Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Kinh tế Thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.75 KB, 8 trang )

Kinh tế > Thương mại điện tử
Thương mại điện tử với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam
Những tiến bộ của khoa học công nghệ đã làm sản sinh ra một thế giới hoàn toàn mới cho kinh
doanh - thế giới ảo của thương mại điện tử. Tuy có lịch sử chưa phải lâu dài song thương mại điện tử
đã có những bước phát triển chóng mặt và đem lại nhiều lợi ích to lớn cho các bên tham gia thương
mại điện tử. ứng dụng thương mại điện tử là xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia, doanh nghiệp và
cá nhân trong nền kinh tế quốc tế. Với tỷ trọng áp đảo (87%) trên tổng số doanh nghiệp Việt Nam,
các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế đất nước nói chung và
tiến trình ứng dụng thương mại điện tử của quốc gia nói riêng. Tham gia thương mại điện tử đòi hỏi
các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua nhiều rào cản và thách thức, song cũng mở ra nhiều thuận
lợi và cơ hội lớn để cạnh tranh.

Nhận thức về thương mại điện tử


Ứng dụng Công nghệ thông tin và Internet.


Chất lượng ứng dụng thương mại điện tử


Khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia TMĐT


Thuận lợi trong việc ứng dụng mô hình kinh doanh điện tử
Kinh tế > Thương mại điện tử
Thương mại điện tử với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam

Nhận thức về thương mại điện tử

Ứng dụng thương mại điện tử của một doanh nghiệp, không cứ là doanh nghiệp vừa và nhỏ,


thường được chia làm 3 giai đoạn:
• Chuẩn bị (readiness) - chuẩn bị hạ tầng kỹ thuật, thương mại và xã hội cho thương mại
điện tử;
• Mức độ (intensity) - hiện trạng thương mại điện tử, bao gồm quy mô và bản chất giao
dịch/doanh nghiệp;
• Ảnh hưởng (impacts) - thương mại điện tử tác động đến hiệu quả và lợi nhuận như thế
nào.
Các nhà chuyên môn ở Việt Nam đều khẳng định chúng ta vẫn đang ở trong giai đoạn chuẩn bị
cho thương mại điện tử và giai đoạn này sẽ còn kéo dài trong vòng vài năm tới.
Nhận thức về thương mại điện tử
Theo Ban điều hành Dự án Quốc gia “Kỹ thuật thương mại điện tử”, nhận thức về thương mại
điện tử trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, là rất
khiêm tốn. Một báo cáo của Dự án AAIEP - ESCAP/GTZ cũng nhận xét : “Nhu cầu về dịch vụ và
đào tạo về Công nghệ thông tin của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp một cách đáng ngạc
nhiên. Cơn lốc Thương mại điện tử rõ ràng là chưa đến với Việt Nam.” Mặc dầu vậy, có thể chia
các doanh nghiệp Việt Nam làm 3 nhóm:
1. Nhóm nhận thức cao;
2. Nhóm nhận thức trung bình;
3. Nhóm nhận thức thấp.
Nhóm (1) bao gồm các doanh nghiệp đã nhận thấy được tiềm năng và lợi ích của thương mại
điện tử cho công việc kinh doanh. Họ cũng có những kiến thức nhất định về vị trí, vai trò và xu
thế của Thương mại điện tử trên thế giới và ở Việt Nam. Chính vì thế, các doanh nghiệp này đã

chủ động đầu tư xây dựng và triển khai kế hoạch ứng dụng thương mại điện tử. Một số trang
web thương mại Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định như www.quaviet.com,
www.netvietco.com, www.viettravel-vn.com,... Thuộc nhóm này chủ yếu là các doanh nghiệp
công nghệ thông tin và doanh nghiệp xuất khẩu với các sản phẩm/dịch vụ như hàng thủ công
mỹ nghệ, nông sản, dịch vụ du lịch và lữ hành. Tuy nhiên, số các doanh nghiệp có nhận thức cao
không nhiều, chỉ chiếm một phần nhỏ trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
Các doanh nghiệp trong nhóm (2) cũng có biết và bắt đầu quan tâm đến thương mại điện tử.

Tuy vậy, họ chưa thực sự hiểu biết về nội dung, lợi ích và xu thế phát triển của thương mại điện
tử. Sự băn khoăn, e ngại của họ trước thương mại điện tử phần nhiều do hạ tầng thương mại
điện tử ở Việt Nam chưa phát triển, chi phí đầu tư ban đầu và vận hành thương mại điện tử cao
trong khi năng lực và trình độ CNTT của cán bộ nhân viên còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp
này đã bắt đầu nối mạng, lập website nhưng ít nhiều còn mang tính hình thức, ít cập nhật và
không có kế hoạch phát triển riêng.
Các doanh nghiệp thuộc nhóm (3) không quan tâm và không có ý định tham gia thương mại
điện tử. Có doanh nghiệp không hiểu rõ về bản chất cũng như xu hướng hiện thời của thương
mại điện tử, số khác lại quá hoài nghi khả năng áp dụng tại Việt Nam, số khác nữa lại cho rằng
thị trường của mình quá nhỏ hẹp và không cần đến khả năng quốc tế của thương mại điện tử,
cũng có doanh nghiệp lo sợ trước khả năng phải thay đổi quá nhiều tập quán giao dịch và làm
việc khi tham gia thương mại điện tử. Tất cả đều không tin thương mại điện tử có thể đem lại
ngay cho doanh nghiệp một lợi ích lớn để phải bỏ tiền ra đầu tư. Họ bằng lòng với vị trí của
người ngoài cuộc, hay người quan sát vì, với họ, thương mại điện tử chỉ là vấn đề của các doanh
nghiệp lớn và doanh nghiệp nước ngoài.
Tâm lý chờ đợi, nhìn nhau, ngại thay đổi, sợ rủi ro, thiếu tầm nhìn vẫn còn tồn tại trong cộng
đồng doanh nghiệp Việt Nam. Cũng cần phải thấy rằng trong số những doanh nghiệp hồ hởi với
thương mại điện tử cũng có những bất cập. Phần lớn vẫn cho rằng thương mại điện tử chỉ là các
công việc của một trang web chứ chưa thấy sự cần thiết của các nỗ lực liên tục để thay đổi quy
trình kinh doanh và tìm kiếm cơ hội mới. Tuy thế, cũng không thể phủ nhận rằng các doanh
nghiệp Việt Nam, kể cả doanh nghiệp vừa và nhỏ, đang có những tiến bộ nhất định trong nhận
thức và ý thức ứng dụng Công nghệ thông tin và các phương tiện mới của Internet vào công việc
kinh doanh của mình.
Mục lục | Trang 1. Trang 2. Trang 3. Trang 4. Trang 5.
Kinh tế > Thương mại điện tử
Thương mại điện tử với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam

Ứng dụng Công nghệ thông tin và Internet.



Về sở hữu và sử dụng máy tính: Phần lớn các doanh nghiệp ở thành phố đều có máy tính,
trong đó nhiều nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh với 80% doanh nghiệp sở hữu máy tính. 2/3 số
công ty có 3-9 máy tính, đa phần là máy để bàn và là sở hữu riêng chứ không phải đi thuê. Các
doanh nghiệp xây dựng, chế biến thực phẩm và du lịch có nhiều máy tính hơn các doanh nghiệp
khác do quy mô nhân sự lớn hơn. Các phần mềm sử dụng đa số là của Microsoft, ứng dụng cho
xử lý văn bản, bảng tính, quản lý dữ liệu, kế toán, thư điện tử, hệ điều hành máy tính và mạng.
Các phần mềm chuyên biệt hầu như không có. Như thế, có thể nói các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam không xa lạ với máy tính và các phần mềm văn phòng. Tuy thế, kiến thức hầu như chỉ
dừng lại ở những kỹ năng vận hành đơn giản.
Về kết nối mạng trong doanh nghiệp: Gần 2/3 công ty không thực hiện nối mạng. Điều này

dễ giải thích vì 81% doanh nghiệp có ít hơn 9 máy tính. 38% doanh nghiệp đã nối mạng sử dụng
mạng diện rộng (WAN - Wide Area Network). Các doanh nghiệp Cần Thơ nối mạng ít nhất: 75%
doanh nghiệp duy trì sử dụng các máy tính độc lập. Trong khi đó, các doanh nghiệp Thành phố
Hồ Chí Minh có tỷ lệ nối mạng cao nhất (trên 20% nối mạng diện rộng). Có thể thấy các doanh
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh luôn đi đầu trong việc ứng dụng các công nghệ mới và sẽ là khu
vực động lực cho thương mại điện tử Việt Nam trong tương lai.
Về sử dụng Internet: Khoảng một nửa số doanh nghiệp có kết nối Internet. Đa số các doanh
nghiệp kết nối Internet thuộc ngành may mặc, giày da, dệt may (60% đã kết nối) và mức thấp
nhất là ngành công nghiệp xây dựng (39%) và công nghiệp chế biến (36%). Các doanh nghiệp
nói chung có 1-2 tài khoản truy cập Internet (Internet account), mỗi account có khoảng 3 người
sử dụng. Thời gian sử dụng Internet của các doanh nghiệp vẫn còn thấp, các doanh nghiệp ở
Việt Nam có thể được xem là những người sử dụng tương đối nhỏ. Trung bình, các công ty sử
dụng 12 giờ Internet một tuần. Các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh thì sử dụng Internet
nhiều hơn các doanh nghiệp ở Hà Nội (13 giờ/tuần so với 10 giờ/tuần). Số công ty sử dụng
Internet 20 giờ/tuần chiếm chưa đầy 17%. Quy mô doanh nghiệp và số account Internet có thể
không phải là nhân tố quyết định thời gian sử dụng. ứng dụng Internet phổ biến nhất là thư điện
tử phục vụ mục đích kinh doanh nói chung. Hầu hết các công ty có sử dụng Internet là sử dụng
hệ thống thư điện tử ngoại bộ, 90% có địa chỉ e-mail. 46% doanh nghiệp sử dụng thư điện tử
như một phương tiện truyền tin và giao tiếp. Số lượng người sử dụng thư điện tử trung bình

trong công ty là 4 và số lượng người sử dụng địa chỉ thư điện tử cá nhân là 2. Các công ty ở
thành phố Hồ Chí Minh (11%) có mức độ sử dụng Internet cho mục đích kinh doanh gấp 3 lần so
với Hà Nội (4%).
Mặc dù mức độ sử dụng Internet là rất thấp nhưng trên 80% trong số công ty được điều tra coi
việc sử dụng Internet cho kinh doanh là hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp đều thống nhất ý
kiến rằng Internet là cách nhanh nhất và tiết kiệm nhất để liên lạc và tìm kiếm thông tin. Doanh
nghiệp cắt giảm được phần lớn thời gian và chi phí thông tin liên lạc và có thể tiếp cận với thị
trường quốc tế dễ dàng hơn nhờ Internet. Điều này chỉ ra rằng nhu cầu sử dụng Internet là
tương đối lớn. Hạn chế về kiến thức và thời gian chính là những nhân tố cản trở việc sử dụng
Internet nhiều hơn cả.
Kết quả phỏng vấn trực tiếp cho thấy thái độ của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với Internet là
khá tích cực. Thông qua Internet, doanh nghiệp mong muốn:
• Tìm hiểu thông tin về các khách hàng và nhà cung cấp tiềm
năng của mình (ví dụ: tình trạng tài chính, các hoạt động kinh
doanh,...). Những thông tin này vốn chỉ có thể hỏi được một
cách khó khăn từ hệ thống ngân hàng,
• Liên hệ với các khách hàng/nhà cung cấp mới,
• Tìm hiểu công nghệ/thiết kế mới,
• Thực hiện giao dịch trực tuyến và
• Tìm được những nguồn tài chính mới.
Như vậy, mặc dù các con số thống kê khá ít ỏi, không thể phủ nhận thiện chí của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ dành cho Internet và, dựa trên những ứng dụng được đề cập tới, thương mại
điện tử. Thái độ tích cực ấy, nếu được bổ sung bằng nhận thức đầy đủ về thương mại điện tử và
những cải biến trong môi trường chung, sẽ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ thay đổi suy nghĩ
về thương mại điện tử và từ đó có thể tham gia tích cực hơn.

Mục lục | Trang 1. Trang 2. Trang 3. Trang 4. Trang 5.

Kinh tế > Thương mại điện tử
Thương mại điện tử với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam


Chất lượng ứng dụng thương mại điện tử


Về số lượng, từ hai website bán hàng qua mạng đầu tiên là Vietnam CyberMall của VASC và Siêu
thị Máy tính Bluesky (www.bluesky.com.vn) của Công ty TNHH Nhật Quang, đến nay chúng ta đã
có khoảng 1.500-2.000 website thương mại. Con số này quả là khiêm tốn so với con số hơn
100.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh trên toàn quốc.
Kinh doanh trực tuyến chuyển sự chú ý từ B2C sang B2B. Cũng trong năm này đã dần xuất hiện
các nhà cung cấp dịch vụ và giải pháp thương mại điện tử chuyên nghiệp như B2VN của FPT, YES
của Công ty thương mại điện tử Hội đồng Doanh nghiệp Trẻ, Vietnamthink của Công ty Tri thức
Việt Nam,... Chính họ đã tạo nên một luồng gió mới cho thương mại điện tử Việt Nam, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp vốn bị hạn chế nhiều bởi kiến thức và tài chính có thể mở ra một
kênh liên lạc, tiếp thị và phân phối mới trên mạng Internet. Các mạng thông tin, sự ra đời của
nhiều tờ báo điện tử và sự tham gia của các cơ quan Chính phủ đã làm cho mạng Internet và
thương mại điện tử dần trở nên quen thuộc hơn với cộng đồng doanh nghiệp.
Về chất lượng, trong lĩnh vực kinh doanh Internet, tiêu chuẩn đánh giá website thương mại
thường dựa trên một mô hình ích lợi khách hàng nổi tiếng: mô hình ICET (ICE-T). Theo mô hình
này, cách thức người dùng Internet tiếp cận với nhà cung cấp trực tuyến có 4 thuộc tính:
• Thu thập thông tin (Information gathering),
• Liên lạc (Communication),
• Giải trí (Entertainment),
• Giao dich (Transactions). ̣
Xét theo mô hình này, hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ mới tham gia thương mại điện
tử ở mức độ xúc tiến thương mại. Các website mang tính thông tin nhiều hơn là giao dịch.
1. Nụ?i dung thụng tin cu~ng co`n nhiờ`u diờ?m bõ´t cõ?p vi` dụi chụ~
kha´ so sa`i, don diờ?u va` i´t cõ?p nhõ?t. Thụng tin vờ` doanh nghiờ?p
thuo`ng chi? du`ng la?i o? mụ?t sụ´ do`ng gio´i thiờ?u va` di?a chi? liờn
hờ?. Khụng pha?i cụng ty na`o cu~ng dua ca´c kờ´t qua? kinh doanh,
li?ch su? hoa?t dụ?ng, thụng tin nhõn su? va` ca´c hoa?t dụ?ng

thuo`ng nga`y lờn ma?ng. Thụng tin sa?n phõ?m/di?ch vu? thuo`ng
chi? dừng lại ở danh mục và 01 ảnh tĩnh, ít có mô tả chi tiết, giá bán và các điều
kiện thanh toán và giao hàng. Có nghia la cac doanh nghiễ ̀ ́ ̣p chỉ coi trang Web
như một trang quảng cáo trên báo chí. Như thế là đã lãng phí mất công cụ ưu việt
nhất của web là multimedia và tính cập nhật.
2. Hinh th̀ ức liên lạc phổ biến nhất qua trang web là e-mail va trang web g̀ ửi thông
tin yêu cầu. Người dùng ít nhận được những hướng dẫn trực tuyến tức thời như các
vấn đề thường gặp (FAQ - Frequently Asked Questions). Không có doanh nghiệp
nào sử dụng mailing list như một kênh chia sẻ thông tin liên tục với khách hàng.
Chỉ có một vài site có tham khảo ý kiến trực tuyến (Online Survey) hay bộ đếm
lượt truy nhập. Như vậy, doanh nghiệp chưa mấy chú trọng đến thông tin khách

hàng để có thể cải tiến website, sản phẩm/dịch vụ và các công việc kinh doanh khác
tốt hơn.
3. Về hình thức, các website chưa thật bắt mắt và chưa có độ sâu. Phần lớn trang web
là tĩnh, thiết kế đơn giản và ít trang. Thật ra, không phải các nhà thiết kế Việt Nam
không có tài, bằng chứng là nhiều sản phẩm của họ rất đẹp và tiện dụng. Lý do chủ
yếu có lẽ là tốc độ đường truyền của chúng ta quá thấp, nếu tích hợp các tính năng
hấp dẫn như hình động, âm thanh hay công nghệ hiên tḥ ực ảo (virtual reality) thì tải
một trang web sẽ rất chậm, gây khó khăn cho người dùng. Trong thực tế, các site
Việt Nam rất khó tải từ một máy tính ở nước ngoài. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới
hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử.
4. Cac giao dich tŕ ̣ ực tuyến rất ít có. Điều này thực ra nằm ngoài tầm với của các
doanh nghiệp vì ngay cả khi đã có một biểu mẫu đặt hàng trực tuyến thì các khâu
khác của một hợp đồng cũng khó mà thực hiện trực tuyến. Các dịch vụ thương
mại điện tử cần thiết như bảo hiểm, giao nhận, tín dụng, thanh toán,... vẫn còn lâu nữa
mới có thể thực hiện đầy đủ trên Internet Việt Nam. Ngoài ra, công tác xúc tiến cho
hoạt động thương mại điện tử chưa được chú trọng đầy đủ. Không ít doanh nghiệp
vừa và nhỏ sau khi đã lựa chọn dịch vụ thương mại điện tử của một nhà chuyên
nghiệp chỉ đưa tên mình lên mạng một lần mà không có ý thức cập nhật, cải tiến và tận

dụng cơ hội thương mại điện tử của mình. Rất nhiều địa chỉ website xuất hiện trên các
phương tiện thông tin đại chúng song lại không thể tìm thấy trên mạng. Điều này sẽ
ảnh hưởng không tốt đến uy tín của bản thân doanh nghiệp.
Nói tóm lại, ứng dụng thương mại điện tử ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện mới chỉ
ở giai đoạn đầu tiên. Điều này chủ yếu là do nhận thức chưa đầy đủ, một phần khác do cơ sở hạ
tầng còn khá thiếu thốn của chúng ta. Trong một tương lai không xa, khi các yếu tố môi trường
trở nên thuận lợi hơn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có thể vượt qua nhiều thách thức trước
mắt để tận dụng những cơ hội lâu dài mà thương mại điện tử có thể mang lại.

Mục lục | Trang 1. Trang 2. Trang 3. Trang 4. Trang 5.
Kinh tế > Thương mại điện tử
Thương mại điện tử với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam

Khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia TMĐT


Trong giai đoạn thử nghiệm và hình thành thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay, rất cần
khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Dù vậy, để ứng dụng thương mại
điện tử một cách đầy đủ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam phải vượt qua rất nhiều rào
cản.
Khó khăn cơ bản nhất đối với các doanh nghiệp là chi phí nối mạng và sử dụng mạng cơ sở. Đầu
tư ban đầu cho việc áp dụng một công nghệ mới có thể nặng hơn cho một doanh nghiệp nhỏ so
với một doanh nghiệp lớn (xét tỷ lệ với quy mô các nguồn lực). Công nghệ mới có thể đòi hỏi chi
phí cố định cao, chưa kể đến chi phí truy cập mạng và chi phí hỗ trợ kỹ thuật Công nghệ thông
tin. Đối với đa số công ty vừa và nhỏ, chi phí nối mạng là quá cao và không hợp lý. Mặc dù cước
phí nối mạng đã được giảm nhiều lần nhưng giá cả vẫn cao hơn so với các nước khác trong vùng.

×