Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Tiểu luận kinh tế vĩ mô: Bộ 3 bất khả thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.22 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
 


MÔN HỌC: KINH TẾ VĨ MÔ

ĐỀ TÀI: BỘ 3 BẤT KHẢ THI



GVHD : TS TRẦN THỊ BÍCH DUNG
LỚP : ĐÊM 3 KHÓA 22
NHÓM : 10
1. Huỳnh Trí Thanh
2. Nguyễn Thị Hương Thảo
3. Huỳnh Trọng Tài
4. Lâm Việt Thăng
5. Hồ Thị Phương Thảo
6. Nguyễn Hữu phú Thiện
7. Phan Thanh Trí Tâm
8. Ngô Thị Lệ Thu



TPHCM , THÁNG 04 NĂM 2013
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 2
MỤC LỤC


BỘ 3 BẤT KHẢ THI
C HƯƠNG 1: NGHIÊN C ỨU LÝ THUYẾT TỔ NG QUAN VÀ C ÁC TRƯỜ NG PHÁI
VỀ BỘ 3 BẤT KHẢ THI

1.1 Các mô hình nền t ảng dẫn đến lý thuyết bộ ba bất khả thi 5
1.1.1 Mô hình IS-LM 5
1.1.2 Sự mở rộng mô hình IS-LM: Mô hình Mundell-Fleming 7
1.1.3

Lý thuyết Bộ ba bất khả thi cổ điển 12

1.2 Sự phát triển của Lý thuyết Bộ ba b ất khả thi hiện đại 15
1.2.1

Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian 15

1.2.2

Dự trữ ngoại hối và mối liên hệ với bộ ba bất khả thi : sự phát triển của
đồ thị kim cương 17

1.3 Vấn đề định lượng trong bộ ba bất khả thi 21
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM CỦA CÁC Q UỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI TRONG VIỆC ĐIỀU
HÀNH CHÍNH SÁCH VĨ MÔ
2.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc 25
2.1.1

Vấn đề kiểm soát vốn 25

2.1.2


Chính sách tỷ giá của Trung Quốc 26

2.1.3

Chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Trung Quốc 27

2.1.4

Tác động từ việc gia tăng dự trữ ngoại hối trong mối liên hệ với Bộ ba
bất khả thi 29

2.1.5

Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc 33

2.2 Kinh nghiệm của Ấn Độ 35
2.2.1

Các tranh luận về chế độ tỷ giá ở Ấn Độ 35

2.2.2

Hệ thống tỷ giá trên thực tế ở Ấn độ 36

2.2.3

Kiểm soát vốn 38

2.2.4


Bài học từ cách Ấn độ xử lý cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á
41

2.3 Kinh nghiệm của Malaysia 42
2.3.1

Tổng quan về chính sách tiền tệ, tỷ giá và kiểm soát vốn ở Malaysia42

2.3.2

Quản lý bộ ba bất khả thi 44

2.3.3

Những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến Malaysia
45

Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 3
2.3.4

Kinh nghiệm trong việc quản lý Bộ ba bất khả thi của Malaysia 47

2.3.5

Kết luận 51

CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VIỆT NAM

3.1 Dự trữ ngoại hối và mẫu hình trung gian của bộ ba bất khả thi ở Việt Nam s o với các nước khác .53
3.2 Chính sách vĩ mô và kiểm soát dòng vốn vào. 54
3.3 Tự do hóa đồng vốn ở Việt Nam 56
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH VĨ MÔ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GÓC NHÌN TỪ
BỘ 3 BẤT KHẢ THI
4.1 Giải pháp cho Việt nam trong giai đoạn 2011-2020 60
4.1.1

Nhóm giải pháp chủ đạo 60

4.1.1.1 Giải pháp cho kiểm soát vốn 60
4.1.1.2 Giải pháp cho chính sách tỷ giá 63
4.1.1.3 Giải pháp cho chính sách tiền tệ: 66
4.1.2

Nhóm giải pháp bổ trợ 71

4.1.2.1 Phân quyền, phân nhiệm và công bố thông tin: 71
4.1.2.2 Vai trò tư vấn của giới học thuật và hội đồng chuyên gia 71
4.1.2.3 Hấp thu nguồn vốn trong một nền kinh tế mở cửa 73


Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Tên viết tắt tổ chức
ADB : Ngân hàng phát triển châu Á
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EIU : Đơn vị dự báo, phân tích của tạp chí The Economist

IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế
WB : Ngân hàng thế giới
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
2. Đơn vị tiền tệ :
USD : Đô la Mỹ
NDT : Nhân dân tệ Trung Quốc
VND : Tiền đồng Việt Nam
3. Thuật ngữ kinh tế :
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FII : Đầu tư gián tiếp nước ngoài
MI : Chỉ số độc lập tiền tệ
ERS : Chỉ số ổn định tỷ giá
KAOPEN : Chỉ số hội nhập tài chính
CPI : Chỉ số giá tiêu dùng
UIP : Ngang giá lãi suất không phòng ngừa
IRP : Ngang giá lãi suất
PPP : Ngang giá sức mua
ICOR : Hệ số hiệu quả đầu tư
4. Tên viết tắt khác :
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTW : Ngân hàng trung ương
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 5

CHƯƠNG 1
NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VÀ
CÁC TRƯỜNG PHÁI VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI


1.1 Các mô hình nền tảng dẫn đến lý thuyết bộ ba bất khả thi
1.1.1 Mô hình IS-LM
M ô hình IS-LMcòn được gọi là mô hình Hicks-Hansen, do nó được hai nhà
kinh tế học John Hicks và Alvin Hansen xây dựng và phát triển. M ô hình này đã được
sử dụng để kết hợp các hoạt động khác nhau của nền kinh tế, nó là sự kết hợp giữa thị
trường tiền tệ và thị trường hàng hoá - dịch vụ trong nền kinh tế đóng.Theo đó, mô
hình IS-LM không chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài, như : xuất nhập khẩu, tỷ
giá hối đoái, lãi suất thế giới Vấn đề mô hình IS-LM muốn đưa ra là, nghiên cứu
xem chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ ảnh hưởng như thế nào đến thu nhập
trong nền kinh tế đóng. Chúng ta sẽ đưa mô hình này đến gần với thực tiễn hơn bằng
cách thêm yếu tố nước ngoài vào mô hình. Nhưng trước tiên, hãy cùng xây dựng hai
đường IS – LM và làm rõ ý nghĩa của mô hình này.
Xây dựng đường IS
Theo kinh tế học vĩ mô, phương trình biểu hiện trạng thái cân bằng trên thị
trường hàng hoá của một nền kinh tế đóng được biểu diễn như sau : Y = C + I + G
Triển khai phương trình trên, ta xây dựng đường IS. Đường IS là tập hợp các
kết hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập sao cho tổng chi tiêu kế hoạch đúng bằng
thu nhập, theo phương trình sau :
Tổng chi tiêu kế hoạch = C (Y – T) + I(r) + G
Xây dựng đường LM
Phương trình biểu hiện trạng thái cân bằng trên thị trường tiền tệ của một nền
kinh tế đóng được biểu diễn như sau : M / P = L ( Y, r )
Đường LM là tập hợp các kết hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập sao cho
cầu tiền thực tế bằng cung tiền thực tế.
Cân bằng IS-LM trong nền kinh tế đóng
Trạng thái cân bằng đồng thời trên cả hai thị trường hàng hoá và tiền tệ là trạng
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 6

