Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN CHÍCH TRONG CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN (1418 - 1427) - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.22 KB, 54 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




NGUYỄN THỊ THU




HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN CHÍCH TRONG
CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN (1418 - 1427)






KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC







SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




NGUYỄN THỊ THU




HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN CHÍCH TRONG
CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN (1418 - 1427)




CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: Ths. Phí Thị Toan





SƠN LA, NĂM 2013


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, em đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo và
giúp đỡ tận tình của cô giáo - Thạc sĩ Phí Thị Toan, qua đây em xin bày tỏ lòng
biết ơn chân thành tới cô.
Nhân dịp khóa luận được công bố, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm,
tạo điều kiện thuận lợi của phòng Đào Tạo, các thầy cô trong Khoa Sử - Địa,
thư viện nhà trường cùng tập thể lớp K50 ĐHSP Lịch Sử đã giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận này.
Do hạn chế về mặt tài liệu nên khóa luận của em không thể tránh khỏi
những thiếu sót nên mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy (cô) và các
bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 5 năm 2013.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thu











MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu 3
5.1. Cơ sở tư liệu 3
5.2. Phương pháp nghiên cứu 3
6. Đóng góp của đề tài 3
7. Bố cục đề tài 4
NỘI DUNG 5
CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH ĐẠI VIỆT CUỐI THẾ KỶ XIV ĐẦU THẾ KỶ
XV 5
1.1. Cuộc khủng hoảng của quốc gia Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ
XV, sự xâm lược và chính sách cai trị của nhà Minh 5
1.1.1. Cuộc khủng hoảng của quốc gia Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV 5
1.1.2. Sự xâm lược và chính sách cai trị của nhà Minh 6
1.2. Các phong trào đấu tranh trước khởi nghĩa Lam Sơn 9
Tiểu kết 13
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN CHÍCH TRƯỚC
KHI THAM GIA KHỞI NGHĨA LAM SƠN 15
2.1. Quê hương và thân thế 15
2.1.1 Quê hương 15
2.1.2. Thân thế 17
2.2. Quá trình hoạt động của Nguyễn Chích trước khi tham gia khởi nghĩa
Lam Sơn 18
2.2.1. Cuộc đấu tranh tại căn cứ Vạn Lộc 18
2.2.2. Cuộc đấu tranh tại căn cứ núi Hoàng Nghiêu 19

Tiểu kết 21
CHƯƠNG 3: ĐÓNG GÓP CỦA NGUYỄN CHÍCH TRONG CUỘC KHỞI
NGHĨA LAM SƠN 22
3.1. Cờ nghĩa Lam Sơn mở đầu một thời kì đấu tranh mới 22
3.2. Về với Lam Sơn một quyết định đúng thời hợp thế 26
3.3. Chuyển hướng vào Nam - tầm nhìn chiến lược của Nguyễn Chích 28
3.3.1. Hoàn cảnh của sự chuyển hướng chiến lược 28
3.3.2. Những vấn đề cơ bản của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược 29
3.3.3. Vị trí, ý nghĩa của kế hoạch chuyển hướng chiến lược 33
3.4. Đóng góp của Nguyễn Chích trong kế hoạch Nam tiến 33
3.5. Nguyễn Chích với kế hoạch Bắc tiến - từ Nghệ An tới hội thề Đông Quan
43
Tiểu kết 44
KẾT LUẬN 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc ta từ thời Hùng Vương dựng nước cho đến nay đã trải qua
khoảng 4.000 nghìn năm lịch sử, quãng thời gian dài hàng chục thế kỉ ấy đã
chứng kiến biết bao thăng trầm, biến động của lịch sử. Không phải ngẫu nhiên,
dân tộc Việt Nam được mệnh danh là dân tộc trận mạc, hơn hai chục thế kỉ dựng
nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam phải liên tiếp đứng lên chống lại các thế lực
ngoại xâm; từ kẻ thù phương Bắc với tư tưởng Đại Hán cho đến các thế lực tư
bản phương Tây. Tất cả những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm ấy đếu tô thắm
lịch sử anh hùng của dân tộc.
Trong toàn bộ quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước ấy, thế kỉ XV
được coi là thế kỉ vẻ vang của dân tộc với thắng lợi vang dội của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn. Đây được coi là đỉnh phát triển cao nhất, là kết tinh của toàn bộ phong

trào đấu tranh giải phóng đất nước vào đầu thế kỉ XV. Khởi nghĩa Lam Sơn trước
hết là một cuộc chiến tranh yêu nước và chính nghĩa, một cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc nhằm cứu đất nước khỏi ách thống trị tàn bạo của ngoại bang.
Để làm nên thắng lợi đó không thể không kể đến tên tuổi các vị anh hùng
hào kiệt như: Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi Trong rất nhiều những con người
tài ba ấy, hậu thế không thể không vinh danh cái tên Nguyễn Chích bởi những
đóng góp của ông cho cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XV nói
chung, cũng như trong chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn nói riêng, góp phần
làm nên cuộc phục hưng vĩ đại của dân tộc trong thế kỉ XV, đưa đến sự sáng lập
một vương triều hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam -
vương triều Lê sơ.
Trong khởi nghĩa Lam Sơn việc đề ra kế hoạch chuyển hướng vào Nghệ
An, xây dựng căn cứ địa mới là một cống hiến vô cùng to lớn của ông. Kế hoạch
đó được coi như một bước ngoặt, mở ra con đường cho sự phát triển và thắng lợi
của cuộc khởi nghĩa. Chính vì thế, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ đây trở đi là sự
minh chứng cho tính chính xác của kế hoạch mang tên người anh hùng nông dân
Nguyễn Chích.
Nghiên cứu và tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói chung và hoạt
động của Nguyễn Chích nói riêng sẽ giúp chúng ta có tấm lòng tri ân và vinh
danh những người con ưu tú của lịch sử dân tộc. Qua đó để lại bài học kinh
nghiệm cho thế hệ trẻ ngày nay trước vận mệnh của lịch sử dân tộc đặc biệt
trong bối cảnh đất nước mở cửa, hội nhập.

2
Vì tất cả những lí do trên tôi quyết định chọn vấn đề “Hoạt động của
Nguyễn Chích trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427)” làm khóa luận
nghiên cứu, để có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
* Về khoa học: Góp phần làm sáng tỏ vai trò của Nguyễn Chích đối với
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
* Về thực tiễn: Bổ sung tư liệu giảng dạy lịch sử phổ thông và góp phần

giúp độc giả hiểu thêm về một giai đoạn vẻ vang trong lịch sử dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về các danh tướng Lam Sơn nói chung, danh tướng Nguyễn
Chích nói riêng từ lâu đã được giới nghiên cứu trong nước và thậm chí là các
học giả nước ngoài rất quan tâm, chú ý.
- Tiêu biểu là bài viết của giáo sư Phan Đại Doãn “Nguyễn Chích trong
cuộc kháng chiến chống Minh qua di tích và văn bia”, bài được công bố trên tạp
chí khảo cổ học số 20 - 1976, bài viết đã khái quát toàn bộ quá trình hoạt động
của Nguyễn Chích trong cuộc kháng chiến chống quân Minh.
- Trong cuốn “Khởi nghĩa Lam Sơn”, do hai giáo sư Phan Huy Lê và Phan
Đại Doãn đồng chủ biên, được Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1977,
đã đề cập đến con người và hoạt động của Nguyễn Chích một cách khái quát.
- Cuốn “Võ tướng Thanh Hoá trong lịch sử dân tộc” của học giả Trần Văn
Thịnh, đã khái quát về cuộc đời, sự nghiệp và chiến công của Nguyễn Chích.
- Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần còn dành nhiều công sức cho bộ
sách “Danh tướng Việt Nam”, trong đó ông dành riêng tập hai nói về “Danh
tướng khởi nghĩa Lam Sơn” được Nhà xuất bản Giáo dục phát hành năm 2000,
cũng đã đề cập đến con người và những đóng góp của Nguyễn Chích trên khía
cạnh quân sự.
- Ngoài ra một số lượng sách có liên quan rải rác đến nội dung của đề tài
như “Kỉ yếu Lê Lợi và Thanh Hoá trong khởi nghĩa Lam Sơn” do Nxb Thanh
Hoá phát hành 1988; cuốn “Khảo sát văn hoá truyền thống Đông Sơn”; cuốn
“Căn cứ địa Nghệ An trong Khởi nghĩa Lam Sơn” v.v Cùng một số bài viết về
danh tướng Nguyễn Chích của các tác giả Phạm Văn Kính, Nguyễn Đăng Ngân,
Võ Xuân Thưỡng Đó là những nguồn tư liệu cần thiết giúp tôi có một cái nhìn
tổng thể, sâu sắc về vấn đề đề tài đặt ra.

