Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại ngân hàng công thương chi nhánh cầu giấy 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.38 KB, 89 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

1

Khoa Ngân hàng

Lời nói đầu
Trong những năm vừa qua, nhiều sự kiện kinh tế của đất nước đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng như
việc Việt Nam gia nhập WTO, FED kí quyết định tăng lãi suất cơ bản đồng
USD để kiềm chế lạm phát, đưa mức lãi suất tăng kéo theo lãi suất huy động
ngoại tệ trong nước cũng tăng lên. Những sự kiện kinh tế trên đã đưa hệ thống
Ngân hàng đến với những cơ hội mới đồng thời cũng đòi hỏi Ngân hàng phải
nỗ lực cải cách hoạt động phù hợp trong thời kỳ hội nhập. Chúng ta cũng
khơng thể phủ nhận vai trị to lớn, sứ mệnh quan trọng của các NHTM trong
việc thúc đẩy nền kinh tế, tài chính, tiền tệ cũng như của các khoản cho vay
trung dài hạn tại NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Các khoản cho vay trung và dài hạn là sản phẩm chủ yếu của NHTM,
là nguồn tài trợ quan trọng bậc nhất để các doanh nghiệp duy trì, mở rộng và
phát triển sản xuất, góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Một khoản
cho vay trung và dài hạn được Ngân hàng đưa ra có chất lượng hay không là
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó quan trọng là khả năng hồn
trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn của khách hàng phù hợp với sự phát triển của
quốc gia, của NHTM và các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
trong những thời kỳ khác nhau.
Qua một thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương quận Cầu
Giấy, em nhận thấy hoạt động cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng cịn có
nhiều khó khăn và vướng mắc. Đặc biệt là chất lượng của các khoản cho vay
trung và dài hạn đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cịn có nhiều
bức xúc mà Ngân hàng đang phải đối mặt.
Sau khi nghiên cứu sâu vào vấn đề, em quyết định chọn đề tài "Giải


pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công Thương chi nhánh Cầu Giấy”
SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

2

Khoa Ngân hàng

Đề tài được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung dài
hạn của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trong chương này, em xin trình bày một số vấn đề để làm rõ vai trị của
các khoản tín dụng trung và dài hạn đối với DNNQD tại NHTM và chất
lượng của các khoản tín dụng này.
Chương 2: Thực trạng về chất lượng tín dụng trung dài hạn đối với
doanh nghiệp ngồi quốc doanh tại Ngân hàng Công Thương quận Cầu Giấy
Trong chương này, em xin tập trung vào việc đưa ra các số liệu, dựa vào
đó để phân tích những ngun nhân tồn tại và khó khăn trong việc nâng cao
chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Cơng Thương Cầu Giấy.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn
đối với doanh nghiệp ngồi quốc doanh tại Ngân hàng Công Thương
quận Cầu Giấy
Trong chương này, căn cứ vào những nguyên nhân vướng mắc, những
khó khăn ở chương II đã đề cập, em đưa ra một số giải pháp có thể áp dụng
vào thực tế hoạt động của Ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng

trung và dài hạn đối với các DNNQD.
Nhân đây, em xin chân thành cám ơn cô giáo - TS Lê Thị Tuấn Nghĩa,
giáo viên hướng dẫn, cùng với các cô chú anh chị làm việc tại NHCT chi
nhánh Cầu Giấy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài tốt
nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Trịnh Thị Hải Yến

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

3

Khoa Ngân hàng

CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TDTDH CỦA NHTM
ĐỐI VỚI DNNQD
1.1. Những đặc điểm cơ bản của DNNQD
1.1.1. Khái niệm và phân loại DNNQD
1.1.1.1. Khái niệm
Xét về hình thức sở hữu thì doanh nghiệp nước ta chia thành 2 loại:
Doanh nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu của Nhà nước, còn doanh nghiệp
ngồi quốc doanh mang hình thức sở hữu phi Nhà nước. Trước năm 1986 nền
kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, khu vực KTNQD được khuyến khích

mở rộng các doanh nghiệp có tính chất tư nhân bao gồm: Doanh nghiệp tư
nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và hợp tác xã.
1.1.1.2. Phân loại
- Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Chủ sở hữu của doanh nghiệp là một cá nhân, sở hữu tư nhân.
Về tư cách pháp lý doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp có tư cách thể nhân
chịu trách nhiệm vô hạn.
- Công ty cổ phần: Là doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần. Cổ đông chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn
đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đơng có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần
của mình cho người khác. Số lượng cổ đơng tối thiểu là 3 và không hạn chế
số lượng tối đa. CTCP có quyền phát hành chứng khốn ra cơng chúng theo
quy định của pháp luật về chứng khốn.
- Cơng ty TNHH: Theo pháp luật quy định công ty TNHH là công ty
TNHH một thành viên và công ty TNHH 2 thành viên trở lên.

