Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện bắc trà my, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.94 KB, 52 trang )

Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp này tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của nhiều tập thể, cá nhân và qua đây cho phép tôi gởi lời cảm ơn
chân thành nhất.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn sự dìu dắt, dạy dỗ của các thầy
cô giáo trong trường Đại Học Kinh Tế Huế, đặc biệt là thầy cô trong khoa
Kinh Tế Chính Trị.
Đặc biệt gởi lời cảm ơn chân thành đến thầy Th.S Nguyễn Hữu Lợi,
người đã định hướng nghiên cứu và chỉ dẫn tận tình tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành tới các anh, chị, cô, chú, cán bộ
đang làm việc tại Phòng Lao động – thương binh và xã hội huyện Bắc Trà
My đã tạo mọi điều kiện và giúp đỡ tận tình tôi trong suốt quá trình thực
tập tại địa phương.
Do năng lực nghiên cứu và thời gian có hạn nên đề tài chỉ nghiên cứu
những vấn đề mang tính cốt lõi và tổng quan nhất. Bên cạnh đó thì kết quả
nghiên cứu của đề tài tốt nghiệp chắc chắc không tránh khỏi những sai sót
và hạn chế về cả nội dung và hình thức. Rất mong sự đóng góp của quý
thầy cô và bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hoài Trinh
DANH MỤC VIẾT TẮT
XĐGN : Xóa đói giảm
nghèo
WB : Ngân hàng thế giới
CTTD : Chương trình tín dụng
CSXH : Chính sách xã hội
LĐ : Lao động
TT : Thị trường
DTTS : Dân tộc thiểu số


LĐ-TB&XH : Lao động - thương binh và xã hội
UBND : Ủy ban nhân dân
HSSV : Học sinh sinh viên
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Tình hình đói nghèo của đồng bào thiểu số huyện Bắc Trà My 20
Bảng 2: Tỉ trọng sản xuất theo ngành nghề của các hộ nghèo năm 2013 22
Bảng 3: Thực trạng nhà ở huyện Bắc Trà My 23
Bảng 4: Giá trị tiện nghi sinh hoạt của hộ nghèo 25
Bảng 5 : Thực trạng đời sống sinh hoạt cơ bản và tình trạng vay vốn của hộ nghèo tại
huyện Bắc Trà My 26
Bảng 6 : Nguyên nhân đói nghèo tại huyện Bắc Trà My 26
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tình hình đói nghèo của đồng bào thiểu số ở huyện Bắc Trà My 20
Biểu đồ 2: Thực trạng nhà ở Huyện Bắc Trà My 24
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là một vấn đề kinh tế-xã hội có tính toàn cầu, là sự thể hiện tính công
bằng trong phân phối và chuyển tải các thành quả về phát triển kinh tế đến việc cải
thiện chất lượng cuộc sống cho mọi người dân. Vì vậy, để đảm bảo công bằng xã hội,
để nâng cao tiếng nói trên trường quốc tế thì không riêng Việt Nam mà tất cả các nước
đều phải chú ý thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo. Ngày nay giải quyết vấn đề
đói nghèo đã được đặt thành nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng của Việt Nam. Việc đưa
xóa đói giảm nghèo lên tầm chương trình mục tiêu quốc gia đã minh chứng điều này.
Trong thời kỳ nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH, HĐH), phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề XĐGN càng khoá khăn
và phức tạp hơn so với thời kỳ trước. Muốn đạt được hiệu quả thiết thực nhằm giảm
nhanh tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức sống cho người dân thì mỗi địa phương, mỗi vùng
phải có chương trình XĐGN riêng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

Bắc Trà My là huyện miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam với ¾ dân số thuộc đồng
bào dân tộc ít người, trong những năm gần đây được sự quan tâm đầu tư của tỉnh, sự
nỗ lực cố gắng của lãnh đạo và nhân dân toàn huyện nên tình hình kinh tế - xã hội đã
có những bước chuyển biến tích cực, sản xuất phát triển, đời sống nhân dân ngày càng
được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo đói hàng năm giảm từ 2-3%. Tuy nhiên, Bắc Trà My
vẫn là huyện nghèo, có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất và thu nhập trung bình gần thấp nhấp
của tỉnh. Vấn đề đặt ra ở đây là: với tình hình, thực trạng nghèo đói của Bắc Trà My
như vậy,tỉnh Quảng Nam, huyện đã có những chính sách gì, bằng cách nào, thực hiện
các giải pháp nào để đẩy mạnh quá trình xoá đói giảm nghèo, từng bước ổn định đời
sống của các hộ nghèo, từ đó tạo những điều kiện, tiền đề thuận lợi để các hộ vươn lên
thoát nghèo và không bị tái nghèo. Đây là vấn đề rất bức thiết đối với Bắc Trà My cần
sớm được nghiên cứu giải quyết.
Nhận thức được những thành tựu và hạn chế của công cuộc XĐGN ở huyện,hơn
nữa trên địa bạn huyện Bắc Trà My chưa có ai nghiên cứu vấn đề này, vì vậy tôi đã lựa
chọn đề tài nghiên cứu:” Xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện
Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.”
1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng đói nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số ở
huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp thiết thực
nhằm nâng cao hiệu quả xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện
Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản lí luận và thực tiễn về đói nghèo và xóa đói
giảm nghèo.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, Tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả xóa đói giảm
nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói
giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số huyện Bắc Trà My, Tỉnh Quảng Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói
giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
- Về không gian: Huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam
- Về thời gian: Từ năm 2009 đến năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: nghiên cứu, phân tích vấn
đề một cách khoa học, khách quan.
- Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập tài liệu thứ cấp: thu thập tài liệu, số
liệu báo cáo từ UBND, phòng thống kê, phòng LĐ-TB&XH huyện; tra cứu các thông
tin từ sách, báo, tạp chí, Internet…
- Phương pháp tổng hợp và xử lí số liệu: dựa trên các số liệu sơ cấp và thứ cấp
thiết lập các bảng biểu phản ánh một cách khoa học các số liệu đã thu thập được để
2
thuận tiện cho việc phân tích, đánh giá, so sánh. Sử dụng máy tính, phần mềm Excel,
Word để tính toán, so sánh, thể hiện số liệu.
5. Đóng góp của đề tài
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu.
- Giúp chính quyền địa phương nắm bắt cụ thể và rõ ràng hơn về thực trạng đói
nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo ở địa phương, từ đó kiểm tra rà soát lại công tác
tổ chức thực hiện và tham khảo một số giải pháp mà đề tài đưa ra để nâng cao hiệu quả
công tác này.
6. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về xóa đói giảm nghèo
Chương 2: Thực trạng nghèo đói và công tác xóa đói giảm nghèo cho đồng bào

dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, Tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả xóa đói giảm nghèo
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, Tỉnh Quảng Nam.
3
II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHÈO ĐÓI
1.1. Khái niệm và tiêu chí đánh giá đói nghèo
1.1.1. Một số khái niệm đói nghèo
1.1.1.1. Khái niệm về nghèo
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính chất toàn cầu. Nó không
chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà nó còn tồn tại ngay tại các
quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, thể chế
chính trị xã hội và điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà tính chất, mức độ nghèo đói
của từng quốc gia có khác nhau. Nhìn chung mỗi quốc gia đều sử dụng một khái niệm
để xác định mức độ nghèo khổ và đưa ra các chỉ số nghèo khổ để xác định giới hạn
nghèo khổ. Giới hạn nghèo khổ của các quốc gia được xác định bằng mức thu nhập tối
thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó là mức thu nhập mà một hộ gia đình có thể
mua sắm được những vật dụng cơ bản phục vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu
thiết yếu khác theo mức giá hiện hành.
Tại hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực châu Á - Thái
Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Băng Cốc Thái Lan tháng 9.1993 đã đưa ra khái
niệm về nghèo đói như sau: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận
tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của các địa phương.
Theo định nghĩa này thì mức độ nghèo đói ở các nước khác nhau là khác nhau.
Theo số liệu của ngân hàng thế giới thì hiện nay trên thế giới có khoảng 1,3 tỷ người
sống dưới mức nghèo khổ, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em.
Ở nước ta căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của nhân dân
trong những năm qua thì khái niệm đói nghèo được xác định như sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả mãn những

nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống
của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng
quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của
4
từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể
của từng địa phương hay từng quốc gia.
Ta có thể tiếp cận khái niệm nghèo ở hai phương diện, đó là nghèo tuyệt đối và
nghèo tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối (Absolte poverty): là việc một bộ phận dân cư không có khả
năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản cho cuộc sống con người. Tình trạng nghèo tuyệt
đối xảy ra khi thu nhập hay mức tiêu dùng của một người hay hộ gia đình giảm xuống
thấp hơn chuẩn nghèo đói.
+ Nghèo tương đối (Relative poverty): là tình trạng không đạt tới mức sống tối
thiểu tại một thời điểm trong một không gian xác định nào đó và được xác định khi so
sánh mức sống của cộng đồng hay nhóm dân cư này với cộng đồng hay nhóm dân cư
khác hoặc giữa các vùng với nhau.
1.1.1.2. Khái niệm về đói
Đói là một khái niệm biểu đạt tình trạng con người ăn không đủ no, không đủ
năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và không đủ sức lao động
để tái sản xuất sức lao động.Đói có hai trường hợp là đói gay gắt và đói kinh niên:
Đói kinh niên:là tình trạng người ăn không đủ no, không đủ năng lượng để duy
trì sự sống hàng ngày.
Đói gay gắt: là đói kinh niên nhưng con người trong hoàn cảnh đột xuất bất ngờ
do thiên tai, lũ lụt không còn gì để sống và có thể dẫn đến cái chết.
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở Việt Nam
1.1.2.1. Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, những biến động về chính trị - xã hội, chiến tranh, thiên tai, dịch
bệnh, điều kiện sản xuất khó khăn là một trong những nguyên nhân làm cho người dân
rơi vào tình trạng nghèo đói. Do nguồn thu nhập bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên

họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống như mất mùa,
thiên tai, tai nạn, ốm đau Những vùng có khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão lụt, hạn
hán thường xuyên, địa hình phức tạp, kinh tế chậm phát triển, chịu nhiều hậu quả của
chiến tranh thường có tỉ lệ hộ nghèo cao hơn. theo báo cáo của Bộ LĐ - TB&XH, ước
tính tỉ lệ hộ nghèo các vùng trong cả nước đến cuối năm 2013 như sau: Đông Bắc:
5
14,39%; Tây Bắc: 27,3%; Đồng bằng sông Hồng: 5,43%; Bắc Trung Bộ: 16,04%;Tây
Nguyên: 11,51%; Duyên hải miền Trung: 10,47%; Đông Nam Bộ: 2,59%; Đồng bằng
sông Cửu Long: 7,32%.
- Thứ hai, những rủi ro gặp phải trong cuộc sống như ốm đau, tai nạn lao động, tai
nạn giao thông, thất nghiệp… trong khi không có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu,
khả năng đối phó và khắc phục rủi ro kém đều là những nguyên nhân khiến cho các gia
đình lâm vào tình trạng sa sút, nghèo đói.
- Thứ ba, cơ chế quản lí kinh tế, xã hội không phù hợp, quá trình sắp xếp, cơ cấu nền
kinh tế ảnh hưởng đến khả năng giải phóng năng lực sản xuất, tốc độ phát triển kinh tế và
hiệu quả của các chương trình XĐGN thấp đều làm tăng thêm nghèo đói trong xã hội.
- Thứ tư, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác XĐGN
thiếu hoặc không đồng bộ, chậm triển khai về cơ sở, nguồn lực đầu tư còn hạn chế,
nạn tham nhũng của các cán bộ lãnh đạo… cũng là những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng đói nghèo.
1.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Xét ở góc độ chủ quan, nghèo đói xuất phát từ các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội tiếp cận với
khoa học kĩ thuật tiên tiến trong sản xuất và khả năng tìm kiếm các công việc trong lĩnh
vực phi nông nghiệp thấp. Vì vậy cơ hội nâng cao thu nhập, vươn lên thoát nghèo của
họ thường thấp. Mặt khác do kiến thức hạn chế nên họ không có khả năng phân tích
những biến động của thị trường để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi sang những giống cho thu nhập cao hơn, đáp ứng nhu cầu của
thị trường.
- Thứ hai, đối với các hộ gia đình có thu nhập thấp, trong khi nền kinh tế ngày

