Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG SGK THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC “CHƯƠNG III. LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN THẾ KỈ XVIII”, SGK LỚP 10 THPT (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.96 KB, 63 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC



LÝ THỊ TÌNH



KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG SGK THEO HƯỚNG
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC “CHƯƠNG III. LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN THẾ KỈ XVIII”, SGK LỚP 10 THPT
(CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




LÝ THỊ TÌNH



KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG SGK THEO HƯỚNG
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC “CHƯƠNG III. LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN THẾ KỈ XVIII”, SGK LỚP 10 THPT
(CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)



Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học Lịch sử

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Quốc Pháp



SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, Thạc sĩ Nguyễn Quốc Pháp – giảng
viên khoa Sử - Địa, trường Đại học Tây Bắc đã hướng dẫn và giúp đỡ em trong
suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Sử - Địa,
phòng Quản lí Khoa học, thư viện trường Đại học Tây Bắc cùng toàn thể các
bạn sinh viên lớp K50 ĐHSP Lịch sử đã giúp đỡ và đóng góp ý kiến cho em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Đề tài được hoàn thành trong một thời gian ngắn nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Những kết quả tìm được có thể chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tế, vì vậy để đề tài được hoàn thiện hơn, em kính mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 05 năm 2013
Tác giả
Lý Thị Tình









BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT

HS:
GV:
THPT:
PPDHL
S:
CTC:
Học sinh
Giáo viên
Trung học phổ thông
Phương pháp dạy học lịch sử
Chương trình chuẩn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
2.1. Tài liệu nước ngoài 2
2.2. Tài liệu trong nước 3
2.2.1. Tài liệu giáo dục học 3
2.2.2. Tài liệu lí luận PPDHLS 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu 5
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp của đề tài 5
4.1. Mục đích nghiên cứu 5
4.2. Để thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ 5
4.3. Đóng góp của đề tài 5
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6
5.1. Cơ sở phương pháp luận 6
5.2. Phương pháp nghiên cứu lí luận 6
6. Kết cấu của đề tài 6
CHƯƠNG 1: KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA
THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH – CƠ
SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 7
1.1. Cơ sở lí luận 7
1.1.1. Nhiệm vụ, mục tiêu của môn học Lịch sử ở trường phổ thông 7
1.1.2. Đặc trưng của việc dạy – học lịch sử và con đường hình thành kiến
thức cho học sinh ở trường THPT tác động đến việc sử dụng kênh hình 10
1.1.3. Quan niệm tính tích cực học tập của học sinh 11
1.1.4. Sử dụng kênh hình với việc phát huy tính tích cực của học sinh trong
bài học lịch sử 13

1.1.5. Các biện pháp khai thác kênh hình trong sách giáo khoa theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh 15
1.2. Cơ sở thực tiễn 18
1.2.1. Thực trạng dạy học lịch sử nói chung 18
1.2.2. Thực trạng việc sử dụng kênh hình nói riêng 20
CHƯƠNG 2: VỊ TRÍ, MỤC TIÊU, NỘI DUNG “CHƯƠNG III. LỊCH
SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN THẾ KỈ XVIII” SGK LỚP 10
THPT (CTC) 24
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung 24
2.1.1. Vị trí 24
2.1.2. Mục tiêu 24
2.1.3. Nội dung 26
2.2. Những yêu cầu đối với việc khai thác kênh hình trong sách giáo khoa
khi dạy học lịch sử 28
2.3. Danh mục kênh hình trong SGK được sử dụng khi dạy học phần
“Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII”, SGK Lịch sử lớp 10
THPT, (CTC) 29
CHƯƠNG 3: KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA
THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH KHI
DẠY HỌC “CHƯƠNG III. LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN
THẾ KỈ XVIII”, SGK LỊCH SỬ LỚP 10 THPT (CTC) 31
3.1. Sử dụng kênh hình kết hợp với tường thuật 31
3.2. Sử dụng kênh hình kết hợp với miêu tả 34
3.3. Giúp học sinh nắm vững nội dung cơ bản của bài học thông qua kênh
hình kết hợp với các câu hỏi gợi mở 36
3.4. Sử dụng kênh hình với việc nêu các tình huống có vấn đề nhằm phát
huy tính tích cực tư duy của học sinh 38
3.5. Sử dụng kênh hình trong kiểm tra bài cũ, tự học và làm bài tập thực
hành nhằm phát triển năng lực của học sinh 41
3.6. Ứng dụng CNTT nhằm thiết kế, sử dụng kênh hình theo hướng tích

cực hóa hoạt động của học sinh 43
KẾT LUẬN 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nhà văn Nga Tecưsiepsxki đã từng viết: “có thể không biết, không cảm
thấy say mê học tập môn Toán, tiếng Hi lạp hoặc La tinh, Hóa học; có thể
không biết hàng nghìn khoa học khác nhưng dù sao đã là người có giáo dục
mà không yêu thích Lịch sử thì chỉ có thể là một con người không phát triển
đầy đủ về trí tuệ”. Vai trò của bộ môn Lịch sử từ lâu đã được khẳng định góp
phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Lịch sử
không đơn giản là quá khứ, mà còn là kết tinh những giá trị xã hội sâu sắc, có
ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục truyền thống tư tưởng, chính trị, đạo đức và
phát triển óc thẩm mỹ cho học sinh.
Khác với nhiều bộ môn khoa học khác, tri thức lịch sử mang tính quá
khứ, tính không lặp lại chúng ta không thể tri giác trực tiếp các sự kiện, hiện
tượng lịch sử. Vì thế bên cạnh kênh chữ thì kênh hình đóng vai trò to lớn, là
nguồn cung cấp kiến thức quan trọng, góp phần khôi phục bức tranh quá khứ
một cách sinh động, chân thực, chính xác đúng như nó tồn tại trong quá khứ.
Mặc dù PPDH nói chung, PPDHLS nói riêng đã được chú trọng đổi mới
trên nhiều mặt. Nhưng thực tiễn việc dạy học lịch sử ở phổ thông hiện nay vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, khiến dư luận xã hội và những người trong
cuộc luôn phải “giật mình” bởi chất lượng bộ môn Lịch sử. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, như quan niệm của xã hội, tư tưởng của
học sinh coi Lịch sử là “môn phụ” và “thi gì học đấy”. Song chủ yếu vẫn là

phương pháp tổ chức dạy học của thầy – trò. Thấy rằng, việc khai thác kênh
hình trong sách giáo khoa bước đầu đã được chú ý, nhưng phần lớn giáo viên
dùng kênh hình trong sách giáo khoa để minh họa. Điều đó, không chỉ làm
mất đi vai trò ý nghĩa của kênh hình trong SGK mà còn gây ra sự nhàm chán
trong giờ học hiệu quả bài học lịch sử bị giảm sút.
Yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải đổi mới PPDHLS một cách toàn diện
và hệ thống. Mà cốt lõi là phải phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo
trong tư duy và hoạt động học tập của học sinh. Gần đây liên tục có những hội
thảo về đổi mới PPDHLS, trong đó các nhà giáo dục lịch sử khá quan tâm đến
phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan – với việc khai thác kênh hình trong
SGK nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả dạy học môn Lịch sử.

