Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đặc điểm tâm lý khách Nhật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.44 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ KHÁCH DU LỊCH NHẬT VÀ XÂY DỰNG SẢN
PHẨM DU LỊCH CHO KHÁCH DU LỊCH NHẬT
1. Xu hướng của du lịch văn hoá trên thế giới.
2. Khái quát hoạt động du lịch tại Nhật Bản và đặc điểm tâm lý khách
du lịch Nhật Bản
2.1. Khái quát hoạt động du lịch tại Nhật Bản.
2.2 Đặc điểm tâm lý khách du lịch Nhật Bản.
3 Xây dựng sản phẩm du lịch cho khách du lịch Nhật.
4 Kết Luận
1. XU HƯỚNG CủA DU LịCH VăN HOÁ TRÊN THẾ GIỚI.
Du lịch văn hóa luôn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du
lịch trên phạm vi thế giới. Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu trên
thế giới đã nêu rõ tầm quan trọng của loại hình du lịch văn hóa. Một số nhà
nghiên cứu tính toán số lượng khách du lịch văn hóa chiếm 70% số khách đi
du lịch. Tuy nhiên theo Tổ chức Du lịch thế giới thì con số này vào khoảng
37% du lịch toàn cầu tức là khoảng 265 triệu chuyến du lịch thế giới trong
năm 2003.
1
Như vậy, nghiên cứu theo mục đích chính cũng như phụ thì hoạt động
du lịch văn hóa vẫn giữ vai trò quan trọng đối với du lịch toàn cầu và nằm
trong nhu cầu của khách du lịch.
Đặc điểm quan trọng được ghi nhận sau các kết quả nghiên cứu của
Hiệp hội đào tạo du lịch và giải trí (ATLAS) và Cơ quan Pháp về quản lý du
lịch (AFIT) thì khác với cách nghĩ thông thường, thị trường khách của loại
hình du lịch văn hóa là khách thanh niên nhiều nhất, chiếm gần 40% và ở
nhóm tuổi dưới 35 tuổi.
Khách có học vấn cao hơn thì thích đi tìm hiểu du lịch văn hóa nhiều
hơn. Trong tổng số khách được hỏi về những thu nhận sau chuyến du lịch
nước ngoài thì phần lớn cho rằng được biết về nền văn hóa khác, và được tìm
hiểu và khám phá các nền văn hóa khác là điểm quan trọng nhất.


Theo số liệu của Tổ chức Du lịch thế giới, năm 2002 thì nguồn thông
tin của khách du lịch văn hóa là thông qua bạn bè, người thân (46%), đọc các
sách hướng dẫn du lịch (27%), tìm thông tin trên Internet (17%), số lượng
này ngày càng gia tăng nhanh, và số tìm đến các hãng lữ hành và sử dụng
brochures chiếm 14%.
WTO cũng đưa ra mức chi tiêu của du khách như sau: khách du lịch
văn hóa chi 70Euros/ngày, khách đi nghỉ biển chi khoảng 48Euros/ngày,
khách đi du lịch đô thị hoặc làng quê chi khoảng 40-42Euros/ngày và khách
đi du lịch thể thao, sức khỏe chi dưới 30 euros/ngày. Như vậy cho thấy loại
hình du lịch văn hóa có đối tượng khách có học vấn cao hơn và khả năng chi
trả cũng cao hơn.
2. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI NHẬT BẢN VÀ ĐẶC ĐIỂM
TÂM LÝ KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN
2
2.2. Khái quát hoạt động du lịch tại Nhật Bản.
Nhật Bản là một trong những thị trường gửi khách lớn nhất thế giới.
Hàng năm, có hàng chục triệu lượt khách Nhật đi du lịch nước ngoài. Năm
1985, có 4,49 triệu lượt khách Nhật đi du lịch nước ngoài. Đến năm 2004 có
tới trên 16,8 triệu lượt khách Nhật đi du lịch nước ngoài. Khách Nhật có khả
năng thanh toán cao, hiệu quả mang lại lớn. Vì vậy, Nhật luôn là thị trường
được nhiều nước chú trọng khai thác.

Trong mấy năm gần đây, Nhật Bản bắt đầu coi trọng phát triển du lịch
nhằm thu hút khách quốc tế, biến Nhật Bản không chỉ là một thị trường gửi
khách lớn mà còn là một điểm đến du lịch thông dụng của du khách quốc tế.
Để thu hút khách du lịch quốc tế, năm 1999, Nhật Bản đã đề ra chính
sách xúc tiến du lịch quốc tế. Chính sách này bao gồm những nội dung sau:
1. Kế hoạch chào đón thế kỷ 21 ( Welcome Plan 21).
Kế hoạch này nhằm mục tiêu tăng gấp đôi lượng khách đến, tăng tổng
lượng khách quốc tế đến Nhật Bản đến năm 2005 đạt 7 triệu lượt và đến 2007

