Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Mua Sắm Chính Phủ Trong Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Tt.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
--------***--------

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

MUA SẮM CHÍNH PHỦ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Ngành: Kinh tế Quốc tế
Mã số: 9310106

NGHIÊM THỊ THÚY HẰNG

Hà Nội – 2023


Luận án được hoàn thành tại: Trường Đại học Ngoại thương
Phản biện 1:
………………………………………………………………………………………………
…………………………………………..…………………….....................................…….
Phản biện 2:
………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………...............................……….
Phản biện 3:
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………...............................…….

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá cấp trường họp tại……………...........…
………………………………………………………………………………..…............….

Vào hồi



giờ

ngày

tháng

năm 2023

Có thể tham khảo luận án tại Thư viện Quốc gia và thư viện Trường Đại học Ngoại thương

Hà Nội - 2023


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Mua sắm chính phủ thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi tiêu của Chính phủ, chiếm trung
bình hoặc hơn 15% GDP của một quốc gia. Phát triển hoạt động mua sắm chính phủ trong hội nhập
kinh tế quốc tế đã trở thành xu hướng chung và tất yếu tại hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới.
Ở Việt Nam, khái niệm “Mua sắm chính phủ”, “Mua sắm công” được truyền tải qua khái
niệm đấu thầu. Năm 2013, Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 đã được ban hành ngày 26/11/2013
với tư cách là luật chung, đã pháp điển hóa các nội dung trong các văn bản quy phạm pháp luật
khác quy định về hoạt động mua sắm chính phủ nói chung. Việt Nam hiện mới chỉ có những bước
đi ban đầu trong tiến trình phát triển lĩnh vực mua sắm chính phủ so với các nước phát triển và
thơng lệ chung của quốc tế. Cơ chế, chính sách pháp luật về đấu thầu hiện vẫn tồn tại một số quy
định chưa đồng bộ, thống nhất giữa pháp luật về đấu thầu và các luật chuyên ngành chưa được giải
quyết triệt để đã gây khó khăn cho nhà thầu trong quá trình thực hiện; số lượng dự án áp dụng hình
thức chỉ định thầu cịn chiếm tỷ lệ cao; chưa phát huy tốt nhất tính cạnh tranh, hiệu quả kinh tế của
đấu thầu qua mạng; sự cạnh tranh giữa các nhà thầu, hàng hóa, sản phẩm cũng như sự cơng khai,
minh bạch trong mua sắm chính phủ ở Việt Nam hiện vẫn cịn hạn chế, là ngun nhân gây nên

tình trạng tham nhũng, tiêu cực, thất thoát vốn Nhà nước…
Ở góc độ hội nhập kinh tế quốc tế, lĩnh vực mua sắm chính phủ của Việt Nam vẫn đóng cửa với
nhà thầu nước ngoài cho đến khi Hiệp định Đối tác tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương
(CPTPP) có hiệu lực. Từ khoảng cách về trình độ phát triển, sự khác biệt giữa các quy định của GPA
với quy định về mua sắm chính phủ trong nước cho thấy, Việt Nam hiện vẫn chưa thực sự đủ điều kiện
để trở thành thành viên của GPA. Trong khuôn khổ các FTA, Việt Nam đã ký kết hội nhập lĩnh vực
mua sắm chính phủ trong CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP và đã chính thức có hiệu lực. Sau hơn
03 năm chính thức có hiệu lực, việc tổ chức thực hiện đấu thầu mua sắm theo các quy định của Nghị
định số 95/2020/NĐ-CP và Nghị định số 09/2022/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện về đấu thầu mua sắm
theo các hiệp định vẫn còn nhiều lúng túng, khó khăn, thách thức đối với cơ quan quản lý, cơ quan mua
sắm và nhà thầu Việt Nam. Bên cạnh đó, việc vận dụng hiệu quả các biện pháp ưu đãi trong nước, ưu
đãi giải quyết tranh chấp trong giai đoạn quá độ cũng đang là vấn đề cấp thiết đặt ra cho Việt Nam.
Chính vì vậy, việc triển khai nghiên cứu đề tài luận án “Mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế
quốc tế” là thực sự cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án: Nghiên cứu nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận về mua
sắm chính phủ, đánh giá thực trạng mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc
tế, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp, kiến nghị thúc đẩy hoạt động mua sắm chính phủ của Việt Nam
trong hội nhập kinh tế quốc tế đến năm 2025 và tầm nhìn 2030.
2.2. Các câu hỏi nghiên cứu chính
(1) Nhân tố nào ảnh hưởng đến hoạt động mua sắm chính phủ? Các tiêu chí đánh giá mức độ hội
nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực mua sắm chính phủ là gì?; (2) Các quốc gia trên thế giới thực hiện
mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế như thế nào và bài học kinh nghiệm nào rút ra cho
Việt Nam?; (3)Thực trạng mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay như

1


thế nào?; (4) Giải pháp, kiến nghị nào thúc đẩy hoạt động mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế đến năm 2025 và tầm nhìn 2030?

2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
(1) Hệ thống hóa khung khổ lý thuyết về mua sắm chính phủ; (2)Nghiên cứu kinh nghiệm
mua sắm chính phủ ở một số quốc gia trên thế giới trong hội nhập kinh tế quốc tế và rút ra bài học
cho Việt Nam; (3) Phân tích, đánh giá thực trạng mua sắm chính phủ ở Việt Nam trong hội nhập
kinh tế quốc tế; (4) Đề xuất giải pháp, kiến nghị thúc đẩy hoạt động mua sắm chính phủ của Việt
Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn từ nay đến năm 2025 và tầm nhìn 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực
tiễn mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu, làm rõ các
nội dung về mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế; Về không gian: Nghiên cứu, đánh giá
thực trạng mua sắm chính phủ ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới (Anh, Úc, Hàn Quốc, Trung
Quốc) trong hội nhập kinh tế quốc tế; Về thời gian: Từ năm 2012 - 2022; giải pháp, kiến nghị đến năm
2025 và tầm nhìn 2030.
4. Khung phân tích của luận án

5. Phương pháp nghiên cứu: NCS sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,
phân tích SWOT, tình huống, tham vấn, điều tra, khảo sát thực tế và xử lý dữ liệu để tăng cường tính
bổ trợ lẫn nhau trong q trình nghiên cứu và đề xuất giải pháp. Phương pháp tham vấn, điều tra, khảo
sát thực tế gắn với phân tích SWOT nhằm đánh giá hiểu biết chung đối với vấn đề mua sắm chính phủ
trong hội nhập kinh tế quốc tế; làm rõ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của cơ quan mua
sắm, doanh nghiệp nhà thẩu Việt Nam khi thực hiện các cam kết hội nhập lĩnh vực này…
2


Dữ liệu nghiên cứu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát 102 cơ quan mua sắm chính phủ,
doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế - tài chính trong năm 2022.
6. Kết cấu của luận án: Nội dung chính của luận án bao gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế

Chương 3: Mua sắm chính phủ tại một số quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế và bài học kinh nghiệm
Chương 4: Thực trạng mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 5: Giải pháp thúc đẩy hoạt động mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập
kinh tế quốc tế đến năm 2025 và tầm nhìn 2030
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
MUA SẮM CHÍNH PHỦ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Nghiên cứu liên quan đến mua sắm chính phủ

1.1.1. Về chi tiêu công, mối quan hệ giữa chi tiêu cơng và mua sắm chính phủ
Về chi tiêu cơng, mối quan hệ giữa chi tiêu cơng và mua sắm chính phủ, đã có các nghiên cứu
của Dương Thị Bình Minh (2002-2004), Sử Đình Thành và Bùi Thị Mai Hồi (2006), Lucian Cernat
và Zornitsa Kutlina-Dimitrova (2015) Stephanus Pertrus (2009), Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng
Thế giới (2005) (2017).
1.1.2. Về khái niệm và quy mơ mua sắm chính phủ
Về khái niệm và quy mơ mua sắm chính phủ, đã có các nghiên cứu của Sue Arrowsmith (2010b),
Jorge Lynch (2014), OECD (2017), Ủy Ban châu Âu (2020),World Bank (2002).
1.2. Nghiên cứu liên quan đến kinh nghiệm quốc tế về mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh
tế quốc tế
1.2.1. Về kinh nghiệm của một số quốc gia trong mua sắm chính phủ
Về kinh nghiệm của một số quốc gia trong mua sắm chính phủ, có các nghiên cứu của Joe Farnell
and Lorna Booth (2014) và Institute for Government (2018), European Commission (2016), Viện Phát
triển Hàn Quốc - KDI (2013), Ho In Kang (2012), Bộ Tài chính Úc (2013), Theo WTO (2018), David
S.Jones (2007), Nghiêm Thị Thúy Hằng (2020).
1.2.2. Về mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế
Về mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế có các nghiên cứu của Inbom Choi (1999),
Robert D. Anderson, Philippe Pelletier, Kodjo Osei-Lah và Anna Caroline Müller (2011), Tạp chí Kinh
tế đối ngoại (2016), Claudio Dordi & Federico Lupo Pasini (2016), David Seth Jones (2014), Locknie
Hsu (2006), Văn phòng trách nhiệm giải trình Hoa Kỳ - United States Government Accountability
Office (2016), Patrick Messerlin, Sébastien Miroudot (2012), Office of the United States trade
Representative, The East African Business Council (EABC) (2021).

1.3. Nghiên cứu liên quan đến mua sắm công bền vững/mua sắm công xanh
Về mua sắm công bền vững/mua sắm công xanh, đã có nghiên cứu của United Nations
Environment Programme (2017), OECD (2015), Nghiêm Thị Thúy Hằng (2018).