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

4

Khoa Ngân hàng

Cơng ty TNHH một thành viên: Là một doanh nghiệp do một tổ chức

làm chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp. Chủ sở hữu cơng ty có quyền chuyển nhượng tồn bộ hoặc
một phần vốn điều lệ của công ty cho một tổ chức hoặc cá nhân khác. Cơng ty
TNHH một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Công ty TNHH một thành viên không được chuyển
nhượng cổ phiếu nhưng được phép phát hành trái phiếu.
Cơng ty TNHH có 2 thành viên trở lên: là doanh nghiệp trong đó thành
viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Các thành
viên chỉ được chuyển nhượng một phần hoặc tồn bộ phần vốn góp phải chào
bán cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng vốn góp của họ
trong cơng ty với cùng điều kiện. Chỉ được chuyển nhượng cho người không
phải là thành viên nếu các thành viên cịn lại khơng mua hoặc không mua hết.
- Công ty hợp danh: Là doanh nghiệp trong đó có ít nhất 2 thành viên
hợp danh, ngồi thành viên hợp danh cịn có thành viên góp vốn. Thành viên
hợp danh phải là cá nhân có trình độ chun mơn và uy tín nghề nghiệp và
phải chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của cơng
ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
các nghĩa vụ của cơng ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ trong phạm vi vốn góp. Cơng ty hợp danh khơng được phép phát
hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
- Hợp tác xã: Là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có
nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy thế mạnh của tập thể và của từng thành viên nhằm giúp
nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và
cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Hợp tác xã có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

SV: Trịnh Thị Hải Yến


NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

5

Khoa Ngân hàng

1.1.2. Đặc điểm của DNNQD
1.1.2.1. Hình thức sở hữu:
Hình thức sở hữu của các DNNQD là sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp.
Song chủ yếu là sở hữu hỗn hợp với các loại hình chủ yếu sau: Công ty cổ
phần, công ty TNHH, công ty tư nhân, hợp tác xã, kinh tế cá thể tiểu chủ,
cơng ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Từ đó, tư cách
pháp lý của loại hình doanh nghiệp này là:
- Đối với các doanh nghiệp: Công ty cổ phần, công ty TNHH, hợp tác xã,
doanh nghiệp FDI chịu trách nhiệm trên phần vốn góp vào công ty, nghĩa là
chịu trách nhiệm hữu hạn.
- Đối với các doanh nghiệp: Công ty tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ,
cơng ty hợp danh thì phải chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của
công ty bằng tồn bộ tài sản của mình, tức là chịu trách nhiệm vô hạn.
1.1.2.2. Ngành nghề kinh doanh:
Các DNNQD phần lớn tập trung ở các thành phố lớn và các trung tâm
kinh tế xã hội. Phần nhiều các doanh nghiệp được thành lập mang tính tự
phát, khơng theo sự chỉ định của chính quyền. Đa số họ hoạt động trong lĩnh
vực thương mại, dịch vụ, khách sạn; lĩnh vực công nghiệp thường chiếm tỷ
trọng nhỏ hơn; lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác và phân phối điện,
tài chính ngân hàng… chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Sở dĩ có sự mất cân đối trong lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp này

đối với nền kinh tế là họ thường ưa thích đầu tư vào những ngành nghề có khả
năng quay vịng vốn nhanh, vốn đầu tư ít như thương mại, dịch vụ… Bởi vì
như thế là phù hợp với khả năng tài chính và năng lực quản lý của họ. Các lĩnh
vực khác như xây dựng, tài chính, ngân hàng… yêu cầu về vốn và trình độ
quản lý rất cao, trong khi đó, việc quay vịng vốn lại lâu gây khó khăn cho họ,
chỉ những doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về kinh tế thì mới có đủ điều kiện
đầu tư.
SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

6

Khoa Ngân hàng

1.1.2.3. Mơi trường kinh doanh:
Trước hết là về thông tin thị trường. Đây là khối kinh tế năng động, phản
ứng nhanh nhạy với sự thay đổi của thị trường, nhưng đối với những nước
đang phát triển còn thiếu nhiều yếu tố của một nền kinh tế thị trường hồn
chỉnh. Chính vì vậy, họ thường gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nắm bắt thơng
tin thị trường về giá cả, sản phẩm của đối thủ cạnh tranh… Đây là những khó
khăn chung mà doanh nghiệp phải gánh chịu trong nền kinh tế chưa hồn
chỉnh. Những thơng tin như vậy chỉ có thể có một cách đầy đủ tại những nước
phát triển.
Thị trường mà DNNQD tham gia thường nhỏ hẹp, bấp bênh và nhiều rủi
ro. Đây là điều dễ nhận thấy ở các doanh nghiệp như: Doanh nghiệp tư nhân,
công ty TNHH, hợp tác xã, kinh tế cá thể… họ thường tiến hành kinh doanh

mua nguyên vật liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm ngay tại thị trường địa
phương hoặc đưa vào các quan hệ cá nhân. Chỉ một bộ phận nhỏ DNNQD là
những công ty lớn, có thị trường rộng khắp trong nước và ngồi nước.
1.1.2.4. Vốn cho hoạt động kinh doanh của DN:
Đây là một vấn đề đang được các DNNQD rất quan tâm. Trước hết là
vốn chủ sở hữu. Phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô sản xuất
nhỏ hẹp, nguồn vốn này lại được tập trung chủ yếu vào đầu tư cơ sở hạ tầng
và trang thiết bị bao gồm cả mặt bằng kinh doanh. Từ đó, khả năng thanh tốn
ngắn hạn của vốn chủ sở hữu cịn nhiều hạn chế.
Nguồn vốn này có khả năng tăng lên trong q trình kinh doanh từ việc
trích một phần lợi nhuận hoặc huy động thông qua phát hành cổ phiếu. Song
việc tăng quy mơ vốn chủ sở hữu từ việc trích lợi nhuận để lại phải mất một
thời gian tương đối dài mới hình thành lượng vốn lớn. Với vốn sở hữu nhỏ như
vậy, sẽ gây khó khăn trong q trình kinh doanh vì ít có khả năng cạnh tranh.
Ngồi vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều
nguồn khác nhau. Đối với huy động thông qua vay mượn bạn bè, người thân
SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