đạt 8 triệu lượt; Tạo ra hình ảnh của Nhật Bản như một điểm đến du lịch được
chọn; giảm chi phí đi lại và tạo điều kiện thuận lợi cho khách đi du lịch ở
Nhật bản; Đa dạng hoá các điểm đến du lịch của nước ngoài từ các thành phố
lớn như Tokyo và Osaka tới một loạt các địa phương khác của Nhật Bản.
Luật xúc tiến du lịch quốc tế inbound thông qua việc đa dạng hoá các
điểm đến ở Nhật Bản. Luật thực thi 3 khía cạnh cơ bản như sau: Thiết kế và
xúc tiến “ các khu chuyên đề du lịch quốc tế” được mong đợi cung cấp những
yếu tố hấp dẫn nhất ở Nhật Bản; giảm chi phí du lịch cho du khách nước
3
ngoài bằng việc phát hành các thẻ giao thông không hạn chế và thẻ chào đón
“Welcome Cards” trong đó có giảm giá tại các cơ sở du lịch; nâng cao lòng
hiếu khách đối với du khách nước ngoài bằng việc cấp giấy phép thông dịch
viên và hướng dẫn viên cho các khu vực địa phương cụ thể và xây dựng các
trung tâm thông tin hiệu quả hơn; áp dụng chính sách thuế ưu đãi cho việc
xây dựng hoặc nâng cấp các phương tiện lưu trú.
Nhiều khu vực ở Nhật Bản có nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên,
lịch sử và văn hoá phong phú, rất thích hợp cho việc thu hút khách du lịch
quốc tế. “ Các khu chuyên đề du lịch quốc tế “ đã được thiết lập để nhấn
mạnh tiềm năng này của một số khu vực bằng việc xây dựng các tuyến tham
quan dưới chủ đề chung. Hiện nay, ở Nhật Bản có 10 “Khu chuyên đề du lịch
quốc tế”.
Để giảm chi phí du lịch ở Nhật Bản, thẻ giảm giá “Welcome Cards” đã
được giới thiệu ở 8 thành phố lớn. Bằng việc xuất trình thẻ này, du khách
nước ngoài có thể nhận được giảm giá phí vào cửa tại các cơ sở du lịch như
bảo tàng, nhà hàng, cơ sở lưu trú và cửa hàng lưu niệm. Các hãng hàng không
và hãng tàu hoả giành vé giảm giá cho du khách nước ngoài.
2. Xúc tiến đăng cai các Hội nghị quốc tế:

Các thành phố lớn ở Nhật Bản nhận thấy hiệu quả đáng kể, cả về kinh
tế và văn hoá, của việc đăng cai các hội nghị quốc tế và đã phát triển các

trung tâm hội nghị hiện đại. Với nhận thức rằng hội nghị là một trong những
nhân tố chủ yếu làm tăng dòng chảy du khách, ngành du lịch Nhật bản chú
trọng thu hút đăng cai tổ chức nhiều hội nghị quốc tế. Một “ Thành phố du
lịch và hội nghị quốc tế” được Chính phủ chỉ định có thể được hưởng những
đặc ân với điều kiện Chính phủ ủng hộ các hoạt động marketing và quảng cáo
4
ở nước ngoài cũng như tài trợ cho các hội nghị quốc tế được tổ chức ở địa
phương.
Cơ quan Du lịch quốc gia Nhật Bản (JNTO) là cơ quan đảm nhiệm
công tác marketing và xúc tiến du lịch của Nhật Bản. Thực thi chính sách xúc
tiến với chủ đề “Chào đón thế kỷ 21”, các hoạt động marketing của JNTO
được tập trung vào việc tạo ra một hình ảnh mới cho điểm đến Nhật Bản;
marketing ở nước ngoài về “các khu chuyên đề du lịch quốc tế”; cải thiện
mạng lưới thông tin du lịch. Các hoạt động marketing của JNTO bao gồm:
các chiến dịch marketing du lịch Nhật Bản ở châu á và các thị trường quan
trọng khác; Trợ giúp báo chí được thực hiện để cho các nhà báo du lịch,
phóng viên ảnh, phóng viên truyền hình nổi tiếng làm quen với một loạt các
điểm hấp dẫn du lịch ở Nhật Bản bằng cách cung cấp tài chính hoặc trợ giúp
xuất bản cho họ; Liên hệ xuất bản thường xuyên và đóng góp các bài viết và
ảnh cho báo chí; tổ chức các cuộc họp báo. Tổ chức các hội thảo, triển lãm,
hội chợ thương mại du lịch, các tour làm quen cho các hãng lữ hành. JNTO
giúp các hãng điều hành tour xây dựng các tour tới Nhật Bản bằng cách tổ
chức các tour làm quen FAMTRIP cho họ làm quen với các điểm hấp dẫn du
lịch của Nhật bản; JNTO chú trọng tới xúc tiến du lịch vùng. Nhật Bản có
một số vùng rộng lớn, mỗi vùng có điều kiện địa hình và văn hoá điển hình,
tạo thành một điểm đến du lịch thống nhất. Chỉ dẫn xúc tiến chung với sự
tham dự của chính quyền địa phương và các doanh nghiệp tư nhân để quảng
bá Nhật Bản là phương tiện xúc tiến du lịch hiệu quả. Loại hoạt động này
liên quan đến hội chợ triển lãm, hội thảo lữ hành và tour làm quen cho các
hãng lữ hành và các nhà báo. Tham dự Hội chợ và Triển lãm du lịch ở nước