3


1.4. Nghiên cứu liên quan đến mua sắm chính phủ của việt nam, cơ hội và thách thức đối với
mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.4.1. Về mua sắm chính phủ của Việt Nam
Về mua sắm chính phủ của Việt Nam có nghiên cứu của Chu Thị Thủy Chung (2017), Nguyễn
Chí Dũng (2019), Nguyễn Thị Như Nguyệt (2022), Đỗ Kiến Vọng (2018), Phòng Công nghiệp
Thương mại Việt Nam (VCCI) và Đại sứ quán Anh tại Hà Nội (2016).
1.4.2. Cơ hội và thách thức đối với mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế
quốc tế
Về cơ hội và thách thức đối với mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
có nghiên cứu của Bộ Công thương (2021), Bộ Ngoại giao New Zealand và Đại sứ quán New Zealand
tại Việt Nam (2021), Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam - Aus4Reform (2020),
ThS. Phạm Minh Quốc (2022), Tổ chức Minh bạch Quốc tế - Hoa Kỳ và Trung tâm Doanh nghiệp tư
nhân Quốc tế (2012), Sangeeta Khorana, Võ Trí Thành và Đặng Chiến Thắng (2011).
1.5. Đánh giá chung về kết quả chính của các cơng trình liên quan và khoảng trống nghiên cứu
1.5.1. Đánh giá chung
Từ kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, phát triển lĩnh vực mua sắm chính phủ
trong hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu hướng chung và tất yếu tại hầu hết các quốc gia phát
triển trên thế giới. Xu hướng hoàn thiện khung khổ pháp lý về mua sắm chính phủ theo chuẩn mực
quốc tế, áp dụng chặt chẽ các nguyên tắc công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử, “Đáng giá
đồng tiền” trong mua sắm cùng với việc tăng cường mua sắm tập trung, mua sắm qua mạng, đấu
thầu rộng rãi, giám sát và hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ... đã giúp hoạt động mua sắm chính
phủ ở nhiều quốc gia phát triển, đóng góp quan trọng vào việc tiết kiệm và nâng cao hiệu quả chi
tiêu cơng. Ở khía cạnh hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ, hiện có 48 quốc gia trên thế giới ký

kết tham gia GPA (trong khuôn khổ WTO) và nhiều FTA có nội dung mua sắm chính phủ. So với
các quốc gia phát triển có bề dày kinh nghiệm mua sắm chính phủ, Việt Nam hiện mới chỉ có những
bước đi ban đầu trong tiến trình phát triển lĩnh vực này so với các nước phát triển và thông lệ chung
của quốc tế. Phương thức mua sắm tập trung đã được mở rộng hơn song vẫn chưa đồng đều tại các
địa phương và đơn vị. Tỷ lệ tiết kiệm chung trong hoạt động đấu thầu thấp và có xu hướng giảm dần
qua các năm. Tình trạng vi phạm pháp luật trong đấu thầu còn khá phổ biến. Pháp luật Việt Nam vẫn
chưa tương thích với thơng lệ quốc tế ở các vấn đề như tính minh bạch, cạnh tranh trong trình tự, thủ
tục đấu thầu mua sắm chính phủ... Tuy nhiên, mức độ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực mua sắm chính
phủ của Việt Nam được đánh giá cao hơn quốc gia lớn trong khu vực là Trung Quốc.
1.5.2. Khoảng trống nghiên cứu
Các cơng trình nghiên cứu trước đây mặc dù đã có những đóng góp nhất định về cả cơ sở lý
luận và thực tiễn liên quan đến chủ đề luận án, tuy nhiên NCS vẫn nhận thấy có một số khoảng
trống nghiên cứu như sau:
Một là, hầu hết các nghiên cứu chưa hệ thống hóa khung khổ lý thuyết về mua sắm chính phủ,
chưa gắn kết mua sắm chính phủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, mặc dù có nhiều nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về mua sắm chính phủ hoặc mua sắm
chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế, song các nghiên cứu nhìn chung cịn tản mạn, thiếu xun

4


suốt hoặc không phù hợp với điều kiện thực tế, trình độ phát triển, hội nhập hiện nay của Việt Nam,
nên chưa thực sự có giá trị tham khảo.
Ba là, chưa có nghiên cứu, đánh giá thực trạng mua sắm chính phủ ở Việt Nam trong giai đoạn trước
và sau khi hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực (từ tháng 1/2019 đến nay); chưa làm rõ những hạn chế,
tồn tại trong mua sắm chính phủ ở Việt Nam qua các góc độ quy mơ mua sắm; hình thức, phương thức mua
sắm; nguyên tắc mua sắm; hiệu quả mua sắm, hội nhập… hay nhận diện những cơ hội, thách thức đối với
mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới...
Bốn là, chưa có cơng trình nghiên cứu với hệ thống giải pháp đồng bộ có thể làm thay đổi nhận
thức căn bản và tổng thể về chủ đề nghiên cứu do các giải pháp mới chỉ tập trung ở một vài khía cạnh

cụ thể, phạm vi hẹp. Chưa có giải pháp thúc đẩy hoạt động mua sắm chính phủ của Việt Nam trong
hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn tới cũng như kiến nghị thực hiện giải pháp.
Do vậy, kết quả nghiên cứu đề tài luận án “Mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế”
là cơng trình nghiên cứu độc lập về mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế. Điểm mới
của cơng trình chính là nghiên cứu vấn đề mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
mục tiêu đề xuất các giải pháp thúc đẩy hoạt động này của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế thời
gian tới. Điểm mới này được NCS thể hiện xuyên suốt trên cả phương diện khung lý thuyết, phân
tích thực trạng và hệ thống giải pháp, kiến nghị của luận án.
1.6. Đóng góp của luận án
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu trước, luận án đã có một số đóng góp như sau:
Thứ nhất, đã hệ thống hóa được cơ sở lý thuyết về mua sắm chính phủ và mua sắm chính phủ
trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhận diện và làm rõ các nhân tố (bao gồm nhân tố hội nhập kinh tế
quốc) tác động đến hoạt động mua sắm chính phủ.
Thứ hai, đã khái quát, phân tích, đánh giá được thực trạng mua sắm chính phủ trong hội nhập
kinh tế quốc tế của một số quốc gia điển hình (Anh (EU), Úc, Hàn Quốc, Trung Quốc) và rút ra một
số bài học kinh nghiệm.
Thứ ba, đã nghiên cứu, đánh giá được thực trạng mua sắm chính phủ ở Việt Nam trong giai đoạn
trước và sau khi Việt Nam gia nhập CPTPP đến nay, nhận diện những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
trong mua sắm chín phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua. Đồng thời, nhận
diện được những cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam trong thực hiện cam kết hội nhập lĩnh vực mua
sắm chính phủ thời gian tới.
Thứ tư, đã đề xuất được nhóm giải pháp thúc đẩy hoạt động mua sắm chính phủ của Việt Nam
trong hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn từ nay đến năm 2025 và tầm nhìn 2030 và một số kiến
nghị thực hiện.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MUA SẮM CHÍNH PHỦ
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Mua sắm chính phủ

2.1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và đối tượng của mua sắm chính phủ
Mua sắm chính phủ là một thành phần chính của chi tiêu cơng, có tác động khá lớn đến tổng

cầu của bất kỳ nền kinh tế trong nước. Chi mua sắm chính phủ chiếm khoảng một phần ba tổng chi
tiêu công ở các nước OECD (Lucian Cernat and Zornitsa Kutlina-Dimitrova, 2015).
5


Ở Việt Nam khái niệm “mua sắm cơng” ít được sử dụng mà thay vào đó là khái niệm “đấu
thầu” . Theo Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết
và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp;
lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư,
dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả
kinh tế. Mua sắm chính phủ ở Việt Nam gồm: Mua sắm để phục vụ cho việc duy trì hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân
dân; Các dự án đầu tư phát triển; Mua sắm để phục vụ hoạt động của các DNNN.
Theo NCS, “Mua sắm chính phủ là hoạt động mua sắm do chính phủ và các cơ quan sử dụng
vốn NSNN thực hiện nhằm mua sắm các loại hàng hóa, dịch vụ phục vụ hoạt động thường xuyên, đầu
tư phát triển và thực hiện các chức năng của Nhà nước”.
Mua sắm chính phủ có một số đặc điểm chính liên quan đến nguồn vốn sử dụng, mục đích
mua sắm, chủ thể và đối tượng mua sắm. Khác với mua sắm tư nhân, mua sắm chính phủ được thực
hiện bằng nguồn vốn nhà nước bao gồm vốn từ NSNN. Mua sắm chính phủ nhằm thực hiện các chức
năng của Nhà nước hoặc thực hiện các nhiệm vụ được Nhà nước giao. Chủ thể mua sắm chính phủ
là các đơn vị sử dụng NSNN, là các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, DNNN và tổ chức
khác được phân bổ ngân sách (theo Luật NSNN). Đối tượng mua sắm trong mua sắm chính phủ
bao gồm hàng hố, dịch vụ và cơng trình.
Mua sắm chính phủ là một trong những lĩnh vực nhạy cảm, do đó việc tuân thủ các nguyên
tắc liên quan đến vấn đề mua sắm chính phủ là vấn đề cần thiết và quan trọng.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đưa ra nhóm 12 nguyên tắc trong mua sắm chính phủ,
liên quan đến|: (1) Minh bạch; (2) Liêm chính; (3) Tiếp cận thị trường; (4) Cân bằng; (5) Tham gia thị
trường; (6) Hiệu quả; (7) Mua sắm qua mạng; (8) Hiệu suất (Capacity); (9) Đánh giá (10) Quản trị rủi;
(11) Trách nhiệm giải; (12) Tích hợp.
Trong mọi hoạt động mua sắm chính phủ đều có ba đối tượng (chính phủ, người dân và khu