3
Đề tài của tôi một mặt là sự kế thừa thành tựu của những học giả đi trước,
mặt khác là sự cố gắng giải quyết những gì còn bỏ ngỏ khi nói về danh tướng

Nguyễn Chích trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu là “hoạt động của
Nguyễn Chích trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vào khoảng thời gian từ đầu
thế kỉ XV cho đến khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kết thúc - nghĩa là vào năm
1427, là khoảng thời gian gắn liền với quá trình hoạt động và chiến đấu của
Nguyễn Chích trước và sau khi tham gia khởi nghĩa.
Về mặt không gian: Đề tài nghiên cứu những hoạt động của nhân vật
Nguyễn Chích chủ yếu là khu vực Thanh Hóa và sau này mở rộng địa bàn hoạt
động vào Nghệ An và một số vùng lân cận.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài này tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ sự chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược và những đóng góp của Nguyễn Chích đối với sự toàn thắng của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn.
5. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở tư liệu
Cơ sở tư liệu hoàn thành đề tài này là cuốn: “Khởi nghĩa Lam Sơn”, “Danh
tướng Việt Nam”, “Đại cương lịch sử Việt Nam”, “Nguyễn Trãi đánh giặc cứu
nước”, các tạp chí, các công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam thời kì cổ -
trung đại đã được công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này tôi sử dụng 2 phương pháp chủ yếu đó là phương pháp
lịch sử và phương pháp lôgic lịch sử. Ngoài ra tôi còn sử dụng các phương pháp
khác như đối chiếu, so sánh
6. Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học: Đề tài xây dựng một cách có hệ thống bức tranh mang
tính tổng thể, toàn diện về chân dung người anh hùng nông dân Nguyễn Chích

trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV. Không chỉ vậy, đề tài bước

4
đầu đi sâu phân tích những đóng góp của ông cả mặt lí luận lẫn thực tiễn về vấn
đề xây dựng căn cứ địa cho cuộc khởi nghĩa.
Về mặt thực tiễn: Đề tài là công trình khoa học, tài liệu tham khảo có giá trị
giúp học sinh, sinh viên tìm hiểu sự nghiệp đánh giặc cứu nước của danh tướng
Nguyễn Chích. Đề tài còn là nguồn tư liệu phục vụ cho công tác giảng dạy và
nghiên cứu lịch sử địa phương. Ngoài ra đề tài cũng góp phần giáo dục truyền
thống của dân tộc, dòng họ, quê hương.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, nội dung cơ bản
của đề tài gồm có ba chương:
Chương 1. Tình hình Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV.
Chương 2. Quá trình hoạt động của Nguyễn Chích trước khi tham gia khởi
nghĩa Lam Sơn.
Chương 3. Đóng góp của Nguyễn Chích trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.


5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH ĐẠI VIỆT CUỐI THẾ KỶ XIV
ĐẦU THẾ KỶ XV

1.1. Cuộc khủng hoảng của quốc gia Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ
XV, sự xâm lược và chính sách cai trị của nhà Minh
1.1.1. Cuộc khủng hoảng của quốc gia Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV
Xã hội Đại Việt sau một thời kì phát triển phồn vinh, đến cuối đời Trần, chế
độ phong kiến trải qua những biến động sâu sắc: kinh tế bắt đầu sa sút, chính trị
khủng hoảng, xã hội bất ổn. Nguyên nhân chủ yếu của những biến động này là

kinh tế điền trang thái ấp và chế độ nông nô, nô tỳ, sau một thời gian phát triển,
đến nay đã trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất. Mâu thuẫn xã
hội và các lực lượng đối lập trở nên gay gắt, yêu cầu thay đổi, xóa bỏ nền kinh tế
điền trang được đặt ra cho xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV.
Trong lúc đó, tầng lớp quý tộc nhà Trần ngày càng sa đọa, chỉ lo tăng
cường bóc lột để sống cuộc đời sa hoa, phóng đãng. Nông dân bị địa chủ cướp
đoạt ruộng đất, bị bóc lột tô thuế và lao dịch nặng nề, trở nên lầm than, cơ cực.
Do địa vị thống trị trong nước bị lung lay, nhà Trần chủ trương xâm lược
các nước láng giềng phương Tây, phương Nam, hòng lấy chiến thắng bên
ngoài để củng cố uy thế bên trong. Nhưng trái lại, các cuộc chiến tranh kéo
dài liên miên làm cho chế độ phong kiến thêm khủng hoảng trầm trọng, làm
cho cơ nghiệp nhà Trần nhanh chóng sụp đổ. Trong bối cảnh đó, sự sụp đổ
của nhà Trần là một điều tất yếu. Trước sự sụp đổ của triều Trần, năm 1400
Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và thiết lập một triều đại phong kiến mới: triều
Hồ (1400 - 1407).
Trong những năm nắm quyền, Hồ Quý Ly đã mạnh dạn đưa ra những chính
sách cải cách nhằm cải thiện tình hình. Những biện pháp mà Hồ Quý Ly cho thi
hành khá mạnh dạn, quyết liệt. Tuy nhiên, về căn bản chưa đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của phát triển của xã hội, chưa giải quyết được những mâu thuẫn về kinh tế
và xã hội đang đề ra gay gắt lúc bấy giờ. Chính quyền nhà Hồ mới thành lập,
thiếu một cơ sở xã hội vững chắc và đang đứng trước nhiều khó khăn nghiêm
trọng, đặc biệt là đang đứng trước nguy cơ xâm lược của nhà Minh.



6
1.1.2. Sự xâm lược và chính sách cai trị của nhà Minh
Giữa lúc đất nước đang trải qua những biến động sâu sắc, giữa lúc nhà Trần
đang suy yếu và đi vào sụp đổ, giữa lúc nhà Hồ mới thành lập đang gặp nhiều
khó khăn, nhà Minh lợi dụng thời cơ đó để mở cuộc chiến tranh xâm lược nước