2
Lịch sử “Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII” có nhiều biến động to
lớn về nhiều mặt với những sự kiện, hiện tượng, biến cố quan trọng gắn liền với
nhiều địa danh mà học sinh cần phải ghi nhớ và nắm vững. Giai đoạn này có một
hệ thống kiến thức phong phú được phản ánh thông qua tranh ảnh và lược đồ là
nguồn cung cấp kiến thức quan trọng. Nếu giáo viên biết kết hợp việc khai thác
kênh hình trong SGK để tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức một cách hiệu
quả thì sẽ góp phần tích cực vào đổi mới phương pháp dạy học.
Xuất phát từ những lí do nêu trên tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Khai thác
kênh hình trong SGK theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học “chương III. Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ
XVIII”, SGK lớp 10 THPT (chương trình chuẩn), để làm khóa luận tốt
nghiệp, chuyên ngành lí luận và PPDH bộ môn Lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu nước ngoài
N.G Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” NXB Giáo
dục HN, (1973) giúp chúng ta hiểu nhiều vấn đề quan trọng về lí luận dạy

học. Ông đặc biệt nhấn mạnh “tính cụ thể, tính hình ảnh của sự kiện có một
giá trị lớn lao bởi vì chúng cho phép hình dung lại quá khứ”[6,25]. Hơn nữa
ông đã nêu lên yêu cầu học tập đối với học sinh “học tập lịch sử không chỉ
nhờ vào quá khứ mà còn phải dựa vào tư duy logic và sự phán đoán”[6,22].
Từ đó, ông đề xuất một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong
dạy và học lịch sử.
Cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào”, NXB Giáo dục,
(1979). I.F.Kharlamop đã từng khẳng định vai trò của đồ dùng trực quan khi
dạy lịch sử ở trường phổ thông: “Việc dạy học trực quan không những làm
cho quá trình học tập thêm sinh động nó còn góp phần rèn luyện tư duy phân
tích, tập cho các em nhìn thấy bản chất của sự kiện ẩn sau hình thức và biểu
hiện bên ngoài. Kích thích tính ham hiểu biết cho các em”[9,25].
I.A.Ilinna trong cuốn “Giáo dục học” tập 2, NXB giáo dục, Hà Nội,
1973 đã đưa ra một số biện pháp sư phạm như: phương pháp làm việc với
SGK, phương pháp thực hành trong phòng thí nghiệm, phương pháp luyện
tập, ôn tập… Đặc biệt chú trọng đến phương pháp phát huy tính tích cực của
học sinh.



3
2.2. Tài liệu trong nước
2.2.1. Tài liệu giáo dục học
Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt trong cuốn “Giáo dục học”, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1978, đã nêu lên ý nghĩa, phân loại đồ dùng trực quan và việc sử
dụng một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Bùi Văn Huệ trong cuốn “Tâm lí học”, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội,
2000 đã có phần nhấn mạnh đến việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
PGS.TS Đặng Thành Hưng trong tác phẩm “Dạy học hiện đại lí luận –
biện pháp – kĩ thuật”, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2002. Đã nêu lên một

số kĩ thuật sử dụng và khai thác các phương tiện dạy học trên lớp để phát huy
tính tích cực của học sinh.
2.2.2. Tài liệu lí luận PPDHLS
Cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” tập 2, GS.TS Phan Ngọc
Liên (chủ biên). Đã nêu lên những lí luận cơ bản về kênh hình và vai trò của
kênh hình trong DHLS.
Cuốn “Kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông” tập 1.
GS.TS Nguyễn Thị Côi đã đề cập khá chi tiết về vai trò của các loại kênh
hình, nó giúp học sinh “làm việc” với SGK trên cơ sở phát huy tính tích cực,
thông minh sáng tạo chứ không phải là phần minh họa để các em “giải khuây”
hay trang bị “nhồi nhét”, “chất đống” trong SGK. Trong công trình này, cũng
đã đề cập đến cách khai thác kênh hình trong SGK ở trường phổ thông và tiến
hành khai thác một số hình ảnh trong SGK thuộc phần Lịch sử Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Thị Côi trong bài viết “Tầm quan trọng của phương
pháp dạy học nêu vấn đề trong dạy học của việc sử dụng sơ đồ, tranh ảnh (một
bộ phần của kênh hình trong SGK)”. Đã khẳng định việc khai thác kênh hình là
biện pháp hữu hiệu để tạo ra tình huống có vấn đề nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh từ đó góp phần nâng cao chất lượng học tập môn Lịch sử.
GS.TS Phan Ngọc Liên, Đổi mới PPDHLS “lấy học sinh làm trung
tâm”, NXB Đại học Quốc gia HN,1996. Để góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học lịch sử ở trường phổ thông, tác giả đã đề cập đến việc tăng cường sử dụng
đồ dùng trực quan trong đó có kênh hình trong SGK làm cho bài học lịch sử
được tái hiện cụ thể, chi tiết và sống động.
GS.TS Phan Ngọc Liên, PGS.TS Trịnh Đình Tùng, PGS.TS Nguyễn Thị
Côi (đồng chủ biên), Một số chuyên đề PPDHLS, NXB Đại học Quốc gia

4
HN, 2005. Các tác giả đã dành một chuyên đề về đổi mới PPDHLS theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Trong cuốn “Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử, NXB Đại học

sư phạm, 2011, Nguyễn Thị Côi (chủ biên) đã dành một chương khá chi tiết
về rèn luyện kĩ năng xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan trong đó có sử
dụng công nghệ thông tin. Sách nêu rõ các bước tiến hành, kĩ năng khai thác
từ các kênh hình có trong sách giáo khoa và kênh hình bên ngoài sách giáo
khoa bằng công nghệ thông tin [5,86].
Từ 2004 – 2010, Tập thể giảng viên tổ PPDHLS, Đại học sư phạm Hà
Nội liên tục xuất bản cuốn “Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong dạy học lịch
sử THPT” (tập 1 – Lịch sử Thế giới; tập 2 – Lịch sử Việt Nam, lớp 10, 11, 12,
NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2009). Những bộ sách này đã cung cấp cho
GV nội dung và phương pháp sử dụng từng kênh hình trong mỗi bài học. Khi
đề xuất phương pháp sử dụng kênh hình, các tác giả kết hợp nêu câu hỏi gợi
mở vấn đề, hướng dẫn học sinh tìm hiểu và rút ra kết luận, nhằm phát huy
tính tích cực, gây hứng thú học tập cho học sinh trong quá trình học tập.
Ngoài ra vấn đề khai thác kênh hình cũng được đề cập trên nhiều loại tài
liệu khác, đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu giáo dục, nghiên cứu lịch sử,
luận án tiến sĩ, luận văn cao học, khóa luận tốt nghiệp của học sinh – sinh
viên, trên internet…
Như vậy, việc khai thác kênh hình trong DHLS qua đó phát triển tư duy,
tính chủ động, sáng tạo của người học đã được các nhà giáo dục và giáo dục
lịch sử cả trong và ngoài nước đặc biệt coi trọng. Tuy nhiên, những tài liệu
nêu trên chỉ mới đề cập một cách khái quát về lí luận nói chung mà chưa đi
sâu vào khai thác các biện pháp kênh hình trong sách giáo khoa theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh ở từng phần, từng chương, từng bài cụ thể.
Việc nghiên cứu, ứng dụng cụ thể vào đề tài: Khai thác kênh hình theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy “chương III. Lịch sử Việt Nam từ
thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII”, SGK lớp 10 THPT (CTC) thì chưa có tác giả
nào đề cập đến. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài này làm hướng nghiên cứu
của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Là phương pháp khai thác kênh hình theo hướng phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.