vực tư nhân) trực tiếp tham gia.
2.1.2. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động mua sắm chính phủ
Mua sắm cơng là một quy trình tương đối phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật
khác nhau do đó từ năm 1994 Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL)
đã soạn thảo Luật Mẫu về mua sắm chính phủ để giúp các quốc gia có cơ sở xây dựng hệ thống
pháp luật về mua sắm chính phủ phù hợp.
2.1.3. Phương thức mua sắm chính phủ và hình thức lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hóa, dịch vụ
Có nhiều phương thức mua sắm chính phủ, điển hình như: Phương thức mua sắm tập trung,
phương thức mua sắm phân tán và phương thức mua sắm hợp nhất. Hình thức lựa chọn nhà thầu cung
ứng hàng hóa và dịch vụ trong mua sắm chính phủ phổ biến theo quy định tại Luật Mẫu về mua sắm
chính phủ (UNCITRAL, 2011) gồm: Đấu thầu rộng rãi; Đấu thầu hạn chế; Yêu cầu đề xuất dự án
không qua đàm phán; Đấu thầu hai giai đoạn; Yêu cầu đề xuất dự án qua đối thoại; Yêu cầu đề xuất dự
án qua đàm phán liên tiếp; Đàm phán cạnh tranh; Đấu giá ngược điện tử; Chỉ định thầu.
2.1.4. Vai trị của mua sắm chính phủ đối với nền kinh tế
Mua sắm chính phủ đóng vai trị quan trọng đối với nền kinh tế, thể hiện trong các khía cạnh:
Đảm bảo hệ thống quản lý tài chính cơng hoạt động tốt, sử dụng hiệu quả NSNN; Đảm bảo cung
cấp hàng hóa, dịch vụ cho cơ quan nhà nước, người dân và xã hội; Đảm bảo quản lý, sử dụng hiệu
6


quả tài sản nhà nước; Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mang lại lợi ích cho nền kinh tế quốc
dân; Góp phần thực hiện phịng chống tham nhũng; Góp phần thúc đẩy chuyển giao cơng nghệ.
2.2. MUA SẮM CHÍNH PHỦ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

2.2.1. Mua sắm chính phủ theo Hiệp định mua sám chính phủ (GPA) của WTO
GPA là Hiệp định "đa biên", được bao gồm trong Phụ lục 4 của Hiệp định thành lập WTO,
song các thành viên của WTO lại không bị ràng buộc bởi GPA (United Nation, 2003). GPA là hiệp
định áp dụng đối với toàn bộ các quy định liên quan tới mua sắm chính phủ của các nước thành viên.
Hiệp định tập trung vào: Nguyên tắc đối xử quốc gia và khơng phân biệt đối xử; Đảm bảo tính minh
bạch và cạnh tranh trong đấu thầu; Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước đang phát

triển; Chú ý lợi ích tổng thể của việc tự do hóa mua sắm của chính phủ.
2.2.2. Mua sắm chính phủ theo các hiệp định thương mại tự do (FTA)
Mua sắm chính phủ là một nội dung quan trọng ln có trong hầu hết các FTA của các nước phát
triển. Xem xét một FTA giữa một quốc gia phát triển với quốc gia đang phát triển cho thấy, nhiều khả
năng quốc gia phát triển tận dụng được lợi thế từ chương tiếp cận thị trường mua sắm chính phủ hơn do
họ có sẵn khả năng cung ứng. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang phát triển lại không thể tận dụng lợi thế
này, hoặc ít nhất là khơng ở cùng trình độ, vì các nước này cịn chưa có khả năng sẵn sàng cung ứng.
2.2.3. Mua sắm công bền vững/mua sắm công xanh theo Sáng kiến mua sắm công bền vững
(SPPI) của Liên Hợp quốc
Ở phạm vi toàn cầu, mua sắm công bền vững ngày càng được thực hiện như một cơng cụ chính
sách để hỗ trợ các chính sách, chương trình quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm thúc đẩy phát triển
bền vững. Nhiều chính phủ và tổ chức tự nguyện tham gia Sáng kiến mua sắm công bền vững (SPPI) sáng kiến của Chương trình mơi trường Liên hiệp quốc (UNEP) với mục tiêu thúc đẩy mua sắm cơng bền
vững trên tồn cầu nhờ việc đẩy mạnh hợp tác giữa các bên liên quan và chỉ ra những lợi ích cũng như tác
động tiềm năng từ việc tham gia sáng kiến.
2.2.4. Tiêu chí đánh giá mức độ hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ
Đánh giá, đo lường mức độ mở cửa, hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ của một quốc gia
là vấn đề khá phức tạp và gây nhiều tranh cãi trên các diễn đàn quốc tế. Có thể tham khảo một số
tiêu chí đo lường mức độ mở cửa, hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ như sau:
► Đối với quốc gia đang phát triển, chưa gia nhập GPA: (1) Mức độ mở cửa, hội nhập về
khung khổ pháp luật mua sắm chính phủ trong nước thông qua các cam kết cắt giảm, xóa bỏ các
hàng rào thuế quan, quy định về bảo hộ hàng hóa và doanh nghiệp trong nước; (2) Mức độ phù
hợp, tương thích giữa pháp luật mua sắm chính phủ trong nước so với các cam kết đã ký kết và so
với GPA; (3) Mức độ áp dụng hình thức đấu thầu quốc tế; (4) Mức độ ứng dụng cơng nghệ thơng tin
trong mua sắm chính phủ; (5) Mức độ cơng khai, minh bạch thơng tin về các gói thầu quốc tế so với
các quốc gia, khu vực.
►Đối với các quốc gia phát triển đã gia nhập GPA”:(1) Là thành viên của GPA; (2) Mức
độ áp dụng các biện pháp bảo hộ doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ trong nước thơng qua các hàng
rào chính thức và phi chính thức; (3) Quy mơ tổng giá trị các gói thầu mua sắm chính thuộc diện
phải tuân thủ cam kết trong GPA và các FTA.
► Đối với tất cả các quốc gia đã hoặc chưa gia nhập GPA: Trong FTA, có thể đo lường theo

ba tiêu chí: (1) Cơ quan chính phủ nào sẽ phải thực hiện đấu thầu quốc tế?; (2) Gói thầu mua sắm
7


giá trị từ bao nhiêu trở lên thuộc diện phải đấu thầu quốc tế ?; (3) Chấp nhận đấu thầu quốc tế đối
với loại hàng hóa và dịch vụ nào?
2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua sắm chính phủ

2.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng
Nhóm nhân tố chủ quan
- Tư duy nhận thức và quan điểm của Chính phủ về hội nhập kinh tế quốc tế. Việc Chính phủ
của một quốc gia có nhận thức và quan điểm rõ ràng, mạnh mẽ về việc hội nhập kinh tế quốc tế là
nhân tố ảnh hưởng lớn và hàng đầu đến chủ trương, đường lối phát triển kinh tế và hội nhập của
quốc gia cũng như của lĩnh vực mua sắm chính phủ.
- Chính sách mua sắm của Chính phủ. Chính sách đối với lĩnh vực mua sắm chính phủ thường
được xem như một cơng cụ hợp pháp để kích thích thị trường sản xuất và tiêu dùng trong nước.
- Hệ thống cơ sở pháp lý. Hệ thống pháp luật và các văn bản pháp lý ảnh hưởng đến hoạt
động mua sắm chính phủ nhằm tạo mơi trường và căn cứ pháp lý cho hoạt động này.
- Tổ chức thực hiện pháp luật về mua sắm chính phủ. Mua sắm chính phủ là hoạt động phức
tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, do dó việc tổ chức thực hiện pháp luật về mua sắm chính phủ tốt
sẽ góp phần nâng cao tính tuân thủ pháp luật và hạn chế hành vi vi phạm của các cơ quan mua sắm
chính phủ.
- Mục tiêu, văn hóa và yêu cầu về giảm sát. Sự khác biệt về mục tiêu, văn hóa hay hay yêu cầu về
giám sát cũng là những nhân tố tác động nhất định đến hoạt động mua sắm chính phủ của các quốc gia.
- Ứng dụng khoa học công nghệ. Ứng dụng khoa học và công nghệ là nhân tố ảnh hưởng quan
trọng đến cơng tác quản lý, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của công tác quản
lý trong mọi lĩnh vực, trong đó có mua sắm chính phủ.
- Trình độ, năng lực của cơ quan quản lý, cơ quan mua sắm: Mua sắm chính phủ là hoạt động
phức tạp, do đó trình độ, năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư, bên mời thầu
có ảnh hưởng và tác động lớn đến hoạt động mua sắm chính phủ.