ngoài.
Để thúc đẩy công tác xúc tiến du lịch, JNTO cung cấp các thông tin du
lịch qua 13 văn phòng đại diện của JNTO ở nước ngoài, qua trang web “Japan
Travel Updates”; sản xuất các tài liệu xúc tiến như ấn phẩm in, các phương
5
tiện nghe nhìn, ảnh; tổ chức các dịch vụ tiếp đón như thiết lập các trung tâm
thông tin du lịch, dịch vụ Teletourist, mạng lưới văn phòng thông tin du lịch
“i”, giải quyết vấn đề ngôn ngữ như điện thoại du lịch Nhật Bản, các cuốn sổ
tay ngôn ngữ của khách du lịch, bảng hiệu chỉ đường và các bảng thông tin du
lịch, chương trình hướng dẫn thiện chí, kỳ thi quốc gia cho hướng dẫn viên và
thông dịch viên; tổ chức hệ thống thăm nhà dân, giảm chi phí du lịch
(Directory of Welcome Inns, Japan Railpass).
Để xúc tiến du lịch hội nghị và khích lệ, JNTO đã thành lập một Cục
hội nghị chịu trách nhiệm về công tác này. Cục này có 2 Vụ là Vụ marketing
quốc tế chịu trách nhiệm về markeing ở nước ngoài và Vụ trợ giúp và xúc
tiến tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tại Nhật Bản. Các thị trường
chính là Bắc Mỹ, Châu Âu và Hàn Quốc là những nơi JNTO có một Vụ
trưởng hội nghị chịu trách nhiệm bao quát mỗi khu vực. Nhiệm vụ của cơ
quan trên là nghiên cứu marketing, các hoạt động xúc tiến và bán, quan hệ với
các hiệp hội quốc tế liên quan đến hội nghị, xúc tiến nước ngoài bằng cách
tham dự các hội chợ kinh doanh ngành hội nghị, các hội thảo về Hội nghị, các
tour nghiên cứu về hội nghị ở Nhật Bản, quảng cáo, sản xuất các tài liệu xúc
tiến và quan hệ công chúng, quảng cáo trên internet; Tổ chức các chương
trình đào tạo; Trợ giúp tổ chức các Hội nghị, hội thảo, tư vấn; Trợ giúp tài
chính.
Nhằm biến Nhật Bản thành một trong những trung tâm du lịch trong
khu vực, năm 2003, Nhật Bản quyết định tổ chức Năm Du lịch Nhật Bản và
thực hiện thông qua Chiến dịch Visit Japan. Khẩu hiệu quảng bá cho Chiến
dịch Visit Japan là “Yokoso! JAPAN” nghĩa là “Hãy đến với Nhật Bản”. Để
tạo dựng hình ảnh của Nhật bản đối với khách du lịch quốc tế, Nhật Bản sử

dụng điều tra thị trường để thiết lập hình ảnh mới và chủ đề mới cho du lịch ở
Nhật Bản, tạo ra một chủ đề du lịch để phù hợp với nhu cầu của mỗi thị
trường. Tiếp đến, Nhật Bản tập trung phát triển quan hệ công chúng và thông
6
tin về sự hấp dẫn các hoạt động du lịch thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng như qua các hãng truyền thông quốc tế, Internet, thực hiện
trao đổi văn hoá qua các sự kiện ở nước ngoài để giới thiệu nền văn hoá Nhật
Bản; Cung cấp thông tin du lịch cho các nhà báo nước ngoài, các hãng lữ
hành, các nhà văn, các nhà giải trí trên TV, các nhà xuất bản tạp chí du lịch và
mời họ tới thăm Nhật Bản; Tạo ra quan hệ chặt chẽ qua mạng lưới thông tin
với các cơ quan, tổ chức ở nước ngoài, các chính quyền địa phương và các
hiệp hội liên quan; Xúc tiến các trang đa ngôn ngữ trên website và cải thiện
chất lượng nội dung và tiếp cận. Xây dựng và phân phối các brochure đa ngôn
ngữ; Thành lập các tổ chức như Câu lạc bộ cười Nhật Bản với những người
nước ngoài đã sống ở Nhật bản và chia xẻ thông tin với họ; Hướng dẫn và đào
tạo các chuyên gia du lịch. Chiến dịch Visit Japan nhằm vào các thị trường
trọng điểm như Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ, Trung Quốc, Hồng Kông, Anh,
Đức và Pháp. Hàng loạt các dự án kết hợp được thực hiện nhằm vào các thị
trường này, chẳng hạn Thủ tướng Koizzumi và Bộ trưởng Đất đai, Hạ tầng và
Giao thông vận tải (người chịu trách nhiệm về xúc tiến du lịch) đã xuất hiện
trong các cuốn film video và mời khách du lịch từ các thị trường trên tới Nhật
Bản.
Năm 2002, khi World Cup được tổ chức ở Nhật Bản, Thủ tướng Nhật
đã phát biểu rằng Nhật Bản sẽ cam kết tăng du lịch inbound. Từ đó, xúc tiến
du lịch trở thành cột trụ của chính sách của Nhật. Trong diễn văn phát biểu
năm 2003, Thủ tướng Koizumi đã đặt mục tiêu thu hút 10 triệu khách du lịch
nước ngoài tới tham quan du lịch Nhật Bản vào năm 2010. Thủ tướng Nhật đã
thành lập Hội đồng xúc tiến du lịch là cơ quan đã xuất bản 1 báo cáo về chiến
lược cơ bản cho xúc tiến du lịch. Dựa trên báo cáo này, Chính phủ Nhật đã
triệu tập tất cả các bộ trưởng trong nội các tới dự Hội nghị của các Bộ trưởng