5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện và năng lực có hạn, phạm vi nghiên cứu của đề tài giới
hạn ở việc đề xuất những phương pháp khai thác kênh hình phần “Lịch sử
Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII”, SGK lớp 10 THPT (CTC) theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy những bài nội khoá ở trên
lớp, bài tập thực hành.
Việc điều tra thực tiễn chỉ tiến hành trong phạm vi một số trường phổ
thông ở các huyện trong tỉnh Sơn La, một số trường ở các tỉnh lân cận như
Hòa Bình, Điện Biên.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu lí luận và thực tiễn việc khai thác kênh hình trong
SGK theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Tôi đi đến đề xuất các
biện pháp khai thác kênh hình theo hướng phát huy tính tích cực nhằm nâng
cao hiệu quả DHLS phần “Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII”,
SGK lớp 10 THPT(CTC).
4.2. Để thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ
Nghiên cứu lí luận về vai trò, ý nghĩa kênh hình trong dạy học Lịch sử ở
trường phổ thông.
Điều tra khảo sát thực tiễn… để rút ra những biện pháp sư phạm về khai
thác kênh hình trong SGK theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Xây dựng giáo án thực nghiệm tiến hành thực nghiệm sư phạm tại một
số trường phổ thông trên địa bàn.
4.3. Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học:
Cụ thể hóa lí luận dạy học lịch sử nhất là phương pháp khai thác

kênh hình trong SGK theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh ở
trường phổ thông.
Về mặt thực tiễn:
Góp phần đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử
ở trường phổ thông.
Giúp bản thân biết vận dụng những lí luận về khai thác kênh hình trong
SGK theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh vào thực tiễn giảng dạy

6
ở trường phổ thông.
Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc khai thác đồ dùng trực quan nói
chung, kênh hình trong SGK nói riêng trong dạy học Lịch sử ở trường phổ
thông. Đề xuất những biện pháp sư phạm có tính nguyên tắc nhằm khai thác
hiệu quả kênh hình góp phần nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử.
Là tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh ở các trường phổ thông.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở nền tảng của phương pháp luận sử
học Mác-xít và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước về
vấn đề giáo dục lịch sử, vấn đề lí luận phương pháp dạy học lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Bên cạch các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung: nghiên cứu
tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… Đề tài còn sử dụng hai
phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp điều tra và phương pháp
thực nghiệm.
Phương pháp điều tra thực tế: Tiến hành khảo sát, điều tra tình hình khai
thác kênh hình trong SGK theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh
trong DHLS thông qua phiếu điều tra, phỏng vấn… để nắm được thực tiễn
của công tác khai thác kênh hình nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở
trường phổ thông hiện nay.

Phương pháp thực nghiệm: Soạn bài và tiến hành thực nghiệm giảng dạy
để khẳng định tính khả thi của đề tài.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo đề tài kết cấu thành ba
chương:
Chương 1. Khai thác kênh hình trong SGK theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh – Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2. Vị trí, mục tiêu, nội dung “Chương III. Lịch sử Việt Nam
từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII”, SGK lớp 10 THPT (CTC)
Chương 3. Khai thác kênh hình trong SGK theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh khi dạy “Chương III. Lịch sử Việt Nam từ thế
kỉ XVI đến thế kỉ XVIII”, SGK lớp 10 THPT (CTC)

7
CHƯƠNG 1
KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA
THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
CỦA HỌC SINH – CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Nhiệm vụ, mục tiêu của môn học Lịch sử ở trường phổ thông
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
“Vì hạnh phúc mười năm trồng cây
Vì hạnh phúc trăm năm trồng người”
Câu nói bất hủ của Chủ tịnh Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn
của sự nghiệp giáo dục trong sự tồn tại và phát triển của xã hội, đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay.
Theo Nghị quyết của Đại hội X (2006) khẳng định mục tiêu giáo dục
phổ thông là: “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt

Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng bảo
vệ Tổ quốc”[7,15]. Nhiều văn kiện chính trị cũng đã khẳng định mục tiêu giáo
dục phổ thông là đào tạo những con người có năng lực, phẩm chất, đạo đức,
tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, đào tạo những con người “vừa hồng vừa
chuyên’’ như lời Bác Hồ đã dạy. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu giáo dục
là xây dựng nên những con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để đạt mục tiêu trên đây mỗi môn học có vai trò vị trí nhất định. Trong
đó môn Lịch sử có ưu thế đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng,
đạo đức, hình thành thế giới quan cho thế hệ trẻ. Cũng như những môn khoa
học khác môn Lịch sử có ba nhiệm vụ cơ bản: giáo dưỡng, giáo dục và phát
triển. Cùng với các môn học khác, các hoạt động ở trường phổ thông, môn
Lịch sử với chức năng và nhiệm vụ của mình góp phần tích cực cùng xã hội
hoàn thành xứ mạng giáo dục thế hệ trẻ trong điều kiện hiện nay.
Về giáo dưỡng:
Môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của khoa
học lịch sử trên cơ sở cung cấp, phát triển nội dung kiến thức đã học ở THCS,