- Nội dung, đặc điểm, tính chất của gói thầu. Trong mua sắm chính phủ, tùy thuộc vào nội
dung, đặc điểm, tính chất của từng gói thầu mà cơ quan mua sắm quyết định áp dụng quy trình,
phương thức và hình thức mua sắm các gói thầu khác nhau.
- Phương thức và hình thức mua sắm chính phủ. Lựa chọn phương thức và hình thức mua
sắm được coi là nhân tố có tác động lớn đến hoạt động mua sắm chính phủ.
- Năng lực cạnh tranh của nhà thầu trong nước được coi là nhân tố quan trọng không chỉ ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh chiếm giữ thị phần của doanh nghiệp mà còn là thước đo khả năng
cạnh tranh của quốc gia trong thị trường mua sắm hội nhập khu vực và thế giới.
- Các hiệp hội ngành hàng đứng ra tổ chức, hỗ trợ, kết nối sẽ giúp các doanh nghiệp trong lĩnh
vực kinh doanh có thêm năng lực cạnh tranh để tham gia vào các gói thầu lớn, đặc biệt là các gói
thầu có yếu tố cạnh tranh với nhà thầu nước ngồi.
Nhóm nhân tố khách quan
- Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế là yếu tố từ mơi trường bên ngồi
song đây lại là nhân tố tác động lớn đến hoạt động mua sắm chính phủ của các quốc gia. Hội nhập
kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu đối với các quốc gia về việc ký kết các FTA thế hệ mới có nội dung
8


mua sắm chính phủ; thực hiện cam kết mở cửa, hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ với các quốc
gia khác nhằm đạt được hiệu quả mua sắm tối ưu cho Chính phủ.
-Yếu tố thiên tai, dịch bệnh: Yếu tố thiên tai, dịch bệnh, điển hình như đại dịch Covid-19 đã
là nhân tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động mua sắm chính phủ của nhiều quốc gia, khu vực trên thế
giới trong năm 2020.
2.3.2. Hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố ảnh hưởng lớn đến mua sắm chính phủ
Ảnh hưởng tích cực: (1) Tác động đến việc hồn thiện khung khổ pháp lý về mua sắm chính
phủ của mỗi quốc gia; (2) Thúc đẩy thị trường mua sắm chính phủ phát triển nhờ được tiếp cận thị
trường quốc tế; (3) Tác động đến việc tiếp thu, cải thiện trình độ ứng dụng khoa học cơng nghệ tiên
tiến của mỗi quốc gia; (4) Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động mua sắm chính phủ; (5) Giúp
cho các quốc gia sử dụng NSNN hiệu quả hơn nhờ việc mua sắm có sự cạnh tranh ở phạm vi quốc
tế; (6) Gia tăng áp lực cạnh tranh trong hoạt động mua sắm chính phủ từ đó nâng cao năng lực cạnh

tranh của doanh nghiêp trong nước và mở rộng thị trường mua sắm chính phủ tới nhiều quốc gia;
(7) Tác động đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực mua sắm chỉnh phủ, qua đó
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (8) Góp phần thúc đẩy tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa.
Ảnh hưởng tiêu cực hoặc chi phí: (1) Các quốc gia phải chi trả chi phí cho cải cách hệ thống
pháp luật trong nước phù hợp, tương thích với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; (2) Doanh nghiệp
sẽ bị phát sinh chi phí liên quan đến đào tạo, tập huấn đội ngũ nhân sự đáp ứng được những tiêu
chuẩn quốc tế; (3) Sức ép cạnh tranh đối với các nhà thầu trong nước.
CHƯƠNG 3: MUA SẮM CHÍNH PHỦ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1. Thực trạng mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế tại một số quốc gia
3.1.1. Căn cứ lựa chọn quốc gia nghiên cứu
Cơ sở NCS lựa chọn 04 quốc gia Anh, Úc, Hàn Quốc, Trung Quốc để nghiên cứu là: (i) Về địa lý,
các nước nằm ở cả khu vực châu Âu, châu Úc và châu Á; (ii) Về trình độ phát triển kinh tế, các quốc gia
này thuộc cả nhóm nước phát triển và đang phát triển; (iii) Về mức độ hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc
gia đều có mức độ hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng. đều là thành viên của WTO từ rất lâu. Về hội nhập
lĩnh vực mua sắm chính phủ, Anh, Úc, Hàn Quốc đều là thành viên của GPA, tham gia nhiều FTA có
nội dung mua sắm chính phủ; (iv) Về trình độ, kinh nghiệm phát triển lĩnh vực mua sắm chính phủ,
nhóm quốc gia nghiên cứu gồm cả nước có bề dày kinh nghiệm và nước phát triển sau.
3.1.2. Thực trạng mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế tại các quốc gia được lựa chọn
Thực trạng mua sắm chính phủ tại Anh
Ở Anh, thị trường mua sắm chính phủ phát triển từ sớm, có tính thương mại cao và độ ổn định
cao. Giá trị mua sắm hàng hóa, dịch vụ cơng ở Anh thường tương đương 1/3 tổng chi NSNN.
Cơ sở pháp lý về mua sắm chính phủ: Là thành viên của Liên minh châu Âu và gia nhập GPA
từ năm 1996 nên Anh phải tuân theo các quy định của GPA trong WTO và các quy định chung của
EU. Trên cơ sở quy định chung của EU, Anh đã ban hành quy định pháp lý cụ thể về mua sắm chính
phủ. Trong q trình phát triển lĩnh vực mua sắm chính phủ, các quy định pháp lý về mua sắm chính

9



phủ của EU nói chung và Anh nói riêng thường xuyên được đổi mới. Tháng 1/2021, Anh đã trở thành
một bên tham gia GPA với tư cách quốc gia độc lập (WTO, 2022).
Hình thức lựa chọn nhà thầu: Cạnh tranh là nguyên tắc hạt nhân trong mua sắm chính phủ. Để
tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả của hoạt động mua sắm chính phủ, mỗi hình thức mua sắm
chính phủ đi kèm điều kiện số lượng đơn vị tham gia tối thiểu.
Nguyên tắc trong thực hiện mua sắm chính phủ: Anh là quốc gia điển hình về việc tuân thủ
chặt chẽ các nguyên tắc cơ bản trong mua sắm chính phủ. Các dự án mua sắm hàng hóa dịch vụ có
giá trị trên 1 triệu bảng Anh và cơng trình trên 3,5 triệu bảng Anh phải cơng bố thơng tin cơng khai
trên tạp chí của Liên minh châu Âu. Về đấu thầu mua sắm qua mạng, từ năm 2014 (GPA sửa đổi)
Anh đã dẫn đầu EU về tỷ đấu thầu qua mạng dù không quy định bắt buộc. Cơ quan mua sắm khơng
nhất định phải lựa chọn hàng hóa, dịch vụ giá rẻ mà ưu tiên lựa chọn hàng hóa, dịch vụ có mức giá
và chất lượng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (đáng giá đồng tiền). Đánh giá việc mua sắm chính
phủ là một trong những bước cơ bản, quan trọng trong quy trình mua sắm chính phủ.
Lĩnh vực và phương thức mua sắm chính phủ: Anh tiến hành mua sắm chính phủ đối với hàng
hóa, dịch vụ và cơng trình, tuy nhiên mảng mua sắm dịch vụ đa dạng, phát triển hơn nhiều quốc gia
khác, Năm 2000 Anh đã thành lập các cơ quan mua sắm tập trung (CPBs) hoạt động khơng vì lợi
nhuận, đảm bảo các mục tiêu của Chính phủ. Nguồn kinh phí hoạt động của CPBs lấy từ khoản phí
từ các nhà thầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ nằm trong danh sách nhà thầu được cung cấp hàng hóa,
dịch vụ cho chính phủ; phí dịch vụ tư vấn từ nhà thầu cung cấp tính trên các hợp đồng mua sắm
thành cơng theo phương thức tập trung. Mơ hình mua sắm tập trung của Anh được đánh giá là mơ
hình điển hình và được nhiều quốc gia học hỏi, tham khảo.
Mua sắm công xanh/ bền vững: Anh đã sử dụng nhãn dán sinh thái từ năm 1992 và xây dựng
Kế hoạch hành động về mua sắm công bền vững năm 2007.
Hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ: Anh gia nhập GPA từ sớm và là một trong những thị
trường mua sắm chính phủ có mức độ hội nhập cao nhất thế giới. Anh đã ký kết nhiều FTA có nội
dung mua sắm chính phủ với đối tác chưa phải là thành viên GPA và là 1 trong số 45 chính phủ và
tổ chức trên toàn thế giới tự nguyện ký kết tham gia SPPI.
Thực trạng mua sắm chính phủ tại Úc
Úc là quốc gia có thị trường mua sắm chính phủ phát triển với giá trị mua sắm chiếm khoảng

17% GDP mỗi năm (Anthony và Evans, 2010).
Cơ sở pháp lý về mua sắm chính phủ: Quy tắc mua sắm liên bang (CPRs) do Bộ Tài chính Úc
ban hành có hiệu lực từ ngày 1/7/2012, sửa đổi, bổ sung từ ngày 20/4/2019 là hệ thống quy định
khung của Chính phủ Úc về mua sắm chính phủ mà theo đó các cơ quan mua sắm phải tuân thủ khi
thực hiện đấu thầu mua sắm hàng hóa và dịch vụ. Năm 2019 Úc chính thức gia nhập GPA. Ngoài
ra, Úc ban hành một số luật liên quan đến mua sắm chính phủ nói chung.
Hình thức lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hóa, dịch vụ: Đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn
chế đã chiếm 93,8%% tổng số các gói thầu tại Úc trong giai đoạn 2013/14 đến 2017/18.
Nguyên tắc trong thực hiện mua sắm chính phủ: Úc là quốc gia coi trọng tính cơng khai, minh
bạch trong mua sắm chính phủ nên đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm giải trình là các nguyên tắc
yêu cầu được CPRs đề ra. Tất cả thông tin về mua sắm chính phủ đều được đăng tải trên Hệ thống đấu
thầu qua mạng của Úc. Đáng giá đồng tiền cũng là quy tắc cốt lõi trong mua sắm chính phủ ở Úc.

