Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

PHAN BỘI CHÂU VỚI CÔNG CUỘC VẬN ĐỘNG THANH NIÊN - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.39 KB, 55 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




ĐINH THỊ THÙY HƯƠNG




PHAN BỘI CHÂU VỚI CÔNG CUỘC
VẬN ĐỘNG THANH NIÊN





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC






SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC





ĐINH THỊ THÙY HƯƠNG




PHAN BỘI CHÂU VỚI CÔNG CUỘC
VẬN ĐỘNG THANH NIÊN



CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: TS. Phạm Văn Lực



SƠN LA, NĂM 2013

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, Tiến sĩ Phạm Văn Lực đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành Khóa luận này.
Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, Khoa
Sử - Địa, Thư viện nhà trường, các bạn trong tập thể lớp K50 Đại Học
Sư Phạm Lịch Sử, đã giúp em tìm kiếm tài liệu, động viên em hoàn

thành Khóa luận này.
Trong quá trình hoàn thành Khóa luận này không thể tránh khỏi
những thiếu xót, hạn chế, em kính mong nhận được sự quan tâm, góp
ý của quý thầy, cô và các bạn để Khóa luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện



Đinh Thị Thùy Hương
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu và đóng góp của đề tài 4
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4
5. Kết cấu của khóa luận 5
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
CỦA PHAN BỘI CHÂU 6
1.1. Tiểu sử cuộc đời, thân thế 6
1.2. Sự nghiệp 8
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG CỨU NƯỚC CỦA PHAN BỘI CHÂU 13
2.1. Bối cảnh lịch sử 13
2.1.1. Tình hình thế giới 13
2.1.2. Tình hình trong nước 15
2.2. Tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu 17
2.2.1. Tư tưởng, chủ trương cứu nước của Phan Bội Châu từ đầu thế kỉ XX

đến trước chiến tranh Thế giới thứ nhất 17
2.2.2. Hoạt động cứu nước của Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du 21
2.3. Phan Bội Châu với việc thành lập Việt Nam quang phục hội năm 1912
23
2.3.1. Hoàn cảnh lịch sử 23
2.3.2. Phan Bội Châu với tư tưởng dân chủ tư sản 24
2.3.3. Sự thành lập Việt Nam quang phục hội và các hoạt động của tổ chức này 26
CHƯƠNG 3: PHAN BỘI CHÂU VỚI CÔNG CUỘC VẬN ĐỘNG THANH
NIÊN 30
3.1. Vị trí, vai trò của thanh niên trong tư tưởng của Phan Bội Châu 30
3.2. Thực trạng về tầng lớp thanh niên Việt Nam đầu thế kỉ XX qua cách
nhìn nhận của Phan Bội Châu 31
3.3. Phan Bội Châu với vấn đề giáo dục thanh niên 32
3.3.1. Giáo dục về mặt học thức và chủ trương “khai dân chí” cho thanh niên 32
3.3.2. Giáo dục lối sống đúng đắn, lành mạnh cho thanh niên 35
3.3.3. Giáo dục truyền thống lịch sử cho thanh niên 36
3.3.4. Phan Bội Châu với công cuộc vận động thanh niên 36
3.4. So sánh quan điểm cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
39
3.4.1. Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh với tư tưởng dân chủ tư sản 39
3.4.1.1. Sự giống nhau trong nhận thức 39
3.4.1.2. Sự khác nhau trong vấn đề dân chủ tư sản của Phan Bội Châu và
Phan Châu Trinh 40
3.5. Một số nhận xét về tư tưởng của Phan Bội Châu với công cuộc vận
động thanh niên và tư tưởng cứu nước của Phan Châu Trinh 44
KẾT LUẬN 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong bức tranh lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam, Phan Bội Châu có một vai trò quan trọng. Được người đời gọi với tên
gọi tha thiết “Cụ Phan”. Tên cụ Phan là dây nối trong phong trào Cần Vương
của các sĩ phu phong kiến chống Pháp, trải qua các cuộc đấu tranh của giai
cấp Tiểu tư sản và Tư sản cho đến phong trào cách mạng hiện đại, dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng tiền phong của nó là Đảng Cộng sản
Đông Dương. Tên tuổi của chí sĩ Phan Bội Châu đã được nhân dân ta kính
mến, ông là điển hình cho một lực lượng cách mạng tiến bộ trong thời kì lịch
sử cận đại Việt Nam.
Phan Bội Châu là một chí sĩ yêu nước, nhà tư tưởng và là “một trong những
nhân vật lịch sử vĩ đại và phức tạp nhất” của lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Có những học giả khẳng định rằng: trong mấy chục năm đầu thế kỉ XX lịch sử
Việt Nam lẫn lộn với lịch sử Phan Bội Châu. Đến đây, ta có thể phần nào thấy
được ảnh hưởng của Phan Bội Châu đối với lịch sử dân tộc trong những năm
đầu thế kỉ XX to lớn như thế nào đặc biệt với công cuộc vận động thanh niên.
Hơn sáu thập kỉ qua, kể từ ngày Phan Bội Châu nói lời từ biệt quốc dân mãi
mãi cuộc đời sóng gió vô cùng phức tạp của ông vẫn còn đòi hỏi phải chiêm
nghiệm trở lại trên rất nhiều bình diện và cả sự đánh giá tổng thể.
Xuất thân từ một nhà Nho, Phan Bội Châu đã dần vượt lên ý thức xã hội
phong kiến vốn đã thấm sâu vào con người ông, tiếp thu tư tưởng tiến bộ dân
chủ tư sản và với nhiệt huyết yêu nước cao độ làm dấy lên phong trào yêu nước
theo khuynh hướng mới - khuynh hướng dân chủ tư sản với công cuộc vận động
thanh niên sôi nổi, rầm rộ. Tuy nhiên phong trào cách mạng yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi
xướng cuối cùng cũng đã thất bại nhưng đã để lại trong kho tàng lí luận cách
mạng Việt Nam rất nhiều bài học quí báu trên con đường giải phóng dân tộc.
Tư tưởng giáo dục và vận động thanh niên của Phan Bội Châu đã có ý
nghĩa và tác dụng to lớn đối với lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX. Nó góp phần

không nhỏ trong việc khuấy động tinh thần yêu nước và phong trào cách mạng
cách mạng Việt Nam. Mặt khác, nó cũng để lại nhiều bài học trong công cuộc
vận động, giáo dục thanh niên sau này. Đóng góp này có ý nghĩa to lớn và thiết
thực cho công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân ta do Đảng ta lãnh đạo.

2
Phan Bội Châu là một trong những “người khai sáng” đầu tiên ở Việt Nam.
Trong tư tưởng cứu nước của ông có nhiều nội dung và phương pháp mới, đặc
biệt là về công cuộc vận động cách mạng đối với thanh niên.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá cho thực sự sâu sắc, chi tiết về một con
người có tầm ảnh hưởng lớn, đặc biệt có những nhận thức về công cuộc vận
động thanh niên thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến. Nhiều vấn đề
về nhãn quan chính trị của Phan Bội Châu chưa được làm rõ.
Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu “Phan Bội Châu với công cuộc vận động
thanh niên” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn như sau:
Về khoa học:
- Làm rõ thêm điều kiện chủ quan và khách quan đưa đến sự hình thành
khuynh hướng giải phóng dân tộc theo tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX.
- Làm rõ thêm quá trình hòa nhập cách mạng Việt Nam với phong trào cách
mạng thế giới và sự chuyển biến về mặt ý thức hệ ở Việt Nam theo khuynh
hướng dân chủ tư sản.
- Làm rõ thêm quá trình giáo dục và vận động thanh niên của Phan Bội
Châu đồng thời vận động họ đi theo con đường cách mạng theo khuynh hướng
bạo động mang màu sắc dân chủ tư sản mà mình theo đuổi.
- Làm rõ sự giống và khác nhau trong quan điểm cứu nước của Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh và những đóng góp của hai ông đối với lịch sử dân
tộc những năm đầu thế kỉ XX và trong những giai đoạn sau này.
Về thực tiễn:
- Bổ sung thêm nguồn tài liệu nghiên cứu về Phan Bội Châu trong nhận

thức tư tưởng của ông với công cuộc vận động thanh niên và khi tìm hiểu về sự
giống, khác nhau trong tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh.
- Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy cho giáo viên, sinh viên khi
nghiên cứu, học tập về Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
- Góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, khuấy động tinh thần yêu
nước, phong trào cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về Phan Bội Châu và phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX đã được