thái thể hiện sử kết hợp giữa hai thị trường này trên cùng một đồ thị. Theo đó, trục
tung của đồ thị là các mức lãi suất thực tế r và trục hoành là các mức thu nhập Y. Giả
định rằng không có tình huống nào hai đường này không gặp nhau, tức là chúng luôn
luôn cắt nhau tại điểm cân bằng E thể hiện trên đồ thị. Điểm cân bằng này giúp xác
định mức thu nhập cân bằng Y* và mức lãi suất thực tế r*.
Hình 1.1 Mô hình IS-LM và điểm cân bằng

Trường hợp thông thường
Khi chính sách tiền tệ không thay đổi, nếu chính sách tài khoá nới lỏng được
thực hiện (đường IS dịch chuyển sang phải) thì thu nhập tăng lên, còn nếu chính sách
tài khoá thắt chặt (đường IS dịch chuyển sang trái) thì thu nhập giảm đi.
Tương tự, khi chính sách tài khoá không đổi, chính sách tiền tệ nới lỏng được
thực hiện (đường LM dịch chuyển sang phải) thì thu nhập tăng lên, còn nếu chính sách
tiền tệ thắt chặt (đường LM dịch chuyển sang trái) thì thu nhập giảm đi.
Cả chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ khi có sự biến động đều phát huy
hiệu lực của nó, nhưng mức độ phụ thuộc và độ dốc của hai đường IS-LM.Khi hai
chính sách cùng được thực hiện một lúc và theo cùng hướng nới lỏng hay cùng hướng
thắt chặt, tác động lên thu nhập là rất lớn. Còn khi hai chính sách cùng được thực hiện
một lúc, nhưng một chính sách theo hướng nới lỏng còn một chính sách theo hướng
thắt chặt, thì tác động tới thu nhập nhỏ. Đây gọi là ảnh hưởng triệt tiêu.
Trường hợp đặc biệt
Chính sách tiền tệ vô hiệu lực: Đường LM nằm ngang gặp đường IS dốc xuống
phía phải, trường hợp này gọi là "bẫy thanh khoản". Lúc này, chỉ có chính sách tài
r
Y
LM
IS

E
r*


Y*
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 7
khoá là phát huy tác dụng, còn chính sách tiền tệ thì vô hiệu lực. Chính phủ nới lỏng
tài khoá bao nhiêu thì thu nhập tăng lên bấy nhiêu, và thắt chặt bao nhiêu thì thu nhập
giảm bấy nhiêu. Trường hợp này cũng tương tự với khi đường IS thẳng đứng.
Chính sách tài khoá vô hiệu lực: Đường LM thẳng đứng gặp đường IS dốc
xuống, lúc này chính sách tài khoá không phát huy tác dụng. Ngược lại, chính sách
tiền tệ phát huy tác dụng tối đa, cung tiền tăng bao nhiêu thì thu nhập tăng bấy nhiêu.
Tương tự khi đường IS nằm ngang gặp đường LM dốc lên.
Hình 1.2: Mô hình IS-LM qua một số trường hợp đặc biệt

1.1.2 Sự mở rộng mô hình IS-LM: Mô hình Mundell-Fleming
Đã có nhiều nỗ lực trong việc mở rộng mô hình IS-LM bằng cách đưa yếu tố
nước ngoài vào mô hình.Trong đó, nỗlựcthànhcông nhấtđượcxemlà của“Mô
hìnhMundell-Fleming”.Đây là kết quảnghiên cứucủaRobertMundell(1962,
1963)vàJ.M.Fleming(1962)trongthờigianlàmviệctạiquỹ tiền tệ quốc tế IMF.Mô hình
r
Y
r
Y
r

Y

LM
IS
Chính sách


tài khoá nới lỏng
Chính sách

tài khoá thắt chặt
Chính sách

tiền tệ thắt chặt
Chính sách

tiền tệ nới lỏng
Chính sách tiền tệ vô hiệu lực
Chính sách tài khoá vô
hi

u l

c

LM
IS
IS
IS
LM
LM
Trường hợp thông thường Trường hợp đặc biệt
r

Y


Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 8
M undell-Fleming là sự mở rộng của nền tảng lý thuyết IS-LM khi có tính đến tác động
của yếu tố nước ngoài, được đại diện bằng cán cân thanh toán (Balance Payment -
BP). Đây được xem là điểm khởi đầu cho lý thuyết Bộ ba bất khả thi.Mô hình
M undell-Fleming chỉ ra sự tác động của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá dưới
các chế độ tỷ giá khác nhau.Chúng ta sẽ cùng lần lượt phân tích các tác động này dưới
chế độ tỷ giá cố định và thả nổi.
Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định
Nếu như kết quả nghiên cứu mô hình IS-LM cho ta một kết luận: chính sách
tiền tệ và chính sách tài khoá thay đổi có thể dẫn đến sự thay đổi của thu nhập quốc
gia; thì mô hình Mundell-Fleming chỉ ra rằng: hai chính sách trên cóthểlàmthay đổi
trạng tháicủacán cânthanh toán, khiến cho cán cân thanh toán trở nên thâm hụt hay
thặng dư.
Hình 1.3: Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá

BắtđầutạiđiểmcânbằngEở hình 1.3,nơimàcán cân thanh toán đang trong trạng
thái cân bằng,nếuchúngtathựchiệnmột chínhsáchtiềntệmởrộng(LM dịch chuyển sang
phải thành LM’) thì sẽ có mộtđiểm cân bằng mới nằm dưới đường BP (điểm F), và tại
đócán cân thanh toán thâmhụt.Chúng ta cũng lý luận tương tự cho trường hợp LM dịch
chuyển sang trái, cũng như khi IS dịch chuyển (tức chính phủ mở rộng hoặc thắt chặt
chính sách tài khoá).Những lý luận của mô hình hoàn toàn có thể được áp dụng vào
thực tế với những trường hợp cụ thể.Ví dụ, chính phủ triển khai chính sách mở rộng
tiền tệ trong bối cảnh muốn giữ cố định tỷ giá hối đoái, việc làm này có thể khiến cho
lạm phát gia tăng với giả định thị trường hàng hoá đã cân bằng.Lạm phát trong nước
khiến cho giá hàng hoá nhập khẩu rẻ hơn một cách tương đối so với hàng nội địa và
giá hàng hoá xuất khẩu đắt một cách tương đối so với hàng nước ngoài. Việc này
r