10


Lĩnh vực và phương thức mua sắm chính phủ:Lĩnh vực mua sắm chính phủ bao gồm hàng hóa
và dịch vụ (gồm cả dịch vụ xây dựng), trong đó mua sắm dịch vụ thường chiếm tỷ trọng trên 60% tổng
số hợp đồng mua sắm, mua sắm hàng hóa chiếm tỷ lệ khoảng hơn 30% còn lại.
Về phương thức mua sắm, Úc có 120 cơ quan mua sắm thuộc phạm vi điều chỉnh của CPRs. Các cơ
quan chính phủ chịu trách nhiệm về quyết định, quy trình mua sắm của mình và mỗi cơ quan có yêu cầu
riêng đối với nhà thầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho họ. Song chính nguyên tắc “Đáng giá đồng tiền” đã
yêu cầu các cơ quan mua sắm phải phối hợp trong việc tổ chức đấu thầu (tổ chức mua sắm tập trung) .
Hội nhập lĩnh vực mua sắm cơng: Là nước có thị trường mua sắm chính phủ khá phát triển, là
quan sát viên của GPA từ năm 1996 song tháng 5/2019 quốc gia này mới chính thức trở thành thành
viên thứ 48 của GPA. Sở dĩ Úc tham gia GPA muộn là do trước đó quốc gia này vẫn cịn những quy
định pháp lý chưa đáp ứng được yêu cầu của GPA. Xu hướng hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ
trong khn khổ các FTA diễn ra mạnh mẽ tại Úc. Ngoại trừ FTA với Trung Quốc và Indonexia, 12
FTA của Úc đều có nội dung hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ.
Thực trạng mua sắm chính phủ tại Hàn Quốc

Hàn Quốc có hệ thống mua sắm chính phủ phát triển từ sớm và là hình mẫu cho nhiều quốc gia
học tập kinh nghiệm. Hàn Quốc đã coi cải cách mua sắm chính phủ là một trong những biện pháp
chống tham nhũng nên sau khi Luật Chống tham nhũng (2001) được ban hành, quốc gia này đã thiết
lập hệ thống mua sắm chính phủ qua mạng.
Cơ sở pháp lý về mua sắm chính phủ: Hệ thống cơ sở pháp lý về mua sắm chính phủ được ban
hành tương đối sớm và liên tục sửa đổi, hoàn thiện dựa trên ba nguyên tắc chính: Minh bạch trong
cơ hội mua sắm; minh bạch trong thực hiện hợp đồng và nguyên tắc không phân biệt đối xử trong
áp dụng đấu thầu quốc tế theo quy định của GPA. Hàn Quốc còn ban hành các luật khác nhằm thúc
đẩy hoạt động đấu thầu qua mạng như Luật Giao dịch điện tử và Luật Chữ ký điện tử…
Hình thức lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hóa, dịch vụ mua sắm: Các hình thức lựa chọn
nhà thầu chủ yếu gồm: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu. Là quốc gia có mức độ
cơng khai, minh bạch trong mua sắm chính phủ cao nên đấu thầu rộng rãi là hình thức được thực
hiện chủ yếu tại quốc gia này.
Nguyên tắc trong thực hiện mua sắm chính phủ: Hàn Quốc chú trọng đến việc tuân thủ
nguyên tắc công khai, minh bạch trong mua sắm chính phủ, theo đó tất cả các thơng báo mời
thầu đều được công bố trên Hệ thống mua sắm trực tuyến Hàn Quốc (KONEPS). Hàn Quốc là
một trong những quốc gia có hệ thống mua sắm điện tử lớn nhất thế giới với tỷ lệ mua sắm qua mạng
đạt 95% tại các cơ quan nhà nước. Nguyên tắc “Đáng giá đồng tiền nhất” (the best value for money)
được chú trọng và tuân thủ tại Hàn Quốc. Để đạt mục tiêu quản lý chất lượng, Hàn Quốc thành lập
Cục quản lý chất lượng và đặt ra các mục tiêu chính nhằm đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ quản lý
chất lượng một cách tốt nhất.
Phương thức và lĩnh vực mua sắm chính phủ: Hàn Quốc mua sắm chính phủ đối với hàng hóa,
dịch vụ và cơng trình. Hệ thống mua sắm chính phủ tập trung được thiết lập từ cấp Trung ương đến
địa phương Ở cấp Trung ương có Trung tâm Mua sắm chính phủ tập trung (PPS) mua sắm hàng
hóa, dịch vụ đối với các cơ quan thuộc Chính phủ có giá trị trên 100 nghìn USD và cơng trình xây
dựng có giá trị trên 3 triệu USD. Đối với địa phương, việc mua sắm hàng hóa và cơng trình xây lắp
được phân cấp cho chính quyền địa phương tự tiến hành.

11



Mua sắm công xanh/bền vững: Hàn Quốc sử dụng nhãn dán sinh thái từ năm 1992 và ban hành
Đạo luật khuyến khích mua sản phẩm xanh từ năm 2005. Hàn Quốc thành lập hệ thống thông tin
sản phẩm xanh (GPIS) trực tuyến năm 2005 nhằm tăng cường tính cạnh tranh giữa các tổ chức công,
tạo thuận lợi cho công tác giám sát và báo cáo quá trình mua sắm xanh hàng năm.
Hội nhập mua sắm chính phủ: Gia nhập GPA từ năm 1997 và là quốc gia có lĩnh vực mua sắm
chính phủ phát triển nên hầu hêt các FTA của Hàn Quốc đều có chương về mua sắm chính phủ. Nội
dung cam kết tại các FTA của Hàn Quốc cơ bản tuân theo văn kiện GPA của WTO, tuy nhiên, một
số FTA ngoại lệ thì nội dung cam kết có xu hướng mở cửa, tạo thuận lợi hơn ( như KORUS. Hàn
Quốc là 1 trong số 45 chính phủ và tổ chức trên toàn thế giới tự nguyện tham gia SPPI.
Thực trạng mua sắm chính phủ tại Trung Quốc
Trung Quốc có quy mơ mua sắm chính phủ liên tục tăng trong những năm gần đây. Năm 2020
giá trị mua sắm chính phủ của Trung Quốc chiếm 10,2% tổng chi ngân sách và 3,6% GDP.
Cơ sở pháp lý về mua sắm chính phủ: Hệ thống văn bản quy định về mua sắm chính phủ tại
Trung Quốc kém hồn thiện hơn Anh, Úc, Hàn Quốc. Luật Mua sắm chính phủ của Trung Quốc năm
2003 đã sửa đổi và có hiệu lực từ ngày 31/8/2014. Luật Mời thầu và Đấu thầu thực hiện từ đầu năm
2000 nhằm điều chỉnh hoạt động mua sắm của các DNNN. Trung Quốc cũng ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật liên quan để hỗ trợ hoạt động mua sắm chính phủ .
Hình thức lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hóa, dịch vụ: Có 06 hình thức lựa chọn nhà thầu
(đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, điều tra giá cả, đàm phán cạnh tranh, tham vấn cạnh tranh, chỉ
định thầu) áp dụng ở cả cấp Trung ương và địa phương. Năm 2019, đấu thầu rộng rãi của Trung
Quốc đã chiếm 78,6% các cuộc đấu thầu mua sắm.
Nguyên tắc trong thực hiện mua sắm chính phủ: Việc cơng khai, minh bạch thơng tin về mua
sắm chính phủ của Trung Quốc cịn hạn chế nhiều so với các quốc gia phát triển như Anh, Úc, Hàn
Quốc. Trung Quốc thí điểm đấu thầu mua sắm qua mạng từ năm 1996, song đến năm 2020 quốc gia
này mới áp dụng toàn diện.
Lĩnh vực và phương thức mua sắm chính phủ: Trung Quốc mua sắm chính phủ đối với hàng hóa,
dịch vụ và cơng trình, tuy nhiên tỷ trọng mua sắm dịch vụ của quốc gia này đã và đang được đẩy mạnh
trong những năm gần đây. Mua sắm tập trung được thực hiện ở Trung Quốc với mục đích cắt giảm
chi phí thơng qua việc thực hiện mua sắm quy mô lớn.

Mua sắm công xanh/bền vững: Trung Quốc đã ban hành chính sách liên quan đến mua sắm công
xanh tại Luật mua sắm công năm 2002. Năm 2005, tất cả các cơ quan chính phủ đều phải thực hiện mua
sắm xanh và công bố danh sách chi tiết sản phẩm mà các cơ quan chính phủ có thể mua sắm. Danh sách
này đã được cập nhật các năm sau đó và có xu hướng ngày càng mở rộng. Luật Mua sắm công Trung
Quốc sửa đổi năm 2014 cũng quy định liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường.
Hội nhập lĩnh vực mua sắm công: Là nước đang phát triển, Trung Quốc sử dụng mua sắm
chính phủ như công cụ quan trọng để đạt các mục tiêu kinh tế. Luật mua sắm chính phủ quy định việc
chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước ưu tiên hàng hóa, dịch vụ và dự án xây dựng nội địa
trong mua sắm chính phủ, do đó việc chính phủ ưu đãi các nhà thầu trong nước hơn nhà thầu nước
ngoài là hợp pháp tại quốc gia này (Chao Wang, 2015). Ở góc độ các FTA, Trung Quốc đã ký 16 FTA
song khơng có hiệp định nào có nội dung về mua sắm chính phủ. Trung Quốc cũng có một số rào cản
hạn chế tiếp cận thị trường được quy định rõ ràng trên văn bản.

