa ngày càng mạnh, diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp. Khu vực ngoại thành thành
phố Hồ Chí Minh không chỉ giải quyết đối với những người nghèo tại địa phương mà còn phải hứng
chịu dòng người nhập cư ở nơi khác đến vốn dĩ là người nghèo không có việc làm ổn định. Do người
nghèo ở khu vực này chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trong khi giá nông sản có xu hướng không tăng
hoặc tăng chậm hơn so với giá các sản phẩm công nghiệp, nên cánh kéo về giá cả sản phẩm nông
nghiệp và công nghiệp ngày càng doãn ra đã tác động tiêu cực đến mức sống của người nghèo.
5. Những tác động của chính sách vĩ mô đến người nghèo
Thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua và đây là một
trong những nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến chương trình xóa đói giảm nghèo của thành phố, tuy
nhiên do quá trình phát triển và mở cửa nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh cũng đã tác động tiêu
cực đến người nghèo. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản ngành nông lâm thủy sản của thành phố năm 2003 chỉ chiếm 0,64% trong
tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn và chỉ chiếm 1% trong tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản
thuộc ngân sách địa phương. Chưa chú ý đến các ngành công nghiệp chế biến có quy mô nhỏ ở khu vực
nông thôn, thu hút nhiều lao động. Tăng trưởng kinh tế giúp xóa đói giảm nghèo trên diện rộng, song

cải thiện tình trạng của người nghèo (về thu nhập, khả năng tiếp cận thị trường, khoa học công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực, ) lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích
tăng trưởng trong các nhóm dân cư gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng
chưa hợp lý. Thông thường, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn những người nghèo
và như vậy đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo giữa nội thành và ngoại thành là điều khó tránh
khỏi.
6. Bất bình đẳng về giới, bệnh tật và sức khỏe kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng
nghèo đói trầm trọng.
Bất bình đẳng về giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công
mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái phải gánh chịu do bất bình đẳng thì còn những tác động bất lợi đối với
gia đình.
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp, trong khi đó chỉ có khoảng ¼ phụ nữ tham
gia các lớp tập huấn về kỹ thuật nông nghiệp. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và
đào tạo, thường gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ
gia đình và thường được trả công thấp hơn nam giới cho cùng một công việc. Theo UNDP trong tổng số
1,4 tỷ người nghèo trên thế giới thì có đến 70% là phụ nữ. Mặt khác, phụ nữ có trình độ học vấn thấp
dẫn tới tỷ lệ tử vong ở trẻ em, trẻ sơ sinh cao và khả năng cho con em độ tuổi đi học đến trường ở vùng
ngoại thành bao giờ cũng thấp hơn khu vực nội thành. Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ
lệ sinh, đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đói nghèo của các hộ nông dân ở khu vực ngoại thành
thành phố Hồ Chí Minh.
Vấn đề bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, chi tiêu và việc làm của người
nghèo bởi các lý do sau:
Thứ nhất, mất đi thu nhập thường xuyên từ lao động của họ.
Thứ hai, chịu chi phí cao một cách tương đối (so với thu nhập) cho khám, chữa bệnh bao gồm chi phí
trực tiếp và gián tiếp.
Do đó, chi phí khám chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo, họ có thu nhập thấp nên việc tích lũy
coi như không có gì hoặc rất ít, để có tiền trang trải cho việc chữa bệnh buộc họ phải đi vay mượn, cầm
cố tài sản, dẫn đến khả năng thoát khỏi vòng nghèo đói là rất ít. Vấn đề y tế và cung cấp nước sạch cho
người nghèo cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng nói chung và
đối với người nghèo nói riêng, hiện nay ở huyện Cần Giờ có khoảng 20% dân số chưa có nước sạch để

sử dụng. Do vậy, cải thiện điều kiện sức khỏe cho người nghèo là một trong những yếu tố đảm bảo cho
họ thoát nghèo.
Để thực hiện được mục tiêu nâng cao mức sống của người dân nói chung cũng như xóa đói giảm nghèo,
tiếp tục phát huy ba vấn đề được đánh giá là chìa khóa thành công 10trong chương trình xóa đói giảm
nghèo của thành phố là: trợ vốn cho xóa đói giảm nghèo; có phương hướng trợ vốn và các chính sách
ưu đãi cho người nghèo. Đồng thời khắc phục những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo nêu trên, chính
quyền thành phố Hồ Chí Minh cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cần nhận thức quá trình đô thị hóa có tính hai mặt, do vậy trong quá trình quản lý đô thị cần
phải cân nhắc một cách thận trọng mang tầm chiến lược, đảm bảo có quy hoạch, có sự kiểm soát chặt
chẽ, có hệ thống chứ không phải tự phát như hiện nay. Mặt khác, cần thấy rằng quá trình đô thị hóa là
một tất yếu khách quan, phù hợp với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn,
đây là yếu tố thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, để khắc phục mặt tiêu cực của
quá trình đô thị hóa, chính quyền thành phố cần phải có quy hoạch cụ thể khi thực hiện các dự án sử
dụng đất nông nghiệp để từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Có cơ cấu đầu tư hợp
lý cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là cho đối tượng người nghèo để họ tự nâng cao
năng lực sản xuất của mình, đây là cơ sở để họ tự thoát khỏi đói nghèo.
Thứ hai, tăng cường đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn, đặc biệt là con em của những gia đình sản
xuất nông nghiệp nằm trong trong khu vực quy hoạch, giải tỏa để thực hiện dự án nào đó. Nếu làm
không tốt việc đào tạo nghề và tạo việc làm cho đối tượng này thì đây chính là nguy cơ tìm ẩn dẫn đến
đói nghèo, bởi vì họ không có đất để sản xuất nông nghiệp, không có việc làm ổn định và thất nghiệp
dẫn đến thu nhập thấp, đây chính là bạn đồng hành của sự đói nghèo. Làm tốt khâu dạy nghề cho thanh
niên nông thôn sẽ giảm áp lực dân số tăng nhanh ở khu vực nội thành, người nghèo không bỏ nông thôn
ra thành thị để kiếm việc làm. Đây là giải pháp có tính quyết định giúp cho người nghèo tự thoát khỏi
vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói.
Thứ ba, tuyên truyền giáo dục cho người nghèo tác dụng của vấn đề kế hóa gia đình, đặc biệt là phụ nữ
nghèo, khuyến khích bằng hiện vật cho những gia đình sinh ít con, giáo dục cho họ ý thức tự vươn lên
chính mình, có ý chí làm giàu, vì đây có thể nói là bản chất cố hữu của người nông dân. Nhà nước có
chế độ chính sách, chương trình cụ thể để chăm sóc sức khỏe cho người nghèo.
Thứ tư, cung cấp thông tin về thị trường nông sản cho người dân, hỗ trợ kỹ thuật nông nghiệp để giúp
những nông dân nghèo nâng cao giá trị sản lượng trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Đầu tư cơ sở hạ