càng phát triển thì thu nhập của họ chỉ đủ chi tiêu cho các khoản sinh hoạt hàng ngày. Vì
thế họ không đủ vốn để sản xuất, kinh doanh hoặc nếu có thì nguồn vốn thường nhỏ lẻ,
manh mún. Thiếu vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh cũng là nguyên nhân khiến cho các
hộ nghèo rơi vào vòng lẩn quẩn của đói nghèo và không có động lực để thoát ra khỏi
vòng lẩn quẩn đó.
6
- Thứ ba, qui mô hộ gia đình lớn, bởi qui mô hộ gia đình ảnh hưởng đến nhiều yếu
tố kinh tế - xã hội. Những hộ gia đình sinh nhiều con, đẻ dày một mặt sẽ hạn chế sức lao
động của người mẹ, mặt khác phải tốn thêm một khoản chi phí không ít để nuôi con
nhỏ, chưa kể đến việc sức khỏe của người mẹ cũng bị ảnh hưởng khi sinh nhiều con, đẻ
dày. Sinh đẻ không có kế hoạch làm cho qui mô gia đình tăng và tỉ lệ người ăn theo cao
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của hộ.
- Thứ tư, việc chi tiêu không có kế hoạch, không tính toán cũng là một nguyên
nhân chủ quan gây nên nghèo đói. Chi tiêu không có kế hoạch thường dẫn đến tình trạng
thiếu ăn trong những tháng giáp hạt. Do đó, để đảm bảo nhu cầu sinh sống và sản xuất
họ phải vay mượn với lãi suất cao làm cho đời sống càng trở nên khó khăn hơn.
- Thứ năm, một thực tế cho thấy, trong những gia đình có người mắc các tệ nạn xã
hội (rượu chè, cờ bạc, ma túy…), ốm yếu, bệnh tật là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp
đến thu nhập và chi tiêu của họ, họ phải chịu hai gánh nặng khi vừa mất đi thu nhập từ
lao động đó, lại phải chi phí cao cho khám chữa bệnh, mua rượu, thuốc, ma túy… đây
cũng là nguyên nhân đẩy họ vào vòng lẩn quẩn của nghèo đói.
- Thứ sáu, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự trợ giúp của xã hội, lười lao động,
không có ý thức vươn lên thoát nghèo cũng là một nguyên nhân chủ quan gây nên
nghèo đói và hiện tượng “tái nghèo”.
1.1.3. Khái niệm về xóa đói, giảm nghèo
1.1.3.1. Khái niệm về xóa đói
Xóa đói là làm cho bộ phận dân cư nghèo sống dưới mức tối thiểu và thu nhập
không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì mức sống, từng bước nâng cao mức
sống đến mức tối thiểu, và có thu nhập đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
cuộc sống.

1.1.3.2. Khái niệm về giảm nghèo
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước
thoát khỏi tình trạng nghèo. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ % và số lượng người nghèo
giảm xuống. Nói một cách khác, giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư
nghèo lên một mức sống cao hơn. Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ tình
7
trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải
thiện đời sống mọi mặt của mỗi người.
1.1.4. Các chuẩn mực phân định nghèo đói:
 Cách phân định của Thế giới
Chuẩn nghèo là một chỉ tiêu để phân biệt người nghèo với người không nghèo.
Trên thế giới có rất nhiều thước đo khác nhau về nghèo đói, tùy từng điều kiện cụ thể
mà mỗi nước có thể lựa chọn cho mình phương pháp xác định phù hợp. Chuẩn nghèo
được phân định theo một số quan niệm sau:
Trong chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc năm 1997, Ngân hàng Thế giới
(WB) đưa ra kiến nghị thang đo nghèo đói như sau: (lấy mức thu nhập năm 1990)
+ Trên 25.000 USD/năm: Cực giàu
+ Từ 10.000 USD/năm đến dưới 25.000 USD/năm: Khá giàu
+ Từ 2.500 USD/năm đến dưới 10.000 USD/năm: Trung bình
+ Từ 500 USD/năm đến dưới 2.500 USD/năm: Nghèo
+ Dưới 500 USD/năm: Cực nghèo.
Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm của từng quốc gia mà có tiêu chí đánh giá nghèo
đói khác nhau. Theo WB, người được coi là nghèo đói khi có thu nhập như sau:
+ Đối với các nước nghèo: Các cá nhân bị coi là nghèo đói khi có mức thu nhập
dưới 0,5 USD/ngày
+ Các nước đang phát triển: 1 USD/ngày
+ Các nước thuộc châu Mĩ La Tinh và Caribe: 2 USD/ngày
+ Các nước Đông Âu: 4 USD/ngày
+ Các nước công nghiệp phát triển: 14,4 USD/ngày.
Dựa vào kết quả điều tra mức sống dân cư, WB đã đưa ra 2 chuẩn nghèo:

+ Chuẩn nghèo lương thực: theo đó, lượng lương thực thực phẩm tiêu thụ phải
đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng calo là 2.100 Kcalo/người/ngày.
+ Chuẩn nghèo chung: là chuẩn nghèo bao gồm cả chi tiêu cho sản phẩm phi
lương thực. Từ năm 1981, chuẩn nghèo toàn cầu được áp dụng ở mức thu nhập 1
USD/ngày/người. Chuẩn nghèo này đã được điều chỉnh thành 1,25 USD/ngày/người kể
8
từ năm 2005, và đến đầu năm 2008 chuẩn nghèo này là 2 USD/ngày/người, sau khi tính
đến yếu tố lạm phát.
 Cách phân định của Việt Nam
Tổng cục Thống kê đã thống nhất với quan điểm của WB về mức tiêu thụ 2.100
Kcalo/người/ngày và cho rằng đây là chuẩn nghèo tuyệt đối hoàn toàn phù hợp với tình
hình kinh tế nước ta.
Bộ LĐ - TB&XH, cơ quan thường trực chương trình mục tiêu Quốc gia về
XĐGN đã sử dụng phương pháp nhu cầu dinh dưỡng kết hợp chi tiêu tối thiểu để xác
định chuẩn nghèo đói. Theo đó, nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu để duy trì cuộc sống là
2.100 Kcalo/người/ngày và nhu cầu chi tiêu tối thiểu gồm 8 khoản: ăn, mặc, ở, văn hóa,
giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp. Trong đó chi tiêu cho ăn uống ở nông thôn chiếm 80%
tổng chi tiêu và thành thị là 75%.
Từ 1996 trở về trước, chuẩn nghèo đói của nước ta tính theo mức chi tiêu bằng
lương thực (qui thóc), từ năm 1996 trở đi mới tính theo giá trị bằng tiền.
Từ những năm 1991, 1992, Bộ LĐ - TB&XH đã tiến hành khảo sát, điều tra
nghiên cứu để xác định chuẩn nghèo đói của Việt Nam. Theo đó từ năm 1996 đến nay,
nước ta đã năm lần công bố chuẩn nghèo cho phù hợp với tình hình phát triển của đất
nước như sau:
- Vào năm 1996, hộ đói được xác định là hộ có mức thu nhập bình quân đầu
người/tháng qui gạo là 13kg; Hộ nghèo được xác định theo 3 mức:
+ Dưới 25kg/người/tháng đối với thành thị;
+ Dưới 20kg/người/tháng đối với nông thôn đồng bằng, trung du;
+ Dưới 15kg/người/tháng đối với nông thôn miền núi, hải đảo.
- Giai đoạn 1997 - 2000

Chuẩn nghèo dưới đây tính cho cả gạo và qui ra tiền theo giá năm 1997 cho tất cả
các vùng, cụ thể:
+ Hộ đói: dưới 13kg gạo/người/tháng, tương đương với 45.000 đồng;
+ Hộ nghèo vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg gạo/người/tháng, tương
đương 55.000 đồng;
9
+ Hộ nghèo vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg gạo/người/tháng
tương đương 70.000 đồng;
+ Hộ nghèo thành thị: dưới 25kg gạo/người/tháng tương đương 90.000 đồng.
- Giai đoạn 2001 - 2005
So với giai đoạn 1996 -2000, chuẩn nghèo giai đoạn này tăng khoản 1,5 lần vì
trong 5 năm (1996 - 2000), mức sống dân cư Việt Nam tăng lên khoảng 1,47 lần và
GDP/người giai đoạn 1991 - 2000 tăng lên 1,91 lần. Do đó Nhà nước đã có sự điều
chỉnh chuẩn nghèo phù hợp và chỉ tính bằng tiền, cụ thể như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.0000 đồng/người/tháng;
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng;
+ Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.
- Giai đoạn 2006 - 2010
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế bước đầu phát triển với tốc độ tăng trưởng
cao. Đời sống nhân dân từ thành thị đến nông thôn, đồng bằng đến miền núi được tăng
lên rõ rệt. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày
08/7/2005 về ban hành chuẩn hộ nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 như sau:
- Đối với hộ nghèo:
+ Khu vực nông thôn: dưới 200.000 đồng/người/tháng;
+ Khu vực thành thị: dưới 260.000 đồng/người/tháng.
- Đối với hộ cận nghèo: là hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người tối đa
bằng 130% mức thu nhập bình quân đầu người theo qui định trên, cụ thể:
+ Khu vực nông thôn: từ 201.000 đồng đến 260.000 đồng/người/tháng;
+ Khu vực thành thị: từ 261.000 đồng đến 338.000 đồng/người/tháng.
- Giai đoạn 2011 - 2015

Theo quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 thì chuẩn nghèo cho giai đoạn
này được áp dụng như sau:
+ Khu vực nông thôn: Thu nhập bình quân 400.000 đồng/người/tháng trở xuống;
+ Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 500.000 đồng/người/tháng trở xuống.
10
Ngoài ra còn ban hành tiêu chuẩn về hộ cận nghèo, theo đó hộ cận nghèo là hộ có
thu nhập bình quân đầu người cao hơn chuẩn nghèo và tối đa bằng 150% chuẩn nghèo,
cụ thể hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng đến
520.000 đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân
từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
Chuẩn nghèo trên được áp dụng cho tất cả các địa phương trong cả nước, tuy nhiên
căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội và kết quả XĐGN của mỗi địa phương
thì địa phương nào có đủ 3 điều kiện sau có thể đưa ra chuẩn đói nghèo của địa phương
cao hơn chuẩn đói nghèo tối thiểu trên, cụ thể:
+ Thu nhập bình quân đầu người của địa phương cao hơn thu nhập bình quân
của cả nước;
+ Có tỉ lệ nghèo thấp hơn bình quân cả nước;
+ Có đủ nguồn lực cân đối cho các giải pháp XĐGN.
Cần lưu ý là khi xác định người nghèo phải gắn chặt với tính thu nhập bình quân
của hộ gia đình, tuy vậy tỉ lệ hộ nghèo không đồng nghĩa với tỉ lệ người nghèo. Thông
thường trong một quốc gia thì tỉ lệ người nghèo bao giờ cũng cao hơn tỉ lệ hộ nghèo, vì
qui mô hộ gia đình của nhóm nghèo thường cao hơn nhóm không nghèo.
1.1.5. Sự cần thiết của chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân hoà giàu
nghèo diễn ra rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm nghèo và giải quyết tốt các
vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về
vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa
tiếp thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời đại.
Xoá đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó còn là vấn đề