7

Khoa Ngân hàng

hoặc thơng qua tín dụng thương mại, đây là những khoản vay hoặc là nhỏ
hoặc là ngắn hạn không đủ đáp ứng về quy mô, thời gian và các mục tiêu dài
hạn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của ngân hàng được coi là nguồn vốn chủ

yếu của các doanh nghiệp. Nhưng do quy mô vốn chủ sở hữu thường nhỏ, các
DNNQD khó tiếp cận được với nguồn vốn lớn của các NHTM và các tổ chức
tài chính khác bởi các tổ chức này thường có quy định về tỷ lệ vốn chủ sở hữu
nhất định trong các dự án, phương thức sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy
đang tồn tại sự bất bình đẳng giữa các DNNN và DNNQD trong việc tiếp cận
nguồn vốn TDNH. Đây chính là nhân tố dẫn đến họ thường bị thiệt thòi khi
trực tiếp phải cạnh tranh với các DNNN.
1.2. Đặc điểm TDTDH
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết hình thành TDTDH
1.2.1.1. Khái niệm
Tín dụng có thể được hiểu đơn giản là một quan hệ vay mượn lẫn nhau
dựa trên ngun tắc có hồn trả.
Đối tượng vay mượn có thể là tiền hoặc tài sản. Nguyên tắc hoàn trả khẳng
định người cho vay chỉ nhượng quyền sử dụng tiền hoặc tài sản của mình cho
người đi vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn đó người đi vay
sẽ phải hoàn trả cho người cho vay một số tiền hoặc tài sản nhất định theo thỏa
thuận. Thông thường giá trị khoản hoàn trả sẽ lớn hơn giá trị khoản cho vay.
TDNH là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa một bên là Ngân hàng và bên
kia là các chủ thể kinh tế khác nhau như các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội,
dân cư dựa trên ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời
gian nhất định. Việc hồn trả có thể thực hiện một lần hay nhiều lần tuỳ theo
thỏa thuận giữa hai bên.
Có thể nói: cho vay là hoạt động quan trọng nhất của một NHTM. Để quản
lý các khoản tiền vay đó, các nhà Ngân hàng thường phân loại tín dụng theo nhiều

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6



Khóa luận tốt nghiệp

8

Khoa Ngân hàng

cách khác nhau như: mục đích cho vay, thành phần kinh tế, hình thái giá trị của tín
dụng… và theo một tiêu chí khơng thể thiếu được đó là thời hạn của tín dụng.
TDTDH là một bộ phận của TDNH được phân theo thời hạn. TDTDH là
những khoản cho vay có thời hạn trên một năm và thời gian cho vay không
quá thời gian khấu hao của tài sản hình thành từ vốn vay. Tùy theo từng quốc
gia quy định mà thời hạn của TDTDH sẽ khác nhau. Theo quy định của
NHNNVN, một khoản vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm được coi là trung hạn
và khoản vay sẽ được coi là dài hạn nếu có thời hạn từ 5 năm trở lên.
Tín dụng trung hạn thường được người vay sử dụng để mua sắm TSCĐ,
cải tiến đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc xây
dựng các công trình mới nhưng có quy mơ nhỏ và thời gian thu hồi vốn
nhanh. Cịn tín dụng dài hạn thường để đầu tư vào việc nhập dây chuyền sản
xuất hiện đại, xây dựng các cơng trình có quy mơ lớn, thời gian hoạt động dài.
1.2.1.2. Vai trò của TDTDH
a- Đối với Ngân hàng:
Trong các tài sản của NHTM thì khoản mục cho vay bao giờ cũng chiếm
tỷ trọng cao nhất (kể cả các NHTM ở một nước phát triển như Mỹ thì tỷ lệ
này cũng từ 60% - 70%) và là khoản mục đem lại thu nhập chủ yếu cho Ngân
hàng. Thu nhập từ tiền cho vay biểu hiện dưới dạng lãi tiền vay và phụ thuộc
chủ yếu vào thời hạn của khoản vay. Thời hạn cho vay càng dài thì lãi suất
càng cao và do đó thu nhập của Ngân hàng càng lớn. Chính vì vậy nếu một
Ngân hàng có thể mở rộng cho vay trung dài hạn thì sẽ có điều kiện kiếm lời
nhiều hơn. Tuy nhiên các khoản cho vay có thời hạn càng dài thì rủi ro tiềm
ẩn cũng càng cao và đó là lý do vì sao mở rộng quy mô phải luôn đi kèm với

nâng cao chất lượng tín dụng.
Khơng chỉ có vậy, việc đáp ứng tốt nhu cầu TDTDH cũng đem lại cho
Ngân hàng một vũ khí cạnh tranh lợi hại. Khả năng mở rộng TDTDH thể hiện
năng lực quản lý, năng lực chuyên mơn của cán bộ Ngân hàng là cao. Điều đó