về xúc tiến du lịch mà đã xây thông qua Kế hoạch hành động xúc tiến du lịch.
Kế hoạch bao gồm 243 biện pháp chính sách của các bộ ngành liên quan, hiện
chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng phụ trách xúc tiến du lịch. Tháng 5/2004, Cơ
7
quan chiến lược xúc tiến du lịch đã được thành lập trực thuộc Hội nghị Bộ
trưởng nội các nhằm hợp tác cùng với linh vực tư nhân. Tháng 11 năm 2004,
Cơ quan này đã đưa ra đề xuất với những bước cụ thể hơn được thực hiện bởi
lĩnh vực tư nhân và các vùng địa phương, bao gồm đề xuất tổ chức Expo 2005
Aichi ở Nhật Bản.
Nhờ những nỗ lực trên, năm 2004, Nhật Bản thu hút được 6,14 triệu
lượt khách quốc tế, tăng 17,8% so với năm 2003 và 6 tháng đầu năm 2005,
thu hút được 3,26 triệu lượt khách quốc tế, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm
2004. Với sự quyết tâm của Chính phủ Nhật Bản và sự nỗ lực thực hiện chiến
lược xúc tiến quảng bá du lịch của Bộ đất đai hạ tầng và giao thông vận tải
Nhật Bản, JNTO và các bộ ngành hữu quan, Nhật Bản hoàn toàn có thể đạt
được mục tiêu 10 triệu khách quốc tế vào năm 2010.
2.2 Đặc điểm tâm lý khách du lịch Nhật Bản.
Nhật Bản được biết đến như thị trường gửi khách lớn trên thế giới.
Hàng năm khách du lịch Nhật Bản đi du lịch ra nước ngoài 17-18 triệu lượt
và là thị trường mục tiêu của nhiều nước trên thế giới. Trong thời gian gần
đây với những xu hướng biến đổi thị trường của các thị trường mới nổi, nhất
là trong khu vực Bắc Á, theo WTO thì khách du lịch Trung Quốc ra nước
ngoài bắt đầu vượt thị trường khách Nhật vào năm 2002, tuy nhiên về chi
tiêu thì thị trường Nhật Bản vẫn là thị trường có khả năng chi trả cao hơn, sử
dụng những dịch vụ đắt tiền hơn và tổng số chi tiêu du lịch ra nước ngoài của
khách Nhật vẫn rất đáng quan tâm.
Là thị trường gửi khách lớn, sự dao động về lượng khách của thị
trường Nhật có ảnh hưởng lớn tới các thị trường nhận khách, thể hiện rõ
trong những giai đoạn thị trường này chững lại hoặc giảm do các yếu tố kinh
tế chính trị như thời điểm sau sự kiện 11/9 hoặc khủng bố tại Ba li, Sars…

8
Tháp dân số Nhật cho thấy có hai thế hệ lớn trong dân số là nhóm dân
số trong khoảng 50-59 tuổi do sự bùng nổ dân số lần thứ nhất và trong
khoảng 25-39 do sự bùng nổ dân số lần thứ hai tạo ra những đặc điểm đi du
lịch của khách Nhật ở trong các nhóm tuổi này lớn. Cũng do sự phát triển
kinh tế xã hội Nhật Bản mà lượng khách nữ Nhật đi nước ngoài lớn hơn so
với các thị trường khác.
Theo các nghiên cứu của Trung tâm Nhật Bản – ASEAN thì các phân
đoạn thị trường khách lớn nhất đi outbound là:
- Khách trung niên là nam giới tuổi trung bình từ 45-59 chiếm 16,7%
- Khách trung niên nữ giới tuổi 45-59 chiếm 14,4%
- Khách nam giới đứng tuổi (trên 60) chiếm 11,9%
- Khách nữ độc thân tuổi từ 15-29 chiếm 7,6%
- Khách nữ có gia đình và công việc tuổi từ 15-44 chiếm 6,2%
Trong số này phân đoạn 4 có mục đích đi du lịch cao nhất, tới 81% là
đi du lịch thuần túy, sau đó đến phân đoạn 2, phân đoạn 3, và 5. Phân đoạn 1
có lượng khách đi du lịch do mục đích công vụ lớn, và một phần thuộc phân
đoạn 3. Khách thuộc phân đoạn 5 có một lượng khoảng 10% đi du lịch thăm
thân, 15% đi du lịch tuần trăng mật.
Khách du lịch Nhật Bản đi du lịch Đông Nam Á có thời gian lưu trú
trong khoảng 5-7 ngày là nhiều nhất.
Các hoạt động du lịch khách Nhật ưa thích tại Đông Nam Á: thăm
quan cảnh quan thiên nhiên, du lịch mua sắm, thăm quan di tích lịch sử,
thưởng thức ẩm thực địa phương, nghỉ dưỡng.
Theo từng phân đoạn quan trọng của thị trường thì các hoạt động được
ưa thích lại có những đặc điểm khách hơn. Khách nữ độc thân thích hoạt
9
động mua sắm và ẩm thực cao hơn nhiều so với các thị trường khác, ngoài ra
còn có thích thăm quan bảo tàng rất nhiều, khác hẳn so với các thị trường
khác. Hoạt động mua sắm được các thị trường hưởng ứng đông đảo, kể cả