12


3.2. Một số bài học kinh nghiệm về mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế rút ra từ các
quốc gia nghiên cứu
3.2.1. Hoàn thiện khung khổ pháp lý lĩnh vực mua sắm chính phủ theo chuẩn mực quốc tế
Các nước quản lý hoạt động mua sắm chính phủ thơng qua các văn bản pháp lý khác nhau, song
nhóm quốc gia có bề dày kinh nghiệm (Anh, Úc, Hàn Quốc) có hệ thống khung khổ pháp lý đạt chuẩn
mực quốc tế, đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập so với quốc gia đi sau như Trung Quốc.
3.2.2. Tuân thủ những nguyên tắc cơ bản trong mua sắm chính phủ
Các quốc gia có bề dày kinh nghiệm mua sắm chính phủ và hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ
tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc cơ bản trong mua sắm chính phủ, điển hình là các nguyên tắc: Công
khai, minh bạch; Đáng giá đồng tiền; Mua sắm qua mạng…
3.2.3. Lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hố, dịch vụ thơng qua hình thức đấu thầu rộng rãi
Kinh nghiệm mua sắm chính phủ ở Anh, Úc, Hàn Quốc... cho thấy, xu hướng sử dụng hình
thức đấu thầu rộng rãi là phương thức chính trong mua sắm chính phủ.
3.2.4. Tăng cường mua sắm tập trung

Thành lập cơ quan mua sắm tập trung là lựa chọn của một số quốc gia như Anh và Hàn Quốc.
3.2.5. Giám sát, đánh giá chất lượng hoạt động mua sắm chính phủ
Việc giám sát, đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ cung ứng hàng hóa, dịch vụ về số lượng, chất
lượng dịch vụ, thời gian và sự hài lòng của người thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ đóng vai trị quan trọng
trong hoạt động mua sắm chính phủ ở nhiều nước.
3.2.6. Tăng cường hội nhập quốc tế trong lĩnh vực mua sắm chính phủ
Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực mua sắm chính phủ là xu hướng tất yếu trên thế giới và hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực mua sắm nhằm tăng cường phát triển kinh tế bền vững.
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG MUA SẮM CHÍNH PHỦ CỦA VIỆT NAM
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
4.1. Cơ sở pháp lý hiện hành của Việt Nam về mua sắm chính phủ

4.1.1. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý hiện hành về mua sắm chính phủ ở Việt Nam đang được điều chỉnh chủ yếu
bởi các văn bản pháp lý sau: Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 (Luật Đấu thầu
năm 2013) và hệ thống các văn bản hướng dẫn; Các luật liên quan và hệ thống văn bản hướng dẫn
gồm: Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015; Luật Quản lý, sử dụng tài sản cơng năm 2017, Luật
phịng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm chống lãng phí... ;Nghị định số 95/2020/NĐ-CP và
Nghị định số 09/2022/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2020/NĐ-CP,
đã tạo khn khổ pháp lý để thực thi đầy đủ, có trách nhiệm cam kết về đấu thầu của Việt Nam tại
tại 3 hiệp định là CPTPP, EVFTA, UKVFTA.
4.1.2. Bộ máy quản lý nhà nước về mua sắm chinh phủ ở Việt Nam
Bộ máy quản lý nhà nước về mua sắm chính phủ ở Việt Nam gồm: Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Các bộ, cơ quan Trung ương, Ủy ban nhân dân các cấp.
4.2. Thực trạng mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế

13


4.2.1. Sơ lược về tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Sau hơn 3 thập kỉ mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã chủ động hội nhập có
lộ trình và mức độ ngày càng sâu rộng, tăng dần vào nền kinh tế quốc tế (từ hẹp đến rộng về đối tác và
lĩnh vực cam kết, từ thấp tới cao về mức độ cam kết). Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế, tính đến tháng 12/2022, đã ký kết và đang đàm phán 17 hiệp định FTA
song phương, đa phương, trong đó 15 FTA đã có hiệu lực và đang thực thi.
4.2.2. Thực trạng mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn
trước năm 2019
Quy mơ chi tiêu cơng có xu hướng tăng: Mua sắm chính phủ là cấu phần quan trọng của chi tiêu
cơng, do đó, việc nghiên cứu quy mơ chi tiêu cơng của Việt Nam trong một giai đoạn đồng thời phản
ánh quy mơ mua sắm chính phủ của quốc gia. Quy mơ chi NSNN bình qn giai đoạn 2015 - 2018
đạt 1.339.994 tỷ đồng, cao hơn 9,83% so với mức chi bình quân 1.219.973 tỷ đồng của giai đoạn
2010 – 2015. Tuy nhiên, tỷ trọng chi đầu tư phát triển trên tổng chi NSNN giai đoạn 2015 – 2018 lại
có xu hướng giảm, đạt mức 25,91% so với mức 29,16% của giai đoạn 2010 – 2015.
Số lượng và quy mô các gói thầu mua sắm có xu hướng tăng: Việt Nam là một nước đang phát
triển nên hàng năm Chính phủ đã dành một khoản chi tiêu lớn cho mua sắm chính phủ. Tổng giá trị
các gói thầu mua sắm chính phủ (giá trúng thầu) đã chiếm tỷ lệ trong khoảng từ 10 - 12% GDP và
khoảng trên 40% tổng chi NSNN. Cụ thể, năm 2015 tổng giá trị gói thầu mua sắm chính phủ là
472.238,4 tỷ đồng, tương đương 12% GDP (tính theo giá hiện hành) và chiếm khoảng 40% tổng chi
NSNN. Đến năm 2018, tổng giá trúng thầu đạt mức 647.676,143 tỷ đồng, tương đương 11,7% GDP
và chiếm khoảng 48,3% tổng chi NSNN.
Lĩnh vực đấu thầu có sự khác biệt giữa các loại gói thầu mua sắm: Đối với gói thầu sử dụng vốn
Nhà nước cho mục tiêu đầu tư phát triển, xây lắp là lĩnh vực có giá gói thầu và tổng giá trị trúng thầu
cao nhất. Năm 2018, lĩnh vực xây lắp có 3.842 gói thầu (29,31%) với giá trị trúng thầu chiếm tỷ lệ
57,37%. Trong khi, các gói thầu sử dụng vốn Nhà nước để mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của các cơ quan Nhà nước thì mua sắm hàng hóa luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong
đấu thầu qua mạng, lĩnh vực hàng hóa có số lượng gói thầu cao nhất, chiếm 74% và 47,29% tổng số
gói thầu thực hiện qua mạng năm 2016 và năm 2018 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2017, 2019).
Đấu thầu rộng tãi là hình thức chính trong lựa chọn nhà thầu: Trong năm 2017, 2018, đấu
thầu rộng rãi đã trở thành hình thức lựa chọn nhà thầu có tổng số gói thầu và tổng giá trị gói thầu cao
nhất. Năm 2018, cả nước có 193.250 gói thầu (chiếm 77,41%) sử dụng vốn Nhà nước cho mục tiêu

đầu tư phát triển được thực hiện với tổng giá gói thầu là 415.154,851 tỷ đồng (chiếm 60,73%), trong
đó, có 31.004 gói thầu thực hiện đấu thầu rộng rãi (chiếm 17,21%) và có tổng giá gói thầu và tổng
giá trúng thầu cao nhất (tương ứng là 293.691,1 tỷ đồng, chiếm 79,5% và 281.308,859 tỷ đồng, chiếm
79,36%) (Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2018, 2019).
Tăng cường áp dụng các ngun tắc trong mua sắm chính phủ: Cơng khai thơng tin đấu thầu tiếp
tục được tăng cường, tạo sự minh bạch tối đa, cụ thể công khai thông tin đấu thầu trên Báo Đấu thầu với
225.385 thông tin được đăng trong năm 2018. Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia đến cuối năm 2018 đã
có hơn 27.000 bên mời thầu, hơn 83.000 nhà thầu đăng ký; gần 150.000 kế hoạch lựa chọn nhà thầu và
gần 104.000 thông báo mời thầu đăng tải. Đầu thầu qua mạng tiếp tục tăng trưởng mạnh trong năm 2018,
tuy nhiên năm 2018 vẫn là năm thứ 3 liên tiếp không đạt được chỉ tiêu theo lộ trình Thơng tư liên tịch số
07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC ngày 08/9/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính.
14


Phương thức mua sắm tập trung chiếm tỷ trọng thấp: Việt Nam áp dụng cả phương thức mua
sắm phân tán và phương thức mua sắm tập trung. Mua sắm tập trung đã trực tiếp góp phần đảm bảo
việc quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước chặt chẽ, hạn chế được tình trạng mua sắm tài sản vượt tiêu
chuẩn, định mức, chống lãng phí. Năm 2018, tổng giá gói thầu thực hiện theo phương thức mua sắm
tập trung chiếm tỷ trọng gần 3% tổng giá gói thầu trên cả nước, tỷ lệ tiết kiệm cao gần 02 lần so với tỷ
lệ tiết kiệm chung của cả nước đạt 9,12%. Tuy nhiên, vẫn cịn khơng ít cơ quan, đơn vị chưa triển khai
triệt để, đồng bộ phương thức mua sắm tập trung hoặc có hiệu quả thực hiện mua sắm tập trung còn ở
mức thấp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2019).
Hiệu quả của hoạt động đấu thầu mua sắm có xu hướng giảm dần: Hiệu quả của hoạt động
đấu thầu được đo lường trên nhiều giác độ, điển hình là đo lường tính hiệu quả kinh tế thơng qua
tỷ lệ tiết kiệm trong đấu thầu. Trong những năm gần đây, tỷ lệ tiết kiệm chung trong hoạt động đấu
thầu có xu hướng giảm dần qua các năm, mặc dù tỷ trọng chỉ định thầu trên phạm vi cả nước đã có
xu hướng giảm và đấu thầu rộng rãi gia tăng. Tỷ lệ tiết kiệm của đấu thầu qua mạng luôn cao hơn tỷ
lệ tiết kiệm trong đấu thầu truyền thống của cả nước (năm 2016 là 9% so với 7,11% của đấu thầu
truyền thống, năm 2017 là 8,2% so với 6,98% của đấu thầu truyền thống, năm 2018 là 7,15% so với
5,26% của đấu thầu truyền thống) (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2019).

Hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ đã có bước tiến mang tính nền tảng : Trong xu hướng hội
nhập kinh tế quốc tế, hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu thầu của Việt Nam giai đoạn 2011 2018 đã được đẩy mạnh, khẳng định mục tiêu trong việc xây dựng môi trường mua sắm chính phủ minh
bạch, hiệu quả, phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, đồng thời giúp nâng cao hơn nữa vai trò,
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam đã phối hợp với các tổ chức quốc tế xây dựng và thực
hiện chính sách nhằm hoàn thiện khung khố pháp lý về đấu thầu dựa trên kinh nghiệm thực tiễn, thông
lệ tốt trên thế giới. Trở thành quan sát viên của GPA, tham gia Sáng kiến hợp đồng công khai (OCVN),
Hệ thống giám sát, đánh giá trong đấu thầu (M&E) và Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia là những bước
đi quan trọng, cần thiết trong quá trình Việt Nam thực hiện hội nhập quốc tế về đấu thầu mua sắm. Việt
Nam đã tiến hành đàm phán nội dung mua sắm chính phủ trong một số FTA.
Cùng với xu hướng mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đấu thầu quốc tế tại Việt Nam cũng có xu
hướng gia tăng. Năm 2016, cả nước đã 2,03% tổng số gói thầu thực hiện đấu thầu quốc tế, cao hơn
0,8% so với tỷ lệ của năm 2012. Trên thực tế đã có nhiều nhà thầu lớn của Việt Nam trúng thầu, đặc
biệt trong ngành xây dựng. Sau khi trở thành quan sát viên của GPA năm 2012, Việt Nam được tham
gia các cuộc họp, qua đó nắm bắt được xu thế trong đàm phán để có những quyết sách phù hợp trong
đàm phán các hiệp định mà Việt Nam đang và sẽ tham gia.
4.2.3. Thực trạng mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn
từ năm 2019 đến nay
Quy mơ chi tiêu cơng tiếp tục có xu hướng tăng so với cùng kỳ: Giai đoạn 2019-2021, quy mô
chi NSNN có xu hướng tăng về giá trị so với cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2015-2018. Tỷ trọng
chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN bình quân giai đoạn 2019-2021 đạt mức 30,63%, cao
hơn so với tỷ lệ 25,61 của giai đoạn 2015-2018. Tỷ trọng chi thường xuyên trên tổng chi NSNN
của các năm trong giai đoạn 2019 - 2021 giảm xuống mức 61,95% so với tỷ lệ 72,5% của giai đoạn
trước 2015-2018.
Số lượng và quy mô các gói thầu mua sắm có xu hướng giảm: Năm 2021, số lượng các gói
thầu trên cả nước chỉ giảm 0,5% so với năm 2020 với 300.157 gói thầu, song tổng giá trị lại sụt giảm
mạnh với mức giảm 33,55% so với năm 2020 xuống còn 636.914,36 tỷ đồng, tương đương 7,58%
15


GDP (tính theo giá hiện hành) và khoảng 37,75% tổng chi NSNN. Năm 2021, tổng giá trị các gói

thầu lại sụt giảm mạnh với mức giảm 33,55% so với năm 2020 xuống còn 636.914,36 tỷ đồng, tương
đương 7,58% GDP và khoảng 37,75% tổng chi NSNN.
Lĩnh vực đấu thầu tiếp tục duy trì sự khác biệt giữa các loại gói thầu mua sắm Giai đoạn 20192021, các gói thầu sử dụng vốn Nhà nước cho mục tiêu đầu tư phát triển có lĩnh vực xây lắp tiếp tục có
giá gói thầu và tổng giá trị trúng thầu cao nhất, bình quân lần lượt chiếm đến 61,04% và 62,19% tổng giá
trị và tổng giá trị trúng thầu. Với các gói thầu phục vụ hoạt động thường xuyên của các cơ quan Nhà
nước, mua sắm hàng hóa ln cũng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với tỷ lệ 52,67% tổng số gói thầu và
72,32% tổng giá trị trúng thầu (Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2022). Trong đấu thầu qua mạng, lĩnh vực hàng
hóa vẫn có số lượng gói thầu cao nhất, chiếm tỷ lệ 39,09% và 38,17% tổng số gói thầu thực hiện lựa chọn
nhà thầu qua mạng trong năm 2020, năm 2021 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2021, 2022).
Đấu thầu rộng tãi tiếp tục là hình thức chính trong lựa chọn nhà thầu: Trong giai đoạn 2019
- 2021, các hình thức đấu thầu rộng rãi, chào hàng cạnh tranh, chào hàng cạnh tranh rút gọn có xu hướng
gia tăng. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chiếm tỷ lệ cao nhất cả về tổng số gói thầu và tổng giá trị trúng
thầu. Trong năm 2021, cả nước có 213.968 gói thầu (chiếm 71,29% tổng số gói thầu) sử dụng vốn Nhà
nước cho mục tiêu đầu tư phát triển được thực hiện với tổng giá gói thầu là 490.155,397 tỷ đồng (chiếm
80,45%), trong đó, có 37.535 gói thầu thực hiện đấu thầu rộng rãi (chiếm 17,69%) song có tổng giá gói
thầu và tổng giá trúng thầu cao nhất (tương ứng là 427.724,88 tỷ đồng, chiếm 88,2% và 410.805,08 tỷ
đồng, chiếm 88,28%). Trong số 86.189 gói thầu sử dụng vốn Nhà nước để mua sắm tài sản nhằm duy trì
hoạt động thường xuyên của cơ quan Nhà nước được thực hiện trong năm 2021, đấu thầu rộng rãi có
8.380 gói thầu (chiếm 9,72%) là hình thức lựa chọn nhà thầu có tổng giá trúng thầu (70.530 tỷ đồng,
chiếm 59,2%) (Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2022).
Trong giai đoạn đại dịch Covid-19, chỉ định thầu đã có xu hướng gia tăng giá trị các gói thầu
khi tăng từ mức 8,0% năm 2020 lên 12,85% tổng giá trị các gói thầu và tỷ lệ tiết kiệm ở mức thấp là
2,57%. Tuy nhiên, đã có khơng ít trường hợp vi phạm pháp luật đấu thầu như cố ý chia nhỏ các gói
thầu nhằm mục đích đủ điều kiện hạn mức thực hiện chỉ định thầu theo quy định, gộp nhiều gói thầu
nhỏ khác lại với nhau để tạo ra một gói thầu phức tạp, lợi dụng kẽ hở trong quy định tại Luật Đấu
thầu về chỉ định thầu trong một số trường hợp để thực hiện chỉ định thầu nhằm trục lợi.
Tiếp tục đẩy mạnh áp dụng các nguyên tắc trong mua sắm chính phủ: Công khai thông tin
đấu thầu song song trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia và Báo Đấu thầu tiếp tục được tăng cường
thực hiện trong giai đoạn 2019-2021, giúp nâng cao khả năng tiếp cận thông tin của nhà thầu, từ đó nâng
cao tính cạnh tranh, minh bạch trong đấu thầu. Trong giai đoạn 2019 - 2021, đấu thầu qua mạng đã đạt

được những kết quả ấn tượng so với giai đoạn trước đó. Năm 2021, số gói thầu đã tăng lên mức 115.371
gói thầu, tăng 190,6% so với năm 2019 và 02 chỉ tiêu đấu thầu qua mạng đã vượt xa chỉ tiêu theo chỉ
đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 01/01/2021. Vấn đề giá cả các gói thầu trong bối cảnh
cả nước phịng chống dịch Covid-19 đã nổi lên một số vụ án vi phạm pháp luật do tình trạng thơng đồng,
móc ngoặc thẩm định giá nâng khống giá trị gói thầu để trục lợi từ các gói thầu.
Phương thức mua sắm tập trung được mở rộng và triển khai mạnh mẽ hơn Trong giai đoạn từ
năm 2019 - 2021, phương thức mua sắm tập trung đã được mở rộng và triển khai mạnh mẽ hơn. Năm
2021, cả nước có 804 gói thầu mua sắm được tổ chức lựa chọn nhà thầu theo phương thức mua sắm
tập trung (tăng 11,35% so với năm 2020) với tổng giá trị mua sắm là 34.856,95 tỷ đồng (5,47% tổng
giá gói thầu trên cả nước), giá trúng thầu là 29.221,95 tỷ đồng (giảm 22,2 % so với giá trị của năm