8
hợp thành nội dung giáo dục ở bậc THPT.
Ở bậc THCS, môn lịch sử trang bị cho các em một số hiểu biết cơ bản,
đơn giản, những kiến thức chủ yếu về quá trình phát triển lịch sử với những
sự kiện nổi bật từ nguồn gốc tới nay. Ở cấp học này các em tiếp cận ban
đầu với quan điểm duy vật lịch sử, vai trò của quần chúng nhân dân trong
lịch sử… vai trò, ý nghĩa của lao động đối với sự phát triển của con người
và xã hội.
Ở bậc THPT học sinh nâng cao hiểu biết đã được học một cách hệ thống,
sâu sắc hơn. Là những kiến thức cơ bản bao gồm: sự kiện lịch sử cơ bản, các
khái niệm, thuật ngữ, tên người, tên đất, niên đại, những hiểu biết về quan điểm
lí luận sơ giản, những vấn đề về phương pháp nghiên cứu và học tập phù hợp

với yêu cầu và trình độ của học sinh. Ở cấp học này học sinh được nâng cao và
hoàn chỉnh hơn, những kiến thức về lịch sử xã hội loài người, từ thời nguyên
thủy, cổ đại, trung đại đến các thời kì cận đại và hiện đại. Qua đó học sinh hiểu
rõ hơn quy luật phát triển của xã hội loài người, những tác động ảnh hưởng của
lịch sử thế giới đối với lịch sử dân tộc, mối quan hệ giữa lịch sử nước ta với
lịch sử thế giới.
Về giáo dục:
Tất cả các môn học từ tự nhiên đến xã hội ở mức độ khác nhau đều góp
phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cảm cho học sinh. Ví dụ môn Địa lí
dạy cho học sinh hiểu rõ đất nước mình để tăng thêm lòng yêu tổ quốc, yêu
quê hương, nâng cao trách nhiệm bảo vệ thiên nhiên. Văn học giúp học sinh
hiểu những giá trị để càng yêu quý con người, dân tộc và văn hóa Việt Nam.
Song bộ môn Lịch sử có những ưu thế riêng mà không môn nào có được
trong giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh.
Những con người và việc làm quá khứ sẽ có sức thuyết phục, có sự rung
cảm mạnh mẽ với thế hệ trẻ. Những tấm gương anh dũng tuyệt vời của các
chiến sĩ đấu tranh và hi sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc đều nêu gương
cho học sinh học tập, suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước. Sự
tàn ác dã man của bè lũ cướp nước và bán nước gây cho học sinh sự căm phẫn
mạnh mẽ. Cảnh sống lầm than và sự đấu tranh quật khởi của những người
nghèo khổ, những số phận bị áp bức của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc sẽ
khơi dậy ở học sinh sự đồng cảm, đồng tình sâu sắc.
Lịch sử không chỉ giáo dục học sinh lòng yêu ghét trong đấu tranh giai
cấp, sự căm thù, chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà còn bồi dưỡng cho học

9
sinh biết yêu quý trân trọng lao động và các giá trị lao động, yêu cái đẹp, có
óc thẩm mỹ, biết cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống.
Như vậy tác dụng giáo dục của môn lịch sử ở trường THPT là giáo dục
trí tuệ, tư tưởng chính trị, tình cảm, đạo đức. Môn Lịch sử còn góp phần quan

trọng vào việc giáo dục lí tưởng cho thế hệ trẻ. Tác dụng giáo dục của lịch sử
là “dạy chữ nên người’’.
Về phát triển:
Bộ môn Lịch sử rèn cho học sinh năng lực tư duy và thực hành trên cơ
sở hoàn chỉnh và nâng cao những năng lực đã được hình thành ở trường
THCS. Cụ thể là:
Thứ nhất: Bồi dưỡng học sinh tư duy biện chứng trong nhận thức và
hành động, biết đánh giá, phân tích, liên hệ.
Thứ hai: Bồi dưỡng kĩ năng học tập, thực hành bộ môn như sử dụng sách
giáo khoa, tài liệu tham khảo, khả năng trình bày nói và viết, làm và sử dụng
một số đồ dùng trực quan nhất là loại đồ dùng trực quan quy ước, những hoạt
động ngoại khóa của môn học.
Thứ ba: Vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống hiện nay.
Tóm lại, các mục tiêu bộ môn Lịch sử ở trường THPT đã nêu trên có
mối quan hệ mật với nhau. Trước tiên là cung cấp những kiến thức cơ bản, có
hệ thống về lịch sử phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã hội loài người;
trên cơ sở đó giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lí tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, rèn luyện năng lực tư duy và thực hành; thực hiện một
cách hoàn chỉnh các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đạt được mục tiêu dạy học một cách
nhanh hơn hiệu quả hơn? Góp phần thực hiện các mục tiêu nêu trên có nhiều
yếu tố chi phối, tác động: sự quan tâm của xã hội với môn Lịch sử, sự đầu tư
trang thiết bị dạy học lịch sử. Song yếu tố quyết định là vấn đề phương pháp
dạy học của thầy - trò. Thực tế, gần đây liên tục có những hội thảo về đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử, trong đó các nhà giáo dục lịch sử khá quan tâm
đến phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan bao gồm cả việc khai thác kênh
hình trong sách giáo khoa nhằm phát huy tính tích cực học tập, năng lực tư
duy, năng động, sáng tạo, độc lập của học sinh. Thiết nghĩ việc khai thác kênh
hình trong sách giáo khoa theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là
mang tính khả thi và cần thiết.


10
1.1.2. Đặc trưng của việc dạy – học lịch sử và con đường hình thành
kiến thức cho học sinh ở trường THPT tác động đến việc sử dụng kênh hình
Mỗi môn học đều có đặc trưng riêng với những chức năng, nhiệm vụ cụ
thể để góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của hệ thống giáo dục quốc dân.
Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông với tư cách là một khoa học cũng mang
những đặc trưng riêng của nó.
Thứ nhất, lịch sử là quá trình phát triển không ngừng của xã hội loài
người. Mỗi sự kiện hiện tượng LS chỉ xảy ra duy nhất, gắn với khoảng thời
gian, không gian và nhân vật cụ thể. Đây chính là tính quá khứ, điểm khác
biệt lớn nhất giữa việc nhận thức lịch sử so với các sự kiện, hiện tượng của
tự nhiên.
Thứ hai, quá trình nhận thức học tập của học sinh trong học tập LS là
một quá trình mang “tính đặc thù”. Chính “tính đặc thù” ấy HS gặp không ít
khó khăn khi ghi nhớ lâu dài để hiểu và vận dụng kiến thức. Quá trình nhận
thức của con người đi từ “gần đến xa”: cái gì xảy ra gần chúng ta thì nhớ lâu,
càng xa càng quên nhanh. Thế nhưng, chương trình LS ở trường phổ thông từ
bậc THCS đến THPT lại được xây dựng theo nguyên tắc “đồng tâm kết hợp
với đường thẳng”. Theo đó kiến thức LS mà HS học đều phải đi từ “xa đến
gần”, tức là cái gì xảy ra trước học trước, cái gì xảy ra sau học sau. Ứng dụng
đồ dùng trực quan trong học tập Lịch sử sẽ giúp học sinh dễ nhớ, nhớ lâu
được bức tranh quá khứ một cách sinh động, chân thực.
Thứ ba, kiến thức LS mang những đặc trưng riêng, nên việc dạy – học
của GV và HS không giống bất kì môn học nào ở trường phổ thông. GV dạy
LS và HS nhận thức LS không phải tìm ra cái mới, cái chưa biết mà tái hiện
lại những kiến thức lịch sử đã được khoa học thừa nhận, khôi phục lại bức
tranh quá khứ. Quá trình nhận thức LS của học sinh còn gặp khó khăn, vì
những kiến thức cơ bản của một số môn học có thể lặp lại trong suốt quá trình
dạy học, nhưng LS gồm: những sự kiện, hiện tượng và khái niệm LS có liên