tầng làng nghề truyền thống và cung cấp thông tin để phát triển và mở mang các làng nghề. Hỗ trợ đối
tượng người nghèo chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Thứ năm, sử dụng một cách có hiệu quả các dự án tài trợ của Nhà nước cho người nghèo, xác định
đúng đối tượng được hưởng lợi từ những dự án đó nhằm phát huy tác dụng của các chương trình xóa
đói giảm nghèo. Cân nhắc kỹ lưỡng các chính sách đối với người nghèo, người nghèo phải là đối tượng
được hưởng lợi từ sự tăng tưởng kinh tế để thu dần khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội,
tuy nhiên không làm triệt tiêu động lực của các tầng lớp khác, các chính sách đó phải được đặt trong
mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Mở rộng khả năng người nghèo tiếp cận dịch vụ tài
chính, tín dụng ở nông thôn. Hoàn
I. Nguyên nhân:
1. Thiếu vốn sản xuất:
Đây là nguyên nhân số 1. Khoảng 91,53% số hộ nghèo là thiếu vốn. Nông dân
nghèo vốn thấp, làm không đủ ăn, thường xuyên phải đi làm thuê hoặc đi vay tư nhân để
đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày nên không có vốn để sản xuất, không được vay
ngân hàng vì không có tài sản thế chấp.
2. Không có kinh nghiệm làm ăn:
Kinh nghiệm làm ăn và kỹ thuật sản xuất rất hạn chế. Khoảng 45,77% hộ thiếu
kinh nghiệm làm ăn. Nguyên nhân là do họ thiếu kiến thức, kỹ thuật canh tác, áp dụng
kỹ thuật không phù hợp với đất đai, cây trồng, vật nuôi; không có cơ hội học hỏi thêm
kinh nghiệm, không được hổ trợ cần thiết và một phần là do hậu quả của một thời gian
dài họ sống trong cơ chế bao cấp.
3. Thiếu việc làm
Đây là nguyên nhân phổ biến ở các tỉnh, người nghèo ngoài trồng trọt, họ không
có vốn để phát triển chăn nuôi, làm ngành nghề. Thu nhập chỉ có 6,1% từ chăn nuôi,
5,4% từ ngành nghề.
Trồng trọt thì không thâm canh, lao động dư thừa, chỉ chờ vào làm thuê.
Trong ngành nghề thì thiếu tay nghề và trình độ học vấn thấp, rất ít có cơ hội tìm
việc làm phi nông nghiệp, số ngày làm không nhiều, thu nhập thấp, công việc mang tính
thời vụ cao, cạnh tranh quyết liệt.
4. Đất canh tác ít:

Bình quân hộ nghèo chỉ có 2771m
2
đất nông nghiệp. Khoảng 61% hộ nghèo thiếu
đất, ở khu vực có hợp tác xã thì có nhiều hộ không có khả năng thanh toán nợ cho hợp
tác xã nên địa phương rút bớt ruộng đất đã giao cho họ, càng thiếu ruộng. Ngược lại,
một số gia đình không có đủ khả năng thâm canh nên không dám nhận đủ ruộng được
giao.
5. Đông nhân khẩu, ít người làm:
Bình quân hộ nghèo có 5,8 nhân khẩu, chỉ có 2,4 lao động. Ít người làm, đông
người ăn, dẫn đến thu nhập thấp và đời sống gặp nhiều khó khăn.
6. Trình độ học vấn ít:
Không có cơ hội học hỏi thêm kiến thức và khó tiếp cận thông tin, tỷ lệ đến trường
thấp vì gặp kó khăn về tài chính và chi phí cơ hội con em đến trường cao, tỷ lệ nghèo đói
của những người chưa hoàn thành chương trình tiểu học là 40%.
7. Hạ tầng nông thôn còn hạn chế
Người nghèo chịu thiệt thòi do sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh, giao thông
không thuận tiện, vận chuyển sản phẩm đến chợ chi phí cao, bán tại đồng thì bị tư
thương ép giá, giá nhu yếu phẩm lại cao, điện, đường, trường, trạm thưa và thiếu, thủy
lợi, tưới tiêu thấp kém.

Xoá đói giảm nghèo - Phương pháp tiếp cận mới (16/03/2009)
Trong những năm qua, nền kinh tế - xã hội của nước ta đạt được những thành tựu quan trọng, GDP
hằng năm tăng cao từ 7,5% - 8,5%, tuy nhiên ta vẫn là một nước nghèo. Công cuộc xóa đói, giảm nghèo
là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam,
tuy đã đạt được một số kết quả song vẫn còn những thách thức, tồn tại lớn. Bên cạnh đó các phương
pháp xoá đói, giảm nghèo hiện nay đã bộc lộ tính không phù hợp và kém hiệu quả. Để thành công trong
công cuộc xoá đói giảm nghèo phải có phương pháp tiếp cận mới. Vậy, phương pháp xoá đói giảm
nghèo hiện nay là gì? Tại sao cần có cách tiếp cận mới cho xoá đói giảm nghèo?
Định nghĩa về nghèo đói
Nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân, nghèo không chỉ đơn giản là mức

thu nhập thấp mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ, như giáo dục, văn hóa, thuốc men, không
chỉ thiếu tiền mặt, thiếu những điều kiện tốt hơn cho cuộc sống mà còn thiếu thể chế kinh tế thị trường
hiệu quả, trong đó có các thị trường đất đai, vốn và lao động cũng như các thể chế nhà nước được cải
thiện có trách nhiệm giải trình và vận hành trong khuôn khổ pháp lý minh bạch cũng như một môi
trường kinh doanh thuận lợi. Mức nghèo còn là tình trạng đe dọa bị mất những phẩm chất quý giá, đó là
lòng tin và lòng tự trọng.
Việt Nam đã thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu
á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993: nghèo là tình trạng một
bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu
này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của
địa phương.
Do vậy, từ năm 1993 đến cuối năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã bốn lần nâng mức chuẩn nghèo.
Ngày 27/9/2001 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg trong đó phê duyệt
"Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", những hộ gia đình có
thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng
(960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình
có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống
là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000
đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc
ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu
nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu
vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Đói nghèo là một vấn đề kinh tế-xã hội có tính toàn cầu, là sự thể hiện tính công bằng trong phân
phối và chuyển tải các thành quả về phát triển kinh tế đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho mọi
người dân. Vì vậy, để đảm bảo công bằng xã hội, để nâng cao tiếng nói trên trường quốc tế thì không
riêng Việt Nam mà tất cả các nước đều phải chú ý thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo. Ngày nay
giải quyết vấn đề đói nghèo đã được đặt thành nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng của đất nước Việt Nam,
thể hiện ở chỗ chúng ta đã có Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo. Vậy quan điểm

và cách xoá đói giảm nghèo hiện nay như thế nào?
Quan điểm về xoá đói giảm nghèo
Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời
chủ động tạo các nguồn lực cho các hoạt động trợ giúp người nghèo đói.
Quan điểm này dựa trên lô-gic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu quả người nghèo đói thì
Nhà nước phải có đủ nguồn lực vật chất trong tay, bởi vì chính bản thân nhà nước là chủ thể có đầy đủ
các khả năng điều hoà thu nhập giữa các nhóm dân cư. Hơn nữa, các nguồn lực vật chất để thực hiện sự
điều hoà thu nhập ấy lại chỉ có thể có được khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững.
Thực tế cho thấy, nhờ kinh tế phát triển mà Nhà nước đã có đủ tài chính để mở rộng các dự án, các
chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ cho hàng ngàn xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã
hội, trên cơ sở đó những người nghèo ở những vùng sâu, vùng xa có thêm cơ hội để vươn lên thoát
nghèo đói. Nhìn chung, ở đâu kinh tế phát triển, ngành nghề và hoạt động kinh tế đa dạng, việc làm đầy
đủ, thì ở đó số hộ nghèo đói giảm nhanh, số hộ giầu tăng lên và bộ mặt xã hội của cộng đồng thay đổi
nhanh chóng.
Xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn xã hội, mà trước hết là bổn phận
của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự vận động tự giác của bản thân người nghèo, cộng đồng
nghèo.
Xóa đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì
sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu
chống đói nghèo ở các nước.
Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên
cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người
nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xoá đói
giảm nghèo thành công nhanh và bền vững.
Triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo bằng các nguồn tài chính trợ giúp
của Nhà nước và các tổ chức trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, Nhà nước đã giành nhiều kinh phí cho các chương trình xoá đói giảm nghèo.
Bên cạnh những thành tựu đáng kể của xoá đói giảm nghèo còn có vấn đề nổi cộm đó là tình trạng tham
nhũng, cắt bớt phần tài chính từ các dự án, chương trình mà lẽ ra người nghèo được hỗ trợ để giúp họ
thoát nghèo đói. Quan điểm này có tác dụng hạn chế tình trạng tiêu cực đang diễn ra trong triển khai