3
đề cập trong một số công trình nghiên cứu cụ thể là:
+ Cuốn “Lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1918” của Giáo sư
Nguyễn Văn Kiệm, NXB giáo dục Hà Nội, 1972. Công trình đã làm rõ hoạt
động cứu nước của Phan Bội Châu và các hoạt động của Duy Tân hội. Cuốn
sách này đã đề cập tới nhiều quan điểm, tư tưởng cứu nước của Phan Bội
Châu. Tuy nhiên cuốn sách này chỉ tái hiện lại quá trình cứu nước của Phan
Bội Châu [9].
+ Cuốn “Đại cương lịch sử Việt Nam” tập 2 của tác giả Trương Hữu
Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001. Công
trình đã làm rõ được quá trình hoạt động cứu nước của Phan Bội Châu từ đầu
thế kỉ XX đến năm 1914. Sự ra đời của Duy Tân hội (1904) và tổ chức Việt
Nam quang phục hội (1912) do ông sáng lập và lãnh đạo, cùng với các chủ
trương, biện pháp cứu nước của ông [21].
+ Cuốn “Một số chuyên đề Lịch sử Việt Nam” của PGS - TS Trần Bá Đệ
(chủ biên), NXB ĐHQG Hà Nội, 2002, cũng có chuyên đề về phong trào yêu
nước đầu thế kỉ XX ở Việt Nam, cũng làm sáng tỏ được điều kiện chủ quan và
khách quan dẫn đến sự hình thành xu hướng cách mạng mới ở Việt Nam đầu thế
kỉ XX [6].
+ Cuốn “Phan Bội Châu toàn tập” của GS Chương Thâu, NXB Thuận

Hóa, Huế, 1990. Công trình đã làm rõ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
Phan Bội Châu từ đầu thế kỉ XX đến năm 1925 [16].
+ Cuốn “Một số chuyên đề Lịch sử Việt Nam, Lịch sử thế giới và phương
pháp dạy học lịch sử” của Tiến sĩ Phạm Văn Lực (chủ biên), NXB ĐHSP Hà
Nội, 2011. Trong cuốn sách có chuyên đề “Đóng góp của phong trào yêu nước
đầu thế kỉ XX”. Chuyên đề này đã làm rõ được sự hình thành khuynh hướng
mới trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, khái quát được hoạt động
yêu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, cũng như đóng góp của các
ông trong các hoạt động yêu nước mới mẻ ở Việt Nam đầu thế kỉ XX [10].
+ Trong bài viết trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 01 (1967), tác giả
Nguyễn Thị Tuyết Mai có bài tiểu luận “Phan Bội Châu trong Lịch sử cách
mạng Việt Nam” đã nói về tư tưởng yêu nước, tư tưởng chống giặc ngoại xâm
của ông. Một con người có khí chất cao thượng, nghị lực bất di, kiên trung trong
các việc làm của ông [12].
+ Cuốn “Sự chuyển biến của phong trào yêu nước và cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam trong ba mươi năm đầu thế kỉ XX” của Đinh Trần

4
Dương, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2002 cũng đã nói về những chuyển biến
của con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam (1904-
1925) trong đó đã đề cập tới vấn đề Phan Bội Châu với xu hướng bạo động và
các hoạt động cứu nước của ông [5].
Ngoài ra, những vấn đề này còn được đề cập trong một số công trình, bài
viết như: Khóa luận tốt nghiệp - Tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu, Phạm
Văn Hợp, 2008; Danh nhân Nghệ Tĩnh; Nghiên cứu Phan Bội Châu của tác giả
Chương Thâu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia; Đại cương Lịch sử Việt Nam
toàn tập… các bài tham luận, hội thảo Quốc tế về Phan Bội Châu, hoặc một số
bài viết trên các Tạp chí nghiên cứu Lịch sử…
Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên chỉ mới phản ánh ở những
góc độ, khía cạnh khác nhau về cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng yêu nước của

Phan Bội Châu, còn về công cuộc vận động thanh niên trong tư tưởng cứu nước
của ông, sự giống và khác nhau về quan điểm cứu nước của Phan Bội Châu và
Phan Châu Trinh vẫn chưa được làm rõ.
Tựu chung lại, các công trình trên là nguồn tài liệu quí báu và là sự định
hướng để tôi đi sâu vào nghiên cứu đề tài này để làm rõ một số vấn đề khoa học
mà các công trình khác chưa làm sáng tỏ được.
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu và đóng góp của đề tài
- Cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu là một vấn đề rộng lớn gồm
nhiều lĩnh vực. Do những khó khăn về tư liệu nên chúng tôi chỉ tập trung đi sâu
vào nghiên cứu vấn đề “Phan Bội Châu với công cuộc vận động thanh niên”.
- Đề tài tái hiện lại cuộc đời hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu, làm
rõ được những thách thức mới về công cuộc vận động thanh niên trong tư tưởng
cứu nước của mình.
- Làm rõ thêm quan niệm nhận thức của Phan Bội Châu về các tầng lớp
trong xã hội đặc biệt là lực lượng thanh niên - thế hệ tương lai của đất nước
thông qua các phong trào yêu nước của ông. Đồng thời thấy được sự giống và
khác nhau trong quan điểm cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
- Giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống tôn
trọng và đề cao các anh hùng có công với nước… cho thế hệ thanh niên Việt
Nam hiện nay.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận chủ yếu sử dụng các nguồn tài liệu đã được công bố trong các

5
công trình nghiên cứu ở trong nước.
- Trên cơ sở nền tảng của phương pháp luận sử học Mác-xít và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Khóa luận chủ yếu thực hiện bằng các phương pháp sau: lôgic, so
sánh, đối chiếu, phân tích tư liệu…
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận kết cấu thành

ba chương:
Chương 1. Vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu
Chương 2. Nội dung tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu
Chương 3. Quan điểm của Phan Bội Châu với công cuộc vận động
thanh niên




















6
CHƯƠNG 1
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA
PHAN BỘI CHÂU
Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, Phan

Bội Châu có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ông chính là cầu nối giữa phong trào Cần Vương với các văn thân sĩ phu yêu
nước, trải qua các cuộc đấu tranh của giai cấp tiểu tư sản và tư sản cho đến
phong trào cách mạng hiện đại, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và
Đảng tiền phong của nó là Đảng cộng sản Đông Dương. Tên tuổi nhà chí sĩ họ
Phan đã được nhân dân ta kính mến, cụ Phan là tượng trưng cho một lượng cách
mạng trong lịch sử cận đại Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu
được gói gọn trong mấy chữ Thanh tâm phụng sự Tổ quốc. Hồ Chí Minh rất
kính phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, Người viết Phan Bội Châu,
bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập được hai mươi triệu con
người trong vòng nô lệ tôn sùng. Để khẳng định và làm rõ thêm những lời nhận
xét đưa ra trên đây, tôi muốn ghi vài nét về Phan Bội Châu trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc những năm đầu thế kỉ XX.
1.1. Tiểu sử cuộc đời, thân thế
Phan Bội Châu, sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 - mất ngày 29 tháng 10
năm 1940 là một nhà cách mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp, tên
thật là Phan San, hiệu là Sào Nam có nghĩa là:” Chim Việt làm tổ cành Nam –
Việt điểu Sào Nam chi”. Năm Tự Đức thứ 20 nghĩa là năm năm sau khi Pháp
đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì và chính vào năm mà Pháp đánh
chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kì, cụ Phan cất tiếng khóc chào đời “Một
tiếng khóc oa oa hình như đã báo trước cho tôi rằng: “mày sẽ phải làm một
người mất nước”.
Theo Gia phả họ Phan, ông sinh tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, cha là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn. Ông
nổi tiếng thông minh từ bé, năm 6 tuổi học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh, 7
tuổi ông đã đọc hiểu sách Luận Ngữ, 13 tuổi ông thi đỗ đầu huyện. Thuở thiếu
thời ông đã sớm có lòng yêu nước. Năm lên 9 tuổi đã cùng các bạn nhỏ tụ tập
giả đùa làm quân Bình Tây, lập đội thí sinh quân. Năm 17 tuổi ông viết bài hịch
Bình Tây Thu Bắc đem dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kỳ khởi
nghĩa kháng Pháp. Năm 19 tuổi (1885) ông cùng bạn Trần Văn Lương lập đội

nghĩa quân Cần Vương chống Pháp nhưng việc không thành. Gia cảnh khó
khăn, ông đi dạy học kiếm sống và học thi, nhưng thi suốt 10 năm không đỗ, lại

