Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Đề cương ôn tập ngoại khoa thú y thực hành new

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 51 trang )

Faculty of Veterinary Medicine
5/31/2014

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI
HẾT HỌC PHẦN
MÔN: Ngoại Khoa Thú Y Thực Hành
Học kỳ II năm học 2013-2014

Thach Van Manh
Website: sites.google.com/site/thachvanmanh
Mail:
Tel : +84983912823


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

Phần I: Kỹ thuật cơ bản trong ngoại khoa thú y thực hành
Chương 1 Cố định động vật
- Cố định gia súc là việc làm cần thiết, trước tiên của một caphẫu thuật. Cố định
gia súc giúp ngăn ngừa việc chống cự, tấn công của gia súc; tránh được những tai nạn
đáng tiếc cho cả người và gia súc; tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn được thời gian thực
hiện, giảm nguy cơ nhiễm trùng vết mổ và tránh việc mất máu nhiều khi phẫu thuật.
 Một số lưu ý khi cố định gia súc
- Khi tiếp xúc với gia súc phải có thái độ ơn hịa, thân mật nhất là đối với lồi có tính
hưng ph ấn cao. Cần tránh có những động tác thơ bạo, thái độ nóng nảy làm cho gia
súc sợ hãi gây khó khăn cho việc cố định.
- Trước khi thực hiện cố địnhgia súc cần kiểm tra kỹ lưỡng dụng cụ cố định (dây thừng,
rọ mõn, giá cố định…).
- Nơi cố định phải được dọn vệ sinh sạch sẽ, đặc biệt không có vật cứng (gạch đá, đinh


thép, dây thép gai, mảnh sành,...) nhằm tránh những tổn thương cho gia súc khi cố
định.
- Khigia súc ăn quá no, cần tránh việc vật ngã một cách thô bạo. Đối với gia súc mang
thaicần thận trọng khi cố định.
- Các thao tác cố định phải được tiến hành nhanh, chính xác. Các nút buộc cần đơn giản
mà chắc chắn, dễ giải thốtcho vật ni khi có các tai biến.Trong phẫu thuật ngoại
khoa khi cố định cần sử dụng các nút thắt “sống”để dễ dàng giải thốt gia súc khi có
tai biến xảy ra.
- Tùy theo vị trí phẫu thuật, lồi gia súc mà có các cách cố định khác nhau. Tư thế cố
định cần thuận lợi cho người thực hiện phẫu thuật.

1. Phương pháp cố định trâu, bò
a. Xoắn tai
- Để xoắn tai người ta dùng dây xoắn tai. Dây xoắn tailà nguyên nhân gây đau đớn
cho bò, làm lệch sự chú ý khi có tác nhân gây đau đớn ở những phần khác trên cơ
thể. Đây là phương pháp có hiệu quả nhưng cần chú ý tránh gây hư hại cho lớp sụn
của tai.

1


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

b. Cố định một chân trước
- Một vòng dây được buộc vào cổ chân, đầu còn lại vòng qua u vai, đưa ra phía
trướcvà đượcgiữ chặt. Nó sẽđược bỏ ra khi bò bắt đầu ngã.
c. Cố định một chân sau
- Cố định một chân sau của trâu, bò khó khăn hơn nhiều so với cố định chân

trước vì trâu, bò rất khỏe. Muốn thực hiện được, chúng ta phải dùng dây thừng buộc
vào đốt ngón chân của chúng rồikéo lên. Đầu dây thừng tự do vắt qua người con vật
hoặc thanh dọc của gióng cố định.
d. Cố định đứng trong giá
- Gía cố định được làm với 4 cột trụ chơn chặt xuống đấthoặc có bộ giá bằng sắt
hay xi măng cốt thép.Kết nối giữa bốn trụ là các gióng dọc và ngang trải đều 2 tầng
trên và dưới. Có các dây thừng và chão để buộc giữ; ghìm đầu, đỡ bụng, chằng
ngang lưng, khóa hai chân sau hoăc cả bốn chân.Cố định trâu, bò đứng trong giá bốn
trụ dùng để thực hiện các ca phẫu thuật phức tạp có thời gian kéo dài.

e. Vật bị
- Vật bị có thể dùng hai cách thơng dụng sau đây:
- Cách thứ nhất:dùng một sợi dây thừng bền chắc, dài 5-6 m. Một đầu dây buộc cố
định vào hai gốc sừng con vật. Đầu kia luồn thành hai vòng;một vòng quanh ngực,
một vòng quanh bụng sao cho tạo thành hai vòng nút. Đoạn dây còn lại được kéo
dọc thân con vật. Khi vật, một người vặn đầu con vật ở tư thế: một tay ghìm sừng
xuống, một tay cầm mõm hất lên ; một người cầm đi kéo về phía định cho con
vật ngã; một số người khác kéo đầu dây tự do. Nếu có đủ người thì cả 2 đầu dây được
thả tự do, chia số người ra làm 2 tốp kéo về 2 phía ngượcchiều nhau, dọc thân con vật.
- Phải có sự hiệp đồng chặt chẽ giữa những người tham gia. Con vật nằm xuống,
nhanhchóng ghìm sừng, đè đầu và cột 4 chân lại. Đây là động tác quan trọng nhất khi
vật bị; nếu để đầu nó cất lên thì con vật lập tức đứng dậy.

2


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55


f. Vật trâu
- Dùng dây thừng bền chắc, luồn thành các nút số 8 ở hai chân trước và hai chân sau.
- Buộc sao cho các nút thắt lại được khi kéo mà không bị tuột ra (đoạn dây tự do phải
nằm phía dưới vịng nút). Khi vật, một người khỏe ghìm giữ đầu; một người kéo
đi; số còn lại chia làm 2 tốp kéo cùng về 1 phía. Khi kéo, các vịng của nút số 8
thiết chặt dần; hai chân phải, hai chân trái sát lại gần nhau;con vật mất khả năng trụ và
đổ vật xuống. Tương tự như vật bị, nhanh chóng ghìm đầu, dùng dây thừng buộc
chặt 4 chân. Cách vật này là thô bạo, xong trâu quá khỏe, chưa tìm được cách vật nào
tốt hơn.

2. Phương pháp cố định ngựa
a. Xoắn mũi
- Phương pháp này dùng để cố định ngựa ở tư thế đứng.Phương pháp này chỉ nên áp
dụng trong các trường hợp thăm khám,điều trịmang tính chất đơn giản.
3


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

- Ngun tắc:lợi dụng ngựa có mơi trên với gương mũi dài và mỏng, tập trung nhiều
đầu mút dây thần kinh. Khi xoắn mũi, con vật đau đớn và tập trung sự chú ý vào vùng
mũi mà hoàn tồn khơng để ý tới người khác đang ở phía sau thực hiện thao tác khám
bệnh hay điều trị.
- Phương pháp: một tay giữ cương, một tay nắm lấy mũi con vật xoay nửa vòng.
Xoay sao cho vừa đủsự thu hút tập trung của con vật, không nên xoay quá mạnh.Nếu
tay khơng nắm chặt được thì dùng một vịng dây vịng vào vùng mơi trên, lồng vào đó
một chiếc que sau đó cầm que xoắn dây lại hoặc dùng dụng cụ xoắn mũi chuyên
dụng. Chú ý những thao tác xo ắn mũi khi thực hiện không gây ra sự hoảng loạn

và ít đau đớn.Nếu đau đớn quá con vật sẽ hoảng loạn, giẫy giụa nhằm thoát khỏi sự cố
định.
b. Giữ dây cương hàm thiếc
- Để điều khiển ngựa, người ta dùng dây cương và hàm thiếc. Hàm thiếc làm
bằng kim loại, cho vào miệng ngựa để đè lưỡi xuống nhằm tránh cắn vào lưỡi khi làm
việc, vận động mạnh. Dây thừng buộc vào hàm thiếc để điều khiển ngựa gọi là dây
cương. Khi muốn khám bệnh, tiêm hay cho uống thuốc …chỉ cần giữ dây cương tại
nơi tiếp xúc với hàm thiếc, con vật tạm thời đứng yên tại chỗ (bốn chân vẫn rậm rịch)
nếu việc làm của chúng ta không gây sợ hãi cho con vật.
c. Cố định 2 chân sau
- Phương pháp này được sử dụng để tránh trường hợp ngựa đá, ứng dụng trong
các trường hợp khám bệnh hay phẫu thuật ở trực tràng hay âm đạo.
- Trước hết buộc một vòng dây ở cổ, hai đầu của sợi dây đưa về phía sau và nằm
ở giữa 2 chân trước. Sau đó buộc một vịng ở mỗi chân sau. Hoặc có thể sử dụng một
vịng đeo cổ bằng vải để thay thế cho vòng dây và 2 vòng tròn nhượng để thay thế cho
mối cột ở trên 2 khớp nhượng.