quan, sau khi giảng dạy một lần không lặp lại nữa.
Vì vậy, việc sử dụng đồ dùng trực quan nói chung, sử dụng kênh hình
trong SGK theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh vào đổi mới
PPDHLS ở trường THPT nói riêng là rất cần thiết. Đây là một trong những
biện pháp quan trọng để thực hiện con đường hình thành kiến thức lịch sử
cho học sinh, vì “90% lượng thông tin từ bên ngoài vào não là thông qua
mắt” [4,41].

11
Sử dụng đồ dùng trực quan nói chung và kênh hình trong SGK nói riêng
vào hình thành kiến thức cho học sinh trong DHLS sẽ làm cho giờ học trở nên
sinh động, không bị khô khan, tẻ nhạt, lôi cuốn được HS tham gia học tập tích
cực, chủ động; tạo cho học sinh động cơ và không khí học tập thoải mái. Đây
là nền tảng cho việc tiếp thu kiến thức khoa học LS một cách hiệu quả, qua đó
giáo dục và phát triển toàn diện HS và góp phần nâng cao chất lượng dạy học
bộ môn.
Tóm lại không giống như các bộ môn khoa học khác bộ môn Lịch sử có
đặc điểm nổi bật về kiến thức lịch sử, nhận thức lịch sử như đã nêu trên. Nên
có thể nói rằng đồ dùng trực quan có vị trí đặc biệt quan trọng đối với việc tái
tạo, khôi phục hình ảnh lịch sử. Đặc biệt kênh hình trong sách giáo khoa là
nguồn đồ dùng trực quan hết sức phong phú. Vì vậy bên cạnh các phương
pháp giảng dạy truyền thống giáo viên lịch sử cần nắm chắc được nội dung
các kênh hình đồng thời phải hướng dẫn học sinh khai thác được nội dung
kiến thức chứa đựng của phần kênh hình trong sách giáo khoa theo hướng
phát huy tính tích cực học tập của học sinh một cách độc lập, sáng tạo. Góp
phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.
1.1.3. Quan niệm tính tích cực học tập của học sinh
Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, trong dạy
học lịch sử nói riêng không phải là vấn đề mới trong giáo dục nước ta. Nó
được đặt ra vào những năm 80 của thế kỉ XX, trở thành một phương hướng

của cuộc cải cách giáo dục.
Vấn đề đặt ra là: Tính tích cực của học sinh trong học tập lịch sử là gì?
Nó được biểu hiện như thế nào?
Học tập của học sinh là một quá trình nhận thức, song đó là quá trình
nhận thức đặc thù “một sự nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi và được
thực hiện dưới sự chỉ đạo của giáo viên”. Vì vậy, nói đến tính tích cực học
tập, thực chất là nói đến tính tích cực của sự nhận thức. Nó là một hiện tượng
sư phạm biểu hiện ở sự cố gắng cao về nhiều mặt trong học tập.
Từ đó chúng ta có thể hiểu tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt
động nhận thức của học sinh thể hiện trong khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ
và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức.
Tích cực suy nghĩ một cách độc lập tức là thấm nhuần quan điểm, dựa
vào sức mình là chính trong học tập, là một biểu hiện cao của ý thức tự
nguyện, tự giác học tập, cũng là phương pháp có hiệu lực chống lại lối học

12
vẹt. Theo các nhà giáo dục và giáo dục lịch sử, việc dạy học lấy giáo viên làm
trung tâm là muốn nhấn mạnh đến vai trò chủ thể, độc quyền cung cấp tri
thức, đánh giá học sinh của giáo viên, còn học sinh chỉ thụ động ghi chép, học
thuộc lòng và lặp lại những điều đã nghe giảng, nhồi nhét kiến thức, không
phát triển trí thông minh, sáng tạo của học sinh. Đây là cách học lấy động lực
từ bên ngoài (giáo viên) để phát triển học sinh, cách học này tồn tại phổ biến
ở các trường phổ thông cần phải thay đổi.
Các nhà giáo dục đã khẳng định rằng, dạy học lấy học sinh làm trung
tâm là quá trình mà trong đó, học sinh với tư cách là chủ thể phản ánh thế giới
khách quan vào ý thức của mình nắm được quy luật, bản chất của nó và vận
dụng các quy luật này để biến đổi, cải tạo thế giới khách quan…
Trong quá trình dạy học, chúng ta có thể nhận biết thái độ, tình cảm của
học sinh trước một hiện tượng, một tri thức mới. Những biểu hiện đó thường
khác nhau hoặc thờ ơ, vô cảm, hoặc sôi nổi, nhiệt tình… Có thể nhận biết tính

tích cực của học sinh ở những mặt sau:
Thứ nhất: học sinh tập chung chú ý theo dõi vấn đề đang học, khao khát,
tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ xung các câu trả lời
của các bạn, tích cực phát biểu ý kiến của mình về vấn đề mà giáo viên và các
bạn đưa ra.
Thứ hai: là đào sâu suy nghĩ, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi được giải thích
cặn kẽ những vấn đề giáo viên trình bày chưa đủ rõ.
Thứ ba: là chủ động vận dụng kiến thức đã học, vốn hiểu biết của bản
thân để nhận thức những vấn đề mới.
Thứ tư: là hào hứng, say mê tiếp thu bài giảng của thầy, cố gắng hoàn
thành những bài tập được giao…
Ngoài những biểu hiện trên, trong quá trình dạy học, giáo viên còn có
thể nhận biết tính tích cực của học sinh thông qua ánh mắt, cử chỉ, nét mặt khi
theo dõi bài giảng.
Như vậy, đứng trước yêu cầu bức thiết về việc đổi mới phương pháp dạy
học nói chung, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nói riêng. Xuất phát từ
đặc điểm kiến thức lịch sử, đặc điểm của nhận thức lịch sử cùng với đó là bản
chất của tính tích cực của học sinh như đã trình bày. Vậy làm thế nào để phát
huy tính tích cực của học sinh sao cho phù hợp với đặc điểm kiến thức và đặc
điểm nhận thức của bộ môn? Theo tôi nghĩ sử dụng đồ dùng trực quan là một
biện pháp tối ưu. Đó sẽ là chìa khóa hữu hiệu để khám phá hiện thực lịch sử.