7
can tội Hoài hiệp văn tự (mang văn tự trong áo) án ghi Chung thân bất đắc ứng
thí (suối đời không được dự thi). Năm 1896, ông vào Huế dạy học, do mến tài
ông nên các quan xin vua Thành Thái xóa án Chung thân bất đắc ứng thí. Khi
được xóa án, ông dự khoa thi hương năm Canh Tý (1900) ở trường Nghệ và đậu
Giải nguyên. Có tài liệu cho rằng bài làm của ông quá xuất sắc đến nỗi khi yết
bảng, trường thi đã làm 2 bảng, 1 bảng ghi 5 chữ to Giải Nguyên Phan Bội
Châu, bảng kia ghi tên những người thi đỗ còn lại. Cậu Bảng một tên lừng lẫy
tiếng làng văn từ đó mà ra.
Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan như vậy nên cụ sớm mang nặng tấm
lòng yêu nước, thương nòi. Cụ đã nhận rõ trách nhiệm của người dân bị mất
nước là phải sẵn sàng hy sinh, cống hiến cả cuộc đời mình cho sự tồn tại và
cường thịnh của dân tộc. “Năm tôi 17 tuổi, Pháp chiếm lấy Hà Nội và các tỉnh
Bắc Kì. Đến năm tôi 19 tuổi vua Hàm Nghi nguyên niên, binh Pháp chiếm kinh
thành Huế, vua Hàm Nghi phải chạy, cung điện bày ra cảnh hoang lương. Tấn
kịch vong quốc mở ra từ tháng 7 Hàm Nghi năm đầu trở đi vậy. Ôi, trời nghiêng
đất ngả, lúc này kẻ làm trai đội trời, đạp đất, ai lỡ dòm non sông bằng con mắt
gỗ đá trở cho đành”.
Trước cảnh bi thương đó, người có nghĩa khí như cụ Phan không thể
nhắm mắt làm ngơ trước vận mệnh của dân tộc. Ngay từ thuở nhỏ, cụ Phan đã
có nhiều hành động thể hiện một ý chí khác thường. Năm lên 9 tuổi (1876)
được tận mắt chứng kiến phong trào của Văn thân Nghệ An, Hà Tĩnh khởi
nghĩa lấy khẩu hiệu “Bình Tây” để triệu tập nhân dân kháng chiến chống
Pháp. Cụ Phan đã tụ tập các bạn nhỏ giả đùa làm quân Bình Tây và bị cho
quở phạt rất nghiêm khắc.
Năm 1883, khi thực dân Pháp kéo quân ra đánh Bắc Kì lần thứ hai, Tổng
đốc thành Hà Nội là Hoàng Diệu đã tử tiết, nhân dân vô cùng phẫn nộ, nhiều nơi

nghĩa quân nổi dậy rất rầm rộ. Phan Bội Châu muốn bỏ nhà ra Bắc hưởng ứng
các nghĩa đảng ở Bắc Kì nổi dậy đánh giặc, nhưng phần vì gia đình bận bịu,
phần vì đường xá cách trở không thể làm theo ý muốn được. Ông đã thức suốt
đêm thảo một bài hịch mang tên “Bình Tây Thu Bắc” tức là đánh Tây để lấy lại
đất Bắc rồi bí mật đem dán lên cây ngoài đường quan để cổ động chúng nổi dậy
giết giặc. Bài hịch chẳng được ai chú ý đến. Không nản lòng, cụ ra sức trau dồi
văn chương cử tử với hy vọng một ngày nào đó sẽ làm nên sự nghiệp.
Như vậy, tất cả những hành động thuở niên thiếu của cụ Phan xuất phát từ
tấm lòng yêu nước, sôi nổi, nhiệt tình của cụ đều bị thất bại và để lại cho cụ
nhiều bài học kinh nghiệm đầu tiên trong cuộc đời hoạt động. Cụ đã nhận ra

8
rằng: muốn làm được việc lớn phải lập danh theo thời và bồi dưỡng lực lượng.
Sau đó vì hoàn cảnh gia đình, mẹ chết, cha ốm nặng, cụ Phan phải tạm dừng các
hoạt động cứu nước của mình để dùi mài kinh sử và chăm sóc cha già. Trong
khoảng thời gian dài (10 năm) đó cụ vẫn bí mật liên lạc với một số người có ý
chí cứu nước diệt thù. Trong đó cụ đã được tiếp kiến các dư Đảng của Phan
Đình Phùng, nhất là cụ đã gặp được một người bạn tâm phúc là Đặng Thái
Thân. Sau này là người đồng chí đã giúp đỡ cụ Phan rất nhiều.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến bọn đế quốc
sâu xé từng miếng đất của tổ quốc để rồi cướp hẳn nước ta làm thuộc địa. Cụ vô
cùng đau xót trước cảnh thương tâm này “đau đớn thay mất quốc quyền, thương
xót thay mất quốc quyền” rồi đau đớn thay trước cảnh ly tan. Chính điều này đã
có tác dụng rất lớn đối với việc hình thành tư tưởng cứu nước của cụ Phan.
1.2. Sự nghiệp
Với một tấm lòng yêu nước nồng nhiệt và một trái tim nhạy cảm, từ lúc còn
là một cậu bé, Phan Bội Châu đã thấy nhức nhối tâm can khi từng thước đất của
Tổ quốc rơi vào tay bọn Pháp xâm lược. Nghe tin Pháp chiếm Bắc Kì, Phan thức
trắng đêm để viết hịch “Bình Tây thu Bắc”. Thấm nhuần những quan niệm mới
về trung quân ái quốc của Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu đã vươn lên tìm

hiểu những trào lưu tư tương tiến bộ từ bên ngoài dội vào. Cụ trở thành người
đóng vai trò chủ yếu trong việc chuyển hóa tư tưởng Việt Nam từ phạm trù
phong kiến lên phạm trù dân chủ tư sản. Khi bàn về hệ ý thức tư sản và sự thất
bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Giáo sư Trần Văn Giàu đã khẳng định: “ai
cũng phải thừa nhận rằng nếu Phan Bội Châu không phải là một nhà triết học thì
cụ đúng là một nhà chính trị xuất sắc nhất, tiêu biểu nhất của nước ta hồi đầu thế
kỉ XX, trong giai đoạn từ chiến tranh thế giới thứ nhất trở về trước”[8, 140].
Khác với một số sĩ phu đương thời, khi nghiên cứu lịch sử các cuộc đấu
tranh vũ trang chống Pháp xâm lược, Phan Bội Châu và các cộng sự của cụ hiểu
rõ thế và lực giữa ta và địch trong các trận đấu mà các cụ đang bày mưu tính kế
tiến hành. Bất chấp các thất bại liên tiếp, các sĩ phu yêu nước vẫn tin vào tương
lai của nước Việt Nam, vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc Việt Nam. Do đó
việc làm đầu tiên là phải rèn đức ý chí: “Nếu nước Việt Nam còn có nhân tâm,
thì rồi đây mất hay còn cũng chưa biết đâu. Mạnh hay yếu, to hay nhỏ chỉ là
phần xác hữu hình. Can đảm hay hèn nhát, thành thật hay giả dối, mới là phần
tinh thần không ai thấy được. Đem tinh thần mà chọi với xác thịt, thì càng dùi
mài lại càng kiên cố, càng tỏa chiết lại càng mạnh mẽ, dẫu lúc đó không thể
thắng được, thì rốt cục rồi sẽ thắng. Hơn nhau là ở chỗ có can đảm hay không