hiện nay, tạo cơ sở để đưa ra các biện pháp phòng ngừa và xử lý nghiêm theo pháp luật các trường hợp
tiêu cực.
Quan điểm thứ tư:Việc hỗ trợ và cho vay vốn hộ nghèo phải đi liền với công tác tư vấn, hướng dẫn sử
dụng vốn vay có hiệu quả căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng hộ gia đình.
Thời gian qua, việc cho vay vốn hộ nghèo đói chưa thật hiệu quả, phần nhiều còn thiên về số lượng
lượt hộ vay vốn nên khoản vay còn nhỏ bé, chưa thực sự giúp các hộ nghèo tạo được đà bứt phá, việc
sử dụng vốn không đúng mục đích vấn còn khá phổ biến. Nhìn chung, hiệu quả thực sự của các nguồn
tài chính cung cấp cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo còn bị hạn chế. Thực tế cho thấy nguồn vốn cho
người nghèo vay sẽ phát huy tác dụng nếu có sự hướng dẫn sản xuất, tư vấn sử dụng vốn vay.
Với các quan điểm về xoá đói giảm nghèo như trên, đã có nhiều cách tiếp cận về xoá đói giảm nghèo như
cách tiếp cận từ trên xuống là phương pháp giao chỉ tiêu kế hoạch, giao nguồn lực và quy định các nhiệm vụ
phải thực hiện của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới; Cách tiếp cận từ dưới lên là cách tiếp cận từ
người nghèo- xoá đói giảm nghèo bắt đầu từ người nghèo; hoặc cách tiếp cận từ các nguồn lực đó là cách tìm
ra các nguồn hạn chế nhất để tìm cách tác động vào chúng nhằm đạt mục tiêu về xoá đói giảm nghèo. Nhưng
hiện nay các cách tiếp cận này đang bộc lộ những điểm không phù hợp và kém hiệu quả. Để đạt được thành
tựu lớn trong công tác xoá đói giảm nghèo, đảm bảo mục tiêu giảm nghèo bền vững cần phải có phương pháp
tiếp cận mới.
Phương pháp tiếp cận mới cho xoá đói giảm nghèo
Thứ nhất, Quản lý dựa trên kết quả đó là quá trình thực hiện chuỗi kết quả. Chuỗi kết quả cho thấy các hoạt
động, thông qua chuỗi quan hệ nhân quả trung gian sẽ giúp thực hiện mục tiêu của chương trình hay dự án xoá
đói giảm nghèo như thế nào. Hướng dẫn nông dân về kỹ thuật nông nghiệp có thể dẫn đến những thay đổi trong
tập quán canh tác mà nhờ đó năng suất được cải thiện, thu nhập và đời sống hộ gia đình được nâng cao. Tư
vấn cho hộ nghèo vay vốn sử dụng đúng mục đích để phát triển kinh tế hộ gia đình nhằm thoát nghèo đói. Tạo
cơ hội về phát triển sản xuất để người nghèo tự lực vươn nghèo thông qua các chính sách hỗ trợ về phát triển
cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đất đai, tín dụng, dạy nghề tạo việc làm, phổ biến các mô hình xoá đói giảm
nghèo hiệu quả. Cải thiện việc tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội thông qua các chính sách trợ giúp về giáo dục,
y tế, nhà ở, nước sạch, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ dân sinh. Từ đó giúp người nghèo nhanh chóng thoát
nghèo.
Thứ hai, kết hợp hài hoà vai trò của nhà nước, thị trường và cộng đồng.Mỗi chương trình dự án xóa đói giảm
nghèo cần có sự kết hợp với ba trụ cột: thể chế chính sách của Nhà nước, vai trò của DN hoạt động trong cơ

chế thị trường và phát huy nguồn lực, năng lực của cộng đồng tham gia lập dự án, xây dựng kế hoạch xóa đói
giảm nghèo, phát triển sản xuất.
Vì vậy, trước hết cần thay đổi tư duy về chương trình dự án xóa đói giảm nghèo theo 8 mục tiêu
thiên niên kỷ (xoá bỏ tình trạng cùng cực, thiếu đói; đạt phổ cập giáo dục tiểu học; tăng cường bình
đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ; giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh; tăng cường sức khoẻ bà mẹ; phòng
chống bệnh HIV, AISD, sốt rét và các bệnh khác; đảm bảo bền vững môi trường; thiết lập quan hệ đối
tác toàn cầu vì mục đích phát triển), trong đó tìm ra tác động ảnh hưởng của mỗi mục tiêu đến các mục
tiêu khác để tránh phân tán và trùng lặp nguồn lực.
Bên cạnh đó, các dự án cần được đánh giá thường xuyên và điều chỉnh kịp thời, kết hợp lồng ghép để duy
trì tác động của dự án đến xóa đói giảm nghèo. Đây là một kỹ năng có thể lấy ý kiến cộng đồng để chuyển
hướng đầu tư sao cho thiết thực. Cộng đồng biết ai trong đó là đối tượng nghèo và cộng đồng giám sát được
quá trình thực hiện, hoạt động chi tiêu. Bởi vậy, trong công tác xoá đói giảm nghèo cần chú ý đến chức năng
của cộng đồng.
Nhà nước cũng cần xác định rõ đối tượng, vùng dự án cần có chính sách rõ ràng đối với DN, đơn vị sự
nghiệp chuyển giao kỹ thuật, mô hình sản xuất tham gia xóa đói giảm nghèo, có thể đấu thầu theo nguyên tắc
giao nhiệm vụ rõ ràng cho DN xây dựng hạ tầng, hướng dẫn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho hộ, sản xuất tập
trung, bao tiêu sản phẩm. Chính sách đó có thể là giảm thuế, giảm tiền thuê đất hoặc điều kiện khác cho DN đó
được thực hiện những dự án có lợi ở khu vực phát triển, hoặc tín dụng ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển cho DN.
Gấp rút quy hoạch để xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề mà người sản xuất được ưu đãi tối đa tiền thuê
đất.
Thứ ba, tiếp cận theo chuỗi giá trị gắn với thị trường thể hiện qua sơ đồ (1)
Phương pháp tiếp cận mới theo chuỗi giá trị và gắn sự tham gia của người nghèo vào các mắc xích
thị trường đó.
Nhà nước cũng cần phát triển, tổ chức lại các DNNVV như hợp tác xã, DN khu vực tư nhân ở vùng dự án,
ưu đãi theo kết quả sử dụng lao động thường xuyên, bao tiêu sản phẩm, cung ứng vật tư cho dân chúng. Chỉ có
hợp tác xã, DN hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ hỗ trợ mới gắn kết lâu dài bền vững những hoạt động
dân chúng vào những công việc cụ thể xóa đói giảm nghèo bằng hoạt động sản xuất ở hộ, và các cơ sở sản
xuất tập trung đồng thời, cần xây dựng các quỹ tín dụng khu vực để tiếp cận trực tiếp đến các hộ nghèo, giám
sát tín dụng để các hộ nghèo không phải vay nặng lãi. Quỹ tín dụng này gắn kết với các đoàn thể, hội quần
chúng để vận động, tác động đến việc sử dụng vốn hữu ích cho chăn nuôi, trồng trọt, làm nghề, học tập, xuất