13
1.1.4. Sử dụng kênh hình với việc phát huy tính tích cực của học sinh
trong bài học lịch sử
1.1.4.1. Quan niệm về kênh hình trong sách giáo khoa
Kênh hình trong sách giáo khoa là những ảnh chụp, tranh vẽ, hình vẽ, sơ
đồ, đồ thị. Theo quan điểm có tính chất “cổ điển” song có tính sư phạm của
việc biên soạn và sử dụng sách giáo khoa (sách giáo khoa gồm hai phần: bài
viết và cơ chế sư phạm). Theo quan điểm này kênh hình là một bộ phận của

“cơ chế sư phạm”. Còn theo quan niệm phổ biến thì kênh hình là một bộ phận
tương đương với phần bài viết (theo quan điểm sách giáo khoa gồm phần
kênh chữ và kênh hình).
Phân loại kênh hình trong sách giáo khoa:
Phân loại theo chức năng: chia làm 4 loại chính.
+ Loại minh họa để cụ thể hóa nội dung sự kiện lịch sử quan trọng, loại
này thường được ghi kèm những yêu cầu và hướng dẫn thực hiện.
+ Loại cung cấp thông tin, thường không có giải thích, tuy nhiên có thể
chú thích ngắn gọn để học sinh tìm hiểu nội dung sự kiện, mà không diễn tả
thành văn.
+ Loại vừa cung cấp thông tin, vừa minh họa cho kênh chữ, loại này
thường có kèm theo câu hỏi và hướng dẫn sử dụng.
+ Loại dùng để rèn luyện kĩ năng thực hành, kiểm tra kiến thức.
Phân loại theo hình thức, gồm các loại như sau:
+ Sơ đồ, đồ thị: phản ánh tiến trình phát triển của một sự kiện, hiện tượng.
+ Lược đồ lịch sử: thường là diễn tả không gian, diễn biến của một sự
kiện, hiện tượng lịch sử nào đó.
+ Tranh ảnh lịch sử bao gồm:
Tranh, ảnh lịch sử phản ánh các hiện tượng lịch sử và hiện tượng xã hội.
Tranh, ảnh lịch sử về chân dung các nhân vật lịch sử.
Tranh, ảnh lịch sử về các di tích lịch sử và không gian lịch sử.
+ Sơ đồ lịch sử.
1.1.4.2. Vai trò, ý nghĩa của kênh hình trong dạy học lịch sử
Nguyên tắc trực quan là một nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học hiện
đại nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng hình ảnh và hình thành khái

14
niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan
minh họa sự vật đồng thời phát triển tư duy, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm. Đồ
dùng trực quan gồm nhiều loại: hiện vật lịch sử, tranh, ảnh, sơ đồ, đồ thị, niên

biểu… Trong các đồ dùng trực quan, kênh hình trong sách giáo khoa đảm bảo
đầy đủ các yêu cầu: tính khoa học, tính sư phạm và hấp dẫn… Và sách giáo
khoa lịch sử hiện nay, trong điều kiện kinh tế, kĩ thuật, mĩ thuật… cho phép
đã dành cho kênh hình một tỉ lệ đáng kể.
Kênh hình trong sách giáo khoa không chỉ sử dụng trong khi trình bày
kiến thức mới mà cả khi ôn tập, tổng kết, kiểm tra, hoạt động ngoại khóa và
thực hành. Kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử có chức năng chủ yếu
nhằm đa dạng nguồn kiến thức, tạo hình ảnh giúp học sinh lĩnh hội kiến thức
một cách sinh động, làm bài giảng lịch sử bớt khô khan và thêm hấp dẫn.
Ví dụ, lược đồ trận Ngọc Hồi – Đống Đa không chỉ được sử dụng khi
cung cấp kiến thức mới mà còn được dùng trong khi kiểm tra bài cũ, trong
hoạt động tự học, có thể dùng làm các bài tập nhận thức…
Kênh hình là một phương tiện trực quan trong dạy học lịch sử. Sử dụng
kênh hình trong sách giáo khoa có ý nghĩa lớn trong việc bồi dưỡng kiến thức
cho học sinh. Do tính quá khứ của lịch sử quy định nên học sinh không thể tri
giác, quan sát các sự kiện hiện tượng lịch sử đang học. Do đó để tạo biểu
tượng lịch sử chân thực, để dựng lại bức tranh quá khứ một cách sinh động thì
ngoài lời giảng của giáo viên phải có phương tiện trực quan mà phổ biến nhất
hiện nay vẫn là kênh hình trong sách giáo khoa. Trong sách giáo khoa lịch sử
bao giờ kênh hình cũng luôn phải gắn liền với nội dung bài viết, câu hỏi và
bài tập nhằm tạo nên tổ hợp kiến thức phong phú. Đồng thời kênh hình cũng
có tác dụng cụ thể hóa, minh họa cho kiến thức phần bài viết. Nội dung bài
viết là cơ sở để hiểu kênh hình. Ngược lại kênh hình lại làm phong phú, sâu
sắc thêm kiến thức bài viết. Chúng ta không nên xem nhẹ kênh thông tin nào,
thế nhưng trong suốt thời gian dài đã qua phần kênh hình chưa được coi trong
khai thác.
Ví dụ, lược đồ trận Ngọc Hồi – Đống Đa được sử dụng khi dạy học bài
23, mục 2. “Kháng chiến chống Thanh (1789)”. GV hướng dẫn HS quan sát
lược đồ kết hợp với nội dung trong SGK đồng thời tiến hành miêu tả, tường
thuật sẽ khắc sâu trong tâm trí học sinh những hình ảnh sống động về chiến

thắng Ngọc Hồi – Đống Đa vĩ đại cùng với tên tuổi người anh hùng áo vải
Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Kênh hình trong sách giáo khoa còn có vai trò quan trọng trong việc giáo

15
dục thái độ, tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh. Qua khai thác kênh
hình trong sách giáo khoa còn có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ, bồi dưỡng
cho học sinh những quan điểm và cảm xúc thẩm mỹ. Bằng sự quan sát có
chủ định cùng với những hình ảnh rõ ràng, sinh động từ kênh hình cộng với
lời nói truyền cảm của giáo viên sẽ tạo ra ở các em sự dung động thẩm mỹ,
những cảm nhận có tính chất hội họa, nghệ thuật, biết đánh giá, yêu thích
những bức tranh, ảnh đẹp, hiểu được tư tưởng đạo đức ẩn chứa trong các
kênh hình.
Bên cạnh đó kênh hình còn có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển học
sinh. Khi nhìn vào bất cứ kênh hình nào học sinh cũng muốn nhận xét, phán
đoán, hình dung, tưởng tượng quá khứ lịch sử phản ánh trong đó rồi suy nghĩ
tìm cách diễn đạt bằng lời sao cho phù hợp với kênh hình đó. Như vậy qua
kênh hình đã rèn luyện cho học sinh kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng, phân
tích, đánh giá và năng lực tư duy ngôn ngữ. Qua sử dụng kênh hình học sinh
cũng dần trở nên năng động, tự tin, linh hoạt trước tập thể và ngày càng làm
chủ kiến thức của mình.
Như vậy sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa là một biện pháp hữu
hiệu nằm trong tổng thể các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh đối với đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng, hoàn thành mục tiêu
dạy học bộ môn.
1.1.5. Các biện pháp khai thác kênh hình trong sách giáo khoa theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh
Trong dạy học lịch sử, yêu cầu phải tiến hành kết hợp tổng thể nhiều
phương pháp. Bên cạnh phát huy tối đa ưu thế của những phương pháp giảng
dạy truyền thống, sau đây tôi xin đề xuất một số biện pháp khai thác kênh