4


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

d. Vật ngựa
- Có nhiều phương pháp vật ngựa, thông thường hay sử dụng phương pháp sau:
- Dùng 4 vòng cổ chân, đeo vào chân ngựa. Các vòng này được nối với nhau
bằng sợi dây thừng chừng 5m. Một người nắm đuôi nhằm đỡ con vật khi ngã.
- Kéo mạnh sợi dây , 4 chân ngựa gom lại gây mất thăng bằng làm ngựa ngã xuống.
- Tiếp theo dùng dây buộc một đầu vào trên khớp nhượng của chân sau phía

trên,phần cịn lại luồn qua 2 chân trước,chồng qua vai bên kia và quấn 1 vòng vào cổ
chân sau để nhấc lên. Phương pháp cố định này thường dùng để thiến ngựa.

3. Phương pháp cố định lợn
- Khi thực hiện phẫu thuật ở những con nhỏ việc cố định rất đơn giản nhưng khi tiến
hành ở những con vật lớn thường rất khó vì chúng béo lẳn và trơn.
a. Cố định lợn để thiến, chích ngừa
- Đối với lợn nhỏ có thể cố định bằng cách xách ngược hai chân sau lên, mặt
bụng quay ra ngoài. Người cố định dùng hai đầu gối để kẹp phần dưới của lợnlại.
Đây là cách đơn giản để tiêm chích cho lợn.Nếu để thiến lợn đực thì phần lưng của
lợn quay ra phía ngồi và phần đầu của nó nằm giữa hai chân sau của người cố
định. Túm lợn túm chân sau nhấc lên. Cố định bằng đầu gối tì vào gốc tai lợn, 2 tay
còn lại giữ 2 chân lợn.

5


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

b. Cách cố định để cho lợn uống thuốc
- Người cố định nắm hai chân trước của lợn và để ở tư thế tựa mông trên mặt đất.
- Dùng hai đầu gối kẹp vào hai bên vai để ghìm giữ lợn.
c. Cố định lợn ở tư thế nằm ngửa
- Phương pháp cố định này thường dùng trong trường hợp phẫu thuật vùng bụng.
- Dùng một máng ăn, bên dưới được lót bằng bao bố, đặt lợn ở tư thế nằm ngửa,
dùng dây để buộc hai chân trước và hai chân sau vào máng ăn.

d. Phương pháp vật lợn

- Vật lợn bằng tay: dùng tay luồn qua bụng lợn, nắm chân trước và chân sau
cùng phía rồi kéo mạnh.
- Vật lợn bằng dây:trước hết dùng một sợi dây buộc mõm, phần cuối sợi dây đưa ra
phía sau rồi làm 1 vịng ở phía trên khớp nhượng của chân sau bên trái. Nắm phần
cuối của sợi dây kéo mạnh về phía sau, con vậtsẽ mất thăng bằng và ngã xuống.
- Dùng một sợi dây buộc mõm để tạm cố định lợn.
- Vật lợnbằng dụng cụ tròng chân sau:đây là phương pháp tốt nhất để quật ngã và cố
định lợn to. Dụng cụ này có thể đưa vào chân sau của lợnrất đơn giản và nhanh chóng.
- Dùng một ống hình trịn, đường kính 3-4 cm, chiều dài 40 cm. Hai đầu ống gắn với 2
vịng kim loại đường kính khoảng 5cm. Hai vòng này được nối với hai sợi dây xích
dài khoảng50-60cm. Đầu cuối của hai sợi dây xích nối với một vòng kim loại thứ 3.
- Từ vòng thứ 3 này nối với sợi dây thừng chắc chắn. Trư ớc hết dùng dây để khớp
mõm lại. Sau đó đưa dụng cụ tròng vào hai chân sau của lợn. Nắm sợi dây thừng
kéo mạnh về phía sau. Lợn sẽ dễ dàng ngã xuống.
- Nếu thực hiện những ca tiểu phẫu mà không gây đau đớn thái quá cho lợn, người ta
chỉ cần sử dụng một sợi dây cột vào mõm lợn và kéo căng dây là được.

6


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

4. Phương pháp cố định chó, mèo
- Cố định chó:phải có rọ mõm và dây hay xích buộc cổ. Nếu khơng có rọ mõm phải
dùng sợi dây mềm buộc lại. Để thăm khám con vật, sau khi đã cố định mõm chỉ
cần giữ ngắn dây xíchcổ là được.
- Cố định mèo: có thể dùng dây buộc mõm kết hợp với dùng vải mềm bó chặt tứ chi
hay dùnggiá cố định chuyên dụng.

- Giá này gồm hai tấm gỗ, mỗi bên cắt một lỗ thủng là một nửa vòng trịn, khi ghép
lại được một lỗ thủng hình trịn. Hai tấm đó được chạy trên một thanh trượt. Đưa
mèo vào giá, ép hai tấm gỗ sát nhau ở ngang nách con vật; sao cho đầu và hai chân
con vật nằm ởphía trước tấm gỗ, một người cầm hai chân sau kéo lại.
- Một số phịng mạch chó, mèo và thú cảnh ở các thành phố lớn thiết kế cũi bằng
thép khơng gỉ. Sau khi đưa vật ni vào cũi, có dụng cụ ép con vật vào một phía,
làm như thế rất tiện lợi và an toàn.

7


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

Chương 2: Đề phòng nhiễm trùng vết mổ và tổ chức một ca phẫu thuật

1. Chuẩn bị địa điểm phẫu thuật
a. Phòng mổ
- Nếu phẫu thuật trong phòng thì trước khi phẫu thuật bật hệ thống đèn tử ngoại và duy
trì trong 30 phút để tiêu diệt vi khuẩn trong phịng.
b. Bãi mổ
- Nếu khơng có phịng mổ thì tối thiểu chúng ta cũng phải có được một khu vực bằng
phẳng, sạch sẽ, đủ rộng để tiến hành phẫu thuật gọi là bãi mổ.
- Bãi mổ cần đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Tuyệt đối không được sử dụng những nơi nghi nhiễm vi khuẩn có nha bào làm nơi
phẫu thuật như nền chuồng trại trước đây đã có vật ni chết, nơi xử lý các ổ nhiễm
trùng hay mổ khám xác chết, nơi chôn xác hay chất thải của các vật ni đã chết vì các
bệnh nhiệt thán, uốn ván, ung khí thán…
+ Chọn nơi tương đối bằng phẳng và có diện tích đủ rộng để thực hiện phẫu thuật như

một khoảng sân, một đám đất trống, một bãi cỏ…
+ Bãi mổ phải có đầy đủ ánh sáng, tránh được nắng, mưa, gió.
+ Trước khi phẫu thuật cần dọn sạch gạch, đá, cành cây, dây thép, đinh gai hay các vật
cứng khác để tránh gây sát thương cho người và vật nuôi.
+ Để khử trùng và hạn chế cát, bụi bay lên, có thể phun lên mặt nền bằng một số dung
dịch sát trùng như formalin 4%, cloramin T 0,5%, thuốc tím 0,1%...