kinh tế -xã hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa chính sách kinh tế
với chính sách xã hội.
Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo về kinh tế là
điều kiện tiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xã hội .Vì vậy, phải tiến
hànhthực hiện xoá đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh sống ở vùng cao, vùng
11
sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản
xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông
nghiệp trên toàn quốc theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông
thôn, mở rộng thị trường nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao đông ở nông thôn
vào sản xuát tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để
xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được
xem như là 1 giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoạt cho phát triển ở nông thôn, nhằm xoá
đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay.
Tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở nền kinh tế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó là con đường để cho mọi người vượt qua
đói nghèo, để nhà nước có thêm tiềm lực về kinh tế để chủ động xoá đói giảm nghèo.
Đây là sự thể hiện tư tưởng kinh tế của Hồ Chủ Tịch:" Giúp đỡ người vươn lên khá, ai
khá vươn lên giàu, ai giàu thì vươn lên giàu thêm".Thực hiện thành công chương trình
xoá đói giảm nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập
chính đáng cho người nông dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xoá đói giảm nghèo,
phát triển kinh tế nông thôn còn là nền tảng, là cơ sở để cho sự tăng trưởng và phát
triển 1 nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Hơn thế nữa
nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị xã hội. Xoá đói giảm nghèo nhằm nâng cao
trình độ dân trí, chăn sóc tốt sức khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong
cuộc sống, sớm hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ
xã hội lành mạnh, giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người
nghèo, ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và
chủ trương của đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn xã hội
khác, bảo vệ môi trường sinh thái.

Ngoài ra còn có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm vụ và yêu
cầu xoá đói giảm nghèo thì sẽ không chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng phân
hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp với hậu quả là sự bần cùng hoá
và do vậy sẽ đe doạ tình hình ổn định chính trị và xã hội làm chệch hướng XHCN của
sự phát triển kinh tế -xã hội. Không giải quyết thành công các chương ttrình xoá đói
giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói
12
chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững sẽ không thể thực hiện
được. Không tập trung nỗ lực, khả năng và điều kiện để xoá đói giảm nghèo sẽ không
thể tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự
nghiệp CNH,HĐH đất nước nhằm đưa nước ta đạt tới ttrình độ phát triển tương đương
với quốc tế và khu vực, tháo khỏi nguy cơ lạc hậu và tụt hậu.
1.2 Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo ở các địa phương
1.2.1. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam
Tây Giang là một huyện miền núi nghèo của tỉnh Quảng Nam có nhiều dân tộc
anh em sinh sống và là một trong 61 huyện nghèo của cả nước. Nhằm từng bước đẩy
lùi nghèo đói và đưa địa phương phát triển, những năm qua Tây Giang đã tập trung
nhiều nguồn lực và đưa ra nhiều giải pháp để xóa đói giảm nghèo, mang lại nhiều kết
quả tích cực
Sau 7 năm triển khai thực hiện, kinh tế- xã hội huyện Tây Giang đã có những
chuyển biến tích cực, đời sống mọi mặt của đồng bào được cải thiện, nhiều công trình,
dự án về dân sinh, như: nhà ở, trạm y tế, các công trình thủy lợi, nước sạch, trường
học, điện thắp sáng… được đầu tư xây dựng, từng bước giải quyết những bức xúc của
nhân dân về nhà ở, nước sinh hoạt, khám chữa bệnh. Trong 7 năm (2005-2013) huyện
Tây Giang đã đầu tư xây dựng mới 367 công trình, 3.063 ngôi nhà với tổng vốn đầu tư
trên 298,308 tỷ đồng; đặc biệt trong 2 năm 2009-2010 từ nguồn vốn đầu tư theo Nghị
quyết 30a, huyện đã xây dựng 26 công trình và hỗ trợ xóa 405 nhà tạm cho các hộ
nghèo, hỗ trợ gạo bảo vệ rừng cho 3.628 hộ với 16.340 khẩu ở các thôn biên giới; nhờ
đó đã giúp cho nhiều hộ nghèo ổn định chỗ ở, yên tâm sản xuất, tăng thu nhập, góp
phần cải thiện đời sống.

Chính sách hỗ trợ khám, chữa bệnh cho người nghèo cũng được thực hiện tốt, đã
cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 60.230 lượt người, 58.249 người nghèo được khám, chữa
bệnh miễn phí. Mạng lưới y tế từ huyện đến xã, thôn được củng cố, cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ khám chữa bệnh được tăng cường, đáp ứng nhu cầu khám, chữa
bệnh cho nhân dân. Chính sách tín dụng ưu đãi cho vay hộ nghèo và đối tượng xã hội
được đẩy mạnh, từ năm 2005-2013 đã có 2.078 hộ nghèo được vay vốn với tổng số
tiền hơn 19,50 tỷ đồng, bình quân mỗi năm đã giải quyết hổ trợ cho nhân dân vay hơn
13
5 tỷ đồng để phát triển kinh tế và giúp học sinh, sinh viên nghèo học tập. Huyện Tây
Giang cũng thường xuyên chú trọng thực hiện tốt chính sách trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và nhân dân các xã đặc biệt khó khăn vùng sâu, vùng xa, nhằm giúp nhân
dân nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật, đặc biệt là các chủ trương, chính sách
của Nhà nước về thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo ở địa phương. Đã
thành lập 10 Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý tuyến xã và phối hợp với Trung tâm trợ giúp
pháp lý tỉnh thực hiện chức năng tư vấn pháp luật cho đối tượng là người nghèo, người
có công về những vấn đề liên quan đến cư trú, hộ tịch hộ khẩu, phòng chống bạo lực
gia đình, chế độ chính sách… Tổ chức tập huấn và tăng cường cán bộ khuyến nông-
khuyến lâm về tuyến xã để hướng dẫn cho nông dân về khoa học kỹ thuật sản xuất
nông, lâm nghiệp kết hợp chăn nuôi với thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch
bệnh trên cây trồng, con vật nuôi; nhiều mô hình sản xuất nông, lâm nghiệp được xây
dựng bắt đầu phát huy hiệu quả, giải quyết nhiều lao động, cải thiện thu nhập của hộ
nghèo. Nhờ đó đã góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo từ 2.460 hộ (năm 2005) xuống
còn 1.603 hộ (năm 2013), bình quân mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm gần 8,05%; nhiều
cá nhân đã vượt khó vươn lên làm giàu, trở thành những hộ nông dân sản xuất kinh
doanh gỏi các cấp.
Sở dĩ huyện Tây Giang đạt được như vậy là do các cấp lãnh đạo đã đề ra được
chiến lược giảm nghèo:
Với tinh thần chủ động, vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, đồng thời xuất phát từ thực tiễn tình hình đời sống nhân dân trên địa bàn,
từ năm 2005 Huyện ủy Tây Giang đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/HU về xóa đói,