hình trong SGK theo hướng pháp huy tính tích cực của học sinh:
1.1.5.1. Tiến hành miêu tả, tường thuật thông qua sử dụng kênh hình
Miêu tả, tường thuật là phương pháp cụ thể trong nhóm phương pháp
thông tin tái hiện hình ảnh lịch sử. Là việc sử dụng lời văn giàu hình ảnh,
ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm sẽ dẫn dắt học sinh “trở về” với quá khứ lịch
sử, tạo được biểu tượng rõ ràng cụ thể về một nhân vật, một biến cố, hiện
tượng lịch sử để làm nổi bật những đặc điểm chính, dấu hiệu mang tính bản
chất của sự kiện, hiện tượng, nhân vật Lịch sử đó.
Ví dụ khi dạy học bài 22. Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI – XVIII,
SGK lớp 10 THPT (chương trình chuẩn). Để học sinh có những biểu tượng về

16
sự phát triển của thủ công nghiệp, thương nghiệp thời kì này. GV có thể tiến
hành miêu tả hình 44 – Cặp chân đèn gốm hoa lam đầu thế kỉ XVII; hình 45 –
Thương cảng Hội An (tranh vẽ cuối thế kỉ XVIII). Qua việc miêu tả sẽ làm
cho bài học trở nên sinh động, hấp dẫn và thu hút được sự chú ý của học sinh.
Ví dụ khi dạy bài 23 Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất
nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII. Để học sinh có biểu tượng sâu sắc,
sinh động nhất về cuộc kháng chiến chống Thanh(1789) GV có thể tiến hành
tường thuật trận đánh Ngọc Hồi – Đống Đa kết hợp với lược đồ. Qua quan sát
lược đồ trận đánh, bài tường thuật giàu hình ảnh, giọng nói truyền cảm của
giáo viên sẽ tác động mạnh mẽ tới tình cảm của các em. Đồng thời rèn khả
năng thực hành với lược đồ, bản đồ; trí tưởng tượng, phát triển mặt ngôn ngữ
của các em.
1.1.5.2. Giúp học sinh khai thác nội dung bài học thông qua sử dụng
kênh hình kết hợp với các câu hỏi gợi mở
Cùng với biện pháp miêu tả, tường thuật, lược thuật khi khai thác kênh
hình trong sách giáo khoa, giáo viên cần phải đưa ra các câu hỏi gợi mở để
kích thích suy nghĩ của các em và các câu hỏi đó phải hướng vào nội dung
kênh hình chứa đựng. Đó sẽ là biện pháp hữu hiệu trên con đường hình thành

kiến thức của học sinh.
Ví dụ ở bài 22 Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI – XVIII, để làm rõ sự
phát triển của thương nghiệp thời kì này, giáo viên hướng dẫn học sinh khai
thác nội dung ẩn chứa trong bức tranh “thương cảng Hội An” thông qua hệ
thống các câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở quan sát kênh hình và những câu hỏi
gợi ý mà GV đua ra sẽ kích thích học sinh suy nghĩ, tưởng tượng để tìm hiểu
nội dung chứa đựng trong đó.
1.1.5.3. Sử dụng kênh hình kết hợp với việc nêu các tình huống có vấn đề
Tình huống có vấn đề: GS.TS Nguyễn Thị Côi dẫn ý kiến của nhà giáo
dục học Macmutop thì “đó là trở ngại về trí tuệ của con người, xã hội khi anh
ta chưa biết giải thích hiện tượng, sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể
đạt tới mục đích bằng cách thức, hành động quen thuộc. Tình huống này kích
thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn
đề là quy luật của sự hoạt động sáng tạo có hiệu quả. Giáo viên thông qua
việc dẫn dắt học sinh sử dụng, khai thác kênh hình trong SGK kết hợp với
việc nêu tình huống có vấn đề để kích thích sự sáng tạo, tích cực trong tư duy
để tìm ra những lời giải đáp đúng đắn.

17
Ví dụ khi dạy bài 22 Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI – XVIII, GV có
thể nêu tình huống có vấn đề như sau: Như chúng ta đã biết, thông thường sự
khủng hoảng, suy yếu về chính trị sẽ kéo theo sự suy sụp về kinh tế, bất ổn về
xã hội Một điều đặc biệt là, nền chính trị Đại Việt thế kỉ XVI – XVIII lâm
vào khủng hoảng trầm trọng nhưng nền kinh tế thời kì này lại phát triển mạnh
và có những biểu hiện mới. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự phát triển đó và
những biểu hiện mới đó được thể hiện như thế nào? Để giải quyết được vấn
đề trên, học sinh phải chú ý lắng nghe bài giảng của GV, khai thác nội dung
SGK kết hợp với quan sát kênh hình. Qua việc giải quyết tình huống có vấn
đề không chỉ giúp cho học sinh nắm vững kiến thức cơ bản của bài học mà
còn giúp các em hiểu được bản chất của lịch sử, qua đó giáo dục thái độ và

phát triển các năng lực tư duy, hình thành năng lực học tập tự chủ, sáng tạo và
ý thức học tập tích cực luôn khao khát phát hiện và tìm kiếm cái mới.
1.1.5.4. Sử dụng kênh hình trong tự học và làm bài tập thực hành nhằm
phát triển năng lực của học sinh
Vấn đề tự học của học sinh là vấn đề quan trọng, vì đó là một khâu trong
quá trình thống nhất của việc dạy học, nhằm phát huy năng độc lập tư duy của
các em trên lớp cũng như ở nhà.
Vì vậy, có thể quan niệm việc tự học của học sinh là việc các em độc lập
hoàn thành nhiệm vụ được giao, với sự giúp đỡ, hướng dẫn, kiểm tra của giáo
viên. Việc tự học như vậy bao gồm cả việc tập dượt nghiên cứu (tìm tòi,
nghiên cứu từng phần). Nó gây hứng thú học tập cho học sinh và đóng góp
phần nào với xã hội.
Ví dụ khi học xong bài 23 Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất
đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII. Giáo viên cần giao cho các em bài
tập về nhà, yêu cầu học sinh dựa vào lược đồ trận Ngọc Hồi – Đống Đa, kết
hợp với nội dung SGK và nghe giảng ở trên lớp để trình bày lại diễn biến của
trận đánh. Nếu các em thực hiện tốt yêu cầu trên, không chỉ giúp các em có
biểu tượng sâu sắc về trận đánh, củng cố và khắc sâu kiến thức bài học, rèn
cho các em khả năng làm việc với bản đồ, lược đồ, đồng thời hình thành thái
độ học tập tự giác, tích cực.
1.1.5.5. Ứng dụng CNTT nhằm thiết kế, sử dụng kênh hình theo hướng
tích cực hóa hoạt động của học sinh
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDHLS theo hướng tích cực hóa hoạt
động của học sinh, vấn đề ứng dụng CNTT đang là một bước đi mang tính