ta. Ngày 19-11-1406, 80 vạn quân Minh dưới sự chỉ huy của Trương Phụ và
Mộc Thạnh đã vượt qua biên giới vào lãnh thổ nước ta. Quân đội nhà Hồ rút về
thủ giữ các phòng tuyến ở bên bờ sông Đà và sông Nhị. Nhưng ngày 20 -1-1407
thành Đa Bang thất thủ, phòng tuyến chính bị phá vỡ, tháng 6 năm 1407 thì cuộc
kháng chiến của nhà Hồ thất bại hoàn toàn. Dù quân Minh đã đánh bại được nhà
Hồ nhưng đã vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của nhân dân và ngay trong vùng
chúng đã chiếm đóng được, những cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra liên tiếp. Một
phong trào đấu tranh rộng rãi và mạnh mẽ của nhân dân ta dâng lên khắp nơi.
Mãi đến năm 1414, quân Minh mới thật sự chiếm được toàn bộ lãnh thổ nước ta
và hoàn thành cuộc xâm lược của chúng. Tuy nhiên, từ năm 1407, quân Minh đã
bắt đầu thiết lập chính quyền đô hộ trên đất nước ta để làm công cụ phục vụ kế
hoạch “bình định” của chúng và đồng thời tiến hành những chính sách thống trị
về các mặt.
Về chính trị:
Âm mưa của nhà Minh là không những chiếm nước ta làm thuộc quốc mà
còn muốn thực hiện dã tâm đồng hóa, vĩnh viễn xóa bỏ nước ta và sát nhập hẳn
vào lãnh thổ của nhà Minh. Tháng 4 năm 1407, Minh Thành Tổ hạ chiếu đổi
nước ta làm quận Giao Chỉ, coi như một địa phương của quốc gia phong kiến
nhà Minh. Chính quyền đô hộ ở Giao Chỉ nói chung được tổ chức như một
chính quyền địa phương của nhà Minh.
Đứng đầu quận Giao Chỉ là một tổ chức chính quyền gồm ba ti: đô chỉ huy
sứ ti, hay đô ti phụ trách về quân chính; thừa tuyên bố chính sứ ti hay bố chính ti
trông nom về dân chính và tài chính; đề hình án sát sứ ti hay án sát ti nắm quyền
tư pháp. Ba ti này lệ thuộc trực tiếp vào triều đình nhà Minh [2,24].
Dưới quận, nhà Minh chia lại các phủ, châu, huyện và thiết lập những cấp bộ
chính quyền địa phương. Năm 1407, nhà Minh lập ra 15 phủ gồm 36 châu, 181
huyện. Ngoài ra, còn 5 châu trực thuộc vào quận. Âm mưa của nhà Minh là không
những chiếm nước ta làm thuộc quốc mà còn muốn thực hiện dã tâm đồng hóa,
vĩnh viễn xóa bỏ nước ta và sát nhập hẳn vào lãnh thổ của nhà Minh. Năm 1419,
tổng binh Lý Bân đề nghị triều đình nhà Minh cho tổ chức lại xã thôn của ta thành

lý và giáp như cơ cấu hành chính của nông thôn Trung Quốc. Riêng khu vực kinh
thành thì trong thành lập thành phường và ngoài thành lập thành sương, tương

7
đương như lý ở nông thôn. Ngoài ra chúng còn lập ra nhiều cơ quan mới để tăng
cường vơ vét của cải, tài nguyên của nước ta.
Về quân sự:
Nhà Minh chú ý xây dựng một hệ thống phòng lũy ở các nơi hiểm yếu và
lập các vệ, sở đóng giữ khắp nơi. Chỉ trong năm 1407, nhà Minh đã dựng lên
trên đất nước ta một bộ máy trấn áp khá lớn với 14 vệ và nhiều sở. Theo tổ chức
quân đội của nhà Minh thì mỗi vệ có 5.600 quân, mỗi sở thì thiên hộ sở gồm
1.120 quân và bách hộ sở gồm 120 quân [2,26]. Tại các phủ và các vệ, sở cũng
như những địa điểm xung yếu, quân Minh đều xây dựng thành lũy kiên cố để
trấn giữ. Trên đất nước ta, chúng dựng lên 39 thành lũy lớn, chưa kể những đồn
canh phòng ở các nơi. Giữa các phủ huyện và thành lũy, quân Minh lập ra một
hệ thống giao thông bằng trạm dịch để kịp thời liên hệ, tiếp ứng cho nhau. Hệ
thống giao thông này gồm có 374 trạm dịch nối liền với thành Đông Quan và từ
Đông Quan lại có những trạm dịch bằng đường bộ và đường thủy nối liền với
kinh đô nhà Minh. Bên cạnh đó, nhà Minh ra sức đào tạo đội ngũ tay sai người
bản xứ gọi là thổ quan. Bọn quý tộc và quan lại đầu hàng là những tay sai trung
thành và đắc lực nhất được nhà Minh cân nhắc cho giữ một số chức tước quan
trọng. Ngoài ra, theo lệnh nhà Minh, bọn quan lại đô hộ còn lùng bắt những
người mà chúng gọi là “người ẩn dật ở núi rừng, có tài, có đức, thông suốt năm
kinh, văn hay học rộng, thạo việc, am hiểu thư toán, nói năng hoạt bát ” cùng
những người “hiểu biết nghề cầu cúng, làm thuốc, xem bói” [2,27]. Để bổ sung
binh lính, bên cạnh số quân Minh phái sang, nhà Minh ra sức tuyển mộ thêm thổ
binh. Việc đào tạo ra đội ngũ quan lại và quân lính người bản xứ đông như vậy
là nhà Minh nhằm thực hiện chính sách “chia để trị”, thông qua đó thi hành
nhiều chính sách khủng bố tàn bạo.
Về kinh tế:

Bọn quan lại đô hộ thi hành rất nhiều hình thức và thủ đoạn để bóc lột, vơ
vét nhân dân ta một cách thậm tệ. Chỉ trong hơn nưa năm đầu tiến hành chiến
tranh xâm lược nước ta, quân địch đã cướp đoạt của nhân dân ta 235.900 con
voi, ngựa, trâu, bò; 13.600.000 thạch thóc; 8.670 chiếc thuyền và 2.539.800 vũ
khí [2,30].
Về thuế khóa, chính quyền đô hộ đặt ra vô số thứ thuế nặng nề đánh vào
mọi hạng người và mọi nghề nghiệp làm ăn của nhân dân từ nông nghiệp, thủ
công nghiệp đến thương nghiệp. Nhà Minh đã thiết lập một mạng lưới thu thuế
mang tên là ti thuế khóa, ti tuần kiểm, ti thị bạc, ti thuế muối Mọi hoạt động
kinh doanh buôn bán đều do chúng độc quyền, không những thế chúng còn bắt

8
nhân dân ta lao dịch khổ sai cho chúng, bắt hàng loạt các thợ thủ công giỏi đem
về nước phục dịch và thậm chí bắt cả phụ nữ, trẻ em bán làm nô tỳ.
Về văn hóa - xã hội:
Nhà Minh chủ trương thủ tiêu nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta và đồng
hóa về mặt phong tục, tập quán. Trong quá trình xâm lược, chúng còn tìm cách
tiêu hủy những di sản văn hóa của nước ta bằng cách đốt hết những sách vở bắt
được và tịch thu sách vở đem về nước. Chính sách thâm độc độc đó của quân
địch đã làm một số tác phẩm lịch sử, văn học nghệ thuật v.v thời Lý, Trần bị
mất mát và tiêu hủy rất nhiều. Bên cạnh đó, nhà Minh còn bắt nhân dân ta thay
đổi cách ăn mặc và phong tục tập quán lâu đời của mình để đồng hóa theo phong
tục và lễ giáo nhà Minh.
Về giáo dục:
Nhà Minh ra sức việc hạn chế việc học hành, thi cử và biến trường học
thành nơi đào tạo bọn tay sai phục vụ cho chính quyền đô hộ. Đồng thời với việc
hạn chế phát triển giáo dục, chính quyền đô hộ ra sức truyền bá đạo Phật, đạo
Giáo và các hình thức mê tín khác để mê hoặc nhân dân. Trong chính quyền đô
hộ, chúng lập ra đến 257 cơ quan chuyên trách về tôn giáo gọi là các ty âm
dương, tăng cương, đạo kỷ, tăng chính, đạo chính v.v Do đó, những người làm

nghề tôn giáo như thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ rất được trọng dụng, được làm
quan trong trường học và giữ các chức tước trong chính quyền đô hộ.
Cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV, xã hội ta đang trải qua nhiều biến động sâu
sắc, nhưng đồng thời bộc lộ rõ một bước phát triển mới của chế độ phong kiến
với yêu cầu xóa bỏ kinh tế điền trang thái ấp và chế độ nông nô, nô tỳ. Những
cải cách của nhà Hồ tuy chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển khách quan đó,
nhưng cũng có một số mặt tích cực có lợi cho sự phát triển của xã hội.
Cuộc xâm lược và hai mươi năm thống trị của nhà Minh đã ngăn chặn bước
phát triển nội tại của xã hội nước ta. Dưới thời thuộc Minh, những cải cách của
Hồ Quý Ly hoàn toàn bị xỏa bỏ để thay thế bằng những chích sách áp bức, bóc
lột vô cùng tàn khốc, nặng nề. Với tư cách của kẻ đi xâm lược và nô dịch, ách
đô hộ của nhà Minh đã trở thành một trở lực nghiêm trọng kìm hãm sự phát triển
của xã hội. Những chính sách thuế khóa, phu dịch nặng nề cùng với những thủ
đoạn bóc lột, vơ vét tham tàn và những hành động cướp bóc, tàn phá của quân
Minh đã gây ra nhiều tang tóc, đau thương cho đất nước. Dưới ách thống trị của
nhà Minh, nền kinh tế nước ta bị đình đốn, đời sống nhân dân bị điêu đứng.