Y

LM
IS

BP

E
G
F

H
BP > 0
BP < 0

LM’

Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 9
không có lợi cho cán cân thương mại. Ta cũng có thể lý luận tương tự đối với tài khoản
vốn đầu tư. Như vậy, việc thay đổi chính sách tiền tệ hay chính sách tài khoá của chính
phủ sẽ ảnh hưởng đến trạng thái cân bằng của cán cân thanh toán trong nền kinh tế
mở.
Khi cán cân thanh toán thặng dư, NHTW sẽ dùng nội tệ để mua ngoại tệ vào
(cung tiền tăng). Ngược lại, khi cán cân thanh toán thâm hụt, NHTW sẽ bán ngoại tệ
để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ trên thị trường (cung tiền giảm). Do đó, một cán cân
thanh toán thặng dư hay thâm hụt sẽ làm tăng hoặc giảm cung tiền của nền kinh tế vì
NHTW sẽ mua vào hoặc bán ra ngoại tệ. Kết quả là, một cán cân thanh toán thặng dư
hay thâmhụtsẽkhôngđượcduy trì, nhưng để làm đượcđiềunày,

NHTWđãtácđộngđếnlạmpháttrongnước.Luận điểm này sauđóđượcFrankel
vàKrugmankhaithácvàxây dựngnên lýthuyết bộba bất khả thi.
Trên thực tế, có nhiều nỗ lực ở các quốc gia nhằm xoá bỏ một phần hay toàn bộ
tác động của lạm phát khi can thiệp vào thị trường bằng các chính sách trên.Theo đó,
với một nền kinh tế mở, tỷ giá hối đoái được giữ ổn định, việc điều hành chính sách
tiền tệ hay chính sách tài khoá sẽ không tác động đến mức lạm phát trong nước.Việc
này có phải là một liều thuốc “thần dược” để biến bộ ba bất khả thi thành bộ ba khả thi
hay không? Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc tìm hiểu về các loại can thiệp không vô
hiệu hoá và vô hiệu hoá.
Can thiệp không vô hiệu hoá và can thiệp vô hiệu hoá
Can thiệp không vô hiệu hoá và can thiệp vô hiệu hoá là hai loại được xếp vào
nhóm can thiệp trực tiếp. Can thiệp trực tiếp là loại can thiệp của chính phủ vào cung
tiền của quốc gia.Thông thường, các chính phủ sẽ khiến cho đồng tiền nước mình
giảm giá bằng cách bán nội tệ và đổi lấy đồng ngoại tệ (thường là đô la) trên thị trường
ngoại hối. Điều này khác với can thiệp gián tiếp bằng cách tác động lên những yếu tố
ảnh hưởng đến tiền tệ, ví dụ như lãi suất.
Khi NHTW can thiệp vào thị trường hối đoái mà không điều chỉnh sự thay đổi
mức cung tiền tệ, điều này được gọi là can thiệp không vô hiệu hoá. Ví dụ, nếu NHTW
đổi đồng nội tệ lấy đồng đô la nhằm mục đích phá giá đồng nội tệ, đảm bảo ổn định tỷ
giá, mức cung tiền sẽ gia tăng.
Khi NHTW muốn can thiệp vào thị trường hối đoái trong khi vẫn duy trì mức
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 10
cung tiền tệ, họ sẽ sử dụng can thiệp vô hiệu hoá bằng các giao dịch trong thị trường
ngoại hối và các hoạt động trên thị trường mở. Ví dụ, nếu NHTW muốn hạ giá đồng
nội tệ mà không làm ảnh hưởng đến mức cung tiền, họ có thể đổi nội tệ lấy đô la, tăng
mức cung tiền, và sau đó bán một số chứng khoán kho bạc hiện có để thu nội tệ về,
giảm mức cung tiền. Nếu như lượng nội tệ thu vào do bán chứng khoán đúng bằng
lượng nội tệ tung ra thị trường khi mua đô la, lạm phát sẽ không xảy ra. Chúng ta cũng

có thể đưa ra một vài ví dụ tương tự khi NHTW muốn tăng giá đồng tiền.
Vấn đề là, trên thực tế, chính sách can thiệp vô hiệu hoá có phải là giải pháp
cho vấn đề bộ ba bất khả thi hay không?Đã có quốc gia nào thành công khi thực hiện
chính sách này?Nó có tỏ ra hiệu quả không, và chi phí phải trả là gì? Chúng ta sẽ
nghiên cứu rõ hơn về chính sách can thiệp vô hiệu hoá áp dụng đối với Trung Quốc
trong những năm qua ở chương 2. Phần tiếp sau đây sẽ là những lý luận với giả định
không có can thiệp vô hiệu hoá để xét xem chính sách tài khoá hay chính sách tiền tệ
tỏ ra hiệu quả dưới một nền kinh tế mở có mục tiêu tỷ giá.
Chính sách tài khoá hay chính sách tiền tệ?
Nếu chúng ta vẫn tiếp tục giữ nguyên giả định chế độ tỷ giá hối đoái là cố định
và thị trường vốn mở, nhưng lại thêm một giả định là không có chính sách vô hiệu
hoá, thì sau đó tấtyếurằng, chính sách tài khoá trở nên hiệuquả hơn chính sách tiền
tệ.Hãy nhìn lại hình 1.1 mộtlần nữa.Bắtđầutại điểmE,mộtsựmởrộngchính sách tiền tệ
sẽchuyển đường LMsang LM ’ và do đó đạt được một cán cân thanh toán thâm hụt tại
điểm F. Tuy nhiên, không cósự vô hiệu hoá, cung tiền sẽ giảm (do chính phủ cố gắng
cân bằng cán cân thanh toán bằng cách tung ngoại tệ ra thị trường để đáp ứng nhu cầu
thị trường) và sau đó LM ’ sẽ dịch chuyển sang phía trái trở lại LM và điểm F sẽ quay
trởlại điểmE.Nghĩalà,sản lượng saukhi giatăngtrong mộtthời gianngắnsẽquay lại điểm
cân bằng Y*.Dođó,chínhsáchtiền tệ khônghiệu quảhoàn toàn để làmgiatăngsản lượng
quốc gia. Ngược lại, giả định rằng, bắt đầu tại điểm E, chúng ta thực hiện một chính
sách tài khóamởrộng, đườngISdịch chuyển sangIS’, dẫn tới mộtcán cân thanh toán
thặngdư tại điểmG.Không cóchínhsáchvôhiệuhoá,mộtcán cânthanh toán thặng
dưhàmýrằngcung
tiềnsẽtăngnhằmđápứngchosựgiatăngtrongsảnlượngquốcgia.Dođó,đườngLMdịch
chuyển sang phía phải đến LM’. Tại điểm cân bằng mới, điểm H, là một vị thế dài hạn.
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 11
Như vậy, sản lượng đã tăng đáng kể trong trường hợp này vì sự dịch chuyển của cung
tiền khi không có vô hiệu hoábổsung chosự mởrộng chính sách tài khoában