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

9

Khoa Ngân hàng

tạo uy tín cho Ngân hàng. Đồng thời việc mở rộng CVTDH cũng tạo điều
kiện để đẩy mạnh tín dụng ngắn hạn và một số loại hình dịch vụ Ngân hàng
khác. Bởi lẽ khi doanh nghiệp được vay vốn trung dài hạn họ sẽ có điều kiện
đầu tư đổi mới cơng nghệ, máy móc thiết bị, mở rộng sản xuất và do đó sẽ cần
nhiều vốn lưu động hơn. Khi đó địa chỉ đầu tiên doanh nghiệp tìm đến để vay
vốn lưu động chính là Ngân hàng đã cho mình vay vốn trung dài hạn để mở
rộng sản xuất. Mặt khác, cùng với việc mở rộng sản xuất, nhu cầu của doanh
nghiệp về các dịch vụ Ngân hàng như dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn
cũng sẽ tăng lên và dĩ nhiên trong trường hợp này Ngân hàng cho vay vẫn sẽ
là sự lựa chọn được ưu tiên nhất.
b- Đối với doanh nghiệp:
Trong mỗi nền kinh tế, ở mỗi thời kỳ nhu cầu vốn trung dài hạn cho các
doanh nghiệp ln là một địi hỏi cấp bách. Các doanh nghiệp mới thành lập
thì cần vốn để mua sắm TSCĐ, xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật như nhà

xưởng, kho bãi và đáp ứng một phần vốn lưu động. Các doanh nghiệp đang
hoạt động thì ln có nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ để nâng cao
khả năng cạnh tranh, để mở rộng sản xuất khi gặp cơ hội kinh doanh thuận
lợi. Để làm được điều đó thì thơng thường phải có một lượng vốn lớn, hơn thế
nữa phải là nguồn vốn có thời hạn dài. Mỗi doanh nghiệp có thể có nhiều
nguồn khác nhau để đáp ứng nhu cầu đó, như: tín dụng thương mại, huy động
vốn từ dân cư (qua con đường phát hành chứng khoán) hay từ các trung gian
tài chính mà điển hình là NHTM. Đặc biệt trong điều kiện các nước đang phát
triển như Việt Nam, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh doanh của các
doanh nghiệp là rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn tự tích lũy của các doanh
nghiệp rất thấp, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng tuy dồi dào song việc
đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp còn khá mới mẻ đối với họ. Trong điều
kiện đó thì vốn tín dụng Ngân hàng chính là sự lựa chọn hiệu quả nhất.

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

1
0

Khoa Ngân hàng

c- Đối với nền kinh tế:
Nền kinh tế của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, dù đó là một quốc gia
chậm phát triển, đang phát triển hay phát triển thì nhu cầu vốn trung dài hạn
cho đầu tư phát triển đều rất cần thiết. Đối với các nước chậm phát triển, hoạt

động đầu tư chủ yếu là theo chiều rộng dưới hình thức xây dựng mới, các
nước phát triển thì chủ yếu đầu tư theo chiều sâu theo hướng hiện đại hóa.
Cịn các nước đang phát triển thì cần kết hợp đầu tư vừa theo chiều rộng vừa
theo chiều sâu. Nhưng dù là theo chiều rộng hay chiều sâu thì cũng đều cần
phải có vốn và phải là vốn trung dài hạn.
1.2.2. Một số đặc trưng của TDTDH đối với DNNQD
1.2.2.1. Về mục đích sử dụng vốn
Khác với tín dụng ngắn hạn là loại hình tín dụng được sử dụng chủ yếu
bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp. TDTDH đối với doanh nghiệp nói
chung và đối với DNNQD nói riêng có mục đích đầu tư vào các dự án có thời
gian tương đối dài như các dự án xây dựng nhà xưởng, cơ sở vật chất kỹ thuật
và ứng dụng khoa học công nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai
của đơn vị. Với mục đích này, đối tượng cho vay của TDTDH cho doanh
nghiệp nói chung và đối với DNNQD nói riêng là chi phí cấu thành trong
tổng mức đầu tư của dự án bao gồm giá trị vật tư, máy móc thiết bị, cơng
nghệ, chi phí nhân cơng, chi phí mua bảo hiểm, giá thuê mua các tài sản và
các chi phí khác. Mức cho vay của một dự án đầu tư bằng tổng mức vốn đầu
tư trừ đi vốn tự có đầu tư cho dự án của bên đi vay, nhưng mức tối đa chỉ
bằng 70% giá trị tài sản cầm cố, thế chấp.
1.2.2.2. Về thời hạn tín dụng
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian tính từ khi khách hàng được nhận
tiền cho vay cho đến khi khách hàng trả hết toàn bộ nợ gốc và lãi. Thời hạn
này do hai bên Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận và được ghi trong hợp
đồng tín dụng. Đối với CVTDH thì thời hạn cho vay là hơn một năm nhưng