9
Về nông nghiệp, chính sách cướp ruộng đất để lập đồn điền và cấp chức
điền cho bọn quan lại làm cho nhiều nơi nông dân bị mất ruộng đất và bị phá
sản. Những hành động vơ vét, cướp bóc của địch, nhất là việc cướp trâu bò, đã
gây ra nhiều khó khăn trong sản xuất, làm cho kinh tế nông nghiệp có khi bị phá
hoại. Những cuộc đàn áp, khủng bố liên miên của địch còn làm mùa màng bị tàn
phá, đồng ruộng phải bỏ hoang. Trong lúc đó thì đê điều và các công trình thủy
lợi không được chăm lo nên thiên tai xảy ra dữ dội. Do đó, trong thời thuộc
Minh nạn lụt lội, đê vỡ, mất mùa, đói kém, dịch tễ xảy ra liên tiếp. Năm 1407,
với sự tàn phá của cuộc chiến tranh xâm lược của quân Minh nên nạn đói và
dịch bệnh xảy ra nghiêm trọng “nhân dân không trồng trọt, cày cấy được, người
chết đói rất nhiều”. Năm 1411, lụt lớn, đê sông Đáy vỡ, nhà cửa của dân bị trôi
dạt. Năm 1412, cả khu vực từ Diễn Châu trở vào, đồng ruộng bỏ hoang, dân

không cày cấy được [2,38].
Về công thương nghiệp, chính sách thuế khóa nặng nề cùng với những thủ
đoạn vơ vét tài nguyên, lùng bắt thợ thủ công, hạn chế sự đi lại buôn bán và cấm
chỉ về ngoại thương của nhà Minh là những trở lực nghiêm trọng. Do những
chính sách và thủ đoạn đó mà nhiều nghề thủ công bị phá sản, việc buôn bán
trong nước và ngoài nước trở nên sa sút.
Đời sống nhân dân thì lâm vào tình trạng lầm than, cơ cực. Ngoài thuế
khóa, phu dịch nhân dân còn phải chịu nhiều cảnh chém giết, cướp bóc và tàn
phá của quân địch.
Với tất cả những hậu quả to lớn do cuộc chiến tranh xâm lược và ách đô hộ
tàn bạo của giặc Minh gây ra đã kìm hãm sự phát triển của xã hội, đe dọa
nghiêm trọng vận mệnh dân tộc, chà đạp lên cuộc sống cũng như phẩm giá của
con người. Trong bối cảnh “nước sôi lửa bỏng” đó, một nhiệm vụ cấp thiết đặt
ra là phải đấu tranh thủ tiêu nền thống trị ngoại bang, khôi phục nền độc lập của
Tổ quốc.
1.2. Các phong trào đấu tranh trước khởi nghĩa Lam Sơn
Ngay sau khi cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, hàng loạt các cuộc đấu
tranh của nhân dân ta chống lại ách thống trị của nhà Minh liên tục nổ ra, không
ngừng, không ngớt trên khắp mọi miền Tổ quốc. Mùa thu năm 1407, ngay sau
khi nền đô hộ của nhà Minh vừa mới được thiết lập thì nhân dân huyện Đông
Lan và Trà Thanh thuộc phủ Diễn Châu (Nghệ An) nổi dậy đốt phá nhà ngục,
giết bọn quan lại.
Cũng trong năm 1407, nhân dân thiểu số miền châu Quảng Nguyên, Thất
Nguyên (Cao Bằng) đã nổi dậy chống quân Minh. Tháng 9, Trương Phụ phái đô

10
đốc Cao Sĩ Văn điều quân lên đàn áp. Quân Minh tiến đến châu Quảng Nguyên
thì bị chặn đánh kịch liệt. Quân địch bị tổn thất nặng nề, Cao Sĩ Văn bị giết.
Xung quanh những thành lũy trung tâm của địch như Đông Quan (tức
Đông Đô), Tây Đô, quân Minh phải thừa nhận có những “ổ quân ác nghịch” tức

là hoạt động chống đối của nghĩa quân và ra lệnh cho bon tướng tá, quan lại đô
hộ chú ý theo dõi, đề phòng.
Tháng 11, nội quan Miêu Thanh tâu về triều đình nhà Minh rằng: “Tại các
phủ Tân An (miền Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương), Kiến Bình (Nam Định),
Lạng Giang (Bắc Giang) các châu Đông Hồ (Quảng Ninh), Thái Nguyên và
sông Sinh Quyết, dân Man không phục, họp nhau làm loạn” [15,15]. Hành động
gọi là “họp nhau làm loạn” chính là những cuộc bạo động của nhân dân ta chống
lại quân Minh nhưng bị ghi chép xuyên tạc dưới ngọn bút của kẻ xâm lược. Lời
tâu của Miêu Thanh cho thấy rằng ở hầu khắp mọi nơi, từ miền xuôi lên miền
núi, đang bùng lên một cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân.
Sang đầu năm 1408, phong trào kháng Minh càng lan rộng ở nhiều nơi.
Trần Nguyên Thôi cầm đầu cuộc khởi nghĩa ở huyện Nguyên Lang châu Tam
Đái (thuộc tỉnh Vĩnh Phú). Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí nổi dậy hoạt
động ở vùng châu Thái Nguyên. Một trong những cuộc khởi nghĩa được xem là
quy mô nhất, lớn nhất kể từ khi cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại đến năm
1414 là cuộc khởi nghĩa do Trần Ngỗi, sau đó là Trần Quý Khoáng lãnh đạo.
Trần Ngỗi (còn gọi là Trần Quỹ) là con thứ của vua Trần Nghệ Tông
(1370 - 1372). Tháng 10 năm 1407, một số người yêu nước lập Trần Ngỗi lên
làm vua, tôn xưng là Giản Định Đế, cầm đầu một cuộc khởi nghĩa ở Yên Mô
(Ninh Bình). Việc Trần Ngỗi lên ngôi báo hiệu một sự hồi sinh mới cho dân
tộc, đó cũng là lời cảnh báo với quân Minh rằng nhân dân ta không bao giờ
lùi bước mà sẽ đứng dậy đấu tranh tới cùng. Uy tín của Trần Ngỗi vang dội
khắp nơi, đã thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân và tập hợp được rất
nhiều quan lại, quý tộc cũ của triều Trần, triều Hồ, trong đó tiêu biểu có Đặng
Tất và Nguyễn Cảnh Chân.
Giữa năm 1408, nghĩa quân giải phóng một khu vực rộng lớn từ Thanh Hóa
đến Hóa Châu (Trị Thiên). Nghĩa quân tiếp tục tiến ra đồng bằng sông Hồng,
mở nhiều cuộc tiến công vào những căn cứ quân sự quan trọng của địch, chặn
đường qua lại của địch ở Tam Giang (Vĩnh Phúc) và uy hiếp cả ngoại vi thành
Đông Quan. Biết được tin này, nhà Minh phải cử Mộc Thạnh điều thêm 4 vạn

quân sang tăng viện. Cuối năm 1408, Mộc Thạnh tập trung một lực lượng lớn
tiến đánh nghĩa quân ở bến Cô Bô (bến sông Đáy ở Ý Yên, đối diện với thị xã