đầu.Điềunày đưatađến kết luận: dưới chế độ tỷ giá cố định, chính sách tài khoá có hiệu
quả cao hơn và chính sách tiền tệ kém hiệu quả hơn trong việc gia tăng sản lượng.
Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá linh hoạt
Cáchàmýcủachính sách tiền tệvàchính sách tài khoá dưới chếđộtỷ giálinh hoạt
có thể được hình dung trong hình 1.4. Giả định chúng ta bắt đầu tại điểm E, phần giao
nhau của đường cong IS, LM, BP; và giả định có một sự mở rộng chính sách tiền tệ từ
LM sang LM’. Kết quả, chúng tadịch chuyển từE đến F,là mộtcán cân thanh toán
thâmhụt.Tại điểmF,cómột cầu thặng dư về ngoại tệ và cung thặng dư về nội tệ trên thị
trường ngoại hối. Dưới cơ chế tỷ giá linhhoạt,tỷgiáthựcsẽgiảm,dođóđườngBP
dịch chuyểnsangphảithànhBP’vàISdịch chuyển sang phải thành IS’, tạonên một điểm
cân bằng sản lượng mới J lớnhơn là Y*J. Chúng ta có được sự cân bằng bên trong và
bên ngoài khi có sự giao nhau của ba đường IS’, LM’ và BP’.
Dođó,dướichếđộtỷgiálinhhoạt,chínhsáchtiềntệtỏrakháhiệuquảđểgiatăngsản lượng.
Hình 1.4: Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá linh
hoạt

Từnhững hàmýcủamôhình M undell-Fleming ởtrên tathấy rằng:hiệuquảcủachính
sách tiền tệ và chính sách tài khoá phụ thuộc vào cơ chế tỷ giá hối đoái và mức độ
kiểm soát vốn. Ví dụ, quốc gia nào có chuyển dịch dòng vốn tự do và tỷ giá cố định,
thì các nhà quản lý tiền tệ không thể theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập. Trong
một quốc gia có cơ chế tỷ giá cố định
thìkhôngcórủirotỷgiá,vàlãisuấttrongnướcbiếnđộngcùngvớilãisuấtnướcngoài.
Từ nhữngnhận định trên, các nhàkinh tế như Krugman (1979)và Frankel (1999)
r

Y
LM

IS


BP
E
G
F

BP


IS’
LM


J
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 12
đãmởrộng mô hình M undell-FlemingthànhLý thuyết bộ ba bất khả thi.Frankel(1999)
cho rằng, một quốcgiaphải từ bỏmộttrong bamụctiêu: chính sách tiền tệđộclập, sựổn
định của chính sách tỷ giá, và hội nhập thị trường tài chính. Lý thuyết này sẽ được tìm
hiểu ở phần dưới.
1.1.3 Lý thuyết Bộ ba bất khả thi cổ điển
Robert Mundell – người đã nhận giải Nobel kinh tế vào năm 1999 – là cha đẻ
của lý thuyết Bộ ba bất khả thi,ông đã xây dựng nên những nền tảng cơ bản về lý
thuyết này vào những năm 1960. Tiếp đó, vào những năm 1980, khi vấn đề kiểm soát
vốn bị thất bại ở nhiều quốc gia cùng với mâu thuẫn giữa việc cố định tỷ giá và độc lập
trong chính sách tiền tệ ngày càng rõ nét thì lý thuyết Bộ ba bất khả thi đã trở thành
nền tảng cho kinh tế học vĩ mô của nền kinh tế hiện đại.
Lý thuyết Bộ ba bất khả thi được phát biểu như sau: Một quốc gia không thể
đồng thời đạt được cả ba mục tiêu tỷ giá hối đoái cố định, hội nhập tài chính, và độc
lập tiền tệ. Tức là, một quốc gia chỉ có thể lựa chọn cùng một lúc đồng thời hai trong

ba mục tiêu kể trên.Đây chính là lý thuyết Bộ ba bất khả thi cổ điển.
Trong lý thuyết này, ba mục tiêu không thể đồng thời đạt được bao gồm:
Độc lập tiền tệ giúp cho chính phủ chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền
tệ để thực hiện chính sách phản chu kì kinh tế. Ví dụ, nếu nền kinh tế có dấu hiệu phát
triển nóng, lạm phát tăng cao, chính phủ sẽ tăng lãi suất hoặc (và) thắt chặt cung tiền,
tương tự cho trường hợp ngược lại. Nhiều nhà kinh tế tin rằng sự độc lập tiền tệ sẽ
giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững hơn. Tuy nhiên, vấn đề là trong một
thế giới mà giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc, độc lập tiền tệ quá mức có thể là
một cái cớ để chính phủ lạm dụng thực hiện các chiến lược tăng trưởng méo mó trong
ngắn hạn.Đó là chưa kể, độc lập tiền tệ quá mức có khả năng khiến cho chính phủ phát
hành tiền trang trải cho thâm hụt ngân sách.
Ổn định tỷ giá giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến hành các biện
pháp ổn định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với rủi ro của
nền kinh tế giảm đi, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ, nhất là
đối với những quốc gia có đồng nội tệ yếu. Tất cả cũng đều vì mục tiêu làm cho môi
trường đầu tư tốt lên.Tuy nhiên, tỷ giá cố định quá mức cũng có mặt trái của nó.Tỷ giá
quá ổn định làm cho chính phủ mất đi một công cụ để hấp thụ các cú sốc bên trong và
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 13
bên ngoài truyền dẫn vào nền kinh tế.Ví dụ, lạm phát cao trong nước mà tỷ giá gần
như cố định dễ dẫn đến nguy cơ hàng hoá mất sức cạnh tranh trên thị trường thế giới,
hậu quả là xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng lên.Ngoài ra, tính quá cứng nhắc của tỷ
giá còn ngăn cản không cho những nhà làm chính sách sử dụng công cụ chính sách
phù hợp với thực tế diễn biến của nền kinh tế, nhất là khi đang có dấu hiệu của bong
bóng tài sản.
Hội nhập tài chính tất nhiên là xu thế khó có thể cưỡng lại được trong bối cảnh
toàn cầu hoá. Lợi ích của hội nhập tài chính đến từ hai mặt : hữu hình và vô hình. Về
mặt hữu hình, lợi ích của hội nhập tài chính giúp quốc gia tăng trưởng nhanh hơn và
phân bổ nguồn lực tốt hơn. Chúng cũng giúp nhà đầu tư đa dạng hoá đầu tư, nhờ vậy

mà họ mới mạnh dạn bỏ vốn vào nền kinh tế, thị trường tài chính nội địa nhờ đó mà
cũng phát triển theo. Lợi ích lớn nhất – lợi ích vô hình – mang lại từ hội nhập tài chính
là tạo ra động lực giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và đưa ra chính sách tốt
hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập. Mặc dù vậy, hội nhập tài chính cũng được
cho là nguyên nhân dẫn đến bất ổn kinh tế những năm gần đây.
Hình 1.5 Lý thuyết bộ ba bất khả thi