16


2000; tăng 29,4% so với năm 2018). Một số đơn vị, địa phương đã nhiều năm có tỷ trọng về giá trị
tổng giá gói thầu mua sắm tập trung cao như tỉnh Đồng Nai, Yên Bái, Tập đoàn Điện lực Việt Nam...
Hiệu quả của hoạt động đấu thầu vẫn tiếp tục xu hướng giảm dần: Trong giai đoạn 2019 –
2021, mặc dù tỷ trọng các gói thầu đấu thầu rộng rãi gia tăng song tỷ lệ tiết kiệm chung trong hoạt động
đấu thầu của cả nước lại vẫn tiếp tục xu hướng giảm dần qua các năm, từ mức 5,58% (năm 2019)
xuống 4,87% (năm 2020) và 4,34% (năm 2021). Tỷ lệ tiết kiệm trong hoạt động đấu thầu cịn khơng
đồng đều giữa các đơn vị, địa phương, lĩnh vực. Đấu thầu mua sắm tập trung được triển khai tốt, đặc
biệt một số địa phương có tỷ lệ tiết kiệm cao trên 30% đã đóng góp tích cực vào tỷ lệ tiết kiệm chung
của cả nước. Đấu thầu qua mạng năm 2021 đã tiết kiệm khoảng 1.974 tỷ đồng chi phí hành chính
trực tiếp, tăng 14,4% so với năm 2020.
Lĩnh vực mua sắm chính phủ bước sang giai đoạn thực thi các cam kết tại FTA đã ký kết: Sau
năm 2019, tình hình đấu thầu quốc tế ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều thay đổi tích cực, thậm chí có xu
hướng sụt giảm so với giai đoạn trước đó do chịu sự tác động nặng nề bởi tình hình dịch bệnh Covid19 trên phạm vi toàn cầu, các nhà đầu tư quốc tế gặp nhiều khó khăn (nguồn vốn, hạn chế đi lại, nhân
lực triển khai, nguồn nguyên liệu nhập khẩu….) phải dừng triển khai tìm kiếm cơ hội đầu tư mới. Phía
cơ quan mua sắm liên quan cam kết hội nhập cũng đang trong quá trình nghiên cứu các cam kết và
chuẩn bị các điều kiện triển khai Nghị định số 95/2020/NĐ-CP và Nghị định số 09/2022/NĐ-CP. Theo

đó, tính chung có 21 cơ quan mua sắm cấp Trung ương (cơ quan bộ) , 02 địa phương (Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh), 02 tập đồn kinh tế, Thơng Tấn xã Việt Nam, 34 bệnh viện thuộc Bộ Y tế cùng
nhóm trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam thuộc diện phải thực thi cam kết mua sắm chính
phủ trong phạm vi nội khối. Trong 05 năm đầu kể từ khi các FTA có hiệu lực, những gói thầu mua sắm
HH -DV của các CQMSCP nêu trên có ngưỡng giá trị từ 1,5 - 2 triệu SDR và gói thầu xây dựng có
ngưỡng từ 40 - 65,2 triệu SDR thuộc diện phải tổ chức đấu thầu nội khối. Năm 2021, trong số 300.157
gói thầu thực hiện trên cả nước, chỉ có 1.867 gói thầu quốc tế (chiếm 0,62%) có tổng giá trị gói thầu là
50.576 tỷ đồng, tổng giá trị trúng thầu là 48.812,2 tỷ đồng (chiếm 7,66%). Trong phạm vi Nghị định
số 95/2020/NĐ-CP và Nghị định số 09/2022/NĐ-CP, từ năm 2019 đến hết năm 2022, cả nước mới chỉ
có 02 gói thầu mua sắm được thực hiện. Điểm chung của 02 gói thầu này là đều thuộc lĩnh vực mua
sắm hàng hố, có quy mơ vừa phải với tổng giá trị trúng thầu bình quân ở mức 81,16 triệu đồng, tỷ lệ
tiết kiệm trong mua sắm thấp (đạt mức 1,02% và 0,007%).
Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của tiến trình phát triển lĩnh vực mua sắm chính phủ nói chung
và hội nhập mua sắm chính phủ nói riêng..
Thứ nhất, về việc tham gia GPA. Việt Nam chưa tham gia GPA với tư cách thành viên, song đã trở
thành quan sát viên thứ 26 của GPA từ năm 2012 và hiện nay vẫn đang tiếp tục thực hiện vai trò, nhiệm
vụ của quan sát viên tại GPA.
Thứ hai, tham gia các FTA có nội dung mua sắm chính phủ. Việt Nam đã ký kết 04 FTA có
nội dung về mua sắm chính phủ và các hiệp định đều đã lần lượt có hiệu lực từ sau năm 2019.
Thứ ba, về mức độ phù hợp, tương thích giữa pháp luật mua sắm chính phủ trong nước so với
cam kết trong các FTA đã ký kết và GPA. Pháp luật nội địa Việt Nam về đấu thầu đã có những bước
tiến theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế về đấu thầu hoặc các nghĩa vụ chung về minh bạch, cạnh
tranh trong trình tự, thủ tục đấu thầu.
Thứ tư, về mức độ thực hiện hình thức đấu thầu quốc tế và công khai, minh bạch thông tin. Đấu
thầu quốc tế được thực hiện từ sớm theo Luật Đấu thầu năm 2005 và đã có xu hướng gia tăng về số
lượng và giá trị trong những năm trước giai đoạn diễn ra dịch bệnh Covid-19. Cùng với việc trở thành
17


quan sát viên của GPA, Việt Nam đã tham gia một số họat động hội nhập trong lĩnh vực mua sắm

chính phủ. Việc cơng bố thơng tin, dữ liệu về hoạt động đấu thầu đấu thầu quốc tế giai đoạn sau hội
nhập từ năm 2019 đến nay còn hạn chế hơn so với thơng tin về các khía cạnh khác.
Thứ năm, về mức độ áp dụng công nghệ thông tin trong mua sắm chính phủ. Mức độ áp dụng
đấu thầu qua mạng trong những năm gần đây đã có sự gia tăng cả về số lượng và tổng giá trị gói thầu,
mang lại nhiều hiệu quả thiết thực đặc biệt trong giai đoạn đại dịch Covid-19. Việt Nam vẫn đang
trong tiến trình thúc đẩy thực hiện đấu thầu qua mạng nhằm góp phần sử dụng NSNN hiệu quả và
minh bạch hơn.
Nhìn chung, Việt Nam hiện đang ở giai đoạn đầu của tiến trình phát triển lĩnh vực mua sắm
chính phủ nói chung và hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ nói riêng. Sau năm 2025 mức độ hội
nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ sẽ cao hơn trong ngắn hạn với do ngưỡng giá trị các gói thầu cam
kết đã giảm mạnh.
4.2.4. Đánh giá chung về mua sắm chính phủ của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
Một số kết quả đạt được về mua sắm chính phủ trong hội nhập kinh tế quốc tế
(1) Quy mô chi NSNN hàng năm của cả nước trong giai đoạn 2019-2021 có xu hướng tăng
về giá trị so với cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2015-2018. Chi NSNN cho hoạt động mua sắm
chính phủ những năm gần đây vẫn có xu hướng tăng về giá trị so với cùng kỳ năm trước, thể hiện vai
trò quan trọng, mức độ ưu tiên nguồn lực cả nước cho hoạt động mua sắm chính phủ.
(2) Khung pháp lý về đấu thầu tiếp tục được hoàn thiện theo hướng phù hợp dần với thơng lệ quốc
tế. Luật Đấu thầu năm 2013 đã có những bước tiến theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế hoặc các
nghĩa vụ chung về minh bạch, cạnh tranh trong trình tự, thủ tục đấu thầu. Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiện
đang chủ trì Dự án Luật Đấu thầu (sửa đổi) với tinh thần nhận diện rõ nhưng vướng mắc, bất cập trong
luật hiện hành từ đó sửa đổi, hoàn thiện, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn cuộc sống và bối cảnh mới.
Khung pháp lý về đấu thầu qua mạng đã từng bước hoàn thiện hơn, tạo thuận lợi tối đa cho người dùng.
Các nghị định hướng dẫn thực hiện cam kết hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ trong khn khổ
các FTA đã được xây dựng, ban hành, đặt nền móng cơ bản cho pháp luật tiệm cận chuẩn cao của
thông lệ quốc tế trong lĩnh vực mua sắm chính phủ
(3) Hình thức lựa chọn nhà thầu trong những năm gần đây đã từng bước thay đổi theo xu hướng
tích cực, cạnh tranh, phù hợp hơn với xu hướng phát triển chung của các nước trong khu vực và trên
thế giới. Đấu thầu rộng rãi đã trở thành hình thức lựa chọn nhà thầu chiếm tỷ lệ cao nhất cả về tổng số
gói thầu và tổng giá trị trúng thầu, góp phần hỗ trợ cho việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ mua sắm cũng

như chi NSNN hiệu quả.
(4) Phương thức mua sắm tập trung được triển khai phổ biến tại nhiều cơ quan, đơn vị, địa
phương, trực tiếp góp phần đảm bảo việc quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước chặt chẽ, đồng thời hạn chế
hơn tình trạng mua sắm tài sản vượt tiêu chuẩn, định mức, chống lãng phí. Một số đơn vị, địa phương
thường xuyên có tỷ trọng về giá trị tổng giá gói thầu mua sắm tập trung cao. đóng góp tích cực vào
tỷ lệ tiết kiệm chung của cả nước.
(5) Các thông tin về đấu thầu đã được quản lý đầy đủ, thống nhất và đồng thời đăng tải trên Hệ thống
mạng đấu thầu quốc gia, Báo Đấu thầu đã hỗ trợ các nhà thầu tra cứu, tiếp cận thông tin đấu thầu thuận
lợi, kịp thời, đáng tin cậy, giúp gia tăng tính cạnh tranh, minh bạch trong hoạt động đấu thầu.
(6) Hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ của Việt Nam đã có những bước tiến tích cực ban đầu,
tạo tiền đề cho việc thực thi các cam kết hội nhập lĩnh vực mua sắm chính phủ trong khung khổ các
18



×