11
Ninh Bình). Nhưng tại đây, quân ta đã giết chết nhiều tướng soái, quan chức cao
cấp của địch và tiêu diệt khoảng 10 vạn quân địch. Tướng Mộc Thạnh cùng đám
tàn quân rút chạy về thành Cổ Lộng (Ý Yên, Nam Định).
Như vậy, chiến thắng Cô Bô đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đánh giặc cứu
nước của nhân dân ta và tạo ra một thời cơ thuận lợi để tiến lên giành những
thắng lợi có ý nghĩa quyết định. Nhưng tiếc rằng, sau chiến thắng ấy, trong bộ
chỉ huy cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi lại nảy sinh những mâu thuẫn, chia rẽ
nghiêm trọng. Do sợ bị lấn áp quyền lực, Trần Ngỗi đã giết hai tướng chủ chốt
của nghĩa quân là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Hành vi đó làm cho nghĩa
quân chán nản, lòng người li tán. Nhiều người đã bỏ Trần Ngỗi đi tổ chức các
cuộc khởi nghĩa khác. Đến đây, cuộc khởi nghĩa do Trần Ngỗi lãnh đạo chính
thức chấm dứt.
Cũng giống như Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng cũng là một quý tộc nhà
Trần. Trần Quý Khoáng là con thứ của Mẫn Vương Ngạc, cháu vua Trần Nghệ
Tông và cũng là cháu Trần Ngỗi. Sau khi Giản Định Đế nghe lời gièm pha giết
hai tướng là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân thì Trần Quý Khoáng được Đặng
Dung là con của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Dị là con Nguyễn Cảnh Chân đưa
lên làm vua thay cho Giản Định Đế, lấy hiệu là Trùng Quang Đế. Tại Nghệ An,
Trần Ngỗi vẫn được tôn làm Thái thượng hoàng để cùng với Trần Quý Khoáng
hợp nhất hai lực lượng khởi nghĩa.
Nghĩa quân Trần Quý Khoáng, sau một thời gian củng cố lực lượng, vẫn
kiểm soát được khu vực từ Thanh Hóa trở vào. Dưới sự chỉ huy của các tướng
Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, nghĩa quân nhiều lần tiến ra hoạt
động ở lưu vực sông Đáy, sông Nhị, sông Thái Bình, đánh chiếm cửa Hàm Tử,
đồn Bình Than, gây cho quân Minh nhiều thiệt hại. Tuy nhiên, nghĩa quân đã
gặp không ít khó khăn bởi sự đầu hàng và tiếp tế cho giặc của một số tướng tá.

Năm 1413, Trương Phụ tập trung quân thủy và quân bộ, mở cuộc tiến công
lớn vào phía nam, đánh bại lực lượng khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng ở Tân
Bình, Thuận Hóa (Bình Trị Thiên).
Như vậy, cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng là sự tiếp tục cuộc khởi
nghĩa của Trần Ngỗi, đã có bước phát triển mạnh mẽ nhưng cuối cùng vẫn thất
bại. Đồng thời với cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng là hàng
loạt các cuộc khởi nghĩa khác diễn ra sôi nổi như khởi nghĩa của Đặng Dung,
Nguyễn Súy ở sông Ái Tử, Trần Quý Toản ở vùng Tĩnh An (Quảng Ninh),
Nguyễn Nhũ ở Đại Từ (Thái Nguyên), Nông Văn Dịch ở Lạng Sơn Đặc biệt,
phong trào nghĩa binh “áo đỏ” (hồng y) phát triển rộng rãi và kéo dài.

12
Phong trào đấu tranh trước khởi nghĩa Lam Sơn lan rộng từ Bắc chí Nam,
từ miền đồng bằng lên miền núi và đã lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân tham gia.
Vào khoảng những năm 1410 - 1411, phong trào phát triển đến mức độ cao nhất
và đến cuối năm 1413 sang đầu năm 1414 thì phong trào cơ bản bị đàn áp. Sự
thất bại của các cuộc khởi nghĩa do các nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: các phong trào này tuy lan rộng và mãnh liệt nhưng mang nặng
tính chất tự phát, riêng lẻ trong từng địa phương. Một điểm đáng nói nữa là các
cuộc đấu tranh tuy rầm rộ, mãnh liệt nhưng đó không phải là những phong trào
có tổ chức và lãnh đạo thống nhất mà là một phong trào bao gồm nhiều cuộc
khởi nghĩa trong từng địa phương riêng lẻ. Cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và
Trần Quý Khoáng là hai cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong giai đoạn này, tuy có lúc
đã mở rộng hoạt động trên khu vực rộng lớn, nhưng chưa bao giờ đóng được vai
trò trung tâm thu hút toàn bộ lực lượng đấu tranh của nhân dân cả nước. Chính
vì nhược điểm cơ bản này mà lực lượng đấu tranh bị phân tán và trước sự đàn áp
tàn khốc của quân địch phong trào suy yếu dần và đi đến chỗ thất bại.
Thứ hai: Về phương diện lãnh đạo có thể thấy phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trước khởi nghĩa Lam Sơn tỏ ra thiếu hẳn một bộ phận lãnh đạo
kiên quyết và có uy thế rộng rãi trong nhân dân, có khả năng huy động và tập

hợp lực lượng đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân yêu nước.
Cuộc xâm lược của nhà Minh được tiến hành vào lúc chế độ phong kiến
nước ta đang đứng trước một số trở ngại, trong lúc những mâu thuẫn giai cấp
trong nước đang gay gắt. Trong những mâu thuẫn giai cấp lúc bấy giờ, mâu
thuẫn giữa tầng lớp quý tộc với nông nô, nô tỳ và nông dân lệ thuộc là quyết liệt
nhất. Mâu thuẫn ấy đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách phá vỡ kinh tế điền
trang thái ấp và giải phóng nông nô, nô tỳ thành nông dân tá điền hay nông dân
tự canh. Sự sụp đổ của triều Trần rồi những cải cách của Hồ Quý Ly và đặc biệt
là phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đã làm cho quyền lợi kinh tế
và địa vị thống trị của tầng lớp quý tộc bị đe dọa nghiêm trọng.
Trước sự xâm lược và đô hộ của nhà Minh, tầng lớp quý tộc đã bộc lộ thái
độ phản động, sẵn sàng câu kết với giặc ngoại xâm để hòng duy trì quyền lợi và
địa vị riêng. Điều đó đã được minh chứng qua những hành động như cầu cứu
nhà Minh, dẫn đường cho quân Minh xâm lược, tham gia chính quyến đô hộ của
nhà Minh để đàn áp nhân dân Tuy nhiên, dưới ách thống trị của nhà Minh,
trong nội bộ tầng lớp quý tộc cũng diễn ra sự phân hóa sâu sắc. Trong lúc đại bộ
phận quý tộc đi vào con đường phản bội, thì cũng có một số quý tộc yêu nước đã
lãnh đạo và tổ chức nhân dân khởi nghĩa.