Bộ ba bất khả thi được minh hoạ bởi hình 1.5; mỗi cạnh tượng trưng cho các
mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính. Mỗi cạnh mô
tả một mục tiêu kì vọng của nền kinh tế, tuy nhiên không nền kinh tế nào có thể thực
hiện được đồng thời cả ba cạnh của tam giác trên. Bất kì cặp mục tiêu nào cũng có thể
đạt được bằng một chế độ tỷ giá tương ứng nhưng phải từ bỏ mục tiêu chính sách còn
lại:
Th


trư

ng v

n đón g

Chính sách ti

n t


độc lập
Ổn định t ỷ giá
T



giá th


n

i

Liên minh

tiền tệ
Hội nhập tài chính
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 14
 Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ
giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất
đi một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài.
 Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ
giá thả nổi nhưng phải từ bỏ mục tiêu ổn định tỷ giá. Với lựa chọn này, Ngân
hàng trung ương được quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận
hành theo những nguyên tắc thị trường.
 Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn
đóng. Lựa chọn này có nghĩa chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn. Khi có kiểm
soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ, và quốc gia có thể thực
hiện đồng thời hai mục tiêu này.
Kể từ khi vận hành theo chế độ bản vị vàng, nhiều kiểu hệ thống tài chính quốc
tế khác nhau đã được thiết kế để đạt hai trong số ba mục tiêu chính sách. Hệ thống
Bretton Woods được thiết lập để đạt được ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ trong khi hy

sinh mục tiêu tự do chu chuyển vốn, tức hội nhập tài chính. Hệ thống tiền tệ Châu Âu
được thiết lập trên cơ sở thoả thuận tỷ giá cố định và vốn chu chuyển tự do và từ bỏ
độc lập tiền tệ của các nước thành viên. Trong hơn 20 năm qua, hầu hết các nước đang
phát triển bắt đầu tăng tốc hội nhập tài chính.Điều này có nghĩa là một quốc gia phải
hoặc từ bỏ ổn định tỷ giá nếu muốn duy trì mức độ độc lập tiền tệ hoặc từ bỏ độc lập
tiền tệ nếu muốn duy trì ổn định tỷ giá.
Theo hình 1.5, một nền kinh tế trong cùng một thời điểm có thể lựa chọn một
trong ba đỉnh của tam giác với nguyên tắc: quốc gia sẽ thực hiện được đồng thời hai
mục tiêu trên hai cạnh chứa đỉnh đó. Việc xác định sự lựa chọn của quốc gia dựa theo
góc nhìn về “điểm” trong hình học có vẻ như không cần thiết trong lý thuyết Bộ ba bất
khả thi cổ điển trong những năm thập niên 60, nhưng lại có một tầm quan trọng nhất
định đối với việc nghiên cứu các mô hình phát triển của lý thuyết Bộ ba bất khả thi
hiện đại.




Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 15
Bảng 1.1 : Minh hoạ nguyên lý Bộ ba bất khả thi

C

p m

c tiêu

Ví d



Ki

m soát v

n

Chính sách ti

n t


đ

c l

p và
ổn định tỷ giá
-

H


th

ng Bretton
Woods

- Trung Quốc trước khi cải
cách năm 2005

Liên minh ti

n t


T


do hoá dòng v

n và

n đ

nh
tỷ giá
-

H


th

ng ti

n t


Châu Âu


- Hồng Kông
Tỷ giá thả nổi Tự do hoá dòng vốn và chính
sách tiền tệ độc lập
- Mỹ, Nhật, Úc, …
Để có cách nhìn tổng quát và hoàn thiện về lý thuyết Bộ ba bất khả thi, các mô
hình nền tảng xây dựng nên lý thuyết này sẽ được lần lượt nghiên cứu trong phần tiếp
theo.
1.2 Sự phát triển của Lý thuyết Bộ ba bất khả thi hiện đại
1.2.1 Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian
Yigang và Tangxian (2001) tiếp tục phát triển lý thuyết Bộ ba bất khả thi của
GS.M undell và đưa lên thành thuyết tam giác mở rộng.Nền tảng của thuyết này là
những quan niệm mới về sự độc lập của chính sách tiền tệ và ổn định tỷ giá.Theo đó,
tam giác bất khả thi của Mundell chỉ mới tập trung đến các cơ chế tỷ giá nằm ở các
đỉnh của tam giác mà chưa đề cập đến một cơ chế tỷ giá trung gian nằm đâu đó trong
vùng tam giác bất khả thi.Yigang và Tangxian đã mở rộng mô hình này và kết luận
rằng một quốc gia có thể có những phối hợp mục tiêu khác nhau và không phải chấp
nhận sự đánh đổi hoàn toàn như trong lý thuyết bộ ba bất khả thi cổ điển.









Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 16
Hình 1.6: Lý thuyết bộ ba bất khả thi mở rộng


Tương tự như hình 1.5, ba cạnh trong tam giác mở rộng ở hình 1.6 cũng tương
ứng cho ba mục tiêu chính sách.Trong phạm vi tam giác bất khả thi, chúng ta xác định
một điểm O tuỳ ý nằm ở vùng trong tâm giác. Khoảng cách từ điểm O đến mỗi cạnh
càng ngắn thì mức độ ưu tiên cho mục tiêu đại diện cho cạnh đó trong nền kinh tế càng
cao.Ngược lại, khoảng cách từ điểm O đến mỗi cạnh càng xa thì có vẻ như nền kinh tế
đó đang không chú trọng vào mục tiêu đại diện cho cạnh đó lắm.Trên hình 1.6, có vẻ
như nền kinh tế đang dàn trải thực hiện cả ba mục tiêu, nhưng mỗi mục tiêu không
được thực hiện hoàn toàn.Một ví dụ khác, tại điểm D, nền kinh tế đang ưu tiên cho hai
mục tiêu là ổn định tỷ giá và chính sách tiền tệ độc lập. Tuy vậy, lúc này nền kinh tế
không phải đánh đổi bằng việc đóng cửa tài khoản vốn hoàn toàn, ví dụ như khi quốc
gia thực hiện chính sách kiểm soát vốn như ưu tiên dòng vốn đầu tư trực tiếp, ưu tiên
dòng vốn đầu tư dài hạn, thực hiện việc kí quỹ khi đầu tư. Trong khi đó, tại điểm A –
thị trường vốn đóng, khoảng cách đến mục tiêu hội nhập tài chính là cực đại.Lúc này,
quốc gia sẽ hoàn toàn cấm các dòng vốn vào và ra khỏi nền kinh tế, đổi lại, hai mục
tiêu chính sách tiền tệ độc lập và ổn định tỷ giá được đảm bảo thực hiện.Điều tương tự
cũng xảy ra đối với các điểm tỷ giá thả nổi và tỷ giá cố định.Như vậy, lý thuyết Bộ ba
bất khả thi cổ điển đã trở thành một trường hợp đặc biệt của lý thuyết tam giác mở
rộng, với các điểm đại diện cho sự chọn lựa nằm trên đỉnh của tam giác.
Gọi Ms, Kc và Ev là các khoảng cách từ điểm O đến ba cạnh, tượng trưng lần
lượt cho mức độ của độc lập chính sách tiền tệ, mức độ kiểm soát vốn và mức độ biến
động tỷ giá. Một tính chất quan trọng của tam giác đều là: tổng khoảng cách của bất kỳ
điểm nào ở bên trong tam giác đến ba cạnh bằng chiều cao của tam giác. Do đó ta có
Th


trư

ng v


n đóng

Chính s ách
tiền tệ độc lập
Ổn định tỷ giá
Tỷ giá thả nổi Tỷ giá cố định
Hội nhập tài chính
O
Ev
K
c