khẩu lao động, làm dịch vụ
Như vậy, phương pháp tiếp cận bao gồm nâng cao môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp tư nhân, tạo
thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp nhỏ doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp vừa, dọc theo chuỗi giá
trị. Việc đáp ứng nhu cầu của người nghèo mở rộng cơ hội kinh doanh phụ thuộc phát triển chuỗi giá trị đảm bảo
sự tham gia của người nghèo vào thị trường đồng thời giảm tình trạng tổn thương do thời tiết hoặc các sự kiện
cấu trúc (dịch bệnh, chết, thiên taivv), việc này có thể thực hiện được thông qua việc lựa chọn người nghèo nhất
và các nhóm dễ bị tổn thương nhất tham gia các mạng lưới sản xuất. Với tình trạng người nghèo sống phụ thuộc
chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên, việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên sẽ được khuyến khích thông
qua việc thực hành quản lí môi trường tốt hơn, được cấp đất và chi trả dịch vụ môi trường.
Phát triển chuỗi giá trị dựa trên việc lựa chọn cẩn thận các ngành hàng và việc sản xuất liên quan, hệ thống
chế biến và tiếp thị mà có thể tạo ra việc làm cho người nghèo; mỗi vùng nên chọn sản phẩm có giá trị kinh tế
cao, khuyến khích và quản lí rủi ro cho sự tham gia của người nghèo từ trang trại ra thị trường, hợp đồng tiêu
thụ sản phẩm; tiếp cận các dịch vụ tài chính (tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm); phát triển kỹ năng cho các hoạt động
kinh doanh phi nông nghiệp (như chế biến, tiếp thị, du lịch); nâng cao cơ sở hạ tầng cộng đồng kết nối thị trường
với cơ sở hạ tầng quốc gia và nâng cao khả năng kết nối với địa bàn xa thị trường; và có những sáng kiến để
phổ biến và ứng dụng công nghệ phù hợp đem đến năng suất cao (chăn nuôi, sản xuất, sản xuất lâm nghiệp, và
các hoạt động sau thu hoạch.
Liên kết nông dân với người kinh doanh, chế biến, buôn bán dọc theo chuỗi giá trị sẽ mang đến cơ
hội kinh tế quan trọng cho sự phát triển kinh tế vì nông nghiệp và giúp nhiều gia đình nghèo thoát
nghèo.
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀO NÔNG THÔN, MIỀN NÚI -
VƯỚNG MẮC VÀ GIẢI PHÁP
Phổ biến khoa học, chuyển giao công nghệ (CGCN) vào địa bàn nông thôn, miền núi là một trong những nhiệm vụ ưu tiên
hàng đầu của Ðảng và Nhà nước ta hiện nay. Nhiều nghị quyết và văn kiện quan trọng của Ðảng đều nhấn mạnh việc đưa
nhanh khoa học và công nghệ (KH&CN) vào thực tế sản xuất và đời sống ở nông thôn, coi đây là khâu đột phá quan trọng
nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Việc xây dựng và triển khai các mô hình ứng dụng khoa học và
CGCN ở nước ta hơn 10 năm qua nhìn chung đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tuy vậy cũng còn khá nhiều khó khăn,
vướng mắc cần có biện pháp tháo gỡ cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
1/ HIỆN TRẠNG CGCN VÀO ÐỊA BÀN NÔNG THÔN, MIỀN NÚI.
a/ Các kênh hỗ trợ CGCN.

Có rất nhiều kênh hỗ trợ CGCN vào địa bàn nông thôn, miền núi trong những năm qua, nhưng ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập
tới 3 kênh quan trọng nhất, có tác động lớn nhất:
l Hỗ trợ theo kênh hệ thống khuyến nông, khuyến lâm Nhà nước: Ðây là kênh chính thức quan trọng nhất của Nhà nước
trong lĩnh vực khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Về mặt tổ chức, đến nay mạng lưới khuyến nông (bao gồm cả khuyến
lâm) đã được hình thành từ Trung ương đến địa phương (Cục khuyến nông - khuyến lâm, các trung tâm khuyến nông của 61
tỉnh, thành phố, các trạm khuyến nông huyện và cán bộ kiêm nhiệm công tác khuyến nông cấp xã). Hệ thống khuyến ngư thì
hạn chế hơn, mới có đến cấp tỉnh (trong đó nhiều tỉnh không có trung tâm khuyến ngư).
l Hỗ trợ qua kênh chương trình, dự án của Nhà nước: Từ năm 1990 lại đây, chúng ta đã triển khai nhiều chương trình
KH&CN trên phạm vi vùng kinh tế hoặc cả nước, tiêu biểu là: Chương trình hỗ trợ các hoạt động KH&CN tại các tỉnh miền
núi và vùng đồng bào dân tộc giai đoạn 1991-1995; Chương trình phát triển toàn diện kinh tế - xã hội (KT-XH) nông thôn Việt
Nam giai đoạn 1991-1995 (Chương trình KX-08) và Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển
KT-XH nông thôn và miền núi giai đoạn 1998-2002 (Chương trình nông thôn, miền núi).
Các chương trình này thực sự đã góp phần tích cực làm thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, thậm chí thay đổi được bộ mặt
nông thôn. Hầu hết các dự án thực hiện trong khuôn khổ các chương trình KH&CN đều chú trọng đến nội dung huấn luyện
đào tạo về kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ cho bà con nông dân và cán bộ địa phương nên đã góp phần không nhỏ trong
việc nâng cao dân trí, tăng cường trình độ chuyên môn và năng lực chỉ đạo sản xuất cho cán bộ quản lý và cán bộ khuyến
nông, khuyến lâm ở địa phương.
l Hỗ trợ thông qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (INGO): Hoạt động CGCN của INGO rất đa dạng và linh hoạt bao
gồm cả trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, bảo quản nông sản, thú y, bảo vệ và trồng rừng Tuy vậy, nhìn chung nguồn kinh phí
của các dự án do INGO tài trợ còn hạn hẹp, phần nhiều là dự án nhỏ, thực hiện phân tán, lại do nhiều tổ chức tiến hành
trong thời gian ngắn nên việc đánh giá tổng kết còn gặp nhiều khó khăn.
b/ Các hình thức CGCN.
Các hình thức CGCN vào địa bàn nông thôn khá phong phú. Qua nghiên cứu tổng kết, chúng tôi tạm liệt kê một số hình thức
thường gặp dưới đây:
l Các lớp tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ, hội thảo đầu bờ: Hình thức này được dùng khá phổ biến ở nhiều nơi, nhiều vùng.
Hầu hết các mô hình xây dựng trong khuôn khổ Chương trình nông thôn, miền núi và các chương trình khác đều dùng hình
thức này. Ðiểm nổi bật của hình thức này là nông dân phải tự thực hành việc sản xuất theo công nghệ mới bằng kiến thức
tiếp thu được trên lớp và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất của chính mình.
l Cầm tay chỉ việc, hướng dẫn tận nơi: Hình thức này thường được áp dụng cho vùng sâu vùng xa, nơi mà trình độ tiếp thu
của người dân còn có hạn; hoặc áp dụng ở những dự án đưa cây trồng, vật nuôi hoàn toàn mới lạ vào sản xuất tại địa