13
Đặc điểm của những cuộc khởi nghĩa do những quý tộc yêu nước lãnh đạo
là ngoài mục đích lật đổ nền đô hộ của nhà Minh, giải phóng đất nước, còn
nhằm khôi phục lại nhà Trần và bảo vệ quyền lợi của tầng lớp quý tộc. Lật đổ
nền đô hộ của nhà Minh, giải phóng đất nước là nội dung yêu nước và tiến bộ
của những cuộc khởi nghĩa này. Nhưng khôi phục lại nhà Trần và bảo vệ
quyền lợi của tầng lớp quý tộc lại biểu hiện mặt hạn chế và tiêu cực của bộ
phận lãnh đạo. Khẩu hiệu khôi phục lại nhà Trần có phần nào đó có tác dụng
bóc trần và chống lại chiêu bài “phù Trần” xảo trá của nhà Minh. Nhưng triều
Trần là một triều đại phong kiến đổ nát đã bị nhân dân lên án và lật đổ nên
khẩu hiệu khôi phục lại nhà Trần không có tác dụng động viên đối với nhân

dân. Còn bảo vệ quyền lợi của tầng lớp quý tộc là bảo vệ điền trang, thái ấp và
duy trì chế độ nông nô, nô tỳ là đi ngược lại yêu cầu phát triển khách quan của
xã hội lúc bấy giờ. Chính vì những mặt hạn chế và tiêu cực đó mà bộ phận lãnh
đạo này không còn khả năng tập hợp lực lượng đông đảo của quần chúng để
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước.
Thứ ba: về phương diện chỉ đạo chiến tranh, vì thiếu hậu thuẫn mạnh mẽ
trong nhân dân nên bộ phận lãnh đạo này không thể tiến hành được một cuộc
chiến tranh giải phóng có tính chất nhân dân rộng rãi, không vận dụng được
chiến thuật du kích, phục kích để chống lại những cuộc càn quét của địch, tiêu
hao lực lượng địch rồi phát triển lực lượng tiến lên phản công tiêu diệt địch.
Mặc dù thất bại nhưng các cuộc đấu tranh trước khởi nghĩa Lam Sơn vẫn
tiêu biểu cho tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của nhân dân ta. Máu của
các chiến sĩ đã hi sinh trong những cuộc đấu tranh đó tuy chưa viết lên được
những chiến thắng rực rỡ nhưng cũng đã góp phần tô thắm thêm những trang sử
chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc và góp phần nung nấu thêm ý chí diệt thù
trong tâm can mỗi con người, để chuẩn bị thắng lợi cho những phong trào yêu
nước giai đoạn sau này.
Tiểu kết
Cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV, xã hội Đại Việt lâm vào cuộc khủng
hoảng, suy yếu. Trước bối cảnh đó, quân Minh sang xâm lược và đặt ách thống
trị trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quân sự, giáo dục. Hai
mươi năm đô hộ của nhà Minh đã gây ra nhiều hậu quả tai hại cho đất nước, làm
đình trệ nền kinh tế, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, những di sản văn
hóa thì bị phá hủy, cuộc khủng hoảng cuối thế kỉ XIV không được giải quyết mà
còn thêm sâu sắc hơn, con đường phát triển của đất nước ta bị chững lại. Thế
nhưng, nền đô hộ tàn bạo của nhà Minh không tiêu diệt được ý thức dân tộc và

14
tinh thần yêu nước bất khuất của dân tộc Việt Nam. Phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc đã sớm bùng lên liên tục, lan rộng từ Bắc tới Nam, từ đồng bằng

lên miền núi và thu hút được mọi tầng lớp nhân dân tham gia, tiêu biểu là cuộc
khởi nghĩa của Trần Ngỗi, sau đó là Trần Quý Khoáng lãnh đạo. Các phong
trào đấu tranh trước khởi nghĩa Lam Sơn đều là những cuộc đấu tranh giải
phóng có tính chất yêu nước và chính nghĩa. Những cuộc khởi nghĩa đó đã
giành được một số thắng lợi nhất định, nhưng cuối cùng đều bị thất bại trước
sự đàn áp đẫm máu của quân Minh. Dù thất bại, nhưng phong trào đấu tranh
trước khởi nghĩa Lam Sơn đã thể hiện quyết tâm chống xâm lược, giành lại
độc lập, chủ quyền đất nước.

15
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN CHÍCH TRƯỚC
KHI THAM GIA KHỞI NGHĨA LAM SƠN

2.1. Quê hương và thân thế
2.1.1 Quê hương
Thanh Hóa - quê hương người anh hùng Nguyễn Chích là một tỉnh lớn thứ
8 trong 64 tỉnh thành trong cả nước với diện tích 11.138km
2
và 18.000km thềm
lục địa. Thanh Hóa là vùng đất nằm ở cực bắc miền Trung, nối liền với Bắc
Trung Bộ và Trung Bộ nước ta. Phía Bắc giáp 3 tỉnh: Sơn La; Hòa Bình; Ninh
Bình, phía Nam và Tây Nam giáp Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn của
Lào, phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ.
Thanh Hóa là vùng đất có bề dày lịch sử hào hùng và truyền thống văn hóa
đặc sắc. Vào sơ kì đá cũ, bằng sự phát hiện và khai quật khảo cổ các di chỉ Núi
Đọ, núi Quan Yên, núi Nuông đã khẳng định Thanh Hóa là nơi sinh sống của
người nguyên thủy, đặc biệt hang Con Moong là nơi chứng kiến các giai đoạn
phát triển liên tục của con người từ hậu kì đá cũ sang thời đại đá mới. Quá trình
chinh phục đồng bằng trên đất Thanh Hóa của cư đân đồ đá mới đã để lại một
nền văn hóa Đa Bút - một nền văn hóa tiến bộ cách đây 6000 năm.

Sang đầu thời đại kim khí qua các bước phát triển với các giai đoạn trước
văn hóa Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải qua một quá trình phát triển với các nền
văn hóa Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các nền văn
hóa Đồng Đậu, Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Đó là quá trình chuẩn bị mọi mặt
để hình thành và phát triển văn minh Văn Lang - Âu Lạc, một nền văn minh rực
rỡ đầu tiên của nước Việt Nam ta.
Suốt mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, vùng đất Thanh Hóa
đã xuất hiện nhiều anh hùng, danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê
Lợi, Khương Công Phụ, Lê văn Hưu, Lê Thánh Tông, Đào Duy Từ… Cùng với
những trang sử oai hùng Thanh Hóa có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như Núi
Đọ, Đông Sơn, khu di tích Bà Triệu, Lê Hoàn, Thành nhà Hồ, Nam Kinh, Ba
Đình, Hàm Rồng xứng đáng là vùng đất “địa linh nhân kiệt”.
Đông Sơn là huyện nằm ở trung tâm tỉnh Thanh Hóa, nằm trong lưu vực
của sông Mã, phía Đông giáp thành phố Thanh Hóa, phía Bắc giáp huyện Thiệu
Hóa, phía Tây giáp huyện Triệu Sơn, phía Nam giáp huyện Quảng Xương và
huyện Nông Cống thuộc tỉnh Thanh Hóa.

16
Đông Sơn là vùng đất cổ nổi tiếng với bề dày truyền thống lịch sử và văn
hóa. Đây là một di chỉ khảo cổ nổi tiếng bậc nhất Việt Nam, nơi phát hiện ra nền
văn hóa Đông Sơn của người Lạc Việt, là nơi tồn tại nhiều trống đồng nhất Việt
Nam được gọi là “trống đồng Đông Sơn”.
Thời kì Bắc thuộc: thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn, Đông Sơn là miền đất
thuộc huyện Tư Phố và một phần phía Nam thuộc huyện Cư Phong. Thời Tùy -
Đường thuộc huyện Cửu Chân. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý giữ nguyên như thời Tùy
- Đường. Thời Trần tên huyện Đông Sơn bắt đầu có từ đây. Thời thuộc Minh
Đông Sơn thuộc phủ Thanh Hóa. Thời Lê Quang Thuận thuộc phủ Thiệu Thiên,
đầu thời Nguyễn vua Gia Long đổi phủ Thiệu Thiên thành phủ Thiệu Hóa, do đó
huyện Đông Sơn thuộc phủ Thiệu Hóa và hiện nay Đông Sơn là một huyện thuộc
tỉnh Thanh Hóa. Đây là một địa bàn có vị trí quan trọng về nhiều mặt.