giảm nghèo giai đoạn 2005-2010. Theo đó, Huyện ủy Tây Giang đã đề ra một số
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện có hiệu quả các chính sách về công tác xóa đói,
giảm nghèo, trong đó huyện đặc biệt ưu tiên đầu tư hỗ trợ cho phát triển sản xuất và
xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ dân sinh; đẩy mạnh công tác tập huấn, hướng dẫn kỹ
thuật, đào tạo cán bộ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi; phân công các cơ
quan, ban ngành thực hiện công tác kết nghĩa giúp các địa phương phát triển kinh tế-
xã hội, thực hiện tốt mục tiêu xóa đói, giảm nghèo…
14
Song song với đẩy mạnh triển khai thực hiện Nghị quyết về xóa đói giảm nghèo,
huyện Tây Giang luôn chú trọng lồng ghép với các chương trình, dự án khác có mục
tiêu giảm nghèo của Trung ương, như: Chương trình 134, Chương trình 135, Nghị
quyết 39, chương trình phát triển chăn nuôi bò, Nghị quyết 30a….
1.2.2. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo ở huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum
Huyện Kon Rẫy là một huyện miền núi thuộc tỉnh Kon Tum với đặc thù là đồng
bào dân tộc thiểu số chiếm 66,44% dân số toàn huyện, nền kinh tế chủ yếu dựa vào
nông nghiệp. Đời sống một bộ phận nhân dân vẫn đang rất khó khăn, yếu kém. Trong
những năm gần đây Đảng bộ và Chính quyền huyện Kon Rẫy rất quan tâm đến công
tác XĐGN, đã ban hành một số chủ trương biện pháp, chính sách thực hiện chương
trình XĐGN. Qua 5 năm thực hiện số hộ nghèo 2.230 hộ tỷ lệ 51,91% ñầu giai đoạn
giảm xuống còn 1.227 hộ chiếm tỷ lệ 23,18%.Để đạt được những điều này,huyện Kon
Rẫy đã đề ra các chiến lược như sau:
- Đầu tư nhiều vào y tế, giáo dục, và cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn.
- Chính sách cải cách đất đai theo hướng thị trường cũng rất cần thiết.
- Cải thiện chất lượng nguồn nhân lực
- Chú trọng cải thiện về môi trường.
- Thực thi những chương trình XĐGN một cách có hiệu quả, phù hợp với địa
phương.
1.2.3 Kinh nghiệm rút ra cho huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam:
Qua kinh nghiệm XĐGN của các địa phương trong nước có thể rút ra một số bài
học cho công tác XĐGN ở huyện Bắc Trà My như sau:

- Thứ nhất, cần có giải pháp huy động được mọi nguồn lực của địa phương, trước
hết phải phát huy nguồn lực tại chỗ, huy động nguồn lực cộng đồng kết hợp với sự hỗ
trợ đầu tư của Nhà nước, mở rộng quan hệ hợp tác kĩ thuật, tài chính cho XĐGN.
- Thứ hai, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư, các nguồn vốn vay phải được
đưa vào phát triển sản xuất, đồng thời tổ chức dạy nghề, chuyển giao khoa học kĩ thuật,
hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo.
- Thứ ba, có sự hỗ trợ cho các hộ nông dân nói chung và hộ nông dân nghèo nói
riêng trong sản xuất, đảm bảo đầu vào ổn định, chi phí thấp, tìm kiếm thị trường đầu ra,
15
bao tiêu sản phẩm cho người nông dân, xây dựng các quĩ bảo hiểm, quĩ phòng chống rủi
ro trong sản xuất để người nông dân yên tâm phát triển sản xuất.
- Thứ tư, xã hội hóa chương trình XĐGN, thu hút mọi tổ chức, mọi nguồn lực
tham gia giải quyết, hoàn thành chương trình định canh, định cư, tái sản xuất cho người
dân, tạo công ăn việc làm, môi trường sống cho dân di cư và hộ nghèo không có đất sản
xuất, đất ở.
- Thứ năm, nâng cao tinh thần vươn lên thoát nghèo chính là định hướng để các
hộ nghèo tự lực vươn lên từng bước phát triển kinh tế hộ, thoát nghèo bền vững, không
trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Muốn làm được vậy, người nghèo cần được
trang bị kiến thức, phương pháp phát triển kinh tế hộ để họ tự tin vươn lên trong cuộc
sống.
16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN BẮC TRÀ MY,
TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Các nhân tố ảnh hướng đến XĐGN ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng
Nam
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
+ Huyện Bắc Trà My là huyện miền núi cao của tỉnh Quảng Nam, có vị trí địa lý
vào khoảng: 15057' độ vĩ Bắc và 108009' độ kinh đông; cách trung tâm Tỉnh gần 50
km về hướng Tây Nam.