9
can đảm, có nhiệt thành hay không nhiệt thành mà thôi. Người Việt Nam nếu
quả có lòng yêu nước, có cái máu hăng của giống ong mật đối với chúa, liều
chết đâm đầu vào mà đánh kẻ thù, có cái liều của giống hùm beo khi cần bảo vệ
con cái của nó, thì rồi đất dẫu có thể già cỗi, trời đất có mịt mù, núi có cháy,
biển có cạn khô, nhưng cái nhiệt thành, cái can đảm đó, vẫn không một giây
phút nào là bị tiêu hao. Thế nghĩa là tinh thần đã vững, thì xác thịt tự nhiên
mạnh khỏe”[20, 48]. Cụ Phan khẳng định rằng: với một chí cứu nước như vậy “
thì hơn mấy nghìn thằng quỷ sứ người Pháp lâu nay làm cho thần linh phải chán,
người căm hờn với chúng kia, cũng sẽ không tài nào cùng ăn ngồi với năm mươi
triệu người Việt Nam yêu nước trên đất này được”[20, 48]. Như vậy, các sĩ phu

coi chủ nghĩa yêu nước là vũ khí tinh thần, là nền tảng tư tưởng vĩnh cửu, là cái
thực thể tiềm ẩn trong cộng đồng người Việt và ở Việt Nam có thể tìm thấy
trong mọi hạng người. Nắm vững đặc điểm tâm lí ấy, các sĩ phu yêu nước đầu
thế kỉ XX quyết tâm tổ chức một cuộc cách mạng mới với việc quy tụ các lực
lượng dân tộc là chủ yếu kết hợp với việc tìm kiếm những bạn đồng minh trong
thế giới hiện thời.
Năm 1900, cụ 34 tuổi thì đỗ Giải nguyên trường Nghệ, tiếng tăm đã lan
rộng khắp Nghệ Tĩnh và cũng trong năm đó thân sinh cụ tạ thế.
Năm 1901, sau khi đỗ đầu (giải nguyên) khoa thi Hương tại trường thi
Nghệ An, Phan Bội Châu và các cộng sự tin cậy đã cùng thống nhất vạch ra ba
kế hoạch lớn với mục tiêu là: “Đánh giặc phục thù”, “cốt sao khôi phục được
nước Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì
khác” [ 3, 43]. Có lẽ vì chưa có cơ sở lí luận để tạo lập ra một chủ nghĩa mới và
việc cứu nước đang trở nên khẩn thiết, nên các cụ đành mượn ngọn cờ phong
kiến để quy tụ lực lượng. Những người khởi xướng phong trào chủ trương liên
kết với các dư đảng Cần Vương và những tay tráng kiện sơn lâm khởi xướng
nghĩa binh, tìm lấy một người trong hoàng tộc tôn làm minh chủ; tập hợp các
người trung nghĩa ở Bắc Kì, rồi ngầm liên kết với những người có thể lực lúc
bấy giờ giúp đỡ; khi có cơ hội và cần thiết thì “xuất dương cầu ngoại viện”, và
dùng thủ đoạn bạo động để đánh giặc khôi phục độc lập dân tộc. Tư tưởng này
đã được Phan Bội Châu đưa vào cương lĩnh hoạt động của Duy Tân hội (1904).
Trong vòng 5 năm sau khi đỗ giải Nguyên, ông bôn ba khắp nước Việt
Nam liên kết với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn
Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê
Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê Đại để cùng họ chống Pháp. Ông chọn

10
một hoàng thân nhà Nguyễn, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, làm lãnh tụ phong trào
Cần Vương. Năm 1904, ông cùng 20 đồng chí họp mặt tại Quảng Nam để thành

lập hội Duy Tân. Mục đích của hội là khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước
Quân chủ lập hiến. Sau đó cụ cùng các đồng chí phát động phong trào Đông Du
với hy vọng là dựa vào Nhật để đánh Pháp, khôi phục đất nước. Năm 1905, ông
cùng Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật Bản để gặp gỡ các nhà cách
mạng Nhật và Trung Quốc và cầu viện trợ tài chính cho phong trào do ông thành
lập. Tại Trung Quốc ông gặp Lương Khải Siêu, và được khuyên nên dùng thơ
văn để thức tỉnh lòng yêu nước của dân Việt. Nghe lời khuyên, ông viết nhiều
tác phẩm có tác động lớn với sĩ phu trong nước (Việt Nam Quốc sử khảo; Ngục
Trung Thư, Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư; Việt Nam Vong Quốc Sử; Việt Nam
Quốc sử bình diễn ca…). Cùng thời điểm này chiến thắng của Nhật Bản tại trận
Tsushima trong Chiến tranh Nga - Nhật đã tạo nên nhiều lạc quan trong các
phong trào chống thực dân ở châu Á. Do đó, các tác phẩm của ông đã tạo nên
một làn sóng mới thúc đẩy nhiều thanh niên yêu nước tham gia phong trào Đông
Du, xuất ngoại học tập để tìm đường chống Pháp.
Như vậy, cụ Phan đã mở đầu cho con đường cách mạng bằng một hình
thức mới khác hẳn các lãnh tụ của phong trào Cần Vương trước đó. Cụ đã xác
định được kẻ thù chính là đế quốc Pháp và đã thấy được sự thối nát, hủ bại của
phong kiến trong những ngày tháng bôn ba nơi đất khách quê người được tiếp
xúc với những luồng tư tưởng mới, tiến bộ và các chính khách Nhật Bản. Tầm
nhìn của cụ đã vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của phong kiến, quyết tâm đi theo
con đường đấu tranh độc lập, xây dựng một chính thể cộng hòa, tiến theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy mà cụ đã không ngần ngại thủ tiêu hội
Duy Tân, thành lập Việt Nam Quang Phục Hội thất bại. Năm 1913, viên toàn
quyền Đông Dương Ga-rô thân hành sang Quảng Đông yêu cầu chính phủ
Trung Hoa bắt Phan Bội Châu. Cụ bị chính phủ Trung Hoa bắt giam tại Quảng
Đông trong vòng 3 năm thì được tha. Năm 1917, cụ ra tù đúng vào lúc cuộc đại
chiến thế giới thứ nhất bước vào giai đoạn quyết liệt. Đức thắng Pháp nhiều trận,
Nhật và Trung Hoa tuyên chiến với Đức. Phan Bội Châu bắt liên lạc với công sứ
Đức mong viện trợ của Đức để đánh Pháp. Cuối năm 1918 đang trên đường từ
Hàng Châu trở về nước thì cụ được tin Pháp thắng trận ở Trung Quốc. Thất

vọng, cụ quay trở lại Hàng Châu tìm một phương hướng mới cho con đường cứu
nước của mình. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công gây tiếng vang lớn đối
với thế giới. Từ đó trở đi cụ viết báo, viết sách để truyền bá tư tưởng cách mạng
của mình và kêu gọi nhân dân trong nước đi theo con đường của cụ lúc này đã
thiên về cách mạng thế giới.