18
hiện đại, thực tiễn và phù hợp. Ứng dụng CNTT nhằm thiết kế, sử dụng kênh
hình sẽ giúp học sinh có điều kiện gần gũi hơn với thực tế thông qua kênh
hình, tăng thêm nguồn thông tin, nắm vững hệ thống hóa kiến thức. Hơn thế,
với sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật góp phần đổi mới PPDH và phát

huy tốt sự hứng thú, tích cực, chủ động và sáng tạo của người học.
Ví dụ, giáo viên thiết kế lược đồ “trận Ngọc Hồi – Đống Đa” dưới dạng
lược đồ câm dưới sự hỗ trợ của CNTT, sau đó GV tiến hành trình chiếu trước
lớp. Tiếp đó GV yêu cầu học sinh lên bảng trình bày lại diễn biến trận đánh.
Nếu hoàn thành nhiệm vụ trên sẽ giúp cho học sinh phát triển năng lực tư
duy, tưởng tượng, khả năng diễn đạt…
GV cũng có thể thiết kế những sơ đồ (dạng sơ đồ tư duy), niên biểu,
bảng biểu… trong củng cố kiến thức, kiểm tra đánh giá học sinh.
Như vậy, một số biện pháp khai thác kênh hình theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh trên là những biện pháp hữu hiệu. Nếu sử dụng một
cách hợp lí, khoa học sẽ góp phần vào đổi mới PPDH. Cần lưu ý rằng, việc
đổi mới PPDHLS không có nghĩa là xóa bỏ tất cả những kinh nghiệm quý báu
được đúc kết trong trường phổ thông từ trước đến nay mà cần tiếp cận những
mặt cơ bản, tích cực cùng với những phương pháp hiện đại để phát triển cao
hơn phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ giáo dục hiện nay.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng dạy học lịch sử nói chung
Trong bối cảnh toàn cầu và hội nhập quốc tế, giáo dục cần đào tạo đội
ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội, đặc
biệt là năng lực hoạt động, tính năng động, sáng tạo, tính tích cực và có trách
nhiệm cũng như năng lực công tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề
phức tạp… đó là những yêu cầu bức thiết. Đứng trước những yêu cầu đòi hỏi
cần phải đổi mới nền giáo dục để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
nhiều nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á trong đó có Việt Nam tiếp tục đẩy
mạnh hơn nữa việc đổi mới PPDH: Đó là cánh thức dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Tuy nhiên quá trình dạy – học lịch sử ở nước ta hiện nay vẫn còn đang
tồn tại những bất cập và hạn chế lớn chưa thể khắc phục.
Thực tế, lối dạy học truyền thụ tại các trường phổ thông vẫn hết sức phổ
biến. Giáo viên là người có vai trò chính trong việc cung cấp kiến thức cho

học sinh. Khi giảng bài môn Sử cứ đều đều mà nói, không bộc lộ một chút

19
cảm xúc học sinh trở nên thụ động tiếp nhận những con số, ngày tháng, sự
kiện chồng chất… khiến cho bài học trở nên nhàm chán, khô khan, học sinh
sợ học sử là điều khó tránh khỏi.
Hơn thế cách thức giảng dạy “giáo điều”, “nhồi sọ” trở thành một “căn
bệnh” trong các giờ dạy học lịch sử của các trường phổ thông. Giáo viên gợi
ý: cứ bám sát sách giáo khoa thôi. Cũng có giáo viên cho rằng: hãy bắt học
sinh học thuộc lòng. Đừng để học sinh suy nghĩ hay vận dụng kiến thức vào
thực tế làm gì vì phức tạp, mất thời gian. Cứ bắt các em học thuộc lòng và khi
trả bài thì nhanh hơn nhiều.
Đặc biệt là lối “dạy chay – học chay” hiện nay, các giáo viên dạy học
lịch sử đã có sử dụng các loại đồ dùng trực quan, ứng dụng công nghệ thông
tin trong các giờ học lịch sử. Nhưng hầu hết giáo viên chưa khai thác có hiệu
quả, đặc biệt các kênh hình trong sách giáo khoa chưa được đặt đúng vị trí
của nó, các kênh hình chủ yếu vẫn để minh họa, mô phỏng… không kích
thích được suy nghĩ độc lập, sáng tạo của học sinh.
Chính vì thực trạng trên mà việc dạy – học lịch sử ở phổ thông hiện nay
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, luôn khiến dư luận xã hội và cả
những người trong cuộc phải “giật mình” bởi hàng năm số thí sinh tham dự
các kì thi có môn Lịch sử có điểm dưới trung bình rất lớn. Theo thống kê từ
điểm thi các trường đại học cho thấy “điểm thi môn Lịch sử ở hầu hết các
trường thấp đáng lo ngại. Hầu hết các trường tỉ lệ thí sinh đạt điểm thi môn sử
từ trung bình trở lên chỉ chiếm từ 0.3 – 5%’’.
Một hiện trạng rất đáng buồn nữa là trong những năm gần đây có hiện
tượng “dân ta không biết sử ta”, hiện tượng nhầm lẫn lịch sử, xuyên tạc lịch
sử càng khiến mỗi ai đó khi bắt gặp xót xa, đau lòng hơn. Rất nhiều học sinh
đã nhầm lẫn Hai Bà Trưng lãnh đạo khởi nghĩa Hai Bà Trưng là Bà Trưng và
Bà Triệu. Trong giờ học lịch sử học sinh đã xuyên tạc “Hịch tướng sĩ” của

Trần Quốc Tuấn: “… Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm kêu đói…” hoặc
khi đọc lời biểu dụ của Quang Trung khi xuất quân ra Bắc tiêu diệt quân
Thanh thì có em học sinh đọc như sau:
“Đánh cho để rụng tóc
Đánh cho để long răng…”
Thiết nghĩ vị trí của bộ môn Lịch sử chưa được đặt đúng chỗ của nó. Đặc
biệt là thái độ của học sinh đối với môn lịch sử là điều khiến các nhà giáo dục
lịch sử phải suy ngẫm.

×