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6



Khóa luận tốt nghiệp

1
1

Khoa Ngân hàng

khơng q thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành từ vốn vay. Tuy
nhiên, thời hạn vay vốn TDNH không ổn định một cách hoàn toàn cứng nhắc
theo hợp đồng ký kết ban đầu mà có thể điều chỉnh linh hoạt theo tình hình
thực tế. Nếu tình hình kinh doanh thuận lợi, doanh nghiệp có được nguồn thu
dồi dào mà chưa cần sử dụng ngay hoặc khi điều kiện kinh doanh khó khăn,
doanh nghiệp muốn thu hẹp sản xuất thì có thể trả nợ trước hạn. Ngược lại
nếu công việc kinh doanh gặp nhiều khó khăn do các lý do bất khả kháng thì
ngân hàng có thể cho phép khách hàng gia hạn nợ. Dĩ nhiên trong cả 2 trường
hợp kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng có phần nào bị ảnh hưởng song nếu
đó là những điều chỉnh hợp lý thì nó sẽ có lợi cho cả 2 bên về lâu dài.
1.2.2.3. Nguyên tắc cho vay
Để đảm bảo tránh rủi ro, việc cho vay phải được tiến hành trên cơ sở
tuân thủ triệt để các nguyên tắc cho vay. Đó là:
- Việc sử dụng vốn vay phải đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng. Mục đích sử dụng vốn vay phải được thể hiện rõ ràng, cụ thể trong dự
án, chương trình sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp trình cho Ngân hàng
khi xin vay vốn. Thơng thường các khoản vay vốn trung dài hạn được sử dụng
để trang trải các chi phí như: chi phí mua đất, thuê đất; chi phí xây dựng nhà
xưởng, chi phí mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển… và một
bộ phận vốn lưu động tối thiểu. Ngân hàng trước khi cho vay sẽ phải kiểm tra
xem mục đích sử dụng vốn vay của doanh nghiệp có khả thi hay khơng, có
phù hợp với chương trình phát triển kinh tế chung của vùng, của địa phương,
Nhà nước không. Ngay cả khi cho vay rồi thì Ngân hàng vẫn cần có sự phối

hợp của ban lãnh đạo của doanh nghiệp để theo dõi xem việc sử dụng vốn vay
có đúng mục đích và tiến độ hay khơng, tránh tình trạng vốn vay được sử
dụng vào các mục đích khác khơng nằm trong chương trình vay vốn.
- Việc sử dụng vốn vay phải có hiệu quả kinh tế kỹ thuật cao. Rõ ràng
khơng có Ngân hàng nào muốn cho vay đối với một chương trình, dự án sản

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

1
2

Khoa Ngân hàng

xuất kinh doanh có hiệu quả thấp, bởi lẽ điều đó đồng nghĩa với khả năng trả
nợ sẽ gặp khó khăn, ảnh hưởng trước hết tới lợi ích của ngân hàng, đồng thời
có thể gây ra những tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Việc sử dụng vốn vay
được coi là có hiệu quả khi nó đem lại nguồn thu nhập đủ để trả gốc và lãi vay
đúng thời hạn đồng thời đảm bảo có lãi cho doanh nghiệp, qua đó đóng góp
cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Để đảm bảo nguyên tắc này, trước
khi quyết định cho vay các ngân hàng phải tiến hành thẩm định, phân tích kỹ
lưỡng chương trình, dự án vay vốn, trong đó đặc biệt chú ý các chỉ tiêu như:
lợi nhuận hàng năm, hệ số lợi nhuận trên doanh thu, hệ số lợi nhuận trên vốn
đầu tư do dự án đem lại.
- Việc hoàn trả nợ gốc và lãi phải được tiến hành theo đúng lịch trình trả
nợ đã được ghi trong hợp đồng. Lịch trình trả nợ được xác định căn cứ vào

tính chất đặc điểm của chu kỳ sản xuất sản phẩm, thời gian xây dựng cơng
trình, thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành từ vốn vay.
1.2.2.4. Điều kiện cho vay
- Người vay vốn phải có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành
vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật, cụ thể:
+ Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự;
+ Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự;
+ Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
+ Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
+ Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự;
- Người vay vốn sản xuất kinh doanh phải có lãi. Trong thực tế, Ngân
hàng có thể cho một số đơn vị kinh doanh vay trong một số trường hợp sau:
+ Những đơn vị lỗ theo kế hoạch nhưng đơn vị phải có kế hoạch lỗ rõ
ràng và được cơ quan tài chính có thẩm quyền cam kết cấp bù lỗ kịp thời đầy đủ.

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

1
3

Khoa Ngân hàng

+ Những đơn vị kinh doanh lỗ nhưng có chiều hướng kinh doanh có lãi

song đơn vị phải có phương án khắc phục có tính khả thi và được các cơ quan
có thầm quyền xem xét phê duyệt.
Trong các trường hợp trên, Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản để
cầm cố thế chấp hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba (thường là cấp chủ quản).
- Khách hàng vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào phương án sản xuất kinh doanh.
- Phải có kế hoạch hoặc phương án xin vay vốn có tính khả thi, phải nộp
cho Ngân hàng đầy đủ các hồ sơ, tài liệu theo yêu cầu của Ngân hàng.
- Phải hạch toán và quản lý tài chính theo đúng pháp lệnh về kế tốn thống kê.
- Khơng có nợ q hạn.
- Khách hàng phải chấp hành quy định về đảm bảo tín dụng theo Nghị
định của Chính phủ và Quy chế của Thống đốc NHNN.
1.2.2.5. Mức độ rủi ro và TSBĐ
Xuất phát từ đặc điểm thời hạn dài nên rủi ro trong hoạt động TDTDH
cũng cao hơn so với tín dụng ngắn hạn. Nền kinh tế của một quốc gia khơng
thể có được sự ổn định trong một thời gian dài mà thường xuyên có những
biến động. Biến động này có thể theo chiều hướng tốt hoặc xấu. Là một chủ
thể trong nền kinh tế, các doanh nghiệp đương nhiên chịu tác động mạnh mẽ
bởi những biến động này. Một khi doanh nghiệp phải chịu những tác động
tiêu cực do nền kinh tế đem lại thì ngân hàng với tư cách chủ nợ cũng sẽ
khơng tránh khỏi rủi ro. Thời hạn cho vay càng dài thì xác suất xảy ra các
biến cố càng lớn và do đó rủi ro tiềm ẩn càng cao.
Từ đó phát sinh một hệ quả là hầu hết các khoản vay trung dài hạn đều là
các khoản vay có bảo đảm. Hình thức đảm bảo có thể là bảo đảm đối nhân
hay đối vật. Việc áp dụng các hình thức bảo đảm này nhằm giúp Ngân hàng
có thể thu được nợ trong trường hợp rủi ro xảy ra.