11
Năm 1924, sau “Tiếng bom Phạm Hồng Thái” nhân dân trong nước phấn
khởi và thế giới lúc này bắt đầu biết đến Việt Nam. Phan Bội Châu khi đó đang
ở Hàng Châu đã trở về Quảng Đông thủ tiêu Việt Nam quang phục hội thành lập
Việt Nam quốc dân Đảng. Gặp Nguyễn Ái Quốc từ Mạc Tư Khoa trở về, được
nghe Nguyễn Ái Quốc trao đổi nhiều vấn đề xoay quanh cách mạng vô sản thế
giới, tư tưởng của cụ đã có sự chuyển biến lớn, tích cực phù hợp với xu thế thời
đại. Cụ chưa kịp có những hành động theo tư tưởng mới của phong trào cách
mạng thế giới thì bị mật thám Pháp bắt và bị giam lỏng tại Huế. Trong những
năm tháng cuối cùng của cuộc đời, trong căn nhà lá đơn sơ tại bến Ngự, chịu sự
giám sát của kẻ thù, cụ đã không trực tiếp làm cách mạng được nữa nhưng cụ
vẫn tiếp tục viết sách báo kêu gọi lòng ái quốc của nhân dân. Ngày mùng
9/10/1941 sau một thời gian ốm khá lâu, cụ đã trút hơi thở cuối cùng.
Sau 30 hoạt động cách mạng, cụ đã để lại trong mỗi chúng ta một ấn tượng
sâu sắc. Tinh thần diệt dù, cứu nước của cụ làm chúng ta khâm phục, tóm tắt
cuộc đời và sự nghiệp của cụ Phan chỉ cần gói gọn trong mấy chữ “Thanh tâm
phụng sự tổ quốc là đúng”. Đến như chủ tịch Hồ Chí Minh cũng phải thốt lên
với tấm lòng ngưỡng mộ vô hạn “ Phan Bội Châu bậc anh hùng, vị thiên sứ,
đấng sả thân vì độc lập được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng”.
Trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của cụ Phan chúng ta thấy nổi bật lên
một điểm đó là lòng yêu nước. Lòng yêu nước của cụ Phan thể hiện ở nhiều màu
sắc, góc cạnh khác nhau. Chính xuất phát từ lòng yêu nước đã dẫn cụ Phan đến
với tư tưởng chính trị và cùng lòng yêu nước đã chi phối rất lớn đến những hành
động và thủ đoạn cách mạng của cụ.

Cái bầu máu nóng, tình yêu nước nồng nàn đó như một ngọn lửa thiêu đốt
tâm can cụ, chi phối mọi hành động mọi suy nghĩ của cụ ở mọi nơi, mọi lúc, nó
trào qua ngòi bút của cụ thành những dòng văn, những câu thơ khiến cho người
đọc còn thấy “cái đỏ tàn của máu con đỗ quyên còn lâm ly trên mặt giấy” hay
còn cho mọi người thấy “một bầu tâm huyết tưới ra khắp Hoành Tân, Băng Cốc,
Thượng Hải, Yên Kinh ông về núi ngự sông Hương vùi xuống cửu nguyên còn
đóng cục”.
Lòng yêu nước của cụ Phan thể hiện ở nhiều màu sắc, góc cạnh khác nhau.
Có khi nó được thể hiện qua một niềm tự hào, chính đáng đối với truyền thống
đấu tranh oanh liệt của tổ tiên xưa kia:
“ Mà xem gương chuyện xưa kia
Để công hùng vũ si bì được đây

12
Nọ thủ trước đá tàu mấy lớp
Cõi trời Nam cỡ nghiệp mở mang
Sông Đằng lớp sóng Trần vương
Núi Nam rẽ sóng mở đường nhà Lê
Quang Trung đế từ khi độc lập
Khí anh hùng đầy lấp Lam Sơn”.
Cũng có khi lòng yêu nước của cụ là một niềm tự hào gắn bó thiết tha với
tổ quốc giàu đẹp, “đáng yêu thay, thật là tấc đất tấc vàng những thứ mà tiên
vương, tiên nhân ta để lại cho con cháu thật là vô cùng phong phú”. Tư tưởng
yêu nước của cụ Phan còn được xây dựng trên nền tảng của lí trí, của tình cảm,
bày tỏ một lòng yêu nước nhiệt thành đi đôi với sự suy luận thấu đáo về các khái
niệm “ Quốc gia”, “Đất nước”. Cụ xem quốc dân là chủ nhân của đất nước nên
phải có trách nhiệm với đất nước.
Như vậy, từ lòng yêu nước của cụ đã đề cao vai trò của đất nước và thức
tỉnh mọi người và nhận ra rằng: cứu nước cũng chính là cứu bản thân mình để từ
đó làm động cơ thúc đẩy họ sẵn sàng hi sinh để cứu lấy dân tộc. Vô hình dung,

lòng yêu nước của cụ đã có tác dụng rất tích cực đối với sự phát triển của phong
trào cách mạng giải phóng của nước ta những năm đầu thế kỉ XX. Khi bàn về
chủ nghĩa yêu nước của cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Đức Sự đã nhận xét rằng
trong phong trào cách mạng thế kỉ XX nổi bật lên một cách rực rỡ ngọn cờ yêu
nước của Phan Bội Châu. Ngọn cờ đó tiêu biểu cho tinh thần cứu nước của nhân
dân ta lúc đương thời. Giờ đây mỗi khi nhắc lại chủ nghĩa yêu nước của Phan
Bội Châu, chúng ta thấy rạo rực, hăng hái, thấy nhiệt tình cách mạng thêm sôi
sục, nó vẫn còn sức mạnh động viên mỗi người chúng ta trong sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước ngay cả những thành công hay thất bại, những quan điểm đúng,
sai của nhà cách mạng Phan Bội Châu cũng để lại cho chúng ta những bài học
vô cùng quý giá.
Như vậy, từ việc tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của
Phan Bội Châu, ta có thể thấy rằng chính hoàn cảnh lịch sử lúc ông sinh ra, hoàn
cảnh gia đình cũng là một nhân tố thúc đẩy Phan Bội Châu hình thành tư tưởng
yêu nước và lựa chọn con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản.




13
CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG CỨU NƯỚC CỦA PHAN BỘI CHÂU
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.1. Tình hình thế giới
Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, tình hình thế giới có nhiều chuyển
biến to lớn, có tác động mạnh mẽ đến Việt Nam.
Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản đang chuyển sang giai đoạn Đế quốc chủ
nghĩa. Các nước tư bản như Mĩ, Anh, Pháp, Đức sự tập trung sản xuất tư bản
đã đạt tới mức độ rất cao, thành lập nhiều tổ chức lũng đoạn có vai trò quyết
định đến đời sống kinh tế, chính trị thế giới. Tư bản tài chính ngày càng lớn

mạnh, xuất khẩu tư bản trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhu cầu phát triển
mạnh đòi hỏi các nước tư bản đẩy mạnh việc xâm chiếm thị trường và thuộc địa.
Vì vậy các nước đế quốc tiến hành bành trướng sang các nước ở khu vực châu Á
- Phi - Mĩ Latinh. Trong đó Anh, Pháp là hai đế quốc già có nhiều thuộc địa nhất
ở khắp nơi trên Thế giới. Các nước tư bản khác cũng đang dần xác lập hệ thống
thuộc địa của mình.
Dưới ách áp bức của chủ nghĩa thực dân, nhân dân các nước thuộc địa đã
liên tiếp đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc. Những sự kiện diễn ra cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX mà Lênin gọi là “sự thức tỉnh châu Á”. Một trong số
những sự kiện có tác động mạnh mẽ đến Việt Nam là Cải cách của Ra-ma ở
Xiêm, phong trào Lương tri xã hội ở In-đô-nê-xi-a, tổ chức Đồng minh hội ở
Xin-ga-po, Hội liên hiệp Phật giáo ở Mi-an-ma trong đó những sự kiện tiêu
biểu tác động mạnh mẽ nhất tác động đến nước ta là các sự kiện diễn ra ở Nhật
Bản, Trung Quốc, Ấn Độ.
* Ảnh hưởng từ Trung Quốc: thời kì này ở Trung Quốc diễn ra nhiều sự
kiện quan trọng tác động mạnh mẽ đến các văn thân sĩ phu yêu nước Việt Nam.
Đó là cuộc vận động Duy Tân của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu khởi
xướng, cuộc cách mạng Tân Hợi do Tôn Trung Sơn lãnh đạo. Sự thành lập nước
Trung Hoa dân quốc trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Tam dân (dân tộc độc
lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc), đã thực sự tác động đến nhãn quan
chính trị của các nhà yêu nước Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
* Ảnh hưởng từ Nhật Bản: trước năm 1868, Nhật Bản là một nước quân
chủ cũng theo chính sách “bế quan tỏa cảng” như Việt Nam. Bước sang thế kỉ
XVIII, sự phát triển nội tại của Nhật Bản đã làm cho mầm mống chủ nghĩa tư
bản phát triển mạnh mẽ. Đó là các hải cảng, công trường thủ công xuất hiện