Phía Đông giáp huyện Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi) và huyện Kon Plông (tỉnh Kon
Tum); Phía Tây giáp huyện Phước Sơn; Phía Bắc giáp huyện Bắc Trà My; Phía Nam,
Tây Nam, Đông Nam giáp các huyện Đắk Glei, Tu Mơ Rông thuộc tỉnh Kon Tum.
+ Địa hình phức tạp hầu hết đồi núi đất đốc, nhiều thung lũng chằng chịt bị chia
cắt bởi nhiều sông suối, đất lâm nghiệp chiếm diện tích lớn, đất nông nghiệp phân tán,
nhỏ lẻ.
+ Diện tích tự nhiên: 82.543,62 ha, trong đó:
* Diện tích đất nông nghiệp là: 44.380 ha, gồm:
+ Đất sản xuất nông nghiệp: 2.572ha; trong đó: đất trồng cây hằng năm là:
2.315ha (đất trồng lúa: 1.463 ha); đất trồng cây lâu năm: 257 ha.
+ Đất lâm nghiệp: 41.808 ha; trong đó: đất rừng sản xuất: 162 ha, đất rừng phòng
hộ: 41.646 ha.
* Diện tích đất phi nông nghiệp: 849 ha
* Diện tích đất chưa sử dụng: 37.024ha
2.1.2. Lịch sử
+ Bắc Trà My từng là một phần của huyện Trà My cũ của tỉnh Quảng Nam.
Ngày 20 tháng 6 năm 2003, Chính phủ ban hành nghị định số 72/2003/NĐ-CP, chia
tách huyện Trà My của tỉnh Quảng Nam thành hai huyện Bắc Trà My và Nam Trà My
như ngày nay.
17
+Huyện Bắc Trà My có 13 đơn vị hành chính, gồm thị trấn Trà My và 12 xã: Trà
Đông, Trà Dương, Trà Kót, Trà Nú, Trà Giang, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Đốc, Trà Bui,
Trà Giác, Trà Giáp, Trà Ka.
2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội:
+ Về sản xuất nông-lâm nghiệp: đã từng bước áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, cơ cấu cây trồng có sự thay đổi theo hướng tăng cây công nghiệp
quế Trà My, gần đây là cây keo, cây cau, cây mây. Việc khai hoang, cải tạo đồng
ruộng được chú trọng, diện tích ruộng lúa nước không ngừng tăng lên, mỗi năm khai
hoang tư 15-20ha; sản lượng lương thực cây có hạt hằng năm đạt kế hoạch đề ra. Chăn
nuôi có sự phát triển, chuyển biến tích cực, tổng đàn gia súc gia cầm không ngừng

tăng lên. Song khó khăn hiện nay là sản xuất chủ yếu là lúa rẫy, năng xuất thấp, diện
tích ruộng lúa nước rất hạn chế, chưa tìm được đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp.
+ Đặc sản: Huyện Bắc Trà My là vùng trồng quế nổi tiếng của tỉnh Quảng Nam.
Do có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu phù hợp: độ cao địa hình khoảng 400-800 m
nên biên độ nhiệt giữa ngày và đêm lớn, khí hậu nhiệt đới lại được đèo Hải Vân chắn
hết gió lạnh thổi từ phía Bắc, rất thích hợp với cây quế, nên cây quế phát triển rất tốt ở
các xã Trà Tân, Trà Sơn, Trà Đốc. Cây quế vùng này có hàm lượng tinh dầu rất cao.
Ngoài Quế, Nam Trà My còn có một số dược liệu nổi tiếng khác , nấm Linh Chi, nấm
Lim Xanh, Sâm Nam
2.1.4. Cơ sở hạ tầng
+ Hiện tại tất cả xã có đường ô tô vào đến trung tâm xã; 13/13 đơn vị hành chính
có điện thắp sáng; các công trình thuỷ lợi nhỏ, hệ thống kênh mương, hệ thống nước
sinh hoạt được xây dựng mới và tu bổ thường xuyên; xây dựng mới 09/13 trụ sở làm
việc xã, trụ sở của các cơ quan, đơn vị đều được xây mới.Đường nhựa được cải thiện
tới các thôn thuộc các xã đặc biệt
2.1.5. Dân số và đời sống nhân dân
+ Dân số: Dân số toàn huyện là 42.461 người (tính đến thời điểm tháng 6/2013),
chủ yếu là đồng bào các dân tộc: Ca dong chiếm 54,49%, Xêđăng chiếm 35,40%,
Bhnoong chiếm 7,11%, Kinh chiếm 2,84%, Cor chiếm: 0,09% và các dân tộc khác
chiếm 0,07%; Dân cư phân tán, mật độ dân số bình quân: 47 người/km2.
18
+ Tình hình đời sống nhân dân: Đời sống đồng bào các dân tộc huyện còn rất
nhiều khó khăn, cuộc sống phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp làm lúa rẫy
một vụ. Tình trạng đói giáp hạt còn xảy ra ở nhiều nơi. Tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao.
2.1.6. Văn hóa giáo dục
+ Toàn huyện có 28 đơn vị trường học (trong đó: có 8 trường THCS Bán trú cụm
xã, 01 trường Phổ thông Dân tộc nội trú, 01 trường phổ thông trung học, 14 trường
Tiểu học, 14 trường mẫu giáo, 13 trường THCS) và 01 trung tâm giáo dục thường
xuyên - hướng nghiệp; Đội ngũ giáo viên có 947 người; Toàn huyện có 13/13 xã hoàn
thành chương trình phổ cập Tiểu học đúng độ tuổi và chống mù chữ, 13/13 xã hoàn