2. Kiểm tra động vật phẫu thuật
a. Kiểm tra chung
- Trước tiên kiểm tra hoạt động của các hệ tuần hồn, hơ hấp đây là hai hệ nhất thiết
phải kiểm tra trước khi phẫu thuật. Ngồi ra có thể kiểm tra các chức năng của gan,
thận… Xác định được các quá trình bệnh lý trong cơ thể giúp ta đề phịng được các tai
biến có thể xảy ra, liên quan đến việc: cố định, gây mê, gây tê và chính cuộc phẫu
thuật đó.
- Nếu hiện tại gia súc không đủ sức khoẻ để chịu đựng cuộc phẫu thuật thì phải chăm
sóc, ni dưỡng tốt để tăng sức đề kháng rồi mới thực hiện phẫu thuật.
- Kiểm tra xem gia súc có thai khơng, nếu có thì phải thận trọng trong phẫu thuật,
khơng gây mê sâu.
- Kiểm tra các ổ nhiễm trùng trên cơ thể.
- Kiểm tra tình trạng vệ sinh chung của vật ni, phải tắm rửa tồn thân hay cục bộ
cho vật ni phẫu thuật. Những chỗ có nhiều nếp nhăn, nếp gấp, khe, kẽ như cổ, yếm,
nách, bẹn, bàn, ngón… cần được kỳ cọ, rửa sạch bằng bàn chải, xà phòng và nước
sạch.

3. Xử lý vùng phẫu thuật trên cơ thể động vật
a. Xử lý đối với da vùng phẫu thuật
8


Thạch Văn Mạnh


TYD-K55

- Cắt, cạo lông vùng phẫu thuật, vùng lông cắt phải lớn hơn 2-3 lần vùng phẫu thuật.
- Rửa sạch da vùng phẫu thuật bằng xà phòng và nước sạch.
- Lau khô bằng vải gạc hay khăn sạch vô trùng
- Sát trùng bằng cồn Iod 5%. Sát trùng hai lần, một lần trước lúc gây tê và một lần
trước khi phẫu thuật.
Cách sát trùng: Ðối với những phẫu thuật thực hiện ở vùng tổ chức lành thì sát trùng từ
trong ra ngồi. Với vùng nhiễm trùng thì sát trùng ngược lại tức là từ ngoài vào trong.
Ðối với vùng bàn ngón, sau khi đã rửa sạch thì ngâm vào dung dịch sát trùng 15 phút.
- Dùng tấm choàng bằng vải, cao su có khoét lỗ đã xử lý vô trùng đắp lên vùng phẫu
thuật để ngăn cách với các vùng xung quanh bảo vệ vùng phẫu thuật.
b. Xử lý đối với niêm mạc vùng phẫu thuật
Ðối với niêm mạc thì dùng thuốc sát trùng với nồng độ thấp hơn.
- Với niêm mạc mắt, miệng, mũi rửa chúng bằng rivanol 0,1%, cresol 2%, cịn da xung
quanh nó bơi cồn iod 3%.
- Thụt rửa âm đạo bằng dung dịch acid lactic 1%, rivanol 0,1%, cresol 2%, thuốc tím
0,1%, cịn da xung quanh vùng âm hộ thì bơi cồn iod 3%.
- Thụt rửa trực tràng bằng dung dịch thuốc tím 0,1%, cresol 2%, da xung quanh hậu
môn bôi cồn iod 3%.

4. Tiệu trùng dụng cụ phẫu thuật
a. Phương pháp luộc
- Dùng nồi chuyên dụng hoặc gia dụng, đảm bảo sạch sẽ, vô trùng.
- Nước dùng để luộc tốt nhất là nước cất, nếu không phải sử dụng nước mưa, nước lọc.
- Khi tiệt trụng phải đun sôi nước 3 phút, sau đó cho dụng cụ phẫu thuật đã tháo từng
chi tiết vào đun sôi thêm 30 phút.
- Vớt ra cho vào khay vô trùng, phủ vải gạc vô trùng lên.
Riêng dụng cụ bằng thủy tinh: tháo rời, bỏ vào nồi luộc khi nước còn lạnh.

 Phương pháp này vừa đơn giản, dễ thực hiện, rẻ tiền lại cho hiệu quả tốt.
b. Phương pháp hấp ướt thường
- Có thể dùng phương pháp hấp hơi ở áp suất thường để xử lý dụng cụ, hình thức như
đồ sơi.
- Dùng xoong nhơm hay tráng men có thành đứng và cao, có nắp đậy kín. Đổ nước vào
xoong, đạt 1/3 dung tích của nó, phía trên đặt khay đục lỗ đựng dụng cụ, đậy vung,
đun sôi nước. Hơi nước sôi đi qua dụng cụ để phía trên, hiệu quả tiệt trùng tốt.
- Thời gian xử lý kéo dài 30’ kể từ khi nước sôi.
c. Phương pháp đốt bằng cồn
Cho dụng cụ vào khay, đổ cồn vào rồi đốt trong vòng 5 phút.
 Phương pháp này có ưu điểm là nhanh, tiệt trùng tốt nhưng chỉ tiến hành được với
các dụng cụ không cháy và cũng làm cho dụng cụ chóng bị hư hỏng.
d. Phương pháp hấp ướt cao áp
9


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

Dùng nồi hấp cao áp autochlave. Ưu điểm của phương pháp này là có thể nâng nhiệt
độ hấp lên trên 1000C, do dùng nhiệt độ cao từ hơi nước để tiệt trùng nên có thể tiệt
trùng được cho hầu hết các dụng cụ, nguyên liệu dùng trong phẫu thuật. Nếu hấp ở áp
xuất 1,5atm, nhiệt độ đạt tới 126,80C thì duy trì thời gian xử lý 30 phút, nếu ở 2atm,
nhiệt độ đạt tới 132,90C thì duy trì thời gian xử lý 20 phút.
e. Phương pháp sấy khô
Dùng tủ sấy, tác nhân tiệt trùng là nhiệt độ cao từ khơng khí bị đốt nóng. Dùng để tiệt
trùng các dụng cụ bằng thủy tinh, sành sứ, bông vải sợi, các dụng cụ có nguồn gốc
nguyên liệu khác, trừ dụng cụ bằng nhựa mềm. Để tiệt trùng dụng cụ, duy trì ở nhiệt
độ 1200C với thời gian là 30’. Chỉ đưa dụng cụ vào sấy khi chúng đã được rửa sạch,

lau khô.
f. Phương pháp là
Hiện nay chúng ta hay sử dụng bàn là điện. Mặt bàn là đang hoạt động nóng tới
1500C, các vi sinh vật nằm dưới đó đều bị thiêu cháy. Người ta dùng bàn là để tiệt
trùng một số dụng cụ có nguồn gốc nguyên liệu từ sợi bông tự nhiên (quần áo bảo hộ,
mũ, khẩu trang, tấm choàng, vải gạc…). Khi sử dụng di chuyền bàn là trên khắp bề
mặt của đồ vật vài lần.
g. Phương pháp hơ lửa
Một số dụng cụ to lớn kềnh càng như mặt bàn, khay, cưa… không tiệt trùng
được bằng các phương pháp trên, chúng ta dùng biện pháp hơ lửa. Tẩm cồn trên 700C
trên những cục bơng hay vải có nguồn gốc là sợi bông tự nhiên rồi châm lửa đốt, ngọn
lửa cháy bùng lên như ngọn đuốc, hơ ngọn lửa đó trên khắp bề mặt của vật cần xử lý.
Tương tự như phương pháp là, cần hơ qua lại một số lần tại một vị trí nhất định mới
đảm bảo khả năng tiệt trùng.
h. Phương pháp ngâm trong dung dịch sát trùng
Phương pháp này được áp dụng để xử lý các loại chỉ khâu tự tiêu (catgut). Chỉ
tự tiêu có nguồn gốc ngun liệu là protein động vật, vì thế các phương pháp trên
không đáp ứng được. Người ta ngâm những cuộn chỉ tự tiêu trong dung dịch formalin
4% với thời gian là 72 giờ.