14
ngày càng nhiều ở các thành thị, nền kinh tế hàng hóa có bước phát triển mạnh
mẽ. Tầng lớp Sa-mu-rai thuộc giới quí tộc hạng trung và hạng nhỏ không có
ruộng đất chỉ phục vụ cho các Đai-mi-ô bằng việc huấn luyện và chỉ huy các đội

vũ trang để hưởng bổng lộc. Sau một thời gian dài không có chiến tranh, các đơn
vị của Sa-mu-rai bị suy giảm lương bổng thất thường, nhiều người đã ra khỏi
lãnh địa tham gia vào các hoạt động thương nghiệp, mở các xưởng thủ
công dần dần họ thành các tư sản hóa. Họ có thế lực kinh tế nhưng không có
thế lực chính trị, địa vị xã hội tương ứng. Vì vậy lực lượng này đã đấu tranh
mạnh mẽ chống lại chế độ phong kiến đã lỗi thời.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đồng thời nhu cầu thị trường đòi
hỏi ban đầu là xâm nhập vào các nước khác, đặc biệt là các nước lạc hậu. Nhật
Bản cũng nằm trong số đó. Đến giữa thế kỉ XIX nước Nhật đã lâm vào một cuộc
khủng hoảng trầm trọng, với những mâu thuẫn về quan hệ sản xuất. Họ đứng
trước hai lựa chọn hoặc là duy trì chế độ phong kiến đã lỗi thời, hoặc là tiến
hành duy tân cải cách. Cuối cùng, nhờ có một số người lãnh đạo thức thời sớm
tỉnh ngộ trước họa xâm lăng, đã lật đổ các thế lực bảo thủ trong nước, đưa nước
Nhật phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vẫn còn rất nhiều
những tàn tích của phong kiến song nước Nhật thoát khỏi họa xâm lăng, trở
thành một nước độc lập, phát triển mạnh về kinh tế, có cả chính sách bành
trướng ra ngoài.
Trong thời gian này, Việt Nam đang lúng túng trước cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp. Đặc biệt là sau khi phong trào Cần Vương thất bại
(1896) những người Việt Nam yêu nước đang loay hoay tìm con đường cứu
nước mới thì cuộc chiến tranh Nga - Nhật nổ ra, Nhật đại thắng. Sự kiện này
vang dội khắp năm châu, có tác động mạnh mẽ tới các nhà yêu nước Việt Nam.
Họ bỏ qua nước Nhật là một nước đế quốc, mà chỉ coi Nhật Bản là một nước
“đồng chủng, đồng văn” đã đánh thắng một nước đế quốc rộng lớn. Nhật Bản
được xem như “thần tượng mới”, người anh cả da vàng ở châu Á, đã cổ vũ mạnh
mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu
Á. Từ đó hình thành nên một xu hướng thân Nhật đã lan rộng ra khắp châu Á.
* Ảnh hưởng từ Ấn Độ: Ấn Độ vốn là thuộc địa của Anh, cuối thế kỉ XIX,
đầu thế kỉ XX, tình hình Ấn Độ cũng có sự tác động mạnh mẽ đến Việt Nam.
Cuối thế kỉ XIX, ách thống trị của thực dân Anh bóp chặt về chính trị, đẩy

mạnh khai thác, bóc lột về kinh tế, đàn áp phong trào đấu tranh làm cho xã hội
Ấn Độ có sự biến đổi mạnh mẽ, nhiều giai cấp xã hội mới xuất hiện như tư sản,
tiểu tư sản, vô sản

15
Giai cấp tư sản Ấn Độ xuất hiện vào những năm 50 của thế kỉ XIX,
trưởng thành sớm, có ý thức giác ngộ cách mạng, tinh thần dân tộc, giai cấp và
trở thành lực lượng xã hội có khả năng nhất trong việc giành quyền lãnh đạo
nhân dân Ấn Độ chống lại thực dân Anh. Năm 1885, Đảng Đại hội quốc dân
toàn Ấn Độ (Đảng Quốc đại) được thành lập ở Bom-bay. Đảng Quốc đại ra đời
với tư cách là một chính đảng đầu tiên của giai cấp tư sản ở Ấn Độ. Thông qua
chính đảng của mình, giai cấp tư sản Ấn Độ tiến hành lãnh đạo nhân dân vùng
lên đấu tranh. Nhờ đó mà phong trào đấu tranh nổi lên mạnh mẽ trong mọi tầng
lớp nhân dân buộc thực dân Anh phải có chính sách cai trị mới.
Nền văn hóa Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ. Đến thời
gian này tư tưởng chống Anh ở Ấn Độ tuyên truyền rộng rãi. Cương lĩnh và
những quan điểm của giai cấp tư sản Ấn Độ được trình bày trong nhiều bài báo
gây ấn tượng sâu sắc trong lòng những người yêu nước Việt Nam.
Trong thời gian này, cùng với sự du nhập của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nền tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây cũng dần dần được truyền bá
vào Việt Nam thông qua các sách Tân thư của Vôn-te, Mông-te-xki-ơ, Đi-đơ-
vô Dưới ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản ở châu Âu và nước Pháp cũng
đã ảnh hưởng rất lớn đến nhãn quan chính trị của các văn thân sĩ phu yêu nước ở
Việt Nam.
Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự hình thành khuynh hướng
cứu nước mới trong phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân ta đầu thế kỉ
XX trong đó có nhà yêu nước Phan Bội Châu.
2.1.2. Tình hình trong nước
Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập,
có chủ quyền, nhưng chế độ phong kiến đã bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng

hoảng và suy yếu nghiêm trọng. Kinh tế ngày càng sa sút, nền tài chính khó
khăn. Đúng như Nguyễn Tri Phương nhận xét về tình hình Việt Nam trong nửa
cuối thế kỉ XIX thì nước ta “của đã hết, sức đã kiệt”. Đã thế nhà Nguyễn còn
đưa ra một số chủ trương chính sách gây bất lợi cho sự phát triển kinh tế. Đường
lối đối ngoại sai lầm với chính sách “bế quan tỏa cảng” đã khiến cho Việt Nam
bị cô lập. Việc hạn chế ngoại thương không xuất phát từ mục đích bảo vệ thị
trường trong nước mà xuất phát từ mục đích ngăn chặn sự xâm lược từ bên
ngoài. Nhà Nguyễn đã tiến hành đàn áp các giáo sĩ phương Tây một cách tàn
nhẫn và mù quáng. Việc cấm đạo, sát đạo càng làm cho kẻ thù có cái cớ để tiến
hành xâm lược nước ta. Các ông vua triều Nguyễn lúc bấy giờ chưa thức thời
với hoàn cảnh khu vực và thế giới, họ ra sức củng cố quyền lợi của giai cấp. Chỗ

16
dựa của nhà nước phong kiến là tầng lớp địa chủ. Ruộng đất tư lúc bấy giờ phát
triển mạnh hơn bao giờ hết với khoảng 83% nằm trong tay giai cấp thống trị,
còn lại là ruộng đất công và số ít là của nông dân. Chính vì vậy, đời sống của
nhân dân lao động rất khổ cực, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra
làm cho tình hình đất nước càng thêm rối ren.
Trong cuộc chạy đua giành giật thuộc địa giữa các nước tư bản phương Tây
ở khu vực Đông Dương, thì thực dân Pháp đã bám sâu vào được Việt Nam
thông qua hội truyền giáo thừa sai Pa-ri. Cũng thông qua các mối quan hệ đã có
từ trước, cùng với sự suy yếu của chế độ phong kiến Việt Nam, chính phủ Pháp
ráo riết thực hiện âm mưu xâm lược nước ta.
Triều đình phong kiến nhà Nguyễn vì những mục đích riêng của mình đã
chống cự một cách yếu ớt, dần chuyển sang chia sẻ quyền lực với Pháp. Thực
dân Pháp lợi dụng sự rối ren đó ngày càng từng bước đặt thêm ách thống trị lên
nước ta thông qua hàng loạt các Hiệp ước như Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất
(1874), Hác-măng (1883), Pa-tơ-nốt (1884).
Như vậy, sau khi triều đình nhà Nguyễn kí kết các Hiệp ước đầu hàng, đặc
biệt là sau Hiệp ước Pa-tơ-nốt đã chính thức xác nhận quyền thống trị của thực