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6



Khóa luận tốt nghiệp

1
4

Khoa Ngân hàng

1.2.2.6. Lãi suất cho vay
Do tính chất rủi ro cao nên lãi suất CVTDH cao hơn lãi suất cho vay
ngắn hạn. Điều này là hợp lý bởi một khoản cho vay tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn
thì cần phải được trả lãi cao hơn để có thể bù đắp những rủi ro nếu xảy ra. Đó
là chưa kể đến việc Ngân hàng sẽ bị mất cơ hội sử dụng khoản cho vay một
cách linh hoạt trong một khoảng thời gian dài. Mức lãi suất cho vay cụ thể
phụ thuộc vào nhiều yếu tố (lãi suất huy động vốn, phí ngân hàng, lợi nhuận
ngân hàng, tỷ lệ lạm phát, lãi suất cơ bản do NHTW quy định, lãi suất trên thị
trường quốc tế… ). Mức lãi suất này cố định trong suốt thời gian vay vốn
hoặc có thể điều chỉnh linh hoạt theo sự biến động của thị trường. Thông
thường, để tránh rủi ro cho cả 2 bên thì lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù
hợp với tình hình thị trường từng thời kỳ.
1.2.2.7. Nguồn vốn cho vay
Một trong những vấn đề sống còn đối với mỗi NHTM là phải đảm bảo
khả năng thanh toán thường xuyên của mình. Để đảm bảo yêu cầu này thì
hoạt động cho vay của Ngân hàng phải gắn bó chặt chẽ, dựa trên nền tảng
nguồn vốn mà Ngân hàng có được, nghĩa là cơ cấu cho vay phải phù hợp với
cơ cấu nguồn vốn, các khoản CVTDH cần phải được hình thành nên từ những
nguồn ổn định, có thời hạn tương ứng. Theo đó thì các nguồn vốn có thể sử
dụng để CVTDH gồm có: nguồn vốn tự có của NHTM, nguồn vốn huy động
dưới hình thức tiền gửi trung dài hạn hoặc phát hành trái phiếu dài hạn; nguồn
vốn vay từ NHTW, vay nợ nước ngoài… ); nguồn vốn ủy thác của các chính

phủ và tổ chức trong và ngoài nước; một phần vốn huy động ngắn hạn cũng
có thể được sử dụng để CVTDH.
1.2.2.8. Nguồn và phương pháp trả nợ
Có nhiều phương pháp trả nợ đối với một khoản vay trung dài hạn, chẳng
hạn: trả lãi trước ngay khi vay tiền và trả gốc vào cuối thời hạn vay; trả gốc và
lãi làm nhiều lần trong suốt thời hạn vay. Thực tế hiện nay người ta thường áp

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

1
5

Khoa Ngân hàng

dụng các phương pháp trả nợ gốc và lãi làm nhiều lần trong suốt thời hạn vay.
Kỳ hạn trả nợ dài hay ngắn, số tiền nợ gốc trả mỗi kỳ do hai bên thỏa thuận
trên cơ sở xem xét tính chất khoản vay, chu kỳ sản xuất kinh doanh, nguồn
vốn trả nợ của khách hàng được ghi ở hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên lịch trình
trả nợ này khơng phải là hồn tồn cố định mà có thể được điều chỉnh theo
thỏa thuận của hai bên khi có những tình huống phát sinh ngồi dự kiến. Trên
cơ sở lịch trình trả nợ đã được ký kết đó, các doanh nghiệp vay vốn sẽ sử
dụng các nguồn có thể của mình để trả nợ. Do đặc điểm của khoản vay trung
dài hạn phần lớn để hình thành nên các TSCĐ cho doanh nghiệp, chính vì vậy
nên nguồn trả nợ chủ yếu là từ khả năng sinh lợi của các tài sản này. Khi các
tài sản này được đưa vào sử dụng chúng sẽ mang lại cho các nhà đầu tư các

khoản doanh thu, trong đó khấu hao TSCĐ là một bộ phận của doanh thu và
được dùng để thanh toán nợ gốc cho Ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế do
thời hạn cho vay thường ngắn hơn thời gian khấu hao thực tế của tài sản hình
thành từ vốn vay, hơn nữa bản thân doanh nghiệp cũng muốn trả nợ nhanh để
tránh phải chịu lãi nên ngồi giá trị khấu hao TSCĐ họ cịn sử dụng một phần
lợi nhuận sau thuế để hoàn trả nợ gốc. Ngồi hai nguồn chủ yếu này thì doanh
nghiệp cịn có thể có nhiều nguồn khác: quỹ chuyên dùng, vốn góp của cổ
đông, của CBCNV, liên doanh liên kết… Tuy nhiên với tư cách là nhà ngân
hàng khi cho vay thì mối quan tâm chủ yếu chỉ là khả năng trả nợ tạo ra bởi
chính tài sản hình thành từ vốn vay chứ không nên trông đợi vào các nguồn
thu khác của doanh nghiệp.
1.2.3. Các hình thức cấp TDTDH đối với DNNQD
Hiện nay TDTDH không chỉ đơn thuần là việc phát tiền vay với thời hạn
trên một năm mà nó ẩn chứa dưới rất nhiều hình thức. Phổ biến có:

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

1
6

Khoa Ngân hàng

1.2.3.1. Cho thuê trực tiếp theo dự án
- Là việc Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu
tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống.