phương. Hầu hết các dự án hướng dẫn cho đồng bào định canh định cư để sản xuất, tăng gia và ổn định đời sống đều sử
dụng hình thức này mà nét cơ bản của nó là cán bộ dự án Žcầm tay, chỉ việcŽ, hướng dẫn nông dân sản xuất theo phương
pháp mới, khoa học. Kết quả là sau vài vụ, bà con đã tự mình làm được mọi việc để sản xuất lúa gạo hay một số loại cây
trồng, vật nuôi khác.
l Chuyển giao trọn gói, trả công theo kết quả thực tế: Hình thức này được áp dụng cho việc hướng dẫn chăn nuôi, trồng trọt
một loại cây con mới; hoặc lắp đặt, hướng dẫn vận hành một hệ thống thiết bị mới. Toàn bộ công việc thường được khoán
gọn theo một mức giá thoả thuận.
l Hướng dẫn từng khâu, tạo cho nông dân phương pháp suy nghĩ và cùng tham gia: Hình thức này được nhiều INGO sử
dụng. Họ hướng dẫn từng khâu, từng công đoạn và để cho nông dân học hỏi, cùng tham gia vào quá trình CGCN. Hiện nay
nhiều chương trình đã áp dụng phương pháp này và nó được nâng lên như những thí dụ điển hình của phương pháp
Žnghiên cứu có sự tham gia của người dânŽ.
l Sử dụng hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng: Các cơ quan thông tin đại chúng phối hợp với cơ quan khoa học
xây dựng các chương trình, chẳng hạn như: ŽBạn của nhà nôngŽ, ŽPhổ biến kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọtŽ, ŽNhà nông
cần biếtŽ , trong đó giới thiệu từng phần hoặc đầy đủ các công nghệ chăn nuôi, trồng trọt và chế biến, bảo quản các mặt
hàng nông sản. Hình thức này tuy mới hình thành nhưng thu hút được sự chú ý của đông đảo nhân dân và bước đầu hứa
hẹn nhiều triển vọng tốt.
2/ MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG CGCN VÀO ÐịA BÀN NÔNG THÔN, MIỀN NÚI.
Có rất nhiều loại vướng mắc trong quá trình CGCN, ở mỗi kênh hỗ trợ cũng gặp vướng mắc, cản trở; ở mỗi hình thức CGCN
cũng có những vướng mắc khác nhau; thậm chí ở mỗi bước tiến hành CGCN cũng có những khó khăn, vướng mắc cần giải
quyết. Trong phần này chúng tôi chỉ nêu tóm tắt một số vướng mắc thường gặp ở hầu hết các chương trình.
l Vướng mắc về điều kiện tự nhiên, con người:
Nông thôn nước ta trải rộng trên nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau, hạ tầng cơ sở còn rất yếu kém, năng lực quản lý và
trình độ dân trí đều hạn chế. Ðây là cản trở lớn nhất trong quá trình CGCN. Ðối tượng tiếp thu công nghệ ở địa bàn nông
thôn hiện nay chủ yếu là nông dân, đơn vị sản xuất là hộ gia đình, khả năng kinh tế và trình độ tiếp thu của các hộ rất khác
biệt. Một bộ phận rất lớn các hộ nghèo thường còn Žngần ngại, đắn đo, có khi rất ngại áp dụng công nghệ tiến bộ.
l Vướng mắc về cơ chế, chính sách:
Chính sách tài chính cho khoa học hiện nay có nhiều điểm bất cập. Các định mức chi tiêu các khoản mục hiện nay theo
hướng dẫn tại Thông tư 45/2001/TTLB/TC-BKHCNMT (18/06/2001) chỉ qui định chung cho tất cả các loại đề tài, dự án;
không có các định mức riêng cho các khoản mục của dự án mô hình nông thôn, miền núi. Ðiều này thật sự gây khó khăn
trong thực hiện, vì tính chất công việc của các loại đề tài và mô hình rất khác nhau. Kinh phí hỗ trợ cho hoạt động xây dựng

mô hình ứng dụng KH&CN không được chuyển trực tiếp đến cơ quan khoa học, mà phải đi qua một con đường vòng từ Bộ
tài chính về sở tài chính, qua sở KH,CN&MT để đến cơ quan CGCN. Như vậy khi kinh phí đến được mô hình thường bị quá
thời vụ sản xuất. Việc không quy định các khoản chi tiêu cho cơ quan quản lý dự án mô hình ở địa phương đã dẫn đến
không thể phân công giám sát, hỗ trợ việc thực thi dự án và cũng không có kinh phí dự phòng; khi có sự cố, không thể ứng
phó kịp thời. Việc thanh quyết toán các khoản chi cho dự án theo hoá đơn tài chính cũng là một cản trở lớn. Xin đơn cử một
việc: Cơ quan khoa học tạo ra giống mới, công nghệ mới để chuyển giao cho nông dân, nhưng họ không có hoá đơn tài
chính nên việc chuyển giao rất khó khăn. Nếu chấp hành đúng quy định tài chính thì cơ quan CGCN không thể mua giống
cây trồng, vật nuôi của cơ quan khoa học này mà phải mua của đơn vị kinh doanh có hoá đơn đỏ và chấp nhận chất lượng
Žtù mùŽ; hoặc tìm cách hợp thức hoá chứng từ thanh toán, có khi vô tình đã vi phạm pháp luật; hoặc đành phải ngừng hoạt
động CGCN.
Chính sách cán bộ như hiện nay chưa khuyến khích được đội ngũ khoa học tình nguyện về nông thôn công tác; chưa
khuyến khích được cơ quan, tổ chức, nhà nghiên cứu đầu tư cho nghiên cứu và phổ biến khoa học vào địa bàn nông thôn,
cho nên rất khó đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho CGCN và các hoạt động khác để áp dụng nhanh các thành tựu
KH&CN vào sản xuất.
l Vướng mắc về nguồn nhân lực KH&CN:
Nguồn nhân lực tại chỗ của nông thôn hiện nay rất lớn, nhưng tỉ lệ lao động được đào tạo nghề lại quá thấp. Theo thống kê,
năm 2000 cả nước có gần 30 triệu người trong độ tuổi lao động ở nông thôn, nhưng số người được đào tạo chỉ chiếm
9,27%. Hệ thống khuyến nông của Nhà nước thì đội ngũ quá mỏng, ở cấp xã thường có 1 người, có khi chưa đủ 1 người và
phải kiêm nhiệm. Trong khi đó, các cơ quan khoa học, kể cả cơ quan nghiên cứu về khoa học nông nghiệp (viện nghiên cứu,
trường đại học) thường có trụ sở tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.
3/ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG VƯỚNG MẮC NHẰM NÂNG CAO HIÊåU QUẢ CGCN VÀO ÐỊA BÀN NÔNG THÔN,
MIỀN NÚI.
l Nâng cao hiệu quả của các chương trình KH&CN:
Ðể tăng cường CGCN vào địa bàn nông thôn, miền núi, trước hết cần có các giải pháp nâng cao hiệu quả các chương trình
KH&CN. Cụ thể như sau: Một là, cần qui định lại thời gian thực thi dự án cho phù hợp, riêng đối với trồng rừng và các loại
cây lâu năm có thể đến 5 năm (trước đây qui định thời gian 2 năm là chưa đủ để kiểm chứng kết quả). Hai là, địa bàn được
chọn để xây dựng mô hình phải tiêu biểu cho một vùng sinh thái và có điều kiện khả thi để nhân rộng kết quả; đồng thời phải
là địa bàn ưu tiên trong hướng phát triển KT-XH của địa phương. Ba là, trước khi triển khai chính quyền và người dân phải
cam kết tự nguyện thực hiện và chủ động huy động các nguồn vốn đối ứng để thực hiện dự án, không trông chờ vào sự bao
cấp hoàn toàn của cấp trên; trong dự án nhất thiết phải có nội dung về đào tạo, tập huấn. Bốn là, nên phân thành hai cấp