thành chương trình phổ cập Trung học cơ sở.
+ Về đội ngũ cán bộ xã: phần lớn có kinh nghiệm thực tiễn, được đào tạo cơ bản;
trình độ văn hóa hầu hết thong qua đại học hệ tại chức. Hiện nay, huyện đang phối hợp
triển khai mở các lớp đào tạo chuyên môn, chính trị, các lớp bồi dưỡng về thực hiện
chương trình 135 cho đội ngũ cán bộ xã từ nguồn kinh phí 30a và các nguồn kinh phí
khác để đáp ứng yêu cầu công tác trong giai đoạn mới.
+ Về phủ sóng truyền thanh - truyền hình và mạng lưới thông tin liên lạc: do điều
kiện miền núi cao, địa hình phức tạp nên sóng phát thanh, truyền hình của đài tỉnh, đài
khu vực không phủ sóng được. Vì vậy, hằng năm bằng nhiều nguồn vốn khác nhau
Huyện đã hỗ trợ cho các thôn, nóc hệ thống Parabol + ti vi để phục vụ cung cấp thông
tin cho đồng bào. Mạng lưới thông tin liên lạc đáp ứng được yêu cầu, điện thoại có tại
13/13 Trung tâm thị trấn và mạng điện thoại Vinaphone, Mobiphone, Viettel, đã phủ
sóng tại huyện và một số xã lân cận.
+ Công tác giáo dục quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được
tăng cường và củng cố. Chỉ tiêu huấn luyện và tuyển quân hằng năm đạt 100%. Lực
lượng dự bị động viên của huyện không ngừng được củng cố và phát triển cả về số
lượng và chất lượng, đạt 100% so với tổng biên chế; xây dựng lực lượng dân quân tự
vệ đạt 2,62% so với dân số; đã có 13/13 xã tổ chức diễn tập tác chiến khu vực phòng
thủ theo cơ chế 02/BCT của Bộ Chính trị. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ
quốc được thường xuyên duy trì và phát triển, góp phần giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội.
19
Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát lâm – khoáng sản, các vùng giáp ranh với
huyện bạn, tỉnh bạn.
2.2. Tình hình nghèo đói và xoá đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu
số huyện Bắc Trà My
2.2.1. Tình hình nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số của huyện Bắc Trà
My
Huyện Bắc Trà My có 12 xã và 01 thị trấn với tổng số 80 thôn, trong đó có 08 xã
nằm trong vùng đặc biệt khó khăn và 03 thôn đặc biệt khó khăn của 02 xã khu

vực.Dân số toàn huyện tính đến thời điểm cuối năm 2012: 9.617 hộ với 42.461 người,
bao gồm các dân tộc Kinh, CaDong, Xê Đăng, Mơ Nông, Kor và một ít dân tộc thiểu
số khác di cư vào địa bàn huyện sinh sống. .
Bên cạnh đó, Qua số liệu thống kê của phòng LĐ - TB&XH huyện Bắc Trà My
cung cấp thì tình hình biến động của các hộ nghèo năm 2009 đến 2013 được phân tích
theo bảng 1.1 như sau:
Bảng 1: Tình hình đói nghèo của đồng bào thiểu số huyện Bắc Trà My
Năm 2009 2010 2011 2012 2013
Số hộ 5873 5752 5690 5563 5170
Tỷ lệ 66,89 64,22 61,23 57,85 52,78
Nguồn: phòng LĐ – TB&XH huyện Bắc Trà My
Biểu đồ 1: Tình hình đói nghèo của đồng bào thiểu số ở huyện Bắc Trà My
20
Nhìn vào biểu đồ có thể thấy,tỉ lệ hộ nghèo của toàn huyện cũng không ngừng
giảm qua các năm, từ 5873 hộ năm 2009 giảm còn 5170 hộ, chiếm tỉ lệ 14,11% năm
2013. Đây là số hộ cận nghèo được điều tra thông qua mức thu nhập và căn cứ theo
chuẩn cận nghèo giai đoạn 2006 - 2010 do Nhà nước ban hành.Do đó cùng với sự phát
triển kinh tế xã hội của huyện giai đoạn này, đời sống nhân dân được nâng cao, thu
nhập bình quân đầu người tăng nên số hộ nghèo giai đoạn này đã giảm đáng kể. Tuy
nhiên nếu xét theo tiêu chí mới thì cả 2 chỉ tiêu này sẽ có sự biến động đáng kể, theo
số liệu của phòng LĐ - TB&XH huyện Bắc Trà My thì cuối năm 2012 toàn huyện có
tới 5563 hộ nghèo. Đây là thực tế cần quan tâm xem xét trong việc rà soát, điều tra
tình hình nghèo đói và công tác XĐGN của huyện thời gian tới khi áp dụng chuẩn
nghèo mới.
Nguyên nhân chủ yếu của nghèo đói
- Đại bộ phận người nghèo chi tiêu không hợp lý, không có tích lũy, hạn chế về
phương thức, kiến thức sản xuất, chưa có ý thức tự thân vận động vươn lên làm giàu từ
chính bản thân mình. Một số hộ dân còn trông chờ, ỷ lại sự giúp đở của Nhà Nước,
một số hộ người DTTS không giám vay vốn ưu đãi của Nhà nước vì sợ nợ, không có
kế hoạch sản xuất…

- Qua phân tích số liệu điều tra thống kê quý II/2013 cho thấy tỷ lệ thiếu vốn
15%; thiếu lao động 9,5%; đông con 13,6%, già cả cô đơn, ốm đau tàn tật 7%; thiếu
đất sản xuất 1,5%; thiếu kiến thức kinh nghiệm làm ăn 35% ; đây là những nguyên
nhân gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chương trình.
- Cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể chưa phát huy vai trò và trách
nhiệm của mình trong việc chỉ đạo thực hiện mục tiêu giảm nghèo và giải quyết việc
làm, thiếu sự phối hợp, chưa chủ động đề ra các giải pháp cụ thể và thiết thực để huy
động, lồng ghép các nguồn lực vào thực hiện chương trình có hiệu quả và bền v
2.2.2. Thực trạng sản xuất của các hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số của
huyện Bắc Trà My
Với hơn 80% dân số sống ở khu vực nông thôn thì số hộ nghèo là nông dân của
huyện chiếm đa số trong tổng số hộ nghèo và có tỉ lệ rất cao như sau:
21

×