nam và nữ, chỉ có phân đoạn khách đứng tuổi ít sử dụng hơn. Khách trung
niên nữ và khách nam đứng tuổi lại có sở thích gần hơn là thích thăm thú di
tích lịch sử và nghỉ dưỡng nhiều hơn các thị phần khác.
Nghiên cứu các phương thức khách đặt chuyến du lịch cho thấy các
phân đoạn thị trường khách nhau có các phương thức khác nhau. Giới trẻ,
khách nữ độc thân và nữ trẻ có gia đình sử dụng Internet như phương thức
hiện đại trong mua tour du lịch nhiều, xu hướng này có hướng phát triển cao.
Khách nữ có gia đình và chạc trung niên cũng dựa vào hãng lữ hành nhiều
hơn các thị phần khách khi tổ chức chuyến du lịch. Trong khi đó, thị phần
khách nam đứng tuổi thì tin tưởng chính vào hãng lữ hành và hãng hàng
không, thể hiện sự ít năng động tự tìm hiểu thông tin và tự đặt chuyến hơn
các thị phần khác.
Một số đặc điểm và sở thích khác của khách Nhật:
- Khách Nhật thích nghỉ ngơi ở một, hai nước hơn là tận dụng đi thật
nhiều trong một kỳ nghỉ (71,5%)
- Đi lâu hơn mặc dù đi ít hơn là đi liên tục những chuyến ngắn (64,5%)
- Mỗi lần đi một nước hơn là đi lại những điểm đã đi (70,9%)
- ở tại khách sạn nào có đủ các dịch vụ cần thiết (59,3%) hơn là ở tại
khách sạn sang trọng, uy tín và đắt (32,1%)
- Ăn uống tại các địa điểm mà người dân địa phương thường ăn (74,9%)
- Đi trong nhóm càng ít người càng tốt (71,1%)
- Thăm những điểm du lịch nổi tiếng (63,6%) hơn là tới những nơi ít
người từng tới thăm quan (24%)
10
- Tìm một chương trình tour chọn gói phù hợp (73,4%) hơn là tự tìm đặt
khách sạn, phương tiện vận chuyển
- Mua sắm nhiều, kể cả quà lưu niệm cho gia đình bạn bè (50,6%) nhiều
hơn là mua chủ yếu cho bản thân (41,6%)
Các vấn đề trở ngại chính khách gặp phải khi đi du lịch nước ngoài là:
sự an toàn, các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ, sức khỏe, không quen đồ ăn

thức uống địa phương, tốn kém.
Với trên 300.000 du khách đến Việt Nam nêu trên thì Nhật Bản thực sự
là một thị trường đầy tiềm năng. Điều đáng khích lệ là người Nhật đã xếp
Việt Nam ở vị trí cao trong các điểm đến du lịch được ưa chuộng nhất bởi:
- Có vị trí địa lý gần nước Nhật. Đất nước Mặt trời mọc là một quốc
đảo nên không có đường biên giới trên bộ, giao thông với bên ngoài chỉ qua
đường biển và đường hàng không. Vì vậy du khách Nhật đặc biệt coi trọng
vấn đề an toàn giao thông. Hiện nay, Hãng hàng không quốc gia Việt Nam và
hãng hàng không Nhật Japan Airlines đã mở các đường bay thẳng từ Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh đến các thành phố lớn của Nhật Bản như: Tokyo,
Osaka, Fukuoka, Kanagawa, Aichi, Chiba, Saitama, Hyogo, Shizouka, Kyoto,
Hokaido, Ibaraki, Hiroshima, Gifu, Nara, Nagano Du lịch Việt Nam cần đẩy
mạnh hợp tác với các hãng hàng không này để tăng tần suốt các chuyến bay
và phối hợp tuyên truyền quảng bá.
- Chi phí khi đi du lịch và mua sắm rẻ, đặc biệt đồ gốm sứ, sơn mài và
mây tre đan được người Nhật rất ưa chuộng. Ngành du lịch nên tập trung xây
dựng hình ảnh quảng bá và nâng cao chất lượng tour tuyến, dịch vụ du lịch,
đồ thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm.
11
- Có phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp như vịnh Hạ Long, Đồng bằng
sông Cửu Long… và nền văn hóa phong phú đa dạng như: rối nước, nhã
nhạc, tuồng cổ… Người Nhật phần lớn đều được giáo dục, có tri thức và tôn
trọng văn hóa truyền thống. Vấn đề này nên được tập trung nghiên cứu khai
thác trong các thiết kế quảng cáo danh lam thắng cảnh và sắc thái văn hóa đặc
trưng truyền thống của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản.
- Món ăn hấp dẫn. Người dân xứ Phù Tang cũng rất thích thưởng thức
nghệ thuật ẩm thực của Việt Nam, một số món như chả cá, nem, lẩu hải sản
Người Nhật vốn nổi tiếng bởi sự vệ sinh, sạch sẽ nên Việt Nam cần lưu ý đến
vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm khi bố trí, phục vụ ăn uống cho du khách
Nhật.