dân Pháp trên đất nước ta, Việt Nam chính thức trở thành một nước thuộc địa
nửa phong kiến.
Các phong trào đấu tranh trong nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tiêu biểu
là phong trào Cần Vương (1885 - 1896) thất bại, đã chứng tỏ con đường đấu
tranh giải phóng dân tộc theo ngọn cờ phong kiến đã không còn phù hợp.
Sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay ngay vào công
cuộc khai thác thuộc địa thông qua các cuộc khai thác lần thứ nhất (1897 - 1914)
và lần thứ hai (1919 - 1929) chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế ở
chính quốc. Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp đã tạo nên ít nhiều những
thay đổi trong xã hội Việt Nam.
Trước tiên nó phá vỡ nền kinh tế tự cung, tự cấp của nước ta, quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã du nhập vào nước ta. Nó cũng làm cho cơ cấu xã hội có
những biến đổi sâu sắc. Ngoài cơ cấu giai cấp cũ, xã hội nước ta thời kì này
cũng đã xuất hiện giai cấp mới như tư sản, tiểu tư sản, vô sản, giữa những giai
cấp này liên tục có sự phân hóa và biến động cả về địa vị và số lượng.
Nhìn chung, công cuộc khai thác bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã
làm cho tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước ta có sự chuyển biến sâu sắc về
tất cả các mặt, đặc biệt là sự ra đời của những giai cấp mới. Những tác động này

17
kết hợp với những ảnh hưởng từ bên ngoài như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản
đã góp phần hình thành tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam thời kì này.
2.2. Tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu
2.2.1. Tư tưởng, chủ trương cứu nước của Phan Bội Châu từ đầu thế kỉ XX
đến trước chiến tranh Thế giới thứ nhất
Với lòng nhiệt thành yêu nước, Phan Bội Châu không thể can tâm đứng
nhìn dân tộc mình trong thảm cảnh “Nước Việt Nam mơ màng đôi mắt ngủ uể
oải. Một thân bệnh tôn quyền ức dân quyền, tôn trọng văn minh võ sĩ, trộm cắp
rình mò ở ngoài sân, mà vợ con say hát trong nhà, chủ nhà nằm dài trên giường
luôn ngáp dài mỏi mệt, ôi nguy ngập lắm” [4, 27]. Năm Phan Bội Châu đỗ giải

Nguyên cũng là năm cha ông mất. Sau khi cha mất Phan Bội Châu sẽ tha hồ mà
hoạt động không sợ liên lụy đến cha mình nữa. Nhưng lúc đó con đường cứu
nước của ông còn mờ mịt, chưa có hướng đi rõ ràng. Ông chỉ biết rằng mình
phải hành động để cứu lấy nước, lấy dân, giải phóng dân tộc ta khỏi kiếp nô lệ
lầm than, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Nhưng để hoàn thành tâm nguyện trên
thì bằng cách nào ông cũng chưa biết. Lúc này ông vẫn còn ảnh hưởng khá sâu
sắc tư tưởng phong kiến. Từ sau những thất bại của mình trong các hoạt động
như viết hịch “Bình Tây thu Bắc” hay lập đội thí sinh quân, Phan Bội Châu đã
nhận thấy rõ một điều ở thời này muốn làm được một việc gì đó thì phải lập thân
bằng công danh. Khi mình có công danh rõ ràng, mình phải làm gì, hô hào gì
mọi người sẽ biết đến mà hưởng ứng. Mặc dù trong tâm trí của Phan Bội Châu
thì “lập thân hèn nhất là bằng văn chương”. Nhưng Phan Bội Châu thi cử đỗ đạt
không phải là mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trong thời điểm lịch sử lúc
bấy giờ cả xã hội Việt Nam vẫn còn mang nặng tư tưởng của đức Khổng, Mạnh
và có lẽ vì thế mà Phan Bội Châu mới hành động như vậy. Xét cho cùng thì
hành động đó cũng là vì thời cuộc. Qua đó ta cũng thấy được lòng yêu nước và
động cơ cao cả trong suy nghĩ của Phan Bội Châu. Sau này qua sự trải nghiệm
của bản thân, trong hồi kí của mình, Phan Bội Châu đã viết “Nước ta phụ thuộc
nước Tàu địa lí, lịch sử, gốc tích trải qua mấy nghìn năm nay như hai nước anh
em đã lâu đời lắm vậy. Bởi đó nước ta chỉ tôn sùng Hán học như thần thánh, mà
Hán học thì xem trọng khoa cử, văn từ. Từ nhỏ đến lớn, tư chất thông minh, vốn
công phu đèn sách dùi mài cũng không bê trễ nhưng kết quả chẳng qua cũng chỉ
là sự học khoa cử mà thôi. Và lúc bấy giờ khoa cử nhà Thanh đang sôi nổi như
gió cuốn mây bay, người nước mình bắt bóng theo chân chỉ sợ không giống y
như người Tàu. Bà con ta muốn cưỡi mây, lướt gió không thể nào không mượn
khoa cử, dù ai có muốn chẳng theo thời đi nữa cũng không có đường học nào

18
khác hơn mà đi. Than ôi! Chổi cùn trong nhà tựu xem là của quí, sự yêu thích
lâu đời cũng thành thói quen thành ra rốt cuộc tôi bị thời trạng trói buộc dẫn đến

nỗi tiêu hao ngày tháng về nghiệp khoa cử gần hết nửa đời người” [21, 11 - 12].
Như vậy Phan Bội Châu là người có lòng yêu nước sâu sắc. Từ tinh thần
yêu nước ấy, Phan Bội Châu đã đề cao vai trò của đất nước và thức tỉnh mọi
người nhận ra rằng cứu nước là cứu chính mình để từ đó làm động cơ thúc đẩy
họ hi sinh sẵn sàng cứu lấy dân tộc.
Khi bàn về chủ nghĩa yêu nước của Phan Bội Châu, Nguyễn Đức Sự đã
nhận xét rằng: “Trong phong trào cách mạng đầu thế kỉ XX, nổi bật lên một
cách rực rỡ ngọn cờ yêu nước của Phan Bội Châu. Ngọn cờ đó tiêu biểu cho tinh
thần của nhân dân ta lúc đương thời”
Trong thời kì đầu của cuộc cách mạng, chịu ảnh hưởng của Nho giáo, lại
chưa có một nhận định thấu đáo về tư tưởng chính trị, nên Phan Bội Châu chưa
vạch ra cho mình một chương trình hành động cụ thể nào. Nhưng qua đó cũng
nhận thấy rằng bản thân mình chưa thể gây dựng lên cơ đồ gì mà cần phải có
một cuộc vận động khác trong cả nước để chiêu nạp những người có nghĩa khí.
Trong thời gian tìm bước đi tiếp theo của mình, Phan Bội Châu đã mở lớp ngay
tại nhà mình. Bên ngoài là nơi dạy học, trong nhà là nơi đón tiếp bạn bè gần xa.
Có lúc Phan Bội Châu còn đi lên các vùng rừng núi Thanh - Nghệ - Tĩnh để giao
du với các Hào mục người dân tộc thiểu số. Có lúc tham gia các buổi hát dặm,
hát phường vải như trong tuổi thanh niên.
Nhưng hằng ngày phải tận mắt chứng kiến quốc dân sống kiếp lầm than, nô
lệ ông không thể chịu nổi. Phan Bội Châu đã tìm gặp những người cùng chí
hướng như Phan Bá Ngọc, Vương Thúc Quí, Đặng Thái Thân họ đã họp bàn
và thảo luận nhiều nhưng cũng chưa biết phải hành động như thế nào.
Giữa năm 1901, Phan Bội Châu cùng với cùng với vài chục người định
dùng giáo mác cướp súng của giặc đánh úp tỉnh Nghệ An, nhưng vì nội ứng sai
hẹn nên việc không thành, mưu cơ bị tiết lộ may có tổng đốc Nghệ An là Đào
Tấn vốn phục tài học của Phan Bội Châu nên ra sức che chở cho, Phan Bội Châu
mới thoát được. Chuyện đánh úp bị đổ vỡ, Phan Bội Châu cùng với Ngư Hải và
các đồng chí khác bàn bạc kế hoạch khởi nghĩa một cách thận trọng. Ngư Hải
nói: “Nếu chỉ khởi sự trong phạm vi Nghệ - Tĩnh mà thôi thì sẽ như cái thai mới

lọt lòng mẹ chưa kịp khóc oa oa đã chết yểu mất tôi tưởng trước hết ta nên vào
Nam, ra Bắc tìm kiếm những kẻ cùng làm việc với ta. Rồi anh em ba kì đồng
thời khởi nghĩa để chia sẻ lực lượng của địch, đồ đảng của ta đông may ra mới