quản lý dự án mô hình. Cấp Trung ương (Bộ KH&CN) chỉ quản lý những dự án mô hình có tầm cỡ lớn, có ảnh hưởng trên
diện rộng hoặc có công nghệ phức tạp đòi hỏi nhiều cơ quan khoa học trung ương hỗ trợ hoặc phải nhập từ nước ngoài.
Còn lại tất cả những dự án có phạm vi ảnh hưởng trong một tỉnh, hay một vùng nên giao cho sở KH,CN&MT. Năm là, việc
qui định cơ quan chủ trì dự án là sở KHCN&MT như trước đây là không hợp lý, vì sở là cơ quan quản lý nhà nước về
KH,CN&MT tại địa phương. Cần đổi mới để tiến tới cơ quan chủ trì dự án là địa phương thụ hưởng dự án (huyện, xã nơi
thực thi dự án). Chủ nhiệm dự án là do cơ quan chủ trì đề xuất. Sáu là, cần nhanh chóng nghiên cứu để cải tiến qui trình cấp
phát tài chính, giảm bớt các thủ tục phiền hà trong việc chi tiêu và thanh quyết toán dự án như trên đã nêu. Bộ KH&CN và Bộ
tài chính cần nghiên cứu đổi mới phương thức cấp phát tài chính cho khoa học nói chung và cho dự án mô hình thuộc
Chương trình nông thôn, miền núi nói riêng theo hướng tiến bộ, phù hợp với thực tế. Bảy là, cần phải xem xét lại tiêu chí
đánh giá sự thành công của dự án. Bởi vì theo cách đánh giá trước đây, có nhiều dự án được đánh giá là tốt, nhưng kết quả
cuối cùng là thu nhập và đời sống của người nông dân tham gia dự án và chưa được cải thiện.
l Giải pháp tổng thể khắc phục các vướng mắc nhằm đưa KH&CN vào nông thôn miền núi.
- Ðối với các cơ quan Nhà nước ở tầm vĩ mô.
Về chủ trương, kiên trì chủ trương xây dựng mô hình ứng dụng KH&CN vào các địa bàn nông thôn, miền núi; tạo sự đột phá
để nhân rộng. Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm những mặt được và chưa được; những khó khăn tồn tại để kịp thời
tìm biện pháp tháo gỡ.
Về các chính sách, cơ chế quản lý: Trước nhất, cần đổi mới hoạt động cho phù hợp với cơ chế thị trường. Chuyển dần các
hình thức hỗ trợ áp đặt trước đây sang hình thức trao đổi trong một thị trường công nghệ ở nông thôn. Có chế độ thỏa đáng
đối với cán bộ khoa học, quản lý giỏi công tác ở nông thôn, miền núi. Ða dạng hóa nguồn vốn, hình thức CGCN. Kết hợp tốt
CGCN với việc tăng cường phát huy tri thức bản địa của cộng đồng.
Ðịnh hướng thị trường các mặt hàng nông sản: Về phía Nhà nước phải đầu tư, nghiên cứu để có chiến lược sản phẩm hàng
nông sản ở tầm vĩ mô (ít nhất là 5 năm, 10 năm) để định hướng thị trường đối với những mặt hàng nông sản dự kiến sản
xuất lớn, ở diện rộng mà nước ta có tiềm năng. Việc này phải được làm trước khi phổ biến khoa học, CGCN vào sản xuất.
Cố gắng tối đa để tránh tình trạng làm ngược như hiện nay, cứ phổ biến cho nông dân kỹ thuật chăn nuôi trồng trọt để sản
xuất đại trà, sau khi có hàng mới đi tìm thị trường, gặp may thì bán được hàng, nếu không may, có khi phải chịu lỗ hoặc bán
với giá quá thấp, không đủ chi phí; có khi nông dân buộc phải huỷ bỏ hàng loạt, để chuyển sang trồng loại cây khác, như
trường hợp đã xảy ra ở nhiều vùng trong những năm vừa qua.
- Ðối với địa phương.
Cụ thể hoá những chủ trương, chính sách của Nhà nước cho phù hợp với điều kiện của địa phương. Mạnh dạn đề xuất
và thực thi các biện pháp khuyến khích nhằm thu hút lực lượng khoa học và mọi tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động

CGCN, xuất phát từ lợi ích thiết thực của người tham gia và của người thụ hưởng.
Căn cứ vào các mặt hàng nông sản đã được định hướng thị trường của Nhà nước để nghiên cứu định hướng thị trường cho
các mặt hàng nông sản trên địa bàn của mình trước khi triển khai sản xuất đại trà.
Xác định rõ nhiệm vụ ưu tiên của từng tiểu vùng, từng khu vực để có biện pháp tăng cường hỗ trợ KH&CN, phối hợp, lồng
ghép với các chương trình, dự án khác trên địa bàn, cả về nội dung cũng như nguồn tài chính.
Trách nhiệm cao nhất trong chỉ đạo thực hiện các dự án trình diễn ứng dụng KH&CN tại địa phương nên thuộc về lãnh đạo
chính quyền các cấp. Lãnh đạo địa phương phải có trách nhiệm chỉ đạo các ngành có liên quan và phối hợp các nguồn lực
để triển khai thực hiện các dự án trình diễn ứng dụng KH&CN.
- Ðối với cơ quan khoa học. Rút kinh nghiệm điều chỉnh phương pháp phổ biến khoa học và CGCN, xuất phát từ những thực
tế khó khăn của địa bàn nông thôn miền núi.
- Ðối với bản thân người nông dân (doanh nghiệp, chủ trang trại, chủ hộ sản xuất kinh doanh, hộ gia đình). Là đối tượng
trung tâm, là người thụ hưởng của các dự án mô hình, bản thân người dân phải có mong muốn vươn lên làm giầu. Từ đó sẽ
có ý thức tìm tòi thông tin, học hỏi, tiếp nhận công nghệ mới, áp dụng vào sản xuất nhằm nâng cao đời sống của gia đình,
góp phần xây dựng và phát triển nông thôn bền vững
Chuyển giao công nghệ cho nông dân: Bao giờ “cờ” mới đến “tay”?
Ngày cập nhật: 8/11/2004
Nguồn tin: SGGP, 7/11/2004

Theo đánh giá của các nhà khoa học, trong vòng 5 năm gần đây, công nghệ đã đóng góp
khoảng 30% trong giá trị tăng trưởng của nông nghiệp ở nước ta. Thế nhưng, những công nghệ
đã được áp dụng hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu.
Ít thuận lợi, nhiều rào cản
GSTS Võ Tòng Xuân đưa ra một thông tin ấn tượng: “Hàng năm, các nước trên thế giới chi gần
50 tỷ USD cho các nhà khoa học, viện nghiên cứu… để phát triển con người, nhưng trên trái đất
vẫn còn gần 1 tỷ người sống trong nghèo đói. Ở nước ta, thành quả KHCN không ít, thậm chí có
thể nói là phải “trùm mền” ở các viện, trường, nhưng nông dân vẫn đói công nghệ là một nghịch
lý khó chấp nhận”.
Sản xuất lúa hiện nay ở ĐBSCL dựa vào kinh nghiệm truyền thống là chính.
Tiến sĩ Nguyễn Bảo Vệ (Khoa Nông nghiệp – ĐH Cần Thơ) đã làm một nghiên cứu nhỏ về
những rào cản. Theo ông, 5 yếu tố ảnh hưởng đến “đường đi” của công nghệ xuống đồng