- Lễ hội văn hóa đầy màu sắc dân gian như: chọi trâu, đánh vật, thả
diều, đua thuyền, hát quan họ, các loại nhạc cụ dân gian như: đàn bầu, sáo
trúc, nhã nhạc cung đình, đàn đá, đàn dây, bộ gõ Các chiến dịch và chương
trình quảng bá tại Nhật như; tuần lễ văn hóa Việt Nam, Ngày Việt Nam hay
Tuần lễ ẩm thực Việt Nam tại Nhật nên giới thiệu các hoạt động văn hóa
mang đậm bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam.
- Thư giãn, giải trí; tắm hơi, tắm bùn, câu cá, lặn biển, hát Karaoke
Du khách Nhật rất thích những khu du lịch biển Việt Nam như: Hạ Long,
Phan Thiết, Nha Trang, Đà Nẵng, Phú Quốc Du lịch Việt Nam nên đẩy
mạnh việc giới thiệu hình ảnh các khu du lịch biển nổi tiếng của mình một
cách ấn tượng để thu hút du khách Nhật.
Nước Nhật có một chủng tộc thuần nhất (99% là người Nhật), một nền
văn hóa và một ngôn ngữ chung (tiếng Nhật), có xu hướng hành động theo đa
số nên dễ tổ chức các loại hình du lịch tập thể hoặc theo nhóm gia đình, bạn
bè, công ty, xí nghiệp. Vì vậy người Nhật rất tôn trọng tổ chức, người lớn
12
tuổi, người có địa vị, bạn bè và trẻ em. Người Nhật thường thể hiện hai tính
cách khách nhau; tính cộng đồng bên trong đối với nhóm bạn, gia đình hay
công ty và ứng xử bên ngoài. Người Nhật thường không biết ngoại ngữ và
nếu biết cũng không muốn sử dụng ngoại ngữ khi đi du lịch nước ngoài. Họ
cũng kiêng kị một số thứ như hoa sen và hoa cúc trắng (hoa tang), con số 4
(phát âm giống từ chết trong tiếng Nhật). Các nhà làm quảng cáo du lịch Việt
Nam cần lưu ý khai thác khía cạnh tâm lý đặc thù này của người Nhật khi sản
xuất các chương trình quảng bá tại Nhật Bản.
Những nhân vật nổi tiếng được người Nhật quan tâm như: Hoàng gia
Nhật, Thủ tướng, nữ Ngoại trưởng, Thị trưởng Tokyo, diễn viên điện ảnh, ca
sĩ, diễn viên hài kịch, vận động viên bóng chày, Sumo Sự xuất hiện của
những nhân vật này tại các điểm du lịch của Việt Nam cũng là một cách
quảng bá mang lại hiệu quả to lớn có tác động mạnh mẽ đến quyết định đi du
lịch của du khách Nhật Bản.

Người lao động Nhật có tới 128 ngày nghỉ hàng năm, trong đó có 104
ngày nghỉ cuối tuần, 15 ngày nghỉ phép và 9 ngày lễ; mùa lễ hội, nghỉ hè dài
từ tháng 3 đến tháng 5, tuần lễ vàng vào tháng 5, mùa trăng mật và mùa cưới
vào tiết Xuân và Thu. Chính vì vậy các chương trình xúc tiến, quảng bá của
du lịch Việt Nam nên được tiến hành vào các thời điểm thích hợp để đón bắt
luồng khách Nhật đi du lịch nước ngoài và bố trí các loại hình du lịch phù
hợp.
Nhà của người Nhật thường rất chật nên họ không muốn người khác
đến thăm gia đình và ngay cả khi họ mời thì đó cũng chỉ là mời mang tính
chất xã giao mà thôi. Do đó đi du lịch chính là lúc họ muốn được thưởng
thức; phòng rộng, giường to và nhất thiết phải có bồn tắm. Như vậy quảng
cáo khách sạn tại Việt Nam phải lưu ý phản ánh nổi bật những khía cạnh này.
13
Công ty du lịch đưa khách ra nước ngoài lớn nhất Nhật Bản hiện nay là
JTB (Janpan Travel Bureau) chuyên phục vụ khách cao cấp với 8 triệu khách
năm và công ty HIS với 5,5 triệu khách năm. Du lịch Việt Nam cần phối hợp
với những công ty này để tiến hành các chiến dịch tuyên truyền quảng bá du
lịch một cách hiệu quả tại thị trường Nhật.
3. Xây dựng sản phẩm du lịch cho khách du lịch Nhật.
Trên cơ sở đặc điểm tâm lý của khách du lịch Nhật, khi xây dựng sản
phẩm cho thị trường khách Nhật cần bám sát các lợi thế của tiềm năng du lịch
đã được xác định trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010
“Tạo ra những sản phẩm độc đáo mang sắc thái riêng của Việt Nam có đủ sức
cạnh tranh trong khu vực và quốc tế (trong đó ưu tiên các sản phẩm du lịch
sinh thái và văn hoá - lịch sử); đồng thời đa dạng hoá các sản phẩm du lịch và
tạo các sản phẩm đặc trưng của từng vùng để thoả mãn nhu cầu của khách du
lịch, nâng cao hiệu quả kinh doanh.”
Trên cơ sở đó xây dựng các sản phẩm du lịch cụ thể phù hợp với sở
thích riêng của từng đoạn thị trường nhỏ theo lứa tuổi, nghề nghiệp, thu
nhập… mà tạo ra các sản phẩm: thăm quan di tích lịch sử, tìm hiểu văn hóa và