1.2.3.2. Cho thuê tài chính
- Là hình thức CVTDH bằng tài sản thơng qua một hợp đồng tín dụng
thuê mua. Sau một thời gian thuê nhất định tùy theo thỏa thuận của hợp đồng,
người đi thuê có thể mua lại tài sản đó.
1.2.3.3. Cho vay đồng tài trợ
- Là q trình cho vay của một nhóm TCTD (từ hai TCTD trở lên) cho
một dự án do một TCTD làm đầu mối, phối hợp với các bên tài trợ để thực
hiện, nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và của TCTD.
1.2.3.4. Tín dụng tuần hồn
- Được coi là TDTDH khi thời hạn của hợp đồng được kéo dài từ 1 đến
vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và trả nợ khi có nguồn, trong thời
gian hợp đồng có hiệu lực.
1.3. Chất lượng TDTDH đối với DNNQD
1.3.1. Khái niệm
Chất lượng tín dụng nói chung được hiểu là sự hiệu quả hay không hiệu
quả trong việc sử dụng khoản vốn cho vay của Ngân hàng và gắn liền với việc
sử dụng khoản vốn đi vay của khách hàng. Một khoản tín dụng được coi là có
chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích kinh tế cao cho cả khách hàng và Ngân
hàng. Nếu chỉ đem lại lợi ích cho một bên, khoản tín dụng đó khơng thể coi là
có chất lượng tốt bởi vì tín dụng Ngân hàng luôn thực sự gắn liền với hiệu
quả đầu tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng.

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp


1
7

Khoa Ngân hàng

Với tư cách là một trung gian tài chính hoạt động chủ yếu và thường
xuyên nhất là nhận tiền gửi và cho vay, chất lượng tín dụng ln là mối quan
tâm hàng đầu của các NHTM.
Có thể hiểu khái niệm chất lượng TDTDH như sau:
Chất lượng TDTDH nói chung và đối với DNNQD nói riêng phản ánh
khả năng mở rộng CVTDH của Ngân hàng phù hợp với nhu cầu vay vốn của
khách hàng và với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của Ngân hàng.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Cũng như chất lượng các khoản CVTDH đối với các doanh nghiệp nói
chung, chất lượng TDTDH đối với DNNQD nói riêng cũng được đánh giá
thơng qua các chỉ tiêu định tính và định lượng. Các chỉ tiêu sẽ được nêu ra
dưới đây được hiểu là gắn liền với DNNQD.
1.3.2.1. Các chỉ tiêu định tính:
Như đã nói ở trên, chất lượng TDTDH thể hiện qua khả năng mở rộng tín
dụng của Ngân hàng gắn liền với việc đáp ứng tốt nhu cầu vay vốn của doanh
nghiệp, đảm bảo sự tồn tại phát triển của Ngân hàng, đóng góp vào sự tăng
trưởng và phát triển về kinh tế. Về mặt định tính, các chỉ tiêu này có thể được
đánh giá qua một số mặt sau:
- Trước hết, khả năng mở rộng tín dụng của Ngân hàng phụ thuộc vào uy
tín của Ngân hàng đó. Một Ngân hàng có uy tín sẽ có khả năng thu hút được
nhiều khách hàng hơn. Ngược lại, nếu một Ngân hàng có đội ngũ khách hàng
đơng đảo và là những doanh nghiệp làm ăn có uy tín thì đó là một trong
những dấu hiệu cho thấy chất lượng tín dụng của Ngân hàng là khả quan.
- Chất lượng tín dụng cịn thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của

khách hàng. Đối với doanh nghiệp thì điều này trước hết biểu hiện ở thụ tục
đơn giản, thuận tiện, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo những nguyên tắc an toàn

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

1
8

Khoa Ngân hàng

tối thiểu cần thiết, cung cấp vốn nhanh chóng kịp thời và an tồn. Nhờ đó
doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là
không bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh tốt. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những yêu
cầu ban đầu, trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt và đầy
biến động thì đòi hỏi các NHTM phải năng động hơn nữa mới có thể có được
chất lượng tín dụng cao, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng cả về chất và
lượng của khách hàng. Để đạt được điều đó thì ngồi việc đáp ứng nhanh
chóng, kịp thời nhu cầu vốn, Ngân hàng phải thực sự trở thành người bạn của
doanh nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với họ. Chẳng hạn, trong
quá trình xét duyệt cho vay nếu thấy dự án vay vốn của doanh nghiệp có
những điểm chưa hợp lý, khơng khả thi thì thay vì từ chối cho vay, Ngân hàng
có thể tư vấn, góp ý cho doanh nghiệp để họ xem xét điều chỉnh lại cho hợp
lý. Trong quá trình kinh doanh, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn bất khả
kháng thì Ngân hàng có thể cùng doanh nghiệp tìm cách giải quyết. Ngồi ra,
Ngân hàng cũng có thể cung cấp các thơng tin bổ ích về thị trường, về tiến bộ

khoa học kỹ thuật công nghệ cho doanh nghiệp. Có như vậy thì nguồn vốn tín
dụng của Ngân hàng mới thực sự phát huy được vai trò đòn bẩy, giúp doanh
nghiệp cải tiến thiết bị, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng
cạnh tranh. Và một khi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì Ngân hàng
mới tránh được rủi ro, bảo đảm hiệu quả kinh doanh của chính mình.
- Chất lượng tín dụng cịn được thể hiện ở việc hoạt động tín dụng mang
lại cho Ngân hàng thu nhập đủ để trang trải các chi phí có liên quan và có lãi,
hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro.
- Một yêu cầu nữa đối với hoạt động tín dụng là phải đóng góp vào sự
tăng trưởng kinh tế của vùng, địa phương và của cả nước.
Tóm lại, chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng TDTDH nói riêng
là một chỉ tiêu tổng hợp được đánh giá trên quan điểm của cả ba chủ thể:
doanh nghiệp, Ngân hàng và nền kinh tế. Các chỉ tiêu định tính chỉ là những