ruộng, đó là cơ sở hạ tầng, thị trường, hình thức khuyến nông, trình độ nắm bắt của nông dân
và phương pháp khuyến nông đều chưa phù hợp.
Nông dân Võ Ngọc Triểm – “vua” nhân giống lúa ở An Giang bộc bạch: “Hầu hết bà con đều
ngại làm theo khuyến cáo, vì lỡ có chuyện gì xảy ra thì ai chịu trách nhiệm?”. Trong thực tế sản
xuất ở ĐBSCL đã từng xảy ra chuyện cung cấp giống cây kém chất lượng, khi trồng đến tuổi
cho trái thì không ra trái, cả nhà nông lẫn nhà cung cấp giống đều “dở khóc, dở mếu”.
Đẩy mạnh chuyển giao bằng cách nào?
GSTS Võ Tòng Xuân cho rằng nông dân hiện nay rất cần kỹ thuật cao; cần được các nhà khoa
học, quản lý và nhà nước chăm sóc tốt hơn nữa. Điều này phải cụ thể hóa bằng chính sách. Với
quan điểm tương tự, GSTS Phạm Văn Biên khẳng định: “Công nghệ muốn nhanh chóng được
nông dân chấp nhận và áp dụng rộng rãi thì phải thực hiện sự vượt trội cả về khía cạnh kỹ thuật
lẫn hiệu quả kinh tế, nghĩa là giá thành phải hạ và chất lượng phải cao”. Thế nhưng, chuyển
giao bằng cách nào và làm thế nào để nông dân đón nhận công nghệ không là chuyện đơn giản.
TS Lê Minh Sắc – Vụ phó Vụ KH- CN (Bộ KH-CN) đề xuất: “Khi chuyển giao cho nông dân phải
có phương thức phù hợp, có mục tiêu sản xuất rõ ràng, phải phù hợp với trình độ và khả năng
của nông dân. Chuyển giao công nghệ bằng nhiều con đường, nhưng trên mô hình và máy móc,
thiết bị cụ thể là chính. Việc xây dựng các mô hình trình diễn luôn có vai trò hết sức quan trọng.
Trăm nghe không bằng một thấy. Thông qua hiệu quả các mô hình trình diễn, người nông dân
sẽ dễ dàng tiếp thu và tin tưởng vào các tiến bộ KHCN được giới thiệu”.
Hiện nay ở ĐBSCL, Nông trường sông Hậu là đơn vị tiên phong khi áp dụng nhiều hình thức
chuyển giao hiệu quả, thông qua sự liên kết với Viện lúa ĐBSCL, Trường ĐH Cần Thơ, Viện
Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam, thường xuyên giới thiệu, trình diễn nhiều mô hình mới trong
canh tác, thu hoạch, như máy sạ hàng, công nghệ bảo quản trái xoài… Thế nhưng, nỗ lực trên
vẫn là ít ỏi so với thực tế mênh mông của sản xuất nông nghiệp trong khu vực.
Nhìn nhận vấn đề này, ông Huỳnh Thế Năng – Giám đốc Sở NN-PTNT An Giang cho rằng: “Ở
các địa phương, nông dân tiếp nhận công nghệ rất máy móc, thậm chí đã đơn giản hóa quy
trình công nghệ một cách tối đa. Vì thế, muốn chuyển giao công nghệ thành công và bền vững
phải có mạng lưới cán bộ khoa học cấp cơ sở có trình độ trung cấp trở lên tiếp nhận trước rồi
hướng dẫn cụ thể cho nông dân”.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ KHKT cấp cơ sở hiện nay hết sức mỏng. Cần Thơ là một ví dụ.

Quận, huyện nào cũng có phòng KH-CN, nhưng biên chế thấp, chính sách không rõ ràng, nên
cán bộ ở đây chỉ đảm đương được công việc quản lý nhà nước.
Trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, nhu cầu của sản xuất đối với KHCN là rất lớn và rất
đa dạng nhưng thường mang tính thời vụ, sức mua của người dân có hạn, do vậy, lựa chọn
công nghệ nào để phổ biến có hiệu quả là một bài toán khó. Vấn đề đặt ra là làm thế nào mở
cửa thị trường và mạng lưới thông tin để nông dân tiếp cận thiết bị công nghệ mới hiệu quả
nhất.
Tiến sĩ Lê Quốc Doanh – Viện Khoa học nông nghiệp cho rằng các nhà khoa học trưng bày, giới
thiệu công nghệ ở các hội chợ triển lãm, trên phương tiện thông tin đại chúng, nhưng thường
dừng lại ở mức độ chung chung, không nói rõ bán công nghệ ở đâu, giá bao nhiêu, làm hiệu
quả thông tin rất thấp, khả năng bán công nghệ bị hạn chế nhiều. Vì vậy, mở rộng dạng lưới
thông tin đến tận hộ nông dân là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, do trình độ của nông dân ĐBSCL nói chung còn thấp, nên việc đào tạo nâng cao kiến
thức KHCN cho nhà nông là việc làm cần thiết. Ai sẽ làm việc này? Giám đốc Sở NN-PTNT An
Giang Huỳnh Thế Năng đề xuất phương án khuyến nông 4 thành phần như liên kết 4 nhà đối
với sản xuất, đó là sự kết hợp giữa nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và… nhà báo.
Ông Năng cho rằng, hiện nay, các chương trình khuyến nông, phổ biến kiến thức KHKT trên
truyền hình quá ít, mà chương trình giải trí thì nhiều, trong khi ở các nước trong khu vực, truyền
hình đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ cho người dân…
TRẦN MINH TRƯỜNG
Giải pháp phát triển kinh tế trang trại
( Thời gian đăng : 16:51:03 24/02/2009 )
Xin cho biết những giải pháp chủ yếu về quản lý kinh tế trang trại của nhà nước. Những chính sách này
có ảnh hưởng thế nào tới sự phát triển của mỗi trang trại?
Câu trả lời
Sau một thời gian nhất định (thường là ừt 2 đến 10 năm trở lên) mỗi địa phương và trên phạm vi toàn quốc nên
tổng kết quá trình phát triển hệ thống trang trại “tự phát” theo kinh tế hàng hoá chủ yếu nhờ chính sách đổi mới và
sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó tạo ra. Trên cơ sở đó, các cấp lãnh đạo sẽ chỉ ra những ưu điểm
để phát huy và những khuyết điểm để khắc phục với những chủ trương và chính sách kinh tế – xã hội tương ứng.
Đó chính là sự đổi mới chính sách vĩ mô của nhà nước trên cơ sở thực tiễn kinh tế.

Về câu hỏi của bạn, chúng tôi cùng trao đổi về những tác động của hệ thống chính sách kinh tế nhà nước đến việc
phát trểin và quản lý kinh tế trang trại như sau:
Nói chung thì những luật lệ và hệ thống chính sách bao giờ cũng trực tiếp và gián tiếp tác động đến nông nghiệp,
nông dân. Do điều kiện không cho phép nên ở đây, chúng tôi chỉ đến một số chính sách có liên quan đến việc quản
lý kinh doanh của trang trại.
+ Chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Chính sách thị trường của nhà nước không ngoài mục đích tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho người sản xuất. Những
chính sách này thể hiện bằng cách tổ chức dự báo thị tường, mở rộng hình thức thông tin kinh tế để tăng khả năng
tiếp thị cho nông dân và các chủ trang trại nói riêng.
+Hiện nay, sự nhất thể hoá thị trường trong nước và tiếp cận với thị trường nước ngoài đã có tiến bộ. Tuy
nhiêncũng có một thực trạng là “dễ mua, khó bán”, sản phẩm làm ra phải chất đống để chờ thị trường là chuyện
khá thường xuyên. Do đó, nhà nước cùng các hình thức tổ chức kinh tế cần có biện pháp để giữ giá ổn định một số
mặt hàng thiết yếu nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà kinh doanh và người tiêu dùng.
+ Về chính sách vốn đầu tư và tín dụng.
Trước hết là chính sách khơi dậy nguồn vốn trong dân, khuyến khích thực hiện “tiết kiệm là quốc sách” để đầu tư
tạo lập trang trại, mở rộng quá tình kinh doanh. Đồng thời nhà nước cần có cính sách “khơi trong hút ngoài” nhằm
huy động được vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế –
xã hội cho nông thôn như: Thuỷ lợi, đường xá, giao thông, điện, thông tin liên lạc, các cơ sở văn hoá, giáo dục y
tế…
Mở rộng tín dụng của nhà nước và của nhân dân, đồng thời khuyến khích các hình thức tín dụng hợp tác tự nguyện.
+Chính sách khoa học công nghệ.
Để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, khoa học kỹ thuật và công nghệ có vị trí đặc biệt quan trọng. Do
đó các chủ trang trại cũng như các nhà nông luôn luôn mong muốn nhà nước không ngừng hoàn thiện các chính
sách: đầu tư nghiên cứu lai tạo, tuyển chọn các giống cây giống con mới, có năng suất cao, chất lượng tốt, thích
nghi với từng vùng sinh thái.
Nhà nước bảo đảm hệ thống giống quốc gia, trên cơ sở đó hướng dẫn các nhà nông, các chủ trang trại đưa giống
mới vào kinh doanh. Cùng với giống mới phải có chính sách đổi mới kỹ thuật canh tác bằng cách vừa coi trọng, tận
dụng những công nghệ truyền thống, vừa đẩy mạnh ứng dụng quy trình công nghệ tiên tiến. Đây là những việc làm
vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm nhất là những sản phẩm chủ lực cho
nhu cấu thị trường trong và ngoài nước, bảo đảm cho các chủ kinh doanh đạt được mục đích kinh doanh có lãi.