cuộc sống cộng đồng, du lịch thăm quan di sản, tìm hiểu văn hóa ẩm thực,
tham quan danh thắng, du lịch thiên nhiên, du lịch nông thôn, du lịch sinh
thái, mạo hiểm, du lịch thể thao …
+ Khi xây dựng sản phẩm cho thị trường Nhật cần lưu ý :
Người Nhật kỹ tính, ưa sạch sẽ, trọng nghi thức, chữ tín; tôn sùng chất
lượng, tiện nghi và cái đẹp; thường khép kín không biểu lộ quan điểm. Vốn là
thị trường quen thuộc của châu Á, Đông Nam Á, nhưng còn mới đối với Việt
14
Nam. Nhưng Nhật cũng có nhiều nét gần gũi với Việt Nam về văn hoá, Nhật
cũng có dính líu với Việt Nam trong lịch sử, nên người Nhật, đặc biệt là thế
hệ sinh trước năm 1945, cũng có mong muốn trở lại Việt Nam.
* Về thông tin: Cần cung cấp nhiều hơn, chi tiết hơn về các dịch vụ,
đặc biệt là về chất lượng dịch vụ, sự thuận tiện và an toàn. Cần chú ý đến độ
tin cậy của thông tin. Chú ý khai thác những thông tin về lịch sử, văn hoá,
mặc dù nhấn mạnh tính truyền thống, nhưng những thông tin về sự tương
đồng văn hoá Nhật - Việt cũng làm người Nhật thích thú.
* Về công cụ lựa chọn: Tuy khép kín (nội tâm) nhưng người Nhật cũng
thích lễ hội, các hoạt động tập thể, những hoạt động trình diễn văn hoá ngoài
trời có thể có hiệu quả tuyên truyền cao; Người Nhật ham đọc, nên các ấn
phẩm thường nên dùng loại có nhiều thông tin, tốt nhất là sách nhỏ. tạp chí in
trên loại giấy nhẹ, chất lượng tốt, hình thức in ấn đẹp, trang nhã, ít màu sắc
sặc sỡ, dễ mang theo.
Yêu cầu xây dựng các ấn phẩm khi quảng bá các sản phẩm du lịch tới
khách du lịch nhât :
- Xây dựng ấn phẩm giới thiệu chung cho du lịch Việt Nam và theo
chuyên đề để có nội dung và hình thức, chất liệu tương xứng, đồng bộ. Công
tác in ấn, phát hành ấn phẩm phải thống nhất và phải có nội dung, hình thức
phù hợp, có tính thẩm mỹ và công năng cao, đặc biệt có tính cạnh tranh với
các nước khác.
- Xây dựng ấn phẩm báo riêng (tài liệu báo) nhằm đưa thông tin cho

giới báo chí, các ấn phẩm này phải cung cấp được cho giới báo chí hơn những
gì họ thấy ở trên các ấn phẩm chung, các thông tin vắn, các thông tin và thông
15
số chi tiết, lịch diễn ra của các sự kiện trong năm, lịch lễ hội và một số thông
tin về việc chuẩn bị lễ hội.
- Liên quan đến từng lễ hội hoặc sự kiện lớn cũng cần có hệ thống ấn
phẩm riêng, tài liệu báo cũng phải có riêng và thông tin chi tiết cho lễ hội này.
- Tiến hành họp báo cho mỗi chiến dịch cũng cần phát hành ấn phẩm
riêng để giới báo chí có nhiều thông tin và phát tán nhanh các thông tin cho
du lịch Việt Nam. Những tài liệu này được chuẩn bị mới tạo được đủ nguồn
thông tin cho giới báo chí viết nhiều về du lịch Việt Nam, và về phía Việt
Nam cung cấp và quản lý được phần nào nội dung sẽ phát tán từ phía báo chí.
- Đối với mỗi đoàn fam trip, để thực hiện tốt việc cung cấp thông tin
nhằm qua họ giới thiệu thông tin quảng bá thì cũng cần có ấn phẩm riêng và
chi tiết trước mỗi chuyến đi riêng lẻ.
- Có kế hoạch phối hợp xây dựng các vật phẩm lưu niệm mang nội
dung tuyên truyền quảng bá cho du lịch Việt Nam.
- Đa dạng hóa và sử dụng các phương tiện có tính công nghệ cao trong
các đợt xúc tiến, tuyên truyền quảng bá ở nước ngoài như tham gia hội chợ,
hội nghị, hội thảo
Nguyên tắc chung:
- Tuỳ đoạn thị trường để có riêng từng loại sản phẩm và các ấn phẩm
với đầy đủ thông tin về sản phẩm đó.
- Kênh phân phối thông tin phải xác định trước.
Các đối tượng xác định để quảng bá sản phẩm
16
- Công chúng, là những người mua hoặc không mua, tiêu dùng hoặc
không tiêu dùng sản phẩm du lịch
- Thị trường khách du lịch mục tiêu
- Báo giới, các đơn vị báo chí, các nhà báo