5. Xử lý tay người thực hiện phẫu thuật
a. Tiêu độc tay người phẫu thuật
- Cắt móng tay, dũa cho bằng
- Rửa bằng nước xà phòng, tốt nhất là rửa tay dưới vòi nước chảy.
- Ngâm tay trong cồn-amoniac 5%, cồn có tác dụng diệt khuẩn, amoniac làm trương
nở các tế bào biểu bì trên da tay, làm cho thuốc sát trùng tác dụng tốt hơn.
- Sát trùng bằng cồn 70 độ, không sát trùng bằng cồn 90 độ vì cồn 90 độ làm đơng vón
các phân tử protein trên lớp biểu bì tạo thành một lớp bảo vệ, chống lại không cho cồn,
thuốc sát trùng ngấm vào sâu hơn, do đó sẽ làm giảm khả năng sát trùng.
- Nếu có điều kiện thì đeo găng tay phẫu thuật.

10


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

 Sau khi đã xử lý xong, phẫu thuật viên không được đụng chạm vào bất cứ một vật
gì trước khi tiến hành phẫu thuật.

6. Hộ lý, chăm sóc động vật sau phẫu thuật
- Vật ni sau phẫu thuật được nuôi nhốt riêng. Nơi nuôi nhốt phải đảm bảo vệ sinh
tối thiểu và điều kiện sống thuận lợi. Mùa hè thống mát, mùa đơng phải ấm áp, có
chất độnchuồng hay lót ổ, tránh gió lùa.
- Sau phẫu thuật vật ni phải được để ở nơi hồn tồn n tĩnh tránh
những tiếng động mạnh, những hành động thô bạo làm vật nuôi sợ hãi. Khi vật
nuôi giẫy đạp nhiều sẽ tăng nguy cơ chảy máu thứ phát, nhiễm trùng vết mổ.
- Phẫu thuật có chỉ định gây mê phải có người theo dõi giúp đỡ con vật đến khi tỉnh
hồn tồn. Vật ni lớn nên cố định trong giá bốn trụ, có dụng cụ nâng đỡ; vật ni
nhỏ nên để trong cũi, lồng.
- Trợ tim bằng các loại thuốc camphoral 10%, cafein 20%, adrenalin 0,1%.
- Kích thích hơ hấp bằng cách cho thở dưỡng khí hay ngửi amoniac (tẩm
amoniac vào bông rồi để cách mũi vật nuôi 5-10 cm).
- Chống chảy máu trong: dùng vitamin K tiêm bắp, calci chloride hay calci
gluconat.
- Để tăng cường hồi phục sức khỏe, dùng các dung dịch truyền máu: glucose 5%,
nước muối sinh lý, lactat ringer,…sử dụng các loại vitamin B1, B12, A,…
- Cho ăn thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, dễ tiêu, chín. Nếu phẫu thuật có gây mê
chỉ cho vật nuôi ăn khi tỉnh hẳn, chúng tự lấy và nuốt được thức ăn. Khi thực hiện
phẫu thuật ở vùng bụng nên cho vật nuôi ăn từ từ, chia khẩu phần ăn ra từng phần.


Chương 3: Vô cảm khi phẫu thuật
1. Gây mê
a. Khái niệm
- Gây mê là dùng thuốc đưa con vật vào tình trạng mất tồn bộ nhận thức, mất
cảm giác đau, ức chế các phản xạ nội tạng, giãn cơ và cần ngủ.
- Mê là sự mất cảm giác và ý thức tạo bởi các thuốc mê khác nhau, gồm bốn hợp
thành là không đau, giãn cơ, mất ý thức và quên.
 Mục đích
- Làm cho con vật khơng đau trong q trình phẫu thuật.
- Làm cho con vật không giãy giụa trong khi tiến hành phẫu thuật:
 Máu dễ cầm hơn, không ảnh hưởng tới vết thương của gia súc.
 Người phẫu thuật yên tâm tiến hành cơng việc của mình, rút ngắn thời gian
phẫu thuật.
b. Phân loại
1. Căn cứ vào mức độ mê người ta chia ra: mê nông và mê sâu.
11


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

- Mê nông: là dùng lượng thuốc mê ít hơn, thời gian mê diễn ra ngắn hơn
(khoảng 30-45 phút), cho phép thực hiện những phẫu thuật nhỏ với thời gian tương
đương.
- Mê sâu: là dùng lượng thuốc mê nhiều hơn, thời gian mê kéo dài hơn (từ 90120 phút và lâu hơn nữa), đủ thời gian cho việc thực hiện các phẫu thuật phức tạp,
mất nhiều thời gian.
2. Căn cứ vào đường cho thuốc, người ta chia ra: gây mê khí dung và gây mê
khơng khí dung.

- Gây mê khí dung: là dùng thuốc mê dạng nước dễ bay hơi (cloroform, ether
ethylic, halothan…), hoặc các thuốc mê dạng khí (nitơ oxít, xiclopropan…) đưa
vào cơ thể bằng đường hơ hấp.
- Gây mê khơng phải khí dung: là dùng các loại thuốc mê như: Rượu etylic,
cloral hydrat, natri thiopetal, ketamin, zoletil… đưa vào cơ thể vật nuôi bằng các
đường khác nhau trừ đường hô hấp. Phổ biến hơn cả là tiêm vào tĩnh mạch, ngồi
ra cịn đưa vào cơ thể vật nuôi bằng con đường uống, tiêm dưới da, tiêm bắp thịt,
tiêm phúc mạc, thụt trực tràng…
3. Căn cứ vào số lượng thuốc mê sử dụng, người ta chia ra: gây mê đơn và gây
mê hỗn hợp
- Gây mê đơn: là chỉ sử dụng một loại thuốc gây mê.
- Gây mê hỗn hợp: là sử dụng từ 2 loại thuốc mê trở lên.
c. Triệu chứng mê( quá trình mê)
Quá trình mê hay triệu trứng của động vật xảy ra khi gây mê, được chia ra làm 4
giai đoạn.
- Giai đoạn giảm đau: xuất hiện ngay sau khi đưa thuốc mê vào cơ thể động vật.
Động vật có biểu hiện bồn chồn, lo lắng, không yên tĩnh. Cảm giác đau và các cảm
giác khác bắt đầu giảm. Hô hấp trở nên sâu và đều. Mạch nhanh nhưng vẫn đầy.
Nhãn cầu vận động tùy tiện. Đồng tử dãn ra 1 chút. Phản xạ và trương lực cơ bắt
đầu bị hạn chế.
- Giai đọan hưng phấn: Các cảm giác tiếp tục giảm. Xuất hiện tình trạng mất tri
giác, nhưng các phản xạ lại tăng cường. Động vật biểu hiện sợ sệt rõ rệt, thét lên
những tiếng thất thanh. Trương lực cơ tăng cường, vật giãy đạp mạnh. Đầu lắc lư,
bốn chân lảo đảo, xiêu vẹo. Ngựa và trâu, bị có hiện tượng giật nhãn cầu, đồng tử
tiếp tục giãn. Tăng tiết các tuyến: tuyến nước bọt, tuyến lệ, tuyến phế quản. Xuất
hiện nôn và nấc. Mạch nhanh và đầy, tăng huyết áp. Hô hấp nhanh khơng đều.
Giai đoạn này có nguy cơ xảy ra các tai biến, song cũng được lợi dụng để chỉnh
xương khớp.
- Giai đoạn mê: Con vật ngày càng mê sâu hơn. Hô hấp đều hơn rồi thưa dần và
nông dần, ngày càng trở nên thưa hơn và nông hơn. Tim đập chậm và yếu dần, mê

càng sâu thì nhịp tim càng thưa, càng yếu hơn. Mạch thưa và không đầy, mê sâu
rất khó bắt được mạch. Sự tiết dịch giảm dần rồi ngừng hẳn. Trương lực cơ giảm
dần, rồi đột ngột mất hẳn. Cơ mềm ra, nhẽo ra; nếu gây mê ở tư thế đứng con vật
12