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp

1
9

Khoa Ngân hàng

căn cứ để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng một cách khái quát. Để có
những kết luận chính xác hơn cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định
lượng cụ thể, bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến ngân hàng và các chỉ tiêu
liên quan đến doanh nghiệp. Còn về phía nền kinh tế thì rất khó có thể đo

lường tác động cụ thể của từng chủ thể riêng biệt đến sự phát triển chung, nên
trong thực tế chủ yếu sử dụng các chỉ tiêu định tính như trên để xem xét.
1.3.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
a- Chỉ tiêu về huy động vốn trung dài hạn
Nếu một Ngân hàng có khả năng huy động nguồn vốn có thời hạn dài, với
chi phí thấp nhất để phục vụ cho việc cho vay và đầu tư trung dài hạn thì đã tạo
được cơ sở để đảm bảo cho chất lượng tín dụng. Vì một mặt Ngân hàng đã cân
đối được về thời hạn của nguồn vốn, đảm bảo tính an tồn trong thanh tốn,
mặt khác Ngân hàng có thể chủ động và giảm được chi phí huy động vốn để
tăng lợi nhuận.
Khả năng huy động vốn trung dài hạn thể hiện ở 2 chỉ tiêu:
- Chỉ tiêu 1: Tổng vốn trung dài hạn huy động được và tốc độ tăng của
nguồn vốn này qua các năm: phản ánh tốc độ tăng trưởng cùng khả năng huy
động vốn trung dài hạn của Ngân hàng.
- Chỉ tiêu 2:
Vốn trung dài hạn
Tổng nguồn vốn huy động
Phản ánh cơ cấu vốn trung dài hạn của Ngân hàng và khả năng cung ứng
vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển. Ngân hàng khơng có cơ hội mở rộng
đầu tư cho vay trung dài hạn nếu như tỷ lệ này quá thấp.
b- Chỉ tiêu cho vay trung dài hạn
- Doanh số CVTDH: phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giải ngân
giúp doanh nghiệp trong đầu tư, cải tiến, áp dụng công nghệ mới, mở rộng sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt
SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6


Khóa luận tốt nghiệp


2
0

Khoa Ngân hàng

đối của hoạt động TDTDH của Ngân hàng. Con số và tốc độ tăng của doanh
số cho vay lớn cho thấy khả năng mở rộng TDTDH của Ngân hàng là rất tốt.
Tuy nhiên như trên đã phân tích, đó mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để
khẳng định chất lượng TDNH mà cần phải kết hợp xem xét nhiều chỉ tiêu khác.
- Doanh số thu nợ trung dài hạn: phản ánh lượng vốn trung dài hạn mà
Ngân hàng giải ngân đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Doanh số thu nợ có
thể phản ánh: khách hàng hoàn trả đúng thời hạn, tự nguyện do việc đầu tư có
hiệu quả, hoặc có thể Ngân hàng nhận thấy những dấu hiệu khơng lành mạnh
có thể mất vốn nên đẩy mạnh các biện pháp thu hồi vốn.
- Dư nợ TDTDH: là chỉ tiêu thời điểm phản ánh lượng vốn CVTDH đã giải
ngân tại một thời điểm cụ thể. Không thể đánh giá đầy đủ chất lượng TDTDH là
cao hay thấp dựa vào dư nợ trung dài hạn và tỷ lệ dư nợ trung dài hạn / Tổng dư
nợ mà vấn đề cần phải xem xét là mức độ an tồn và lành mạnh của nó.
Để đánh giá chất lượng TDTDH còn phải quan tâm đến các chỉ tiêu:
+ Vòng quay vốn TDTDH:
Vòng quay vốn càng nhanh thì hiệu quả hoạt động càng cao, đem lại lợi
nhuận và vịng quay càng dài thì càng dễ gặp rủi ro.
+ Hiệu suất của một đồng vốn đầu tư: cho biết một đồng vốn đầu tư cho
vay trung dài hạn thu được bao nhiêu đồng thu nhập ròng mỗi năm.
c- Chỉ tiêu về nợ quá hạn trung dài hạn
Nợ quá hạn trung dài hạn đối với DNNQD:
Bản chất tín dụng là sự hồn trả, do đó tính an tồn( khả năng được hoàn
trả nợ vay) là một yếu tố quan trọng nhất để cấu thành chất lượng tín dụng.
Khi một khoản vay khơng được hồn trả đúng hạn như đã cam kết mà khơng

có lý do chính đáng thì nó được chuyển sang NQH, với lãi suất cao hơn lãi
suất bình thường. Hiện nay ở Việt Nam lãi suất NQH bằng 150% lãi suất
đúng hạn theo quy định của NHNN.

SV: Trịnh Thị Hải Yến

NHB - K6



×