Cùng với đó, chính sách của nhà nước cần phải hướng vào thực hiện yêu cầu nông lâm kết hợp, xây dựng nông thôn
mới và bảo vệ, phát triển môi trường mới ngày càng tốt hơn. Do đó, nhà nước cần đổi mới, tổ chức các viện nghiên
cứu khoa học vừa đủ mạnh, vừa gắn với tổ chức kinh doanh trên cơ sở xây dựng các trung tâm khoa học cho từng
vùng sao cho sát và đúng với yêu cầu phát triển cây, con ở đó.
Đặc biệt, nhà nước cùng các cấp các ngành cần có chính sách khen thưởng trọng dụng và biết sử dụng những cán
bộ khoa học kỹ thuật có năng lực thực lực, có những sáng tạo và đóng góp cho sự nghiệp khoa học kỹ thuật và
công nghệ trong nông nghiệp – nông thôn.
+ Chính sách ruộng đất và chính sách thuế sử dụng các loại đất, thuỷ lợi phí, điện, thuế thu nhập.
Có thể nói, đây là những chính sách có quan hệ tực tiếp đến lợi ích của các nhà kinh doanh – các chủ trang tại.
Thứ nhất là chính sách ruộng đất, ở nước ta, nhà nước thực hiện chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài
cho nông dân theo luật đất đai. Khi đã được giao ruộng đất, người nông dân có quyền sử dụng, chuyển đổi, chuyển
nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê. Tất nhiên, đồng thời với đó là nghĩa vụ nộp thuế, bồi dưỡng, bảo vệ,cải tạo,
phát triển môi trường… như chính sách đã quy định.
Thứ hai, nhà nước thay thế nông nghiệp bằng thuế sử dụng đất, đồng thời dành toàn bộ thuế sử dụng đất để đầu tư
lại cho nông nghiệp và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, thực hiện chiến lược xây dựng nông thôn mới.
Ba là, nhà nước miễn hoặc giảm thuế đất đối với một số vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, gia đình thuộc hộ
chính sách và hộ nông dân nghèo có khó khăn.
Bốn là, nhà nước có giải pháp để giảm giá dịch vụ thuỷ lợi và giá điện cho nông dân trên cơ sở đổi mới quản lý,
giảm giá thành dịch vụ của các xí nghiệp, công ty thuỷ nông và điện.
+ Chính sách này thể hiện ở việc tổ chức khuyến nông thành hệ thống mạnh và đa dạng từ trung ương xuống đến
cơ sở, giống như ở An Giang và một số nơi khác đã cho kết quả tốt. Khuyến khích thành lập các tổ chúc khuyến
nông tự nguyện. Có chính cách thu hút sự đóng góp của các tổ chức trong nước và tài trợ của nước ngoài cho công
tác khuyến nông.
Hơn nữa, kinh nghiệm cho thấy, một trong những đặc điểm mang tính chất đổi mới của dự án khuyến nông là việc
sử dụng các phương tiện đại chúng để phổ biến thông tin về công nghệ mới cho mỗi vùng. Gắn nó với việc nâng cao
trình độ dân trí nhất trí là ở vùng cao, vùng xa, vùng sâu… Các chủ trang trại thường đã có trình độ văn hoá cao
hơn nên có thuận lợi hơn.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn – một giải pháp để phát triển kinh tế trang trại trong thời gian tới.
Mặc dù kinh tế trang trại ở một số điạ phương đã phát triển tương đối nhanh nhưng nhìn chung phát triển không
đều và chậm, nhất là những vùng và tiểu vùng đất hẹp người đông, bình quân diện tích thấp như ở đồng bằng Sông

Hồng. Bởi vậy, có tình hình chung là sức lao động ở nông thôn đang dư thừa không dưới 30%, có nơi lên đến hơn
50%. Trong khi đó nền công nghiệp và dịch vụ của nước ta nói chung và ở nông thôn nói riêng còn rất nhỏ bé và
nhiều nơi có xu hướng giảm xuống nên lực lượng lao động ngày càng tập trung vào làm nông nghiệp. Đó là nguyên
nhân căn bản, khó có thể tập trung ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại theo đúng nghĩa của nó. Do đó, một
yêu cầu khách quan đặt ra là phải có chính sách phát triển công nghiệp – dịch vụ và nông thôn, cải tiến cơ cấu kinh
tế nông thôn theo hướng phát triển nhanh, vững chắc có hiệu quả công nghiệp – dịch vụ. Trong đó, phát triển đa
dạng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp nông thôn, trước hết là công nghiệp chế biến nông – lâm – thuỷ sản… Cần
đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển các làng nghề để trước hết là giải quyết việc làm tại chỗ cho số lao động
đang dư thừa. Đồng thời tuỳ theo điều kiện, theo khả năng, theo sở thích mà một số chủ nông hộ thường là thanh
niên sẽ chuyển nhượng, cho thuê ruộng đất để chuyển sang nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp – dịch vụ tại
nông thôn, thực hiện chính sách “ly nông bất ly hương”. Hơn nữa, khi công nghiệp, dịch vụ tại thành phố phát triển
mạnh thì một số thanh niên nông thôn có thể chuyển ra thị trấn, thị tứ, thị xã, thành phố để làm các nghề cho thích
hợp. Từ đó mà khả năng chuyển nhượng, ho thuê ruộng đất cho một số người khác để tạo lập trang trại theo những
mô hình thích hợp, có hiệu quả kinh doanh cao sẽ được tiếp tục hình thành.
+ Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày về kiến thức quản lý kinh doanh cho chủ trang trại hoặc kế
toán trưởng của trang trại.
Từ thực tế cho thấy, việc này đã và đang trở thành yêu cầu cấp thiết. Chẳng hạn như trong việc lập hệ thống kế
hoạch hành động cho trang trại dù có được cung cấp tài liệu nhưng phần lớn chủ trang trại chưa có năng lực, chưa
có kiến thức để tự lập, vì đây là vấn đề mới, họ chưa có kinh nghiệm, chưa được đào tạo, tập huấn, đây là một yếu
tố cần thiết đối với mỗi chủ trang trại nhưng họ khó có thể tự giải quyết nên cần phải có chính sách giúp đỡ mở
trường lớp của nhà nước, đây cũng là một chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.

×