- Những người có khả năng ảnh hưởng lớn, các nhà chính trị, những
ngôi sao điện ảnh, âm nhạc
- Các doanh nghiệp du lịch nước ngoài
- Các tổ chức, hiệp hội, câu lạc bộ
17
Thị trường Phân đoạn thị trường Đặc điểm thị trường Hoạt động du lịch ưa thích/
sản phẩm du lịch phù hợp
Nhật
- Nhân viên
- Nữ độc thân
- Sinh viên
(tuổi 20-30)
- Đi du lịch nhiều
- Thích nhiều hoạt động vui
chơi giải trí, mua sắm, ẩm
thực
- Mua sắm
- ẩm thực
- Nhân viên, công
chức (nữ nhiều hơn
nam)
(tuổi 30-40)
- Nhiều kinh nghiệm du lịch
- Đi theo tour
- Không tham gia nhiều
hoạt động du lịch trong một
chuyến đi
- Khả năng chi trả cao
- Thăm quan thắng cảnh, di
tích

- Mua sắm
- Ẩm thực
- Cán bộ
- Cán bộ cao cấp
- Thương gia
(nam nhiều hơn
nữ)
(tuổi 50-60)
- Đi du lịch nhiều
- Đòi hỏi phục vụ cao
- Đi theo tour
- Thăm quan thắng cảnh, di
tích
- Mua sắm
- ẩm thực
18
Phương thức quảng bá sản phẩm du lịch đối với khách du lịch Nhật.
Thị
trường
Phân đoạn thị
trường
đối tượng của quảng
bá/TTQB (theo thứ tự ưu
tiên)
Trục xúc tiến/ TTQB Hoạt động cụ thể/Biện pháp
xúc tiến
(theo thứ tự ưu tiên)
Nhật
- Nhân viên,
nữ độc thân, -

Sinh viên
(tuổi 20-30)
- Thị trường qua mạng
- Hãng lữ hành nước
ngoài
- Điểm du lịch mới nổi
- Trung tâm mua sắm, ẩm
thực với nhiều nét truyền
thống đặc trưng
- Tạo liên kết mạng
- Kết nối hệ thống đặt chỗ
- Mở văn phòng, trung tâm
đại diện
- Tham gia hội chợ chuyên
nghiệp
- Nhân viên,
công chức, (nữ
nhiều hơn
nam)
(tuổi 30-40)
- Hãng lữ hành nước
ngoài
- Thị trường
- Đất nước có nhiều thẳng
cảnh thiên nhiên và di tích
văn hoá lịch sử
- Trung tâm mua sắm và ẩm
thực đặc sắc
- Tham gia hội chợ chuyên
ngành

- Tạo kênh phân phát ấn
phẩm
- Xúc tiến thị trường tại chỗ
19
- Cán bộ
- Cán bộ cao
cấp
- Thương gia
(nam nhiều
hơn nữ)
(tuổi 50-60)
- Hãng lữ hành trong
nước và nước ngoài
- Thị trường
- Thị trường qua lăng xê
mạng
- Đất nước có nhiều thẳng
cảnh và truyền thống lịch sử
lâu đời. - Điểm đến mới nổi
với chất lượng dịch vụ khá
tốt.
- Tiếp xúc doanh nghiệp
- Xúc tiến thị trường
- Tăng cường kết nối mạng
và lăng xê thông tin qua
mạng
20
Kết luận:
Các nhà quản trị và kinh doanh du lịch Việt nam phải hiểu rõ vai trò,
tầm quan trọng và hiệu quả của việc khai các giá trị văn hoá trong kinh doanh

du lịch, từ đó xây dựng các sản phẩm du lịch phù hợp với từng thị trường
khách. Để làm được điều đó yêu cầu nhà quản lý phải kiên trì, bền bỉ, trong
việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý của từng địa phương, cộng đồng, quốc gia,
dân tộc ở cả nơi tạo ra sản phẩm du lịch, và thị trường quảng bá sản phẩm.
Cần thiết phảI chuyên môn hoá các bộ phận trong việc khai thác thị trường để
các hoạt động nghiên cứu được sâu sắc, đồng thời đội ngũ để làm du lịch phảI
được trang bị kiến thức về du lịch văn hoá, kiến thức ngoại giao quốc tế.
Trong tất cả các giai đoạn xây dựng sản phẩm, quảng bá sản phẩm, bán và
thực hiện sản phẩm, yếu tố văn hoá luôn được coi trọng và thể hiện. Điều đó
đồng nghĩa với việc yêu cầu đội ngũ nhân viên thực hiện phảI được trạng bị
cơ bản về kiến thức, nghiệp vụ du lịch, nghệ thuật ứng xử cũng như phảI nắm
bắt được những đặc điểm tâm lý của từng đối tượng khách. Việc nghiên cứu
đặc điểm tâm lý hay phong tục tập quán của du khách trước khi tạo ra các sản
phẩm du lịch là yếu tố quyết định của việc thành công hay thất bại trong hoạt
động quản lý và kinh doanh du lịch. Đồng thời đó cũng là biểu hiện yếu tố
văn hoá trong quản lý và kinh doanh du lịch.
21
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA DU LỊCH HỌC

tiểu luận
Đặc điểm tâm lý khách du lịch nhật và xây dựng
sản phẩm du lịch cho khách du lịch Nhật
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Đinh Trung Kiên
Học viên : Đỗ Gia Quyết
Lớp : CHK2-Du lịch
Hà Nội -2006
22

×