Về giao thông: Có quốc lộ 45 chạy từ thành phố Thanh Hóa, cắt ngang phía
Bắc huyện, qua thị trấn Rừng Thông, sau huyện Thiệu Hóa và quốc lộ 47 sang
huyện Nông Cống cùng với đường sắt Bắc Nam tạo thành mạch máu giao thông
quan trọng.
Về kinh tế: là khu vực có hệ thống giao thông thuận lợi và địa bàn bằng
phẳng thuận lợi thu hút vốn đầu tư. Đồng thời phát triển mạnh các ngành khai
thác và chế tạo đá xuất khẩu mỹ nghệ đem lại nguồn lợi lớn.
Về văn hóa- xã hội: huyện Đông Sơn nổi tiếng với hệ thống trò diễn dân
gian: ngũ trò Viên Khê, ngũ trò Bôn, ngũ trò Rủn… Cùng nhiều giá trị văn hóa
nổi tiếng đặc biệt là trống đồng Đông Sơn.
Từ xa xưa, Đông Sơn được coi là nơi có lịch sử có lịch sử phát triển lâu
đời. Vùng đất này có vinh dự là một trong những nơi chứng kiến những bước
chuyển biến vĩ đại của nhân loại từ vượn thành người.
Trên vùng đất này theo dòng tiến hóa của lịch sử dân tộc, có rất nhiều các
địa danh tên đất đã trở thành các biểu trưng văn hóa tạo nên những dấu ấn đậm
nét trên trang sử dựng nước của cha ông. Cũng tại vùng đất này, lịch sử Đông
Sơn đã sản sinh ra cho lịch sử dân tộc rất nhiều các danh sĩ nổi tiếng một thời.
Tên tuổi của các nhân vật như Lê Văn Hưu, Lê Quát, Nguyễn Mộng Tuân Đã
góp phần vào bề dày lịch sử văn hiến hàng nghìn năm của dân tộc ta cùng với
hàng trăm các bia đá tiêu biểu cho các thời kì từ thế kỉ VII đến thế kỉ XIX ở
Đông Sơn là những trang sử khẳng định thêm miền đất Đông Sơn là một trong
những vùng đất văn vật điển hình của xứ Thanh.


17
2.1.2. Thân thế
Nguyễn Chích người thôn Mạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sinh
năm Nhâm Tuất (1382), mất năm Mậu Thìn (1448). Nguyễn Chích xuất thân
trong một gia đình nông dân nghèo, vốn hiền lành chất phác từ đời ông là
Nguyễn Bái đến đời cha là Nguyễn Liêu. Ông sớm mồ côi cha mẹ từ nhỏ, hai

em đều chết sớm. Nguyễn Chích sống trong cảnh bơ vơ không nơi nương tựa
nên ngay từ thủa ấu thơ đã phải sống một cách tự lập, thường xuyên đi ở đợ làm
thuê, đi chăn trâu để kiếm sống nhưng cũng chính vì thế mà ông sớm tỏ ra là
người có bản lĩnh và có nghị lực từ thủa thiếu thời.
Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, đánh chiếm Thanh Hóa, ông đã 25
tuổi. Trước cảnh nước mất nhà tan, ông sớm có lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết
vùng lên diệt thù cứu nước. Ông đã phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa
khá lớn ở ngay vùng Hoàng Sơn và Nghiêu Sơn, ông đã lập nên một căn cứ rất
lợi hại tại vùng này, sử gọi là khu căn cứ Hoàng - Nghiêu.
Khi Lê Lợi xướng nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Chích nhận thấy vai trò to lớn
của phong trào Lam Sơn đồng thời thấy được hạn chế của căn cứ Hoàng -
Nghiêu, ông đã đem toàn bộ lực lượng của mình về với Lê Lợi và tự nguyện đặt
dưới quyền chỉ huy chung của Lê Lợi. Ông được Lê Lợi phong làm Thiết Đột
Hữu Vệ, Đồng Tổng Đốc Chư Quân và trực tiếp chỉ huy một đạo quân quan
trọng của Lam Sơn. Sau đó chẳng bao lâu, ông được thăng chức Nhập Nội Thiếu
Uý là một trong những chức võ quan cao cấp nhất lúc bấy giờ. Trong thời gian
hoạt động cùng nghĩa quân Lam Sơn ông đã có những đóng góp quan trọng, góp
phần đưa đến sự toàn thắng cho cuộc khởi nghĩa.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi hoàn toàn, Lê Lợi lên ngôi, lập
ra nhà Lê Sơ. Năm 1429, Nguyễn Chích được phong tước Đình Thượng Hầu,
được ban quốc tính và từ đó ông được gọi là Lê Chích. Trong suốt thời gian này,
Nguyễn Chích đã có cồng hiến lớn giúp vương triều Lê Sơ ổn định tình hình
trong nước. Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Nguyễn Chích được mệnh danh là
“thành dài muôn dặm phương Nam”, đánh tan quân Chiêm Thành khi chúng
đến cướp phá. Ông đã được nhà Lê Sơ ban nhiều tước vị cao quý, vua Lê Nhân
Tông truy tặng ông là Nhập Nội Tư Không, Bình Chương Sự, đồng thời, ban
cho ông tên thụy là Trinh Vũ. Nguyễn Chích mất năm 1448, khi đang giữ chức
Nhập Nội Đô Đốc, thọ 66 tuổi.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Chích là tấm gương sáng về lòng dũng
cảm, tinh thần yêu nước thương dân “hết lòng bảo vệ chính nghĩa”. Công lao và

danh tiếng của ông mãi được sử sách lưu danh, được hậu thế tri ân, học tập.

18
2.2. Quá trình hoạt động của Nguyễn Chích trước khi tham gia khởi nghĩa
Lam Sơn
2.2.1. Cuộc đấu tranh tại căn cứ Vạn Lộc
Tuy chưa xác định được mốc thời gian cụ thể mà Nguyễn Chích dấy binh
trên vùng đất Vạn Lộc nhưng trên cơ sở phân tích khoa học, có thể xác định
khung thời gian Nguyễn Chích phất cờ khởi nghĩa là điểm gạch nối giữa hai giai
đoạn, từ khi cuộc khởi nghĩa của quý tộc Trần bị thất bại đến trước khi cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ.
Trong giai đoạn đầu, phạm vi hoạt động của Nguyễn Chích là vùng Đông
Sơn (bao gồm huyên Đông Sơn và phần lớn Thanh Hóa ngày nay) mà căn cứ
chủ yếu là làng ông tại thôn Vạn Lộc, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh
Thanh Hóa.
Mặc dù tài liệu ghi chép về những hoạt động của người nông dân yêu nước
Nguyễn Chích trên vùng đất Vạn Lộc không nhiều nhưng qua một số tài liệu,
các câu chuyện truyền thuyết, sự tích dân gian còn lưu truyền đến ngày nay, các
địa danh, tên đất trên vùng đất Đông Sơn, Thanh Hóa, đặc biệt là các dấu tích
còn sót lại trên Vạn Lộc giúp ta biết được những hoạt động của Nguyễn Chích.
Tại đây, nghĩa quân đã đắp đồn lũy, lập doanh trại, luyện tập quân binh. Hiện
nay trên các cánh đồng hợp tác xã Vạn Thành còn mang nhiều địa danh và địa
hình phản ánh những hoạt động quân sự của Nguyễn Chích, đó là cồn đất mang
tên Cồn Pháo, cồn Cán Cờ, cồn Trái trống, cồn Voi, cồn Binh, cồn Luyện, cồn
Tam quân, cồn Lưỡi kiếm Căn cứ Vạn Lộc có quy mô chỉ là một làng chiến
đấu nhưng được sự ủng hộ của nhân dân đã nhanh chóng phát triển lực lượng
làm chủ cả vùng huyện Đông Sơn. Mặc dù quân giặc dùng nhiều thủ đoạn từ dụ
dỗ mua chuộc đến tiến công tiêu diệt nhưng đều thất bại. Điển hình là tên việt
gian Lương Nhữ Hốt giữ chức tham chính, cai quản cả Thanh Hóa, đem chức
tước, vàng bạc, châu báu dụ dỗ ông nhưng không được. Nguyễn Chích tổ chức

đánh bại Lương Nhữ Hốt ở Cổ Vồ (một địa điểm gần sông Chu), Lương Nhữ
Hốt thất bại phải chạy dài, cả vùng Đông Sơn được giải phóng.
Lúc bấy giờ quân Minh còn đóng ở núi Hoàng, núi Nghiêu, đây là nơi có vị
trí quan trọng ở vùng nam Thanh Hóa. Mặc khác, cùng với sự phát triển đi lên
của phong trào, muốn phát triển lực lượng, mở rộng phạm vi giải phóng.
Nguyễn Chích quyết định chiếm vùng Hoàng Nghiêu làm căn cứ để phát triển
lực lượng, mở rộng vùng giải phóng.