Ms
A
B
C

D
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 17
M s + Kc + Ev = Mh. Để đơn giản, đặt chiều cao của tam giác đều M h = 1, thì ta có Ms
+ Kc + Ev = 1 (hằng số) và 0 <= Ms, Kc hoặc Ev <= 1.
Trong đó: (1) Khi Kc = 0, tức là dòng vốn lưu động hoàn toàn và Kc = 1 tức là
kiểm soát vốn hoàn toàn. (2) Ms = 0, nghĩa là chính sách tiền tệ hoàn toàn và Ms = 1,
nghĩa là mất độc lập về chính sách tiền tệ. (3) Ev = 0, tức là tỷ giá cố định và Ev = 1,
tức là tỷ giá thả nổi. Đây là những trường hợp đặc biệt đã được xét đến tại các điểm
A,B,C – đỉnh của tam giác bất khả thi.
1.2.2 Dự trữ ngoại hối và mối liên hệ với bộ ba bất khả thi : sự phát triển
của đồ thị kim cương

Phiên bản nguyên thuỷ của lý thuyết bộ ba bất khả thi không đề cập đến vai trò
của dự trữ ngoại hối.Lý thuyết tam giác mở rộng nghiên cứu về sự đánh đổi không
hoàn toàn giữa các lựa chọn mục tiêu cho nền kinh tế; thuyết tứ diện thêm vào một
nhân tố là khả năng vay mượn nước ngoài của quốc gia, nhưng vẫn chưa trực tiếp
nghiên cứu về vấn đề dự trữ ngoại hối – một vấn đề thường xuyên được đề cập đến ở
các nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi đang phát triển. Đó là do xu thế hội
nhập tài chính diễn ra ngày càng sâu rộng ở các quốc gia này nên ngày càng có nhiều
nghiên cứu cho thấy dự trữ ngoại hối đóng vai trò quan trọng trong mẫu hình bộ ba bất
khả thi, nhất là tại các quốc gia đang phát triển.
Trong hơn hai thập kỉ gần đây, ngày càng nhiều các nền kinh tế đang phát triển
có xu hướng thiên về lựa chọn chế độ tỷ giá trung gian giữa cố định và thả nổi, như
chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, neo tỷ giá, hoặc dải băng tỷ giá. Chế độ tỷ giá hỗn
hợp như thế đòi hỏi các quốc gia phải gia tăng dự trữ ngoại hối để bảo đảm duy trì tỷ
giá trong một vùng mục tiêu nào đótheo kế hoạch của chính phủ. Sau khủng hoảng tài
chính Châu Á 1997, nhiều nước đang phát triển bắt đầu chuyển sang cơ chế tỷ giá linh
hoạt hơn, tức hướng về thị trường nhiều hơn. Mặc dù vậy, dự trữ ngoại hối ở các nước
đang phát triển vẫn tiếp tục tăng lên ấn tượng. Dự trữ ngoại hối toàn cầu tăng từ
khoảng 1000 tỷ đô la đến hơn 5000 tỷ đô la trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2006.
So sánh mức dự trữ ngoại hối của các nước bằng con số tuyệt đối có vẻ hơi
khập khiễng, vì mỗi nền kinh tế có quy mô, phạm vi và tính chất khác nhau. Để bỏ qua
quy mô nền kinh tế, ta sử dụng chỉ số IR/GDP, tức là tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên tổng
sản phẩm quốc nội.Trong khi IR/GDP tại các nước công nghiệp tương đối ổn định xấp
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 18
xỉ dưới 5% thì tỷ lệ này tại các nước đang phát triển tăng từ 5% đến khoảng 27%
(Xem đồ thị 1.8). Gần đây các nước đang phát triển nắm giữ đến ba phần tư dự trữ
ngoại hối toàn cầu, phần lớn tập trung ở Châu Á, nơi tỷ lệ IR/GDP đã gia tăng từ
khoảng 5% vào năm 1980 lên khoảng 37% vào năm 2006. Đương nhiên, Trung Quốc
là quốc gia có dự trữ ngoại hối tăng ấn tượng nhất cả về khối lượng dự trữ ngoại hối

tuyệt đối lẫn tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP từ khoảng 1% vào năm 1980 lên xấp xỉ
41% vào năm 2006 (và sau đó là gần 50% vào năm 2008).
























Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 19
Hình 1.8: Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP của các nước đang phát triển,

các nước phát triển, châu Á và Trung Quốc

Dự trữ ngoại hối gia tăng một phần do chính phủ các nước đang phát triển phải
đối phó với xu hướng dòng vốn mang tính đầu cơ. Dòng tiền nóng từ đầu cơ rất dễ
dừng lại đột ngột và đảo chiều, vì vậy tích luỹ dự trữ ngoại hối là phương thức mà
chính phủ các quốc gia đang phát triển hướng đến như là một tấm đệm can thiệp vào
thị trường ngoại hối để phòng ngừa rủi ro nguồn vốn đảo chiều.
Trong các nhân tố thương mại và tài chính, nhân tố nào là chủ yếu để giải thích
cho dự trữ ngoại hối tăng lên? Bằng việc nghiên cứu xem những yếu tố nào mang tính
quyết định dự trữ ngoại hối tại hơn 100 nền kinh tế trong giai đoạn từ 1975-2004,
Cheung và Ito (2007) nhận ra rằng nếu như trước đây nhân tố thương mại là thành
phần quan trọng dẫn đến gia tăng tích luỹ dự trữ ngoại hối, thì gần đây vai trò của
nhân tố thương mại ngày càng giảm dần. Thay vào đó, nhân tố tài chính ngày càng
đóng góp quan trọng vào dự trữ ngoại hối tăng lên ở các nước. Obstfeld (2008) cho
rằng các nhân tố tài chính liên quan đến quy mô của các khoản nợ trong nước có khả
năng chuyển đổi thành ngoại tệ (M 2), mức độ mở cửa tài chính, khả năng tiếp cận


c đang phát tri

n



c
đ
ã

phát tri


n

Châu Á (tr


TQ)

