Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện thanh chương, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.35 KB, 74 trang )

I ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tài sản quan trọng nhất
của mỗi quốc gia. Đất đai không chỉ là địa bàn phân bố khu dân cư, nơi sinh
sống của loài người mà còn là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thiếu của
nền sản xuất vật chất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng. Là một sản
phẩm của tự nhiên nhưng đất đai không giống như nguồn tài nguyên khác bởi
diện tích hạn chế và vị trí cố định. Trong quá trình sử dụng đất, con người đã
tác động làm thay đổi đất đai theo cả hai hướng xấu và tốt. Nhiều quốc gia
trên thế giới và cả ở Việt Nam đất đang dần bị thoái hóa dưới nhiều hình thức
khác nhau như: xói mòn trơ sỏi đá, quá trình sa mạc hóa, mặn hóa, phèn hóa,
chua hóa…Đây là kết quả của một thời gian dài con người sử dụng, sản xuất
và canh tác theo một theo một chiều phiến diện, chỉ biết khai thác những gì có
sẵn của đất chứ không quan tâm tới sự bồi bổ đất hay nói cách khác là con
người không coi đất như một cơ thể sống cần được chăm sóc khỏe mạnh để
ngày càng phục vụ con người tốt hơn.
Huyện Thanh Chương – tỉnh Nghệ An là một huyện miền núi nằm ở
phía tây nam tỉnh Nghệ An có diện tích đất tự nhiên là 112.886,78 ha, trong
đó diện tích đất nông nghiệp là 90.655,14 ha chiếm 80,31% tổng diện tích đất
tự nhiên với đầy đủ các thành phần các loại đất và diện tích đồi núi chiếm
phần lớn trong tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện. Các loại hình sử
dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện khá đa dạng tuy nhiên do điều kiện
tự nhiên, kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến thu nhập của người
dân hiện vẫn còn thấp. Những năm gần đây, trong huyện đã có nhiều chuyển
biến về kinh tế - xã hội, trước các nhu cầu ngày càng tăng của con người về
sản xuất nông nghiệp bền vững. Việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất của
huyện là rất quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp
1
theo hướng sản xuất thị trường và đảm bảo sử dụng đất hiệu quả, bền vững cả
ở hiện tại và tương lai. Từ những vấn đề thực tế và yêu cầu khách quan nói
trên chúng tôi đã tiến hành đề tài nghiên cứu: “Đánh giá hiệu quả sử dụng


đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An”.
1.2 Mục đích của đề tài
- Đánh giá hiệu quả của các kiểu sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của
huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An
- Đề xuất những kiểu sử dụng đất sản xuất nông nghiệp có hiệu quả cao
phục vục phát triển nông nghiệp huyện
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Số liệu điều tra đầy đủ, thu thập phản ánh trung thực, khách quan trên
địa bàn huyện. Việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất cần dựa trên những chỉ
tiêu phân cấp rõ ràng
- Những đề xuất, kiến nghị phải có tính khả thi phù hợp với thực trạng
của địa phương.
2
II TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Nghiên cứu về đất và sử dụng đất
2.1.1. Khái quát về đất và sử dụng đất
Đất là một tài nguyên thiên nhiên chủ yếu, không chỉ cho sự tồn tại và
phát triển của loài người mà còn duy trì sự sống của động, thực vật ở trên bề
mặt trái đất (FAO and UNEP, 1983) [18].
Đất là mặt tươi xốp của lục địa có khả năng tạo ra sản phẩm cây trồng.
Đất là vật thể tự nhiên có độ phì nhiêu, có khả năng hình thành năng suất cây
trồng. Điều đó làm cho đất trở thành tài nguyên quý giá, tư liệu sản xuất, nơi
nuôi sống, tồn tại và tái sinh hàng loạt thế hệ kế tiếp nhau. Đất là nơi lưu tồn,
bảo vệ tính đa dạng sinh học mà trước hết bảo vệ tính đa dạng giới thực vật.
Trong một vài thập kỷ gần đây, khi dân số thế giới đã trở nên ngày một
đông hơn, đặc biệt là các nước đang phát triển, thì vấn đề đảm bảo lương thực
thực phẩm cho sự gia tăng dân số đã trở thành sức ép ngày càng mạnh mẽ đối
với đất đai. Những diện tích đất đai canh tác thích hợp cho sản xuất nông
nghiệp ngày càng cạn kiệt, do đó con người cần phải mở rộng thêm diện tích
canh tác trên các vùng đất không thích hợp cho sản xuất. Hậu quả là đất đã

gây ra các quá trình thoái hóa, rửa trôi và phá hoại đất một cách nghiêm trọng
Đoàn Công Quỳ,2000) [9].
Hiện tại cũng như tương lai, trong sản xuất nông nghiệp, đất đai vẫn là
điều kiện vật chất cho sự tồn tại của ngành sản xuất này, là yếu tố tích cực
quan trọng trong sản xuất. Quá trình sản xuất nông nghiệp liên quan trực tiếp
với đất, với độ phì nhiêu của đất cũng như các sinh vật liên quan tới môi
trường đất. Xã hội ngày càng phát triển với trình độ khoa học ngày càng cao
thì con người ngày càng tìm ra những phương thức sử dụng và khai thác tiềm
năng của đất trở nên đa dạng và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó việc khai thác và
3
sử dụng đất còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng, từng
khu vực.
Đất có nhiều chức năng đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của xã
hội loài người được thể hiện ở các mặt như sau: sản xuất, môi trường, sự
sống, cân bằng sinh thái, tàng trữ, dự trữ các nguyên vật liệu, không gian sự
sống, bảo tồn, bảo tàng, vật mang sự sống, phân dị lãnh thổ. Đất đai là tài
nguyên thiên nhiên không tái tạo được và vô cùng quý giá, đất được xác định
vừa là tư liệu sản xuất vừa là đối tượng sản xuất trong sản xuất nông nghiệp
(Lê Quang Chút, Nguyễn Tuấn Anh, 1994) [5].
Trong sản xuấ nông nghiệp đất là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất
và là điều kiện vật chất, cơ sở không gian, đồng thời vừa là đối tượng lao
động vừa là công cụ lao động. Còn quá trình sản xuất nông nghiệp luôn có
quan hệ chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học của đất (Lê Thái Bạt
và cs, 2003) [2].
Theo kết quả nghiên cứu của FAO, phần lớn diện tích đất canh tác nằm
ở các nước đang phát triển và trong tương lai vẫn còn có khả năng mở rộng để
đảm bảo an toàn lương thực và thực phẩm của con người. Vì vậy, để thực
hiện mục tiêu trong tương lai là giảm một nửa số lượng con người trên thế
giới đang thiếu lương thực hiện nay, việc sử dụng đất canh tác có hiệu quả
cao và bền vững là mục tiêu hàng đầu không chỉ đối với các nước đang phát

triển mà đối với cả thế giới (FAO, 1990) [20].
Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp điều hòa các mối quan hệ người –
đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác với môi trường. Căn
cứ vào nhu cầu của thị trường sẽ phát hiện, quyết định phương hướng chung
và mục tiêu sử dụng hợp lý đặc biệt là tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công
dụng của đất đai nhằm đạt tới hiệu ích của sinh thái, kinh tế và xã hội cao
nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân loại.
Trong mỗi phương thức sản xuất nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của
4
sản xuất và đời sống con người phải căn cứ vào các thuộc tính tự nhiên của
đất đai.
Nền kinh tế xã hội của thế giới ngày càng phát triển mạnh cùng với sự
bùng nổ của dân số đã làm cho quan hệ giữa con người và đất ngày càng căng
thẳng. Đồng thời những sai lầm liên tục của con người trong quá trình sử
dụng đất canh tác (có ý thức và vô ý thức) dẫn đến hủy hoại môi trường đất,
một số công năng nào đó của môi trường đất bị yếu đi, vấn đề sử dụng đất
càng trở nên quan trọng và mang tính toàn cầu. Với sự phát triển không
ngừng của sản xuất, công năng của đất cần được nâng cao theo hướng đa
dạng nhiều nấc, để truyền lại cho thế hệ sau.
Ở Việt Nam, những cuộc khai hoang mở rộng diện tích, lên núi xuống
biển, từ Bắc vào Nam, làm tăng diện tích đất nông nghiệp nhưng cũng làm
tăng diện tích đất trống đồi núi trọc gây xói mòn rửa trôi và làm hoang mạc
hóa thêm một số vùng. Những kết quả to lớn về việc cải tạo đất bạc màu, đất
phèn, đất mặn, đất chiêm trũng…đã làm thay đổi môi trường đất. Mặt thành
công là đưa năng suất và sản lượng lương thực và nông nghiệp nói chung lên
cao góp phần phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao độ phì nhiêu
của đất, mặt khác cũng làm giảm sút tính đa dạng dồi dào sẵn có của một số
loại đất (Đào Châu Thu, Nguyễn Khang, 19998) [11].
Tóm lại, hoạt động sản xuất nông nghiệp của con người đã diễn ra hết
sức đa dạng trên nhiều vùng đất khác nhau. Vì vậy, khái niệm sử dụng đất thể

hiện nhiều hoạt động sản xuất và quản lý đất đai theo nhiều vùng đất xác định
theo nhu cầu và mục đích sử dụng của con người. Đất đai trong sản xuất nông
nghiệp chỉ được gọi là sử dụng bền vững trên cơ sở duy trì các chức năng
chính của đất là đảm bảo khả năng sản xuất của cây trồng một cách ổn định,
không làm suy giảm về chất lượng tài nguyên đất theo thời gian và việc sử
dụng đất không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người và
sinh vật
5
2.1.2. Khái quát đất canh tác
Theo luật đất đai, đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử
dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản,
lâm nghiệp hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp và các loại đất khác
sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp mà Nhà nước đã quy định (Luật
Đất đại , 2003) [17].
Như vậy, trong tập quán truyền thống sản xuất nông nghiệp đất canh tác
(đất trồng cây hàng năm) là một bộ phận đất nông nghiệp được sử dụng trồng
cây hàng năm. Đất canh tác là đất có tiêu chuẩn về chất lượng nhất định, được
thường xuyên cày bừa, cuốc xới để trồng cây có chu kỳ sản xuất dưới 1 năm.
Đất canh tác chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích đất đai nông nghiệp
và nó có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp bởi
trong quá trình sản xuất nông nghiệp, phần lớn các sản phẩm của ngành đều
sản xuất ra lương thực, thực phẩm cung cấp cho nhu cầu ăn uống hàng ngày
của con người, động vật…, đều được sản xuất trên đất canh tác.
Theo báo cáo của World Bank (1992), hàng năm mức sản xuất so với
yêu cầu sử dụng lương thực vẫn thiếu hụt từ 150 – 200 triệu tấn, trong khi đó
vẫn có từ 6 – 7 triệu ha đất nông nghiệp bị hoang hóa do xói mòn. Trong 1200
triệu ha đất bị thoái hóa có tới 544 triệu ha đất bị mất khả năng sản xuất do sử
dụng không hợp lý [20].
Theo số liệu thống kê năm 2003 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt
Nam có tổng diện tích tự nhiên là 32,931 triệu ha, trong đó đất canh tác chỉ có

5,958 triệu ha, bình quân diện tích đất canh tác trêu đầu người là 736,5
m
2
/người. So sánh với 10 nước trong khu vực Đông Nam Á, tổng diện tích tự
nhiên của Việt Nam xếp hàng thứ 4, nhưng dân số lại xếp hàng thứ 2 nên bình
quân diện tích tự nhiên/đầu người của Việt Nam đứng ở vị trí thứ 9 trong khu
vực (dẫn theo Đỗ Nguyên Hải, 2000) [6]. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử
6
dụng đất nhằm thỏa mãn nhu cầu cho xã hội về nông sản phẩm đang trở thành
một trong những mối quan tâm lớn nhất của người quản lý và sử dụng đất [6].
Để đáp ứng nhu cầu về lương thực và thực phẩm của con người ở hiện
tại và cả tương lai, con người đã tìm mọi cách để khai thác nguồn tài nguyên
đất đai. Mục đích của con người trong quá trình sử dụng đất là sử dụng triệt
để, tiếc kiệm và có khoa học, nhằm không những khai thác mà còn bảo vệ
nguồn tài nguyên đất đai, nhưng trong thực tế quá trình sử dụng đất lâu dài do
thiếu hiểu biết về khoa học kỹ thuật, nhận thức về sử dụng đất chưa được đầy
đủ đã dẫn đến nhiều vùng đất bị khai thác quá mức đã và đang bị thoái hóa
nghiêm trọng. Hậu quả là đã làm cho quá trình rửa trôi, xói mòn đất, quá trình
thoái hóa đất diễn ra mạnh mẽ. Mặt khác, quá trình thâm canh tăng năng suất
cây trồng trên một đơn vị canh tác, với hệ số sử dụng đất từ 2 đến 3 lần trong
năm, cây trồng đã lấy đi một khối lượng lớn các chất dinh dưỡng từ đất làm
đất ngày càng bị giảm đi độ phì nhiêu. Các loại hình sử dụng đất không hợp
lý, công thức luân canh không phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng là nguyên
nhân làm cho đất bị suy thoái. Vì vậy, để bảo vệ nguồn tài nguyên đất cần
phải sử dụng một cách hợp lý và khoa học (Tôn Thất Chiểu, 1993) [4].
Ngoài ra, trong xu thế phát triển của nền nông nghiệp hiện đại đã kéo
theo sự ô nhiễm hóa chất trong đất đặc biệt là đất canh tác, nước và không
khí, đó là nguyên nhân chính gây suy thoái môi trường nghiêm trọng. Cho
nên việc sử dụng đất canh tác theo đúng các nguyên tắc và các quan điểm là
hết sức quan trọng.

2.1.3. Nguyên tắc sử dụng đất
Tại điều 11 của Luật đất đai 2003 [17], quy định về việc sử dụng đất
phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
- Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và mục đích sử dụng đất.
- Tiếc kiệm có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi
ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh.
7
- Sử dụng đất bền vững nghĩa là duy trì nâng cao sản lượng cây trồng,
giảm tối thiểu mức rủi ro trong sản xuất, bảo vệ được tiềm năng của đất. Việc
sử dụng đất đó có thể tồn tại về mặt kinh tế và xã hội [17].
Tại Việt Nam (theo Đào Châu Thu và Nguyễn Khang 1998) [11], thì sử
dụng đất bền vững cần dựa vào những nguyên tắc trên và thể hiện ở 3 nguyên
tắc sau:
+ Bền vững về mặt kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và được
thị trường chấp nhận.
+ Bền vững về mặt môi trường: Loại hình sử dụng đất bảo vệ được đất
đai, ngăn chặn sự suy thoái đất, bảo vệ môi trường tự nhiên.
+ Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được nhiều công lao động, đảm bảo
đời sống người dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển[11].
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn, xã hội càng phát triển nhu cầu sử
dụng đất của con người càng lớn, nhất là đất canh tác ngày càng bị thu hẹp do
bị trưng dụng sang mục đích khác như đô thị hóa, mở rộng khu công
nghiệp Vì vậy, sử dụng đất canh tác với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế
xã hội trên cơ sở hợp lý, tiếc kiệm, đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm,
tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu là chiến lược
của mỗi quốc gia. Sử dụng đất canh tác trong sản xuất đất nông nghiệp trên cơ
sở cân nhắc những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tận dụng được tối đa lợi
thế về điều kiện sinh thái và không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là
những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho khai thác sử dụng bền
vững tài nguyên đất đai. Do đó, đất nông nghiệp nói chung và đất canh tác nói

riêng cần được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý”. Mặt khác, phải
có các quan điểm đúng đắn theo xu hướng tiến bộ phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể, làm cơ sở thực hiện sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả
kinh tế xã hội cao (Vũ Dương Thụy, 2000) [13].
8
2.1.4. Quan điểm sử dụng đất bền vững
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý báu không chỉ trong hiện tại mà cả
tương lai. Khi dân số trên trái đất còn ít thì diện tích đất luôn đáp ứng một
cách dễ dàng nhu cầu của con người và con người cũng ít tác động lớn đến tài
nguyên quý báu này. Nhưng trong vài thập niên gần đây, dân số thế giới tăng
nhanh kéo theo những nhu cầu về lương thực, thực phẩm tạo nên sức ép vô
cùng lớn đến vấn đề sử dụng đất. Diện tích đất đai màu mỡ ngày càng bị thu
hẹp trước những nhu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa ,dẫn đến con người
phải tìm cách khai thác những vùng đất ít bị thích hợp cho sản xuất và hậu
quả là quá trình này đã làm cho một số diện tích lớn đất đai bị thoái hóa, rửa
trôi, xói mòn nghiêm trọng làm cho một số diện tích lớn đất đai bị suy kiệt,
ngoài ra còn ảnh hưởng đến môi trường sống của con người và nhiều loại
động thực vật khác. Theo kết quả của UNDP và Trung tâm thông tin nghiên
cứu đất Quốc tế ISRIC đã cho thấy: Cả thế giới có khoảng 13,4 tỷ ha đất thì
trong đó có 2 tỷ ha đất bị thoái hóa ở mức độ khác nhau trong đó Châu Á và
Châu phi có 1,24 tỷ ha chiếm 62% tổng diện tích đất bị suy thoái của thế giới
(Đỗ Nguyên Hải – 2000) [6]. Những số liệu trên cho thấy sự thoái hóa đất đai
hầu hết tập trung vào các vùng, quốc gia đang phát triển, nơi mà nhu cầu
lương thực, thực phẩm còn thiếu hụt lớn [6].
Đất đai có những tác dụng to lớn đối với hệ sinh thái nói chung và cuộc
sống của con người nói riêng. Theo E. R De Kipe và B. F Warkentin (1998),
thì đất có 5 chức năng chính:
+ Duy trì vòng tuần hoàn sinh hóa và địa hóa học.
+ Phân phối nước.
+ Dự trữ và phân phối vật chất.

+ Tính đệm.
+ Phân phối năng lượng.
9
Những chức năng trên đảm bảo cho khả năng điều chỉnh sự cân bằng
của hệ sinh thái tự nhiên trước những thay đổi trong quá trình sử dụng đất đai
con người đã không chỉ tác động vào đất đai mà còn tác động vào khí quyển,
tạo ra ngày một nhiều lương thực, thực phẩm hơn và hậu quả là đất đai và các
nhân tố tự nhiên khác bị suy thoái ngày một theo chiều hướng xấu đi. Vì vậy,
cần phải có những chiến lược về sử dụng đất đai hiện tại và tương lai [21].
“Sử dụng đất bền vững” bao gồm các giải pháp sử dụng đất một cách hiệu
quả và bền vững luôn là mong muốn của con người trong suốt thời gian lâu
dài. Nhiều nhà khoa học và các nhà tổ chức quốc tế đã đi sâu nghiên cứu vấn
đề sử dụng đất bền vững trên nhiều vùng trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Việc sử dụng đất bền vững là sử dụng với tất cả các đặc trưng vật lý, hóa học,
sinh học có ảnh hưởng đến khả năng sử dụng đất.
Để duy trì được sự bền vững của đất đai, Smyth A. J và Julian Dumanski
(1993) [21], đã xác định 5 yếu tố liên quan đến sử dụng đất bền vững là:
+ Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất
+ Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất
+ Bảo về tiềm năng các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự thoái
hóa chất lượng đất nước.
+ Khả thi về mặt kinh tế
+ Được xã hội chấp nhận.
Như vậy, sử dụng đất bền vững không chỉ thuần túy về mặt tự nhiên mà
còn cả về mặt môi trường, lợi ích kinh tế và xã hội [20].
2.2. Nghiên cứu về hiệu quả sử dụng đất và đánh giá về
hiệu quả sử dụng đất
2.2.1. Hiệu quả sử dụng đất
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể
là quy luật tiếc kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian

lao động theo các ngành sản xuất khau. Theo các khoa học kinh tế Samuel –
10
Nordhuas “Hiệu quả có nghĩa là không lãng phí”. Nghiên cứu hiệu quả sản
xuất phải xét đến chi phí cơ hội. “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không
thể tăng số lượng một loạt hàng hóa này mà không thể cắt giảm số lượng một
loạt hàng hóa này mà không thể cắt giảm số lượng một loạt hàng hóa khác”
(dẫn theo Vũ Thị Phương Thụy, 2000) [13].
Hiệu quả (Efficiency) là mối quan hệ giữa các đầu vào nhân tố khan
hiếm và sản lượng hàng hóa và dịch vụ, mối quan hệ này được thể hiện bằng
hiện vật hoặc giá trị. Ở phạm vi rộng, khái niệm hiệu quả được dùng làm tiêu
chuẩn để đánh giá xem thị trường của một nền kinh tế quốc gia nào đó phân
bổ nguồn lực tốt nhất đến mức nào.
Nói một cách chung nhất thì hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu của
việc mang lại.
Kết quả là đại lượng vật chất tạo ra do mục đích của con người được
biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do tính chất mâu thuẫn giữa
nguồn tài nguyên hữu hạn và nhu cầu tăng lên của con người mà ta phải xem
xét kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra là bao nhiêu? Có đưa
lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì thế khi đánh giá kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm đó. Đánh giá chất lượng hoạt động sản
xuất kinh doanh là nội dung đánh giá của hiệu quả (Lê Thái Bạt, 1995) [1].
2.2.2 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Ngày nay nhiều nhà khoa học cho rằng: Xác định đúng khái niệm, bản
chất hiệu quả sử dụng đất phải xuất phát từ luận điểm triết học của Mác và
những nhận thức lý luận của lý thuyết hệ thống (Đào Châu Thu, Nguyễn
Khang, 1988) [11], nghĩa là hiệu quả phải được xem xét trên 3 mặt: hiệu quả
kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường [11].
• Hiệu quả kinh tế
Theo các nhà khoa học Đức (stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman),
hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiếc kiệm chi phí trong một đơn vị

11
kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích do hoạt động sản xuất trong một
thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội [13].
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế. Mục đích sản xuất kinh tế - xã hội là đáp ứng nhu cầu
ngày một càng cao về mặt vật chất tinh thần của toàn xã hội, khi nguồn lực
sản xuất xã hội ngày càng trở nên khan hiếm. Yêu cầu của công tác quản lý
kinh tế đòi hỏi phải nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế làm xuất hiện
phạm trù hiệu quả kinh tế [13].
Hiệu quả kinh tế là phạm trù hiệu quả chung nhất, nó liên quan trực tiếp
tới nền sản xuất hàng hóa và tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác.
Vì thế hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được 3 vấn đề:
- Một là, mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật “tiếc kiệm
thời gian”.
- Hai là, hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm lý thuyết hệ
thống.
- Ba là, hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực có sẵn phục vụ
cho lợi ích con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa kết quả đạt
kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí
bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Một tương quan đó cần xét cả
về phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt
chẽ giữa 2 đại lượng đó.
Hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác là một bộ phận của hiệu quả kinh
tế sản xuất nói chung. Hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác cao mới góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất nông nghiệp. Đây là
một chỉ tiêu kinh tế phản ánh sức sản xuất của đất trên cơ sở đất canh tác hiện
12

trạng dưới tác động của con người và những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội khác. Hiệu quả kinh tế thể hiện sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi
phí bỏ ra, nhưng do sản xuất nông nghiệp có những nét thù riêng so với ngành
sản xuất khác. Cho nên khái niệm về hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác
cũng có những đặc thù riêng. “Bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất canh
tác là một đơn vị diện tích nhất định sản xuất ra một đại lượng của cải, vật
chất nhiều nhất với một lượng đầu tư chi phí thấp nhất nhằm đáp ứng ngày
càng tăng về vật chất của xã hội” [13].
Để đạt được mục tiêu kinh tế thì người sản xuất phải có biện pháp sử
dụng có hiệu quả các yếu tố của quá trình sản xuất mà đất đai là một trong
những yếu tố quan trọng. Vì vậy, mỗi vùng sản xuất cần phân tích kết quả sản
xuất hàng năm để đánh giá những loại đất nào đã sử dụng tốt, có hiệu quả phù
hợp với điều kiện hiện tại và ngược lại. Đối với loại hình sử dụng đất chưa
phù hợp, hiệu quả thấp cần phải tìm ra biện pháp kỹ thuật khắc phục để đạt
hiệu quả cao hơn trong tương lai.
• Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã
hội và tổng chi phí bỏ ra [13]. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối
quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là một phạm trù
thống nhất.
Đối với toàn bộ xã hội thì tiêu chuẩn đánh giá là khả năng thỏa mãn nhu
cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội bằng các vật chất sản xuất ra, trong nền
kinh tế thị trường còn đỏi hỏi yếu tố chất lượng, giá thành thấp để tăng khả
năng cạnh tranh [13].
Theo Nguyễn Duy Tính (1995) [14], hiệu quả về mặt xã hội sử dụng đất
canh tác chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị
diện tích đất [14].
• Hiệu quả môi trường
13
Để có một nền nông nghiệp bền vững, trước hết phải quan tâm đến vấn đề

môi trường. Môi trường trong nông nghiệp bao gồm các biện pháp làm đất,
bón phân, tưới tiêu nước, nếu như sự phối hợp các khâu này trong canh tác
không hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng ô nhiễm đất bởi các chất hóa học, đất bị
chua, mặn hoặc phèn hóa, làm giảm độ phì nhiêu của đất, ảnh hưởng trực tiếp
đến năng suất, phẩm chất nông sản và suy thoái môi trường.
Hiệu quả môi trường là môi trường được sản sinh do tác động của sinh
vật , hóa học, vật lý…, chịu ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố môi trường
của các loại vật chất môi trường. Hiệu quả môi trường phân theo nguyên nhân
trên gồm: Hiệu quả hóa học môi trường, hiệu quả vật lý môi trường, hiệu quả
sinh vật môi trường. Hiệu quả sinh vật môi trường là hiệu quả môi trường do
các phản ứng hóa học giữ các vật chất chịu ảnh hưởng của điều kiện môi
trường dẫn đến. Hiệu quả vật lý môi trường là hiệu quả môi trường do tác
động vật lý dấn đến (Đại từ điển kinh tế thị trường).
Để đánh giá một phương thức canh tác nào đó là tiến bộ, đi đôi với việc
xem xét hiệu quả kinh tế còn phải đánh giá chung về hiệu quả môi trường.
Hiệu quả môi trường của một hệ thống canh tác trước hết phải phục vụ mục
tiêu phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Đó là:
- Bảo vệ làm tăng độ phì nhiêu của đất, cải tạo và phục hồi những loại
đát nghèo dinh dưỡng, đất đã bị suy thoái do kỹ thuật canh tác gây nên, duy
trì và nâng cao tiềm năng sinh học của các loại đất còn chưa bị suy thoái. Các
tiêu thức dùng để đahs giá gồm:
+ Bón phân và giữ gìn đất; việc cung cấp lại lượng mùn mất đi hàng
năm của đất là rất cần thiết để giữ độ phì nhiêu của đất.
+ Hạn chế dùng hóa chất trong nông nghiệp.
+ Trồng cây họ đậu, bao gồm các cây họ đâu ngắn ngày, dài ngày, cây
phân xanh, cây đa tác dụng bằng nhiều hình thức: Trồng luân canh, trồng xen,
trồng dọc đường ranh giới.
14
+ Tăng vụ,, tăng hệ số quay vòng của đất để tăng cường sự che phủ đất.
- Tính đan dạng sinh học, bảo vệ nguồn gen của các động vật, thực vật

hoang dã dùng để lai tạo thành các giồng chịu tốt với sâu bệnh và các điều
kiện ngoại cảnh bất thường.
- Tính đa dạng giữa các hệ phụ trồng trọt, chăn nuôi, ngành nghề phụ,
bảo quản chế biến sau thu hoạch và tiêu thụ hàng hóa;
- Phát triển phương thức nông lâm kết hợ, xây dựng mô hình VAC;
- Bảo vệ và duy trì nguồn tài nguyên nước bằng việc trồng rừng, xóa bỏ
đất trống đồi núi trọc, trồng cây lâu năm, kết hợp nông lâm với nuôi trồng
thủy sản…[5]
2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất canh tác
2.2.3.1 Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết…) có ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất nông nghiệp (Nguyễn Duy Tính, 1995) [14]. Bởi vì, các yếu
tố của điều kiện tự nhiên là tài nguyên của sinh vật tạo nên sinh khối. Do vậy,
cần đánh giá đung điều kiện tự nhiên để trên cơ sở đó xác định cây trồng phù
hợp và định hướng đầu tư thâm canh đúng [14].
Theo C.Mac, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I.
Theo N. Borlang, người được giải Nobel về giải quyết lương thực cho các nước
phát tiển cho rằng: Yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây trồng ở tầm
cỡ thế giới trong các nước phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ phì
nhiêu của đất (dẫn theo Vũ Thị Thu Phương Thụy, 2000) [13].
Điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ ảnh hưởng không chỉ đến quá trình sản
xuất mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế. Vì vậy, phải dựa vào
điều kiện tự nhiên để thúc đẩy quá trình sản xuất nông lâm nghiệp.
15
2.2.3.2 Nhóm yếu tố kinh tế, kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là các tác động của con người vào đất đai,
cây trồng nhằm tạo nên sự hài hòa giũa các yếu tố của các quá trình sản xuất
để hình thành, phân bổ và tích lũy năng suất kinh tế. Đây là những tác
độngthể hiện những dự báo thông minh và sắc sảo. Lựa chọn các tác động kỹ
thuật, lựa chọn chugnr loại và cách sử dụng các đầu vào phù hợp với các quy

luật tự nhiên của sinh vật nhằm đặt ra các mục tiêu. Theo Frank Ellis và
Douglass C. North [13], ở các nước ph át triển, khi có tác động tích cực của
kỹ thuật, giống mới, thủy lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu
mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất
tiến bộ là đảm bảo vật chất cho kinh tế nôngnghiệp tăng trưởng nhanh. Cho
đến giữa thế kỷ 21, trong nông nghiệp Việt Nam, qua trình kỹ thuật có thể
góp phần đến 30% của năng suất kinh tế [13].
Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất
canh tác.
2.2.3.3 Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức
Nhóm các yếu tố này bao gồm:
a) Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất:
Thực hiện phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa vào điều kiện tự nhiên,
trên cơ sở phân tích, dự báo và đánh giá nhu cầu của thị trường, gần với quy
hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cầu hạ tầng, phát triển nguồn nhân
lực và các thể chế luật pháp về bảo vệ tài nguyên môi trường. Đó là cơ sở để
phát triển hệ thống cây trồng và khai thác đất một cách đầy đủ, hợp lí. Đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành tập trung hóa,
chuyên môn hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác
(Bùi Quang Toản, 1986) [12].
b) Hình thức tổ chức sản xuất:
16
Các hình thức tổ chức sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức
khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Vì thế, phát huy thế
mạnh của các loại hình tổ chức sử dụng đất trong từng cơ sở sản xuất là rất
cần thiết. Muốn vậy, cần phải thực hiện đa dạng hóa các hình thức hợp tác
trong nông nghiệp, xác lập một hệ thống tổ chức sản xuất phù hợp và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa cách hình thức đó.
2.2.2.4 Nhóm các yếu tố xã hội

Nhóm này gồm:
- Hệ thống thị trường và sự hình thành thị trường đất nông nghiệp, thị
trường nông sản phẩm. Theo Nguyễn Duy Tính (1995) [14], 3 yếu tố chủ yếu
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng canh tác là: Năng suất cây trồng, hệ số quan
vòng đất và thị trường cung cấp đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra;
- Hệ thống chính sách (chính sách đất đai, chính sách điều chỉnh cơ cấu
đầu tư, hỗ trợ…);
- Sự ổn định chính trị - xã hội và các chính sách khuyến khích cơ cấu
đầu tư của chủ thể kinh doanh, trình độ đầu tư [14];
- Theo D.C.North, sự thay đổi công nghệ và sự thay đổi hợp lý các th
ểchế là những yếu tố then chốt cho sự tiến triển của kinh tế xã hội [13].
Trong điều kiện kinh tế - xã hội ổn định thì hiệu quả kinh tế sẽ đạt cao,
cho dùmột số yếu tố có thể không hoàn thiện. Mặt khác, các yêu tố khác nhau
đều hoàn thiện mà điều kiện kinh tế - xã hội không ổn định thì hiệu quả kinh
tế đạt được là không cao.
2.2.3.5 Nhân tố con người
Con người cóc vai trò trong quá tình sản xuất áp dụng các chuyể giao
tinêns bộ khoa học kỹ thuật vao sản xuất, chính sự áp dụng này đã làm ảnh
hưỡng đến kết quả và hiệu quả cac smô hình canh tác nông nghiệp.
17
2.2.3.6 Nhân tố vốn
Vốn là cần thiết và quan trọng đối với hộ nông dân nhằm đầu tư cho sản
xuất, thâm canh tăng năng suất nông – lâm nghiệp. Nếu thiếu vốn hiệu quả sử
dụng đất sẽ không được hoàn thiện. Vì vậy, vốn là nhân tố hết sức quan trọng
trong quá trình sản xuất (Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc Bình, 2000) [10].
2.2.4 Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác
Tiêu chuẩn cơ bản và tổng quát khi đánh giá hiệu quả là mức độ đáp
ứng nhu cuầ xã hội và sự tiết kiệm lớn nhất về chi phí nguồn tài nguyên, sự
ổn định lâu dài và hiệu quả.
Theo quan điểm của ban nghiên cứu hiệu quả của Hội đồng nghiên cứu

lực lượng sản xuất của Liên Xô thì chỉ cóc một tiêu chuẩn duy nhất, xuất phát
từ giá tị lao động mà Mác và Ăngen là tăng năng suất lao động hay tiết kiệm
chi phí sản xuất [13].
Trên cơ sở đó, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác có thể
xem xét ở các mặt:
- Đối với đất nông nghiệp, tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là mực đạt
được các mục tiêu xã hội, môi trường do xã hội đặt ra. Cụ thể như tăng năng
suất cây trồng,vật nuôi, tăng chất lượng và tổng sản phẩm hướng tới thỏa mãn
tốt hơn nhu cầu nông sản cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời
đáp ứng yêu cầu bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.
- Sử dụng đất phải đảm bảo cự tiểu hóa chi phí các yếu tố đầu vào theo
nguyên tắc tiết kiệm khi cần sả xuất ra một lượng nông sản nhất định hoặc
thực hiện cực đại hóa lượng nông sản khi có một lượng nhất địn đất nông
nghiệp và các yếu tố đầu và khác [13].
- Hiệu quả sử dụng đất canh tác có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
ngành nông nghiệp, đến hệ thống môi trường sinh thái nông nghiệp, đến
những người sống bằng nông nghiệp. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất
canh tác phải theo quan điểm sử dụng đất bền vững hướng vào 3 tiêu chí sau:
18
Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt xã
hội. Nghĩa là sự thay đổi về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất nhằm đảm bảo
thỏa mãn liên tục các nhu cầu con người thuộc các thế hệ hôm nay và mai sau
(FAO, 1990) [20].
- Quá trình sản xuất trên đất canh tác phải sửi dụng nhiều yếu tố đầu
vào kinh tế, Vì thế, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác phải được xác
định bằng kết quả thu được trên một đơn vị diện tích, cụ thể thường là một ha,
tính trên một đồng chi phí, một lao động đầu tư.
- Trên đất canh tác có thể bố trí cây trồng, các hệ thống luân canh, do
đó cần phải đánh giá hiệu quả từng cây trồng, từng hệ thống luân canh.
- Thâm canh là một biện pháp sử dụng đất canh tác theo chiều sâu, tác động

đến hiệu quả sử dụng đất canht ác trước mắt và lâu dài. Vì thế, cần phải nghiên
cứu hiệu quả của việc sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, nghiên cứu ảnh
hưởng của việc tăng đầu tư thâm canh đến quá trình sử dụng đất.
- Phát triển nông nghiệp chỉ có thể thích hợp khi được con người biết
cách làm cho môi trường cùng phát triển. Do đó, khi đánh giá hiệu quả sử
dụng đất canh tác cần quan tâm đến những ảnh hưởng của sản xuất nông
nghiệp đến môi trường xung quanh (Nguyễn Khang, Phạm Dương Ứng
(1995) [7].
- Hoạt động sản xuất nông nghiệp mang tính xã hội sâu sắc. Vì vậy, khi
đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác cần quan tâm đến những tác động của
sản xuất nông nghiệp đến các vấn đề xã hội như: Giải quyết việc làm, tăng thu
nhập, nâng cao trình độ dân trí tỏng nông thôn…
2.2.5 Cơ sở và nguyên tắc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng
đất canh tác
- Cơ sở lựa chọn cá tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng đất:
+ Mục tiêu nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác;
+ Nhu cầu của địa phương về thay đổi loại hình sử dụng đất canh tác;
19
+ Các khả năng về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và các tiến bộ
khoa học kỹ thuật mới được đề xuất cho các thay đổi sử dụng đất đó;
- Nguyên tắc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất:
+ Các chỉ tiêu phải có tính thống nhất, tính toàn diện và tính hệ thống.
Thể hiện rõ ở nội dung và phương pháp tính phải phù hợp với hệ thống chỉ
tiêu kinh tế của nền kinh tế quốc dân n óichung và nên công nghiệp nó riêng.
Các chỉ tiêu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải bảo đảm tính so sánh có
thang bậc (Nguyễn Duy Tính, 1995) [14].
+ Đề đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các tiêu chí chính,
các chỉ tiêu cơ bản, biểu hiện mặt cốt yếu của hiệu quả theo quan điểm và tiêu
chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu chính, làm cho nội
dung kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn [14].

+ Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và
đung đắn nhất theo tiêu chuẩn và quan điểm đã vạch ra ở trên để soi sáng sự
lựa chọn các giải pháp tối ưu và phải gắn với cơ chế quản lý kinh tế, phù hợp
với các đặc điểm và trình độ hiện tại của nền kinh tế.
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông
nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối
ngoại, nhất là các sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu.
+ Các chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn và tính khoa học và phải có
tác dụng kích thích sản xuất phát triển. Tính thực tế thể hiện ở các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả kinh tế thích hợp với điều kiện cụ thể của ngành, đối tượng
nghiên cứu và tình độ kinh tế của một đất nước. Hơn nữa, hệ thống chỉ tiêu
phải thích ứng với xu thế phát triển của thế giới. Từ đó, có những đánh giá
đúng và có ý nghĩa thúc đẩy sản suất phát triển đạt hiệu quả kinh tế cao và
tăng cường mức độ áp dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất.
2.2.6 Các nghiên cứu về nâng cao hiệu quả sử dụng đất
* Các nghiên cứu trên thế giới:
20
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu
trước mắt và lâu dài là vấn đề quan trọng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoahọc trên thế giới. Các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu vào việc
đánh giá hiệu quả đối với từng loại cây trồng, từng giống cây trồng trên mỗi
loại đất, để từ đó có thể bố trí, sắp xếp lại cơ cấu cay trồng phù hợp nhằm
khai thác tốt hơn lợi thế so sánh của vùng.
Hằng năm, các Viện nghiên cứu nông nghiệp các nước trên thế giới
cũng đưa ra nhiều giống cây trồng mới, những công thưc luân canh mới,
những kiểu sử dụng đất mới, giúp cho việc tọa thành một số hình thức sử
dụng đất mới ngày càng có hiệu quả cao hơn trước. Viện nghiên cứu Lúa
quốc tế IRRI đã có nhiều thành tựu về lĩnh vực lúa giống và hệ thống cây
trồng trên đất canh tác. Tạp chí Farrming Japan của Nhật hàng tháng đã giới
thiệu nhiều công trình nghiên cứu cảu ác nước trên thế giới về các hình thức

sử dụng đất, đặc biệt là của Nhật (Đào Châu Thu, Nguyễn Khang, 1998) [11].
Nhà khoa học Nhật bản, Otak Tânkad đã nêu lên vấn đề cơ bản về sự
hình thành của sinh thái đồng ruộng và từ đó cho rằng, yếu tố quyết định của
hệ thống nông nghiệp là sự thay đổi về kỹ thuật, kinh tế, xã hội.
Các nhà khoa học Nhật bản đá hệ thống tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả
sử dụng đất đai thông qua hệ thống cây trồng trên đất canh tác: Là sự phối
hợp giữa các loại cây trồng và gia súc, các phương pháp trồng trọt và chăn
nuôi, cường độ lao động, vốn đầu tư, tổ chức sản xuất, sản phẩm làm ra, tính
chất hàng hóa của sản phẩm.
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, việc khai thác và sử dụng đất
đai là yếu tố quyết định để phát triển kinh tế xã hội nông thôn toàn diện.
Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các chính sách quả lý và sử dụng, thiết lập
hệ thống trác nhiệm và tính chủ động sáng tạo của người nông dân trong sản
xuất. Thực hiện chủ trương “li nông bất li hương” đã thúc đẩy phát triển kinh
21
tế xã hội nông thôn phát triển toàn diện và nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp [13].
Ở chính phủ Thái Lan, Ủy ban chính sách quốc gia đã có nhiều quy chế
mới, ngoài hợp đồng của tư nhân thuê đất dài hạn, cấm trồng những cây
không thích hợp trên từng loại đất nhằm quản lý và bảo vệ đất tốt hơn [19].
Một trong những chính sách tập trung vào hỗ trợ phát triển nông nghiệp quan
trọng nhất là đầu tư và sản xuất nông nghiệp.
Ở Mỹ, tổng số tiền trợ cấp là 66.2 tỷ USD, chiếm 28.3% trong tổng tu
nhập của nông nghiệp. Canada tương ứng là 5.7 tỷ và 39.1%, Australia 1.7 tỷ
và 14.5%, Nhật Bản là 42.3 tỷ và 68.9%.
*Các nghiên cứu ở Việt Nam:
Những năm qua, Việt Nam cũng đã quan tâm giải quyết tốt các vấn đề kỹ
thuật và kinh tế, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp. Việc nghiên cứu và ứng dụng
tập trung vào các vấn đề như: Lai tạo các giống mới có năng suất cao, bố trí luân
canh cây trồng vật nuôi với từng loại đất, thực hiện thâm canh toàn diện, liên tục

trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm phong phú thêm
hệ thống giống về chủng loại và chất lượng, thích nghi với các vùng sinh thái,
góp phần đáng kể trong việc đưa năng suất và sả lượng nông nghiệp cả nước
tăng lên. Các công trình nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất đai của Việt Nam
của Nguyễn Khang và Phạm Dương Ứng (1995) [7], đánh giá hiện trạng sử
dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền [7].
Vùng đồng bằng sông Hồng có tổng diện tích đất nông nghiệp là
903.650 ha, chiếm 44% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, gần 90% đất
nôngnghiệp dùng để trồng trọt. Đây là trung tâm sản xuất lớn thứ 2 cả nước,
là nơi thu hút nhiều công trình khoa học góp phần định hướng cho việc xây
dựng các hệ thống cây trồng và sử dụng đất thích hợp. Trong đó phải kể đến
các công trình như: Phân vùng sinh thái nông nghiệp vùng ĐBSH của các tác
giả Cao Liêm, Đào Châu Thu, Trần Thị Tú Ngà… Nghiên cứu hệ thống nông
22
nghiệp lưu vực sông Hồng (Đào Thế Tuấn và Pascan Bergret, 1998), Đánh
giá kinh tế đất trồng lúa vùng ĐBSH (Quyền Đình Hà, 1993), Phân bón cho
lúa ngắn ngày trên đất phù sa dông Hồng (Nguyễn Như Hà, 2000)…
Để đánh giá hiệu quả một số mô hình đa dạng hóa cây trồng ĐBSH của
Vũ Năng Dũng cho thấy, ở vùng này đã xuất hiện mô hình luân canh 3 – 4
vụ/năm đạt hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt ở các vùng ven đô, vùng tưới tiêu
chủ động đã có nhiều điển hình về sử dụng đất đai hiệu quả kinh tế cao. Nhiều
loại cây trồng có giá trị kinh tế lớn đã được bố trí trong các phương thức luân
canh như cây ăn quả, hoa, cây thực phẩm…(Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc
Bình, 2000) [10].
Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành nhiều mô hình luân canh 3 -4
vụ/năm, đặc biệt ở các vùng sinh thái ven đô, tưới tiêu chủ động đã có những
điển hình về chuyển đổi hệ thống cây trồng có giá trị kinh tế cao đạt giá trị sản
lượng trung bình từ 30 – 35 triệu đồng/ha/năm (Nguyễn Duy Tính, 1995) [14].
2.5.2 Tình hình đánh giá hiệu quả sử dụng đất ở huyện Thanh Chương,
tỉnh Nghệ An

Năm 1965, Vụ quản lý ruộng đất đã điều tra khảo sát đất đai lập bản đồ đất
toàn tỉnh Nghệ An tỷ lệ 1/25.000. Đây là tài liệu cơ bản rất quan trọng phục
vụ cho nhiều ngành và nhiều đối tượng khác nhau: quy hoạch, phân hạng,
nông nghiệp…
Năm 2007, trong khuôn khổ của đề tài “ Báo cáo tổng hợp điều chỉnh quy
hoạch sử dụng đất huyện Thanh Chương đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất
giai đoạn 2008 -2010” [15] ngoài việc xây dựng bản đồ đất cho huyện, Trung
tâm kỷ thuật tài nguyên và môi trường tỉnh Nghệ An cũng đã tiến hành đánh giá
đất đai phục vụ cho quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp tới năm 2010.
Nhìn chung, công tác đánh giá hiệu quả sử dụng đất của ở huyện Thanh
Chương vẫn ở cấp vĩ mô, sơ lược. Chủ yếu các đánh giá về hiệu hiệu quả sử
23
dụng đất trong những năm gần đây đều ở các dự án quy hoạch của huyện và
của tỉnh.
Như vậy, đề tài đánh giá hiệu quả sử dụng đất ở huyện Thanh Chương là
rất cần thiết giúp cho công tác đánh giá đất của huyện được cụ thể hơn, chi
tiết hơn. Từ đó đưa ra được các biện pháp sử dụng đất hiệu quả, tiếc kiệm hơn
góp phần nâng cao mức sống của người dân trong toàn huyện.
24
III PHẠM VI ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu
các loại hình sử dụng đất nông nghiệp cà các vấn đề liên quan tới sử
dụng đất của huyện Thanh Chương Tỉnh Nghệ An
3.1.2 Phạm vi nghiên cứu
Đánh giá các loại hình sử dụng đất sản xuất nông nghiệp của huyện
Thanh Chương
3.2 Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội có liên quan đến sử

dụng đất của huyện
- Đánh giá tình hình sử dụng đất nông nghiệp của huyện Thanh Chương
- Đánh giá hiệu quả của các loại hình sử dụng đất về mặt kinh tế, xã hội
và môi trường.
- Đề xuất các loại hình sử dụng đất có hiệu quả và có triển vọng cho địa
bàn huyện
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 phương pháp điều tra thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập bản đồ hiện trạng sử dụng đất, tình hình sử dụng đất, hiện trạng
sử dụng đất và các tài liệu có liên quan tại các cơ quan trong tỉnh và địa phương
3.3.2 phương pháp điều tra thu thập số liệu sơ cấp
- Phỏng vấn nông dân theo mẫu phiếu điểu tra nông hộ
- Kiểm tra thực địa, hệ thống tưới tiêu, tình hình sản xuất thực tế…
25

×