19
2.2.2. Cuộc đấu tranh tại căn cứ núi Hoàng Nghiêu
Núi Hoàng, núi Nghiêu nằm giáp giới với ba huyện Đông Sơn, Nông Cống
và Triệu Sơn ngày nay. Từ những năm xưa, núi Hoàng Nghiêu là mảnh đất kiên
cường, bất khuất, một địa danh đi đầu trong kháng chiến chống ngoại xâm.
Trong sự nghiệp giữ nước, khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 43) đến cuộc khởi
nghĩa Bà Triệu rồi đến cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc và trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, Mĩ, vùng đất Hoàng Nghiêu là nơi ghi nhận những chiến tích
oai hùng của dân tộc.
Về mặt vị trí địa lí: Hoàng Nghiêu là khu vực nằm giữa đồng bằng rộng lớn
của Nam Thanh Hóa, cách Tây Đô khoảng 40m về phía Tây Bắc và cách Vạn
Lộc khoảng 9km về phía Bắc. So với căn cứ Vạn Lộc, Hoàng Nghiêu có vị trí
thuận lợi hơn rất nhiều trong việc xây dựng căn cứ chống giặc trên vùng đất nam
Thanh Hóa. Dãy Hoàng Nghiêu là hệ thống núi đá vôi nhiều ngọn, thành núi
dựng đứng nhấp nhô, bên Đông có vài đồi đất thoai thoải, giữa hai dãy núi có
sông Hoàng chảy qua, đoạn sông ngoằn nghoèo như rắn lượn và chỉ rộng từ 10m
đến 20m, nhưng rất sâu và nhiều vực cùng với nhiều hang động ngầm lợi hại,
hiểm trở như hang Đá Bàn, hang Con Trâu. Núi Hoàng thuộc huyện Nông Cống,
núi Nghiêu thuộc huyện Đông Sơn và một phần gối vào huyện Triệu Sơn, núi
Nghiêu chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam dài chừng 4km, ngang khoảng
1km. Núi Hoàng cũng chạy dọc theo hướng này dài gần 5km, ngang khoảng

2km. Hai dãy Hoàng Nghiêu hợp lại như một hình thang lớn, diện tích toàn bộ
hơn 16km
2
, núi cao như tòa thành thiên nhiên to lớn, vững chắc và hiểm trở.
Trong chiến tranh đây là nơi giấu quân thuận lợi.
Về quân sự: Hoàng Nghiêu là căn cứ quân sự hiểm trở, được coi là cái yết
hầu của đồng bằng Nam Thanh Hóa “một người giữ chỗ hiểm, trăm người
không địch nổi”, có núi cao vách đứng như bức tường thành kiên cố, có sông
Hoàng uốn khúc chảy qua như một chiến hào sâu rộng, do đó tạo điều kiện đi
lại dễ dàng và xuất kích nhanh chóng. Sách xưa đã mô tả khu vực này như sau:
“Ở một vùng đất bằng lại nổi lên dãy núi với mươi đỉnh đá xanh, hình thế liền
nhau, dòng sông nhỏ xuyên qua xẻ làm hai Bề ngoài trông vào chỉ thấy
những đỉnh cao xanh vút mà không trông thấy trong ấy có đất bằng phẳng và
dòng sông” [2,109].
Từ Hoàng Nghiêu có thể khống chế được một vùng đất đai rộng lớn gồm
cả đồng bằng và bờ biển Nam Thanh Hóa, Bắc Nghệ An. Do đó, đây là khu vực
có tầm quan trọng chiến lược quân sự.

20
Về giao thông: Khu vực này có sông Hoàng chảy qua, sông Hoàng như mạch
máu giao thông của Nam Thanh Hóa. Từ Nghệ An qua sông Hoàng có thể ngược lên
quê hương Nguyễn Chích và các vùng thuộc huyện Đông Sơn, Triệu Sơn, xuôi sông
Hoàng là đến vùng Quảng Xương, Tĩnh Gia ngày nay. Do đó, từ Hoàng Nghiêu theo
các con đường thủy bộ mở rộng ra các vùng khác đều thuận lợi.
Về kinh tế: Hoàng Nghiêu nằm trên một địa bàn rất rộng, người đông, nơi đây
đất đai bằng phẳng có thể sản xuất đáp ứng nhu cầu lương thực cho nghĩa quân.
Mặt khác, đây cũng là vùng đất có truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên
cường bất khuất từ nhiều năm nay. Đây là một thuận lợi rất lớn lao. Nhận thức
được tầm quan trọng của vùng đất Hoàng Nghiêu và vị trí hiểm yếu của nó,
Nguyễn Chích đã quyết định chiếm lấy vùng đất Hoàng Nghiêu từ trong tay

quân Minh và biến khu vực này thành căn cứ lâu dài, làm trung tâm phong trào
chống Minh ở Nam Thanh Hóa.
Sau khi giành được căn cứ Hoàng Nghiêu từ tay giặc Minh, dựa vào địa hình
thiên nhiên hiểm trở, sông núi chen nhau, Nguyễn Chích đã huy động nhân dân
trong vùng đào hào, đắp lũy, lập trang trại. Nhiều hào lũy còn lưu dấu tích cho
đến ngày nay mà nhân dân nơi đây gọi là “hào lũy Lê Chích” [2,109]. Đây là
một công việc quan trọng nhằm khép kín Hoàng Nghiêu trước các cuộc tiến
công từ bên ngoài.
Để đảm bảo lương thực, thực phẩm trước mắt cũng như lâu dài cho cuộc
chiến tranh, Nguyễn Chích cho tiến hành sản xuất lương thực, thực phẩm ngay
từ buổi đầu đặt chân đến đây. Chính vì vậy mà đã tạo điều kiện thuận lợi cho
nghĩa quân khởi nghĩa.
Cùng với việc đắp hào, bảo vệ căn cứ, tiến hành sản xuất lương thực, thực
phẩm cho nghĩa quân, Nguyễn Chích còn luôn tìm cách tăng cường công tác,
chiêu mộ binh lính, mở rộng lực lượng, góp phần tăng sức mạnh chiến đấu cho
nghĩa quân. Vì vậy, lực lượng và địa bàn hoạt động của Nguyễn Chích được mở
rộng ra khắp vùng Nam Thanh Hóa và Bắc Nghệ An.
Như vậy, vùng đồng bằng miền Nam Thanh Hóa có một vị trí chiến lược
rất quan trọng, hiểm yếu, là nơi mà nghĩa quân Nguyễn Chích có nhiều hoạt
động khiến cho quân địch gặp nhiều khó khăn và tổn thất. Nhưng trước tình hình
lúc bấy giờ, nếu so với lực lượng đông đảo và sức mạnh to lớn của quân địch thì
căn cứ Hoàng Nghiêu vẫn không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử đặt ra. Nhận
thấy điều đó, mùa đông tháng 10 năm 1420, Nguyễn Chích đã đem lực lượng
của mình về với Lê Lợi, về với Lam Sơn, mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong
chặng đường cứu nước của ông.

×