19
thành công được” [2, 12]. Đồng tình với ý kiến của Đặng Thái Thân, Phan Bội
Châu đã vạch ra hành động cho mình.
Năm 1902, lấy cớ ra xem khánh thành cầu sông Cái (cầu Long Biên), Phan
Bội Châu đã tìm lên đồi Phần Xương gặp Hoàng Hoa Thám - lãnh tụ khởi nghĩa
Yên Thế xin được trợ giúp nhưng không được. Sau đó ông tiếp tục vào Nam làm
cuộc vận động. Trên đường chiêu nạp, Phan Bội Châu đã gặp những người cùng
chí hướng như Lê Võ, Nguyễn Quýnh, Nguyễn Hàm. Nguyễn Hàm đã khuyên
Phan Bội Châu rằng: “chúng ta muốn kêu gọi được nhân dân, nếu không mượn
kiếm vua chúa thì các nhà giàu có không ai chịu theo đâu. Vậy chúng ta dẫu có
lòng yêu nước cũng chỉ thể liều tính mạng cho trọn tiếng mà thôi không có lợi
ích cho việc lớn cả. Tin vua Hàm Nghi ở đâu bấy lâu nay chúng ta không được
biết đến, còn vua Thành Thái hiện ở trong tay người Pháp kiềm chế. Nay nếu
tìm được con cháu Hoàng Tử Cảnh là dòng dõi Gia Long thì việc hiệu triệu dân
Nam Kì sẽ dễ dàng, mà Nam Kì là kho vàng, vựa thóc, Gia Long đã nhờ đó mà
phục quốc”. Phan Bội Châu thấy đây là một ý kiến rất hay “tôi cùng Đặng Thái
Thân và Lê Võ ban đầu chưa tính đến việc tôn phù dòng họ nhà vua”, đến đây
cho lời Nguyễn Hàm là phải, thực hiện ý định đó, tìm kiếm mãi Phan Bội Châu
mới biết có kì ngoại hầu Cường Để là dòng dõi Hoàng Tử Cảnh đang trú tại ngôi
nhà trên sông An Cựu. Phan Bội Châu đã tìm gặp và thấy Cường Để là người có
chí khí, có thể cùng mưu đại sự thì rất vui mừng, Phan Bội Châu quyết dùng
danh Cường Để để mưu nghiệp lớn. Sở dĩ Phan Bội Châu chọn Cường Để và tôn
làm minh chủ vì mục đích chủ yếu là thu phục nhân tâm. Có Cường Để có nghĩa
là Phan Bội Châu đã có được một sức hút cần thiết cho ý đồ cách mạng của
mình. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ chỉ có danh nghĩa của Hoàng tộc mới có thể
chiêu mộ được rộng rãi quần chúng nhân dân. Còn về phía Cường Để, ủng hộ

Phan Bội Châu trước tiên là nhiệt tâm đánh Pháp, mặt khác cũng dựa vào kế
hoạch của Phan Bội Châu để thiết lập quyền lực cho mình. Như vậy ta có thể kết
luận cái nhìn của Phan Bội Châu về quân chủ thiên về hình thức hơn là nội tại.
Phan Bội Châu khéo lợi dụng Cường Để cho mục đích của mình, đầu tiên
Phan Bội Châu viết “Lư cầu huyết lệ tâm thư” thông qua các mối quan hệ của
Cường Để với chốn quan trường để mở rộng quan hệ, đồng thời mượn tay quan
lại để làm lan tỏa mục đích của mình thông qua “Lư cầu huyết lệ tâm thư”.
Từ khi gặp được Cường Để, Phan Bội Châu như có một chỗ dựa vững chãi,
ông hoạt động hết sức khẩn trương. Phan Bội Châu hết vào Nam lại ra Bắc để
chiêu mộ hiền tài và vô hình chung những hoạt động của cụ Phan lúc bấy giờ đã
tạo nên một làn sóng chống Pháp mạnh mẽ trong cả nước. Có thể nói rằng, từ

20
yêu nước đến tư tưởng quân chủ đến với Phan Bội Châu là hoàn toàn thụ động.
Quân chủ đối với Phan Bội Châu lúc này không phải là thần tượng, mà ông coi
đó là phương tiện để đạt được mục đích của mình. Phan Bội Châu không có sự
liên hệ với chế độ quân chủ từ trước như một số sĩ phu khác. Nhận thức của ông
về quân chủ cũng khác so với những đồng chí của mình. Tiểu La, Ngư Hải
muốn lợi dụng các lực lượng phong kiến ấy để đánh đuổi giặc trước rồi sau đó
tùy vào tình hình thời cuộc mà tổ chức một chính quyền cho phù hợp. Nhưng
những người ủng hộ Cường Để thì không nghĩ vậy, họ muốn sau khi sự nghiệp
đánh đuổi giặc Pháp thành công sẽ thiết lập một nền quân chủ mà Cường Để là
một ông vua chuyên chế với đúng nghĩa của nó. Còn Phan Bội Châu ngay từ
buổi đầu đã ý thức được hạn chế của nền quân chủ: “Tôi suy nghĩ, nếu công việc
của mình tính làm đẩy mà được với người trong quan trường giúp ngầm tất cả là
dễ dàng nên việc. Xong tôi suy đi tính lại, bọn làm quan là hạng trí não tầm
thường, mình khó lòng mưu toan việc lớn với họ mà không xong thì tai họa xảy
đến cho mình ngay. Tuy vậy mặc lòng chúng ta là người đã quyết hiến thân cứu
nước thì đầu cổ mình, tính mạng mình đều có thể hi sinh không sá kể gì. Vậy
thì, con đường họa phúc, lợi hại ta cứ dấn thân mình vào mà đi, há nếu chần chừ,

trốn tránh nữa sao” [2, 67].
Như vậy, ở hoàn cảnh lúc bấy giờ, thì Cường Để xem như một người của
thời đại. Phan Bội Châu gặp Cường Để cũng như Lưu Bị gặp được Khổng Minh,
chỉ khác Lưu Bị phải “tam khố thảo lư” mới cầu được Khổng Minh ra giúp việc,
còn đằng này Phan Bội Châu phải tự mình đi tìm Cường Để. Trên tinh thần đó,
đầu năm 1904, theo sự bố trí của Phan Bội Châu, thì ông cùng với Cường Để và
hơn 20 đồng chí khác đã họp tại nhà riêng của Nguyễn Hàm, thành lập một tổ
chức bí mật có tên là Duy Tân hội.
Với tư tưởng quân chủ, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông đã chủ
trương dùng biện pháp vũ trang bạo động để đánh đổ Pháp. Để thực hiện được
điều đó, thì điều cần thiết là phải có người, có khí giới và có tiền. Người và tiền
để phục vụ cho sự nghiệp phục quốc thì có thể dùng cái danh “ông Hoàng”
Cường Để mà có. Phan Bội Châu nhận thức được rằng với những con người mà
chỉ có cái dũng, mà không có cái trí, không được rèn luyện, học tập trang bị
những tri thức, kĩ thuật cần thiết thì không thể có phương pháp hành động khoa
học được. Do đó, để đào tạo ra các chiến sĩ cách mạng phải thông qua các
trường lớp chính quy. Và Phan Bội Châu đã tìm ra cách để tạo ra tiền đề để tiến
hành cách mạng đánh đổ thực dân Pháp đó là con đường cầu viện từ bên ngoài.
Con mắt của Phan Bội Châu đã hướng về Nhật Bản-một nước đồng văn, đồng
chủng. Sau cải cách Minh Trị 1868, Nhật Bản đã lột xác và trở thành một đế

×