TQ

Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 20
ngoại tệ thông qua các thị trường nợ, chính sách tỷ giá sẽ là những chỉ báo quan trọng
đối với dự trữ ngoại hối toàn cầu cũng như của một quốc gia.
Chính vì tầm quan trọng ngày càng tăng của hội nhập tài chính như là một nhân
tố quyết định đối với dự trữ ngoại hối như vậy nên các nhà kinh tế đã bắt đầu có những
nghiên cứu sâu hơn về mối liên kết giữa thay đổi trong cấu trúc của bộ ba bất khả thi
và mức độ dự trữ ngoại tệ.
Những thay đổi trong cấu trúc của bộ ba bất khả thi và mức độ dự trữ ngoại hối
có mối liên kết với nhau, vì vậy Aizenman, Chinn và Ito (2008) đã triển khai một dạng
đồ thị hình kim cương để đo lường xu hướng của những thay đổi này. Aizenman,
Chinn và Ito xây dựng cho mỗi quốc gia một vector bộ ba bất khả thi và những cấu
hình của dự trữ ngoại hối để đo lường độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá, dự trữ ngoại hối
và hội nhập tài chính của mỗi quốc gia. Những thước đo này dao động từ 0 đến 1. Cấu
hình của mỗi quốc gia được tổng hợp bằng đồ thị hình kim cương tổng quát với bốn
đỉnh đo lường độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá, chỉ số IR/GDP và hội nhập tài chính.
Hình 1.10 tổng hợp khuynh hướng đối với các quốc gia công nghiệp hóa và
những nền kinh tế mới nổi. Nhìn trên hình ta thấy các quốc gia công nghiệp ngày càng
tăng tốc tự do hóa tài chính nhiều hơn. Đi kèm với tự do hóa tài chính, các quốc gia
công nghiệp hóa cũng ngày càng hướng tới ổn định tỷ giá (chủ yếu ở các quốc gia sử

dụng đồng Euro).
Đồng thời cũng làm sáng tỏ sự thật là các nền kinh tế mới nổi đã hướng tới tỷ
giá linh hoạt cao hơn và hội nhập tài chính sâu hơn. Điều đáng lưu ý là bên cạnh đó,
dự trữ ngoại hối cũng được tích lũy nhiều hơn.Ngược lại, các quốc gia công nghiệp
hóa lại ngày càng giảm đi dự trữ ngoại hối của mình.








Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 21

Hình 1.10: Đồ thị kim cương đối với các nước công nghiệp hoá

Hình 1.11: Đồ thị kim cương đối với các nền kinh tế mới nổi tại Châu Á và
Trung Quốc

1.3 Vấn đề định lượng trong bộ ba bất khả thi
Tỷ giá, yếu tố đầu tiên của bộ ba, dễ đo lường nhất. Độ ổn định tỷ giá được đo
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 22
lường dựa vào chế độ tỷ giá trên thực tế thay vì chế độ tỷ giá như cam kết của một
quốc gia với IM F.
Yếu tố thứ hai của bộ ba là độc lập tiền tệ. Rose (1996) có đề xuất đo lường độc

lập tiền tệ bằng cách xem phản ứng của tỷ giá đối với những thay đổi trong sản lượng,
lãi suất và cung tiền. Tuy nhiên đối với cung tiền, phương pháp này có nhược điểm là
khó thể nào phân biệt được trong thực tế đâu là một cú sốc cung và cú sốc cầu tiền tệ,
đó là chưa kể phải giả định tốc độ lưu thông tiền tệ là không đổi.
Khác với Rose, Obstfeld, Jay C. Shambaugh và Taylor (2005) đề xuất cách tiếp
cận khác để đo lường độc lập tiền tệ bằng cách không dựa trên số lượng mà dựa trên
lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Phương pháp này gây tranh cãi vì chỉ dựa chủ yếu vào
trực giác khi cho rằng điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu dựa vào mức lãi suất mục
tiêu hơn là dựa trên số lượng tiền tệ.
Yếu tố khó đo lường nhất của bộ ba là hội nhập tài chính. Thường thì các nhà
kinh tế dựa vào phương thức kiểm soát vốn của mỗi quốc gia theo phân loại của IM F
để xem xét chỉ số độ mở của tài khoản vốn. Tuy nhiên, điều mà các nhà kinh tế thực sự
quan tâm là mức độ hội nhập tài chính trên thực tế.Có thể một quốc gia tuy tuyên bố
kiểm soát chặt các giao dịch vốn nhưng trên thực tế các chính sách lại khá thông
thoáng.
Do tính phổ biến và dễ ứng dụng, phần còn lại của quyển sách này chủ yếu đề
cập đến cách thức đo lường những đánh đổi chính sách trong bộ ba bất khả thi của
Chinn và Ito (2008). Chinn và Ito đã phát triển 3 thước đo để đánh giá mức độ độc lập
tiền tệ (MI), ổn định tỷ giá (ERS) và hội nhập tài chính (KAOPEN).
Độc lập tiền tệ (MI). Mức độ độc lập tiền tệ được đo lường bằng hàm đảo
nghịch của mức tương quan hằng năm của lãi suất hàng tháng giữa quốc gia sở tại và
quốc gia cơ sở. Chỉ số mức độ độc lập tiền tệ được xác định bằng:
 = 1 −

,


()
()


Trong đó:
I : quốc gia sở tại
J : quốc gia cơ sở.
Với công thức như trên, giá trị tối đa, tối thiểu tương ứng là 1 và 0.Giá trị càng
tiến về 1 có nghĩa là chính sách tiền tệ càng độc lập hơn. Ví dụ nếu chúng ta muốn đo
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 23
lường mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam, quốc gia sở tại là Việt Nam và quốc gia cơ
sở là Mỹ (nếu chúng ta muốn xem xét thay đổi lãi suất VND với lãi suất USD).
Ổn định tỷ giá (ERS). Độ ổn định tỷ giá chính là độ lệch chuẩn của tỷ giá,
được tính theo năm dựa trên dữ liệu tỷ giá mỗi tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia
cơ sở. Độ ổn định tỷ giá giữa giá trị 1 và 0, càng tiến về 1 tỷ giá càng ổn định.
 = 
,
,(∆ 
(


)
)

Cách thức đo lường độ ổn định tỷ giá như trên có ưu điểm là giúp chúng ta xác
định được chính sách tỷ giá trên thực tế mà một quốc gia đang áp dụng chứ không phải
dựa trên những gì mà quốc gia đó tuyên bố.
Hội nhập tài chính (KAOPEN).Trong các chỉ số đo lường bộ ba bất khả thi,
khó nhất là đo lường mức độ hội nhập tài chính. Muốn đánh giá mức độ hội nhập tài
chính, chúng ta phải đo lường mức độ mà một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. Tuy
nhiên việc đo lường mức độ kiểm soát vốn rất phức tạp vì rất khó để phản ánh hết
những phức tạp trong thực tế. Chẳng hạn có quốc gia tuy tuyên bố mở cửa thị trường

vốn bằng những biện pháp hành chính của các cơ quan chức năng. Chinn và Ito
(2006,2008) đưa ra đề xuất sử dụng độ mở tài khoản vốn KAOPEN để đo lường mức
độ hội nhập tài chính.
KAOPEN dựa trên thông tin trong báo cáo hàng năm về cơ chế tỷ giá và những
hạn chế ngoại hối do IMF phát hành. Nhìn vào KAOPEN ta sẽ thấy một quốc gia trên
thực tế có tiến hành chính sách đa tỷ giá hay không. Đây là dạng cơ chế mà một loại tỷ
giá áp dụng cho giao dịch trên tài khoản vãng lai và một loại tỷ giá áp dụng cho tài
khoản vốn.Cơ chế đa tỷ giá chính là một dấu hiệu nhận biết một quốc gia tiến hành
kiểm soát vốn. Vào thời điểm tình trạng lạm phát tăng tốc ở Việt Nam năm 2008, đã có
đề xuất từ một số nhà làm chính sách cho rằng nên áp dụng cơ chế đa tỷ giá, trong đó
tỷ giá áp dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu phải khác với các doanh nghiệp nhập
khẩu (chính phủ Việt Nam đã không đồng ý với biện pháp này). KAOPEN vì vậy cho
thấy những hạn chế trong các giao dịch trên tài khoản vãng lai, tài khoản vốn và kết
nối ngoại tệ.
M ặc dù vậy KAOPEN có nhược điểm là không phản ánh đúng mức những gì
diễn ra trên thực tế, nhất là việc khu vực tư nhân tìm mọi cách tránh né các biện pháp
kiểm soát vốn của chính phủ. Ví dụ chúng ta thấy ở Việt Nam chẳng hạn, các sai số
Chương 1: Nghiên cứu lý thuyết tổng quan và các trường phái về bộ ba bất khả thi

Trang 24
thống kê hàng năm trong cán cân thanh toán quốc tế nhiều khi lên đến hàng tỷ USD.
Các sai số này được quy cho khu vực doanh nghiệp tìm cách chuyển tiền xuyên biên
giới vì nhiều mục đích khác nhau. Tuy có một số nhược điểm nhưng chỉ số KAOPEN
được nhiều nhà kinh tế đánh giá đã phản ánh được các mục tiêu chính sách quan trọng
mà một quốc gia theo đuổi trong tiến trình hội nhập tài chính.
Chỉ số Chinn-Ito (KAOPEN) biến thiên giữa 0 và 1.Giá trị càng cao của chỉ số
này cho thấy quốc gia mở cửa hơn với những giao dịch vốn xuyên quốc gia.
Lưu ý là chỉ số KAOPEN chỉ cho ta thấy độ mở tài khoản vốn theo pháp lý dựa
trên các báo cáo của chính phủ cho IM F, WB các chỉ số kinh tế vĩ mô liên quan đến
kiểm soát vốn và ngoại hối.

Lane và Milesi-Ferretti (2006) có đề xuất sử dụng chỉ số độ mở tài khoản vốn
trên thực tế. Chỉ số của Lane và Milesi-Ferretti đo lường khối lượng nợ và tài sản nước
ngoài trong cán cân thanh toán. Khi đo lường tổng lượng nợ và tài sản nước ngoài
trong cán cân thanh toán, ta sẽ thấy được mức độ kiểm soát vốn trên thực tế mà quốc
gia đó đang theo đuổi. Ngoài ra còn một phương pháp thứ 2 để đo lường độ mở cửa tài
khoản vốn trên thực tế, đó là tính toán tỷ số dòng tài chính xuyên biên giới trong cán
cân thanh toán quốc tế so với GDP.
Thường khi phân tích các chỉ số của bộ ba bất khả thi các nhà kinh tế có xu
hướng sử dụng đồng thời cả 2 chỉ số độ mở tài khoản vốn theo pháp lý và trên thực tế
cùng một lúc.
o0o


Chương 2: Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc điều hành chính sách vĩ mô

Trang 25
CHƯƠNG 2 :
KINH NGHIỆM CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI TRONG VIỆC
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH VĨ MÔ

2.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc
2.1.1 Vấn đề kiểm soát vốn
Chính sách của Trung Quốc là đóng cửa tài khoản vốn, mặc dù đã có những đột
phá trong cải cách cơ chế kiểm soát vốn và mở dần cánh cửa hội nhập tài chính theo
xu hướng chung của nền kinh tế thế giới.
Trên thực tế, các dòng vốn vẫn tiếp tục di chuyển qua cánh cửa tài khoản vốn
của quốc gia này, ví dụ như thông qua các dòng FDI.Để tránh điều này, chính quyền
đã cố gắng kiểm soát hiệu quả hơn cán cân thanh toán mình và hạn chế việc doanh
nghiệp nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước của họ. Các công ty nước ngoài đã bị
cấm các khoản tiền gửi để giới hạn việc thu lợi từ những khoản vốn phi sản xuất. Để

quản lý các dòng ngoại tệ trong nước, Bộ quản lý Ngoại hối (SAFE) đã đưa ra một
chính sách mới, theo đó các ngân hàng buộc phải giữ nhiều ngoại tệ bằng bút tệ hơn.
Tháng 11 năm 2010, SAFE đã đưa ra mức sàn ngoại hối mà các ngân hàng phải giữ
qua đêm, việc này giữ chân dòng vốn khá hiệu quả trước khi NHTW trực tiếp can
thiệp. Các nhà làm luật cũng xây dựng các chính sách thông thoáng hơn và tạo điều
kiện đối với những khoản thu được ngoài nước định danh bằng đồng ngoại tệ. Thêm
vào đó, bắt đầu tháng 01/2011, các điều khoản hạn chế về dòng FDI ra bên ngoài cũng
sẽ không còn gay gắt như trước.Tuy nhiên, sự chênh lệch lãi suất và kì vọng của các
doanh nghiệp nội địa về việc giảm tỷ giá đồng nội tệ đã khuyến khích các doanh
nghiệp ngoài chính sách di chuyển vốn ra ngoài Trung Quốc, ít nhất là trong ngắn hạn.
M ặc cho các nỗ lực trên, các dòng tiền “nóng” vẫn tiếp tục tăng lên đến gần 30
tỷ đôla mỗi tháng trong quý 3 năm 2010.Dòng vốn vào vẫn còn giữ ở mức trung bình
này vào quý 4 năm 2010.Trước tình hình này, NHTW sẽ phải bỏ ra gần 1 tỷ đô la mỗi
ngày để ngăn chặn sự mở rộng cung tiền.
Nếu các dòng vốn vẫn tiếp tục chảy vào Trung Quốc một cách mạnh mẽ trong
năm 2011, thì các nhà làm chính sách sẽ phải sử dụng các công cụ khác để ngăn chặn
tác động xấu của dòng chảy này đến nền kinh tế thực. Các công cụ vĩ mô đã nêu trên,

×