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

mất khả năng trụ có thể ngã vật xuống. Các phản xạ giảm dần rồi mất hẳn. Lưỡi
khô và thè ra ngoài. Nhãn cầu xoay xuống dưới, đồng tử co đến giới hạn. Tình
trạng của động vật trở nên nguy hiểm hơn khi hô hấp nông và ngắt quãng, mạch
chỉ hoặc không bắt được mạch, huyết áp tụt, niêm mạc bắt đầu xanh, tím tái, đồng
tử dãn ra, thân nhiệt giảm...
- Giai đoạn cuối phụ thuộc vào tác dụng của thuốc tiếp tục hay ngừng lại.
Thuốc hết tác động, con vật dần dần tỉnh lại, biểu hiện của con vật ngược lại với
quá trình mê; được gọi là thoát mê. Khi đã mê sâu nhưng thuốc mê vẫn tiếp tục tác
động, con vật bị trúng độc do thuốc mê. Con vật có những biểu hiện: thở thưa dần
rồi ngừng thở, tim đập thoi thóp rồi cũng ngừng hẳn, kết cục dẫn đến cái chết của
động vật.
d. Chú ý khi gây mê động vật
1. Trước khi gây mê
- Kiểm tra thật cẩn thận vật nuôi trước khi gây mê, không gây mê khi động vật
mắc bệnh tim mạch. Không gây mê sâu khi: vật nuôi sốt cao, rối loạn chức năng hô
hấp, gan, thận, vật nuôi quá già yếu, kiệt sức, có chửa ở giai đoạn cuối.
- Bắt vật nuôi nhịn ăn 18-24 giờ, cho uống nước đầy đủ
- Gây mê cho vật nuôi lớn, nhất là đối với động vật có sừng thường rất khó khăn
và nguy hiểm, vì vậy chỉ gây mê khi thật cần thiết.
- Tiên lượng phẫu thuật có kết cục khơng thuận lợi, có khả năng giết mổ vật

ni thì khơng nên sử dụng thuốc mê tồn dư mùi trong thịt như: cloroform, ether…
- Sử dụng thuốc tiền mê trước 15-20 phút.
2. Trong khi gây mê
- Sử dụng thuốc mê đúng phương pháp
- Chọn liều thuốc mê cho thích hợp (thường vật ni béo, khỏe, ăn no khó mê
hơn so với vật ni gầy yếu, đói ăn, vật ni già, non)
- Tiến hành gây mê ở những nơi ấm áp, kín gió
- Khi đưa thuốc mê vào cơ thể bằng đường tĩnh mạch phải chậm, vừa tiêm vừa
quan sát, khi tiêm được 1/3 liều nên dừng lại, nếu gia súc khơng có những biểu hiện
xấu mới tiếp tục tiêm tiếp.
- Gây mê ở tư thế đứng phải theo dõi biểu hiện của vật nuôi, giúp đỡ con vật
nằm xuống nhẹ nhàng khi chuyển sang giai đoạn mê.
- Trong khi thực hiện phẫu thuật vẫn phải có người theo dõi biểu hiện của con
vật, nếu có biểu hiện khác thường, khơng tn theo q trình mê cần được xử lý kịp
thời.
- Đang phẫu thuật vật ni đã tỉnh có thể cho thêm thuốc mê, nhưng không được
quá 2/3 liều đã dùng ban đầu.
3. Sau khi mê
- Phẫu thuật xong, nhanh chóng giải thốt vật ni khỏi sự cố định, đỡ nó đứng
dậy, đưa về chỗ ở an tồn. Thường xun có người theo dõi cho đến khi con vật
tỉnh hẳn.
13


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

- Không ép con vật ăn khi chưa nuốt được thức ăn.
- Bổ xung năng lượng, tăng cường hồi phục sức khỏe bằng truyền glucose 5%,

nước muối sinh lý, lactat ringer… Sử dụng các loại vitamin A,C, B1,B12…
- Dùng thuốc trợ tim (cafein 20%, adrenalin 0,1%), kích thích hơ hấp bằng cho
thở dưỡng khí hay ngửi amoniac (tẩm amoniac vào cục bông rồi để cách mũi con
vật 5-10 cm)
e. Phương pháp gây mê động vật : ngựa, trâu bị, lợn, chó, mèo, động vật hoang dã.

1. Gây mê cho ngựa
- Ngựa có hệ thần kinh tương đối linh hoạt, khả năng chịu đau kém, vì vậy khi thực
hiện phẫu thuật ở ngựa nên chỉ định gây mê.
- Thuốc tiền mê dùng cho ngựa là atropin sulfat 1%, liều lượng: 1-2ml/100kg TT.
Tiêm dưới da trước khi dùng thuốc mê 15-20 phút.
1.1 Gây mê bằng cloral hydrat
Cloral hydrat có thể đưa vào cơ thể bằng nhiều cách: tiêm tĩnh mạch, cho uống, thụt
trực tràng.
Liều dùng: 8-10g/100kg TT.
+ Gây mê tĩnh mạch:
- Để tránh tác dụng gây dung huyết của thuốc, phải pha thành nồng độ 10% trong
dung môi (Glucose 10%, natri clorid 0,9%, natri xitrat 5%).
 Thuốc pha xong dùng ngay, để lâu mất tác dụng, khi tiêm không được để thuốc
lọt ra ngoài tĩnh mạch.
+ Gây mê dạ dày:
Để tránh kích thích của thuốc vào niêm mạc dạ dày, pha thuốc trong nước ngọt, hồ
tinh bột thành nồng độ 5%, cho uống qua ống thông thực quản.
+ Gây mê trực tràng:
Tương tự như cho uống, phải pha thuốc trong các dung môi bảo vệ niêm mạc trực
tràng, đạt nồng độ không quá 5%. Thụt vào trực tràng sau khi đã giải thốt hết phân, khi rút
ống thơng ra phải nhẹ nhàng, đồng thời kích thích cho cơ vịng hậu mơn khép kín lại.
1.2 Gây mê bằng rompun
14



Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

Rompun là thuốc mê dang nước, hãng Bayer của C.H Liên bang Đức sản xuất.
- Rompun 5ml/100kg TT, tiêm dưới da hay tiêm bắp đạt được mức độ mê nơng, có
thể phẫu thuật vật ni ở tư thế đứng.
- Rompun 4ml/100kg TT, tiêm dưới da hay tiêm bắp. Cloral hydrat 8g/100kg TT,
tiêm tĩnh mạch. Thời gian mê có thể đạt tới 1,5 giờ.
- Rompun 5ml/100kg TT, tiêm dưới da hay tiêm bắp. Natri thiopental 0,60,8g/100kg TT, tiêm tĩnh mạch (khơng được lọt ra ngồi). Thời gian mê có thể đạt tới 1,5
giờ.

2. Gây mê cho loài nhai lại
Thuốc tiền mê dùng cho loài nhai lại là atropin sulfat 1%.
Liều 1-2ml/100kg TT, tiêm dưới da trước khi dùng thuốc mê 15-20 phút.
2.1 Gây mê bằng cồn etylic
Cồn etylic 96% (loại tinh khiết), liều 30-40ml/100kg TT. Dùng glucose 5% hay
nước muối sinh lý, hạ thấp cồn xuống còn 30-40%, tiêm chậm vào tĩnh mạch.
 Chỉ đạt mức độ chếnh choáng, thực hiện được các thủ thuật chỉnh xương khớp.
2.2 Gây mê bằng cloral hydrat
Dùng phương pháp tiêm tĩnh mạch, liều dùng 10g/100kg TT, cách pha thuốc và tiêm
giống như ngựa. Ở ngựa cho kết quả tốt nhưng loài nhai lại không chắc chắn.
2.3 Gây mê kết hợp bằng cồn etylic và cloral hydrat.
Dùng cồn etylic 96%, liều 25ml/100kg TT, pha loãng thành nồng độ 30-40%, tiêm
chậm vào tĩnh mạch. Sau đó dùng cloral hydrat 8g/100kg TT, pha thành nồng độ 10%
trong dung môi (Glucose 10%, natri clorid 0,9% hoặc natri xitrat 5%), tiêm tĩnh mạch. 
Con vật mê kéo dài 1-1,5 giờ.
2.4 Gây mê bằng natri thiopental
15



Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

Natri thiopental là thuốc mê dạng bột, liều gây mê cho loài nhai lại là 1,5g/100kg
TT, pha trong nước muối sinh lý, đạt nồng độ 5%, tiêm chậm vào tĩnh mạch (khơng được
lọt ra ngồi tĩnh mạch). Thời gian mê kéo dài khoảng 1 giờ.
Chú ý: Theo dõi sát sao hành vi của con vật, quá trình mê đến rất nhanh con vật có
thể đổ vật xuống ngay khi chưa kết thúc tiêm thuốc.
2.5 Gây mê bằng rượu ngon
Dùng rượu ngon (30-40%) cho trâu, bò cái, bê, nghé uống, liều 200-300ml/100kg
TT.  Đạt được mức độ chếnh choáng ở vật nuôi, cho phép tiến hành các thủ thuật chỉnh
xương khớp.

3. Gây mê cho lợn
Thuốc tiền mê dùng cho lợn là amilazin, liều 0,5mg/1kg TT, tiêm dưới da hoặc bắp
thịt.
3.1 Gây mê bằng natri thiopental
Liều 1,5g/100kg TT, pha trong nước muối sinh lý đạt nồng độ 5%, tiêm tĩnh mạch
(khơng được để thuốc lọt ra ngồi). Q trình mê kéo dài khoảng 1 giờ.
3.2 Gây mê bằng cloral hydrat
Liều 10g/100kg TT, pha thành nông độ 10% trong dung môi (glucose 10%, natri
clorid 0,9%, natri xitrat 5%), tiêm tĩnh mạch hay phúc mạc. Thời gian mê kéo dài khoảng
1,5 giờ.
3.3 Gây mê bằng combelen
Combelen là thuốc mê dạng nước, liều dùng 5ml/100kg TT, tiêm tĩnh mạch, con vật
mê mức độ nơng.


4. Gây mê cho chó, mèo
Thuốc tiền mê cho chó, mèo là atropin sulfat 0,1%, liều 1ml/10kg TT, tiêm dưới da
16


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

trước khi dùng thuốc mê 10-15 phút.
4.1 Gây mê bằng zoletil
Zoletil là thuốc mê dạng bột, của hãng Virbac sản xuất, có 3 sản phẩm, tùy theo hàm
lượng hoạt chất trong chế phẩm: zoletil 25, zoletil 50, zoletil 100. Sản phẩm bán có dung mơi
kèm theo. Pha dung môi vào thuốc bột, dùng ngay, để lâu kém tác dụng. Liều dùng trung bình
(sau khi pha thuốc) của zoletil 50 là 1ml/10kg TT, tiêm dưới da hay tiêm tĩnh mạch đều được.
Với chó tiêm tĩnh mạch cho kết quả tốt hơn, với mèo tiêm vào đâu cũng cho kết quả như
nhau.
4.2 Gây mê bằng natri thiopental
Dùng natri thiopental, liều 15mg/1kg TT, pha thành nồng độ 5% trong nước muối sinh
lý, tiêm tĩnh mạch, thời gian mê trung bình 1 giờ.
Có thể tăng liều lên 30mg/1kg TT thời gian mê kéo dài tới 2 giờ.
4.3 Gây mê bằng rompun kết hợp với ketamin
Rompun 0,5ml/10kg TT, tiêm dưới da hay tiêm bắp.
Ketamin 0,5ml/10kg TT, tiêm tĩnh mạch, dưới da hay tiêm bắp.
 Thời gian mê kéo dài khoảng 1 giờ.
4.4 Gây mê bằng ketamin
Ketamin 1ml/10kg TT, tiêm tĩnh mạch, con vật mê khoảng 1 giờ.

2. Gây tê
a. Khái niệm

- Gây tê cục bộ là dùng thuốc để làm mất tạm thời cảm giác đau, cảm giác nhiệt,
cảm giác xúc giác và các cảm giác khác ở tổ chức cục bộ vùng định phẫu thuật.
- Những chất gây tê thường dùng là: Novocain, lidocain, dicain… ở nước ta thông
dụng là novocain va lidocain, trong thú y thường dùng novocain vì nó rẻ tiền hơn.
Người ta pha novocain trong nước cất hay nước muối sinh lý ở các nồng độ khác
nhau 0,125-10%, nồng độ thông dụng là 0,25-3%.
+ Để tăng cường tác dụng của novocain, người ta cho adrenalin 0,1% vào dung
dich novocain, với tỷ lệ 2ml adrenalin 0,1%/ 1 lít dung dịch novocain ở nồng độ
nào đó.
17


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

+ Để có thêm tác dụng tiệt trùng thêm rivanol vào dung dịch novocain đạt nồng độ
0,1%.
+ Để kéo dài thời gian tê và giảm chảy máu trong phẫu thuật thêm huyết thanh
vào dung dịch gây tê.
+ Để kéo dài sự tê (có khi đến 2 ngày) pha thuốc tê trong dầu thực vật, dầu cá làm
chậm sự hấp thu thuốc tê  Kéo dài thời gian tê.
b. Phương pháp gây tê

Gây tê bề mặt
Sử dụng để gây tê niêm mạc, tương mạc, màng hoạt dịch…
- Để gây tê niêm mạc mắt, ta nhỏ vào niêm mạc mắt vài giọt novocain 5-10%.
- Gây tê niêm mạc miệng, mũi, hầu, cơ quan sinh dục hay các niêm mạc khác, dùng dung
dịch novocain 5-10% tẩm vào cục bông rồi thấm vào niêm mạc.
- Gây tê niêm mạc bàng quang, dùng novocain 0,25-0,5%, bơm vào trong bàng quang sau

khi đã giải thoát hết nước tiểu.
- Gây tê màng hoạt dịch, dùng novocain 4-6% bơm vào sau khi đã rút hết dịch trong nó. Tùy
theo từng dung tích xoang, người ta có thể bơm vào 5-50ml dung dịch thuốc tê.
- Gây tê phúc mạc, dùng novocain 2-4%, đưa thuốc vào bằng kim tiêm, cho vật nuôi nhỏ
khoảng 20ml. Với vật nuôi lớn khơng có ý nghĩa vì phúc mạc của chúng q lớn.
- Bề mặt da không thấm hút các dung dịch nước, vì vậy người ta gây tê nó bằng phương pháp
giảm thể nhiệt: chườm lạnh hay tưới dung dịch bay hơi nhanh như ethyl clorid.

Gây tê thấm
- Dùng thuốc tê tiêm vào từng lớp tổ chức của vùng phẫu thuật từ ngồi vào trong: nội bì,
dưới da, tổ chức liên kết và các lớp nằm sâu hơn, thuốc tê thấm vào tổ chức cắt đứt sự dẫn
truyền kích thích các đầu mút thần kinh hoặc dây thần kinh ở vùng được gây tê.
Thường dùng novocain 0,25-1%, lượng dùng từ 50-500ml hoặc hơn nữa, tùy thuộc vùng
phẫu thuật lớn hay nhỏ.
- Dùng nồng độ thấp, lượng lớn có tác dụng:
+ Làm tách các lớp tổ chức giúp người phẫu thuật cắt, lọc, bóc, tách dễ dàng.
18


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

+ Gây áp lực lớn chèn ép các huyết quản nhỏ, hạn chế chảy máu.
+ Lượng thuốc nhiều làm cho khả năng khuếch tán sâu, rộng hơn, hiệu quả gây tê tốt
hơn.
- Khi gây tê thấm phải dùng kim nhỏ và dài. Đầu tiên đâm kim vào trong da, gần như
kim song song với bề mặt da, đâm ngập đầu kim, bơm thuốc, đến khi thấy da phồng lên thì rút
kim ra một chút, cứ lam như vậy cho đến hết chiều dài vết mổ. Vết mổ dài có thể làm từ hai
đầu chập lại. Lần lượt hết lớp nội bì, tiếp tục tới lớp dưới da, rồi đến lớp tổ chức liên kết và các

lớp tổ chức sâu hơn.
- Khi phẫu thuật ở diện rộng, người ta dùng phương pháp này gây tê thấm phong tỏa,
tiêm xung quanh vùng phẫu thuật với nhiều điểm tiêm.

Gây tê dẫn truyền
- Gây tê dẫn truyền là dùng thuốc tê tiêm vào tổ chức xung quanh dây thần kinh chi phối vùng
định phẫu thuật, làm cho dây thần kinh đó mất khả năng dẫn truyền kích thích từ vùng phẫu
thuật đến trung khu thần kinh.
- Dùng dung dịch gây tê có nồng độ cao hơn so với gây tê thấm (novocain 2-3%) do các dây
thần kinh có tổ chức liên kết thưa và lớp mỡ bao bọc.
- Liều từ 5-20 ml tùy thuộc vào độ dày của dây thần kinh và vị trí nằm nơng, sâu của nó.
- Khi tiêm cần chú ý tránh tiêm vào mạch máu vì dây thần kinh thường đi kèm với mạch máu.
- Khi thực hiện gây tê dẫn truyền thường phải kết hợp với gây tê thấm hay gây tê bề mặt, vì tại
mơ bào cục bộ có nhiều đầu mút của các dây thần kinh khác nhau chi phối.

Gây tê ngoài màng cứng tủy sống.
Xoang ngoài màng cứng là xoang ở giữa màng cứng của tuỷ sống và màng xương bên
trong của xương sống. Dùng thuốc tê tiêm vào xoang ngoài màng cứng sẽ cắt đứt dẫn truyền
kích thích của thần kinh cạnh sống đi qua xoang ấy.
 Gây tê ngoài màng cứng tủy sống được xem như một loại gây tê dẫn truyền trung tâm.
Căn cứ vào vị trí tiêm thuốc tê mà người ta chia ra:
+ Gây tê thắt lưng (lumbalis): Điểm giữa đốt sống hông 1 và 2
19


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

+ Gây tê hông khum (lumba-sacralis): Điểm giữa đốt sống hông cuối và đốt sống khum đầu

tiên.
+ Gây tê đốt sống đuôi (sacralis): Điểm giữa đốt sống đuôi thứ nhất và đốt sống đuôi thứ 2.
Phương pháp gây tê đốt sống đuôi (sacralis):
Phương pháp này được chỉ định khi phẫu thuật vùng: cơ quan sinh dục ngoài, âm đạo,
chân sau, đuôi, hậu môn, trực tràng.
- Tùy lượng thuốc tê đưa vào ít hay nhiều mà người ta chia ra: gây tê sacralis thấp và gây tê
sacralis cao.
+ Gây tê sacralis thấp: Tiêm một lượng thuốc tê không lớn lắm đạt tới giới hạn của xương
khum và nó phong bế các gốc của dây thần kinh cạnh sống vùng khum. Các vùng được gây tê
là: đuôi, hậu môn, trực tràng, cơ quan sinh dục, phần gần nhất của mông, đùi. Có thể phẫu
thuật gia súc ở tư thế đứng.
+ Gây tê sacralis cao: Tiêm một lượng thuốc tê nhiều hơn, thuốc vượt quá giới hạn phần
xương khum. Tùy thuộc lượng thuốc đưa vào nó có thể đạt tới vùng hông, lưng, phong bế dây
thần kinh cạnh sống chi phối cả phần sau cơ thể, bao gồm cả bụng và chân sau. Phương pháp
này làm liệt chân tạm thời, vì vậy thực hiện phẫu thuật vật nuôi ở trạng thái nằm.
- Thuốc tê thường dùng gây tê xoang ngoài màng cứng tủy sống là novocain 2%.
- Cách xác định liều lượng:
+ Đối với vật nuôi lớn: đo khoảng cách từ mỏm hơng xương cánh chậu đến u ngồi, đơn vị
tính là cm. Lấy số đo đó chia cho 3 được bao nhiêu sẽ tương đương với số ml novocain 2% để
gây tê sacralis thấp. Gây tê sacralis cao cần tiêm nhiều hơn số đó.
Khoảng cách từ mỏm hơng
xương cánh chậu đến u ngồi
Số ml novocain 2%
(để gây tê sacralis thấp)

=
3

(ví dụ: ta đo khoảng cách từ mỏm hông xương cánh chậu đến u ngồi là 51cm, chia
20



Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

cho 3 được 17  để gây tê sacralis thấp cần tiêm17ml novocain 2%, gây tê sacralis cao cần
tiêm nhiều hơn 17ml novocain 2%).
+ Đối với vật nuôi nhỏ: đo khoảng cách từ xương chẩm đến gốc đuôi, được bao
nhiêu chia cho 10, thương số chính là số ml novocain 2% để gây tê sacralis thấp, gây tê
sacralis cao cần tiêm nhiều hơn.
Khoảng cách từ xương chẩm
đến gốc đuôi
Số ml novocain 2%

=

(để gây tê sacralis thấp)

10

- Gây tê ngoài màng cứng thời gian tê kéo dài 1,5-2 giờ.
- Cách tiêm:
+ Một tay cầm đuôi lắc qua, lắc lại, một tay sờ phía trên gốc đi tìm khớp.
+ Đâm kim chếch một góc 450, cảm giác qua khung xương sống, chạm thành đốt sống
thì rút lại một chút. Đầu kim tự do, bơm thuốc chậm, thấy nhẹ tay ấn lên pittông.
Chú ý: Nhiệt độ của thuốc tiêm phải tương đương với thân nhiệt vật nuôi.

Chương 4: chảy máu và pp cầm máu:
1. Các dạng chảy máu

a. Chảy máu động mạch
- Do các động mạch bị tổn thương, máu chảy nhanh, màu đỏ tươi, phun lên theo
nhịp đập của tim.
b. Chảy máu tĩnh mạch
- Do các tĩnh mạch bị tổn thương, máu chảy chậm, màu sẫm, máu tn ra từng
dịng lúc nhanh lúc chậm theo nhịp hô hấp.
c. Chảy máu mao mạch
- Do các mao mạch (phân bố ở da, cơ, mô liên kết, cân mạc, bao cơ, bao gân) bị tổn
thương, máu chảy rướm đều trên bề mặt vết thương. Mao mạch phân bố xen kẽ
giữa mao mạch động mạch và mao mạch tĩnh mạch, do đó khi bị tổn thương máu
21


Thạch Văn Mạnh

d.

e.

f.

g.

h.
i.

TYD-K55

chảy ra có màu pha trộn giữa màu đỏ tươi và màu đỏ sẫm. Loại xuất huyết này dễ
cầm, nó có thể ngừng chảy nhờ cơ chế tự đông máu của cơ thể.

Chảy máu nhu mô
- Xuất hiện khi tổn thương hoặc khi phẫu thuật ở các cơ quan có cấu trúc nhu mơ
(dạ dày, ruột, tử cung…). Trong các cơ quan nội tạng mao mạch được phân bố
nhiều hơn ở da, cơ, mô liên kết, và tốc độ dịng chảy cũng lớn hơn. Khi nó bị cắt
đứt, máu chảy ra đều khắp toàn bộ vết thương hay vết mổ như xuất huyết mao
mạch, nhưng tốc độ nhanh hơn nhiều. Màu cũng là màu pha trộn giữa màu đỏ
sẫm và màu đỏ tươi. Loại xuất huyết này rất khó cầm máu.
Chảy máu ngồi
- Máu chảy từ cơ thể tràn ra bề mặt da hay các niêm mạc, có thể nhìn thấy được.
Loại xuất huyết này dễ phát hiện và dễ xử lý
Chảy máu trong
- Xuất hiện khi các cơ quan nằm sâu (dưới lớp che phủ) bị tổn thương, nhưng lớp
che phủ bên ngồi cơ thể khơng bị tổn thương, hoặc sau phẫu thuật mà da đã
được khâu kín. Máu khơng chảy ra ngồi cơ thể mà tích tụ lại trong các xoang
của cơ thể, mắt thường không nhìn thấy được. Xuất huyết dạng này khó phát
hiện, khó xử lý.
Chảy máu kẽ mô
- Là những trường hợp tổn thương mạch quản, máu thốt ra ngồi mạch quản nhưng
tích lại giữa các lớp tổ chức tạo thành các u máu.
Chảy máu tiên phát
- Xuất hiện ngay sau khi mạch máu bị tổn thương.
Chảy máu thứ phát
- Xuất hiện sau khi xuất huyết nguyên phát đã thực hiện biện pháp cầm máu
nhưng khơng triệt để. Nó phát triển do sự suy yếu và tuột nút chỉ thắt mạch quản
hay sự tan rã của cục máu đơng.

2. Đề phịng mất máu nhiều khi phẫu thuật ( cầm máu dự phòng )
Cầm máu dự phòng cục bộ
- Đặt garo là phương pháp tốt nhất để đề phòng chảy máu cục bộ, khi phẫu thuật ở 4 chân
và đuôi. Dùng dây cao su, băng cuộn, dây vải… buộc vịng quanh cơ quan, phía trên vùng

phẫu thuật, theo hướng dòng chảy của động mạch.
- Không được thắt dây garo quá lỏng hoặc quá chặt. Về mùa hè không được thắt garo quá
22


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

2 giờ, mùa đông không quá 1 giờ. Nếu phẫu thuật kéo dài, sau mỗi 30 phút, nới garo 30-60
giây, sau đó thắt lại.

Cầm máu dự phịng tồn thân
- Phương pháp cầm máu dự phịng tồn thân tốt nhất đó là tiếp máu. Khơng những cung
cấp trực tiếp tế bào máu để bù lại lượng máu mất trong phẫu thuật, tiếp máu còn cung cấp tất
cả những yếu tố đơng máu. Việc tiếp máu có thể thực hiện trước, trong và sau phẫu thuật.
Đối với đại gia súc có thể tiếp 500-2000 ml, tiểu gia súc tiếp 200-300 ml, chó, mèo 20-50 ml.
- Tiêm dung dịch CaCl2 10%, dung dịch này cung cấp inon Ca++ một yếu tố trong q trình
đơng máu, đồng thời CaCl2 cịn làm bền vững thành mạch, cả hai tác dụng này đều làm tăng q
trình đơng máu, giảm lượng máu chảy trong q trình phẫu thuật. Tiêm tĩnh mạch dung dịch
CaCl2 10%: vật ni lớn: 50-100 ml, vật ni nhỏ: 20-30 ml, chó, mèo: 2-4 ml (cần phải chú ý
kỹ thuật tiêm, không để thuốc lọt vào da có thể gây áp-xe). Hiện nay có nhiều chế phẩm của Ca++
như Gluconat Canxi, Canxi fort có ưu điểm hơn là khơng gây áp-xe nếu tiêm dưới da, tiêm bắp.
- Tiêm dưới da dung dịch Gelatin 2%, vật nuôi lớn: 100-200 ml, vật nuôi nhỏ: 10-20 ml
dung dịch này vừa có tác dụng làm tăng độ nhớt của máu, do đó máu chảy chậm hơn, tiểu
cầu dễ vỡ hơn, q trình đơng máu dễ xảy ra, hơn nữa nó cịn cung cấp ion Ca++cũng làm
tăng q tình đơng máu.
- Dùng huyết thanh ngựa bình thường, tiêm dưới da hay tĩnh mạch cho ngựa, liều 100-150
ml/con trưởng thành.
- Dùng Adrenalin 0,1% tiêm bắp, tĩnh mạch hoặc thấm trên bề mặt đang chảy máu làm co

mạch máu, giúp cầm máu.
- Tiêm vitamin K trước khi phẫu thuật 1-2 ngày. Vitamin K thúc đẩy quá trình tổng hợp
prothrombin ở gan là chất tham gia vào q trình đơng máu.
 Có thể thực hiện cầm máu dự phịng tồn thân kết hợp cầm máu dự phòng cục bộ hoặc
chỉ dùng 1 trong 2 phương pháp trên. Đa số các phương pháp cầm máu dự phịng tồn

23


Thạch Văn Mạnh

TYD-K55

thân hay cục bộ đều với nguyên tắc cung cấp cho cơ thể bệnh súc yếu tố đông máu,
cung cấp thêm máu, làm co mạch hoặc tăng độ nhớt máu…

3. Phương pháp cầm máu khi phẫu thuật
a. Cầm máu tạm thời
- Phương pháp xoắn vặn: Áp dụng khi thiến vật ni cịn non. Mạch máu ở
thừng dịch hồn của con đực và mạch máu vùng ống dẫn trứng của con cái chưa
dai chắc lắm. Sau khi bộc lộ được thừng dịch hoàn và buồng trứng dùng panh
kẹp mạch máu, kẹp ngang qua thừng dịch hoàn hay ống dẫn trứng. Cầm dịch
hoàn hay buồng trứng xoắn vặn cho đến khi đứt thừng dịch hoàn hay ống dẫn
trứng.
- Bằng panh kẹp máu
 Dùng panh kẹp chặt đầu mạch quản đứt, nhẹ nhàng xoắn 2-3 vịng theo trục
dọc của nó, rồi tháo panh ra. Mạch máu to hơn, máu chảy nhiều, ta kẹp lưu panh
một thời gian (5-10 phút).
- Phương pháp thắt bằng chỉ: Dùng chỉ thắt ngang mạch quản bị đứt kể cả động
mạch và tĩnh mạch, lớn hay nhỏ. Trước tiên dùng panh kẹp mạch máu, kẹp đầu

mạch quản bị đứt, kéo ra một chút rồi dùng kim chỉ xuyên qua thành mạch máu
(nếu mạch máu lớn), vòng sợi chỉ quanh mạch quản vài vòng rồi thắt lại. Sợi chỉ
đi có hình số tám, được gọi là nút số 8. Đây là phương pháp cầm máu triệt để
nhất.
b. Cầm máu triệt để
- Phương pháp thấm ép
 Dùng vải gạc vô trùng, ép chặt lên thiết diện vết mổ từ 10-15 giây. Vải gạc
có khả năng thấm hút máu, khi ta ép xuống tạo tiền đề cho sự hình thành cục
nghẽn, vít mạch quản bị đứt.
- Phương pháp dùng hóa chất
 Sử dụng các thuốc có tác dụng tại cục bộ, dùng các dung dịch như: H2O2,
adrenalin 0,1%, antipirin 10-20%, tẩm bơng bơi vào vết thương chảy máu mao
mạch, có tác dụng làm co mạch quản. Hoặc dùng gelatin 10%, dầu cá, dầu thực
vật bôi vào vết thương, cản trở chảy máu mao mạch.
- Phương pháp vật lý:
+ Dùng nhiệt độ thấp: Tưới nước lạnh, áp túi đá vào nơi đang chảy máu, làm
nhiệt độ cục bộ vùng đang chảy máu bị giảm thấp, các mạch máu co lại, hạn chế
chảy máu.
+ Dùng nhiệt độ cao: Nung nóng thanh kim loại, mỏ hàn điện… áp vào nơi
đang chảy máu. Nhiệt độ cao làm cháy các tổ chức trên bề mặt, tạo điều kiện
cho sự hình thành các cục nghẽn, vít các mạch quản